tôi có bảy chiếc bút màu nhưng vẫn sẵn sàng dâng năm chiếc vào tay Chí Huân
chân thành cảm ơn beta-er callmeabalone vì sự chỉn chu, nhờ có callmeabalone, câu truyện mới có thể hoàn thiện.
1.
Nếu có ai đó đọc được dòng này chắc tôi ngượng chết, đây là một bài viết được tôi viết lúc tâm trạng cực kỳ hốt hoảng, tôi không thể kể cho Lý YY cũng không thể tâm sự với Thôi XX, đành viết vài dòng lên cái blog cá nhân rẻ rách này, nếu có người quen đọc được chắc tôi chui xuống ba tấc đất mất.
Chuyện là tôi đúp một năm lớp 1 với lý do nghỉ quá số tiết được phép, hồi bé sức khỏe tôi cực kỳ kém, kém đến mức mà đứng ngoài nắng 10 phút cũng ngã đùng ngất xỉu ý nên tôi-lớn cũng không ngạc nhiên khi tôi-bé phải ở nhà, ở viện dưỡng bệnh, quá bốn mươi lăm tiết tròn, tôi đúp một năm.
Năm lớp một thứ hai, tôi gặp một cục bông mềm nhỏ xíu, bé hơn tôi hơn cái đầu, ngày đầu đến đã bị các bạn nam trong lớp trêu là đồ con gái vì cậu ấy kẹp cái nơ hồng trên tóc, tôi với cơ thể yếu ớt đến bên cạnh cậu, mới kịp hét một tiếng dừng tay thì lại ngất xỉu, tôi nghe cậu ấy kể lại rằng lũ bắt nạt cậu ấy sợ mất mật, đứa nào cũng chạy đi gọi giáo viên.
Cậu ấy là Trịnh Chí Huân, tôi tự giới thiệu mình là Trịnh Ngọc Linh (tôi họ Phác).
Sau lần ngất xỉu đầy oanh liệt ấy, tôi và Chí Huân thành bạn.
Cậu ấy nhỏ hơn tôi cả một cái đầu, lúc nào cũng bận áo len tay dài và đi đứng nhẹ hẫng như con mèo con. Mỗi sáng vào lớp, cậu ấy đều cẩn thận kéo ghế ra rồi ngồi xuống như sợ làm phiền ai đó, đôi mắt tròn vo lặng lẽ quét một vòng xung quanh trước khi yên tâm mở cặp sách. Tôi nghĩ chắc tôi là người duy nhất trên đời này để ý đến cách Chí Huân ngồi xuống ghế. Và tôi cũng là người duy nhất chịu đựng được những trò kỳ quặc của cậu ấy.
Chí Huân rất lạ, ngày nào cũng đến lớp với một cái nơ nhỏ xinh trên đầu, khi thì màu hồng, lúc thì xanh da trời, có hôm còn lốm đốm hoa văn chấm bi. Lũ con trai trong lớp vẫn hay nhìn cậu ấy bằng ánh mắt nghi ngờ, thi thoảng lại hỏi những câu đại loại như: "Mẹ cậu không bảo con trai không được đeo nơ à?" hoặc "Cậu có bị nhầm với chị gái không đấy?" Nhưng Chí Huân chẳng bao giờ giận, cậu ấy chỉ nghiêng đầu suy nghĩ rất lâu, rồi đáp một cách rất bình thản:
"Tớ không thích. Nhưng chị Hai nói con trai cũng có thể đeo nơ nếu muốn, thế là tớ đeo."
Tôi cảm thấy câu trả lời này rất hợp lý, thế là hôm sau tôi cũng kẹp một cái nơ lên đầu, màu đỏ chói. Lũ bạn trong lớp xúm lại chỉ trỏ nhưng tôi và Chí Huân chỉ nhìn nhau, cười đến rung cả bàn học.
Chúng tôi thường chơi cùng nhau trong giờ ra chơi. Tôi không khỏe lắm, không thể chạy nhảy hay leo trèo như bọn trẻ khác, cơ mà Chí Huân cũng không chạy nhảy bao giờ. Cậu chỉ thích ngồi dưới gốc cây bàng giữa sân trường, chọc chọc ngón tay vào đất hoặc lôi từ trong túi áo ra một cái gì đó nhỏ xíu, rồi chìa cho tôi xem như khoe một món đồ quý giá. Có hôm là một cái lá có hình trái tim, có hôm là một viên sỏi màu vàng óng ánh như đá quý, có hôm lại là một chiếc lông chim cậu ấy nhặt được từ đâu đó.
"Cái này là tớ tìm được sáng nay. Đẹp không?"
Tôi luôn gật đầu, bởi vì dù cậu ấy đưa ra thứ gì đi nữa, tôi đều cảm thấy nó rất đẹp.
Có một lần, Chí Huân mang đến lớp một chiếc hộp thiếc bé xíu, trong đó đựng đầy những viên kẹo màu sắc. Cậu nghiêm túc đặt hộp kẹo vào tay tôi, nói như ra lệnh:
"Cái này cho cậu. Nhưng phải ăn thật chậm, vì tớ chỉ có từng này thôi."
Tôi mở hộp ra, thấy bên trong đúng bảy viên kẹo nhỏ, xếp ngay ngắn như một kho báu. Một viên màu đỏ, một viên màu xanh, hai viên màu vàng, ba viên màu cam. Tôi chưa kịp nói cảm ơn thì Chí Huân đã nhoẻn miệng cười, khoe chiếc răng sún.
"Với cả, tớ đã liếm qua rồi, không ai tranh của cậu đâu!"
Tôi ngẩn người mất ba giây. Rồi cười đến đau cả bụng.
Hôm ấy, tôi không ăn viên kẹo nào. Tôi mang chiếc hộp thiếc về nhà, cất vào một góc bàn học như một món quà quý giá. Và tôi đã giữ nó rất lâu, lâu đến mức quên mất mình đã từng được tặng một món quà như vậy.
Chí Huân rất kỳ lạ, mà tôi cũng chẳng kém cạnh gì.
Có một lần, cậu ấy đột nhiên lôi từ trong cặp ra một hộp bút màu, bảy chiếc, xếp ngay ngắn thành hàng. Cậu cẩn thận mở nắp hộp, trịnh trọng như thể đang trình bày một món báu vật hiếm có. Tôi ngồi xếp bằng trên sàn lớp học, tò mò nhìn cậu ấy sắp xếp từng chiếc bút theo thứ tự màu sắc: đỏ, cam, vàng, lục, lam, chàm, tím.
"Tớ có bảy chiếc bút màu, nhưng sẽ tặng cậu năm chiếc." Cậu ấy nói, tay đẩy đẩy những chiếc bút về phía tôi.
Tôi chớp mắt nhìn cậu ấy. "Sao cậu không giữ lại?"
"Vì tớ thích màu xanh lá nhất. Tớ giữ cái này, với cái màu xanh da trời nữa, thế là đủ rồi."
Tôi chưa thấy ai tặng quà mà đơn giản như thế. Nhưng Chí Huân thì vẫn rất thản nhiên, không chút do dự như thể cậu ấy đã quyết định từ lâu. Tôi cầm lấy mấy chiếc bút màu, cảm thấy lòng bàn tay mình hơi nóng lên.
Từ hôm đó, tôi hay vẽ cùng Chí Huân. Giờ ra chơi, trong khi bọn trẻ khác chạy nhảy khắp sân trường, hai đứa tôi lại ngồi lỳ trong lớp, bày giấy ra bàn rồi hí hoáy tô vẽ. Chí Huân thích vẽ hoa, lúc nào cũng là hoa: hoa hồng, hoa cúc, hoa hướng dương... Còn tôi thì thích vẽ những thứ to lớn hơn, như cây cổ thụ, bầu trời, hoặc mấy ngọn núi xa xa.
Có một lần, Chí Huân vẽ một cánh đồng đầy hoa, sau đó hí hoáy vẽ thêm một đứa bé đứng giữa cánh đồng. Cậu ấy ngẩng lên, chìa bức vẽ cho tôi xem, mắt lấp lánh:
"Cậu thấy giống ai?"
Tôi nhìn một lát, rồi đoán: "Là cậu?"
Chí Huân lắc đầu. "Là cậu đó. Vì cậu có năm chiếc bút màu của tớ, nên cậu là chủ cánh đồng này."
Tôi tròn mắt nhìn cậu ấy. Không hiểu sao, trong lòng lại cảm thấy hơi là lạ. Một cảm giác ấm áp, mềm mại, giống như khi tôi quàng chiếc khăn len của Chí Huân vào cổ vậy.
Mùa đông năm đó, trời rất lạnh. Mặt kính cửa sổ trong lớp lúc nào cũng phủ một lớp hơi nước mờ mờ. Chí Huân đi học với một chiếc khăn quàng cổ màu trắng rất dài, quấn đến mấy vòng quanh cổ, chỉ chừa ra hai con mắt tròn xoe và cái chóp mũi đỏ ửng vì lạnh.
Tôi nhìn cậu ấy loay hoay tháo khăn ra, nhịn không được mà hỏi: "Ai quàng khăn cho cậu vậy?"
"Chị Hai." Chí Huân đáp, rồi không nói không rằng, quấn chiếc khăn quanh cổ tôi. "Tớ không thích quàng khăn lắm, nhưng chị Hai bảo phải giữ ấm. Nếu cậu quàng hộ tớ thì chắc cũng giống nhau thôi."
Tôi đương nhiên không phản đối. Chiếc khăn thơm mùi xà phòng, mềm đến mức tôi cứ vô thức siết tay vào mép vải, cảm giác cổ mình ấm lên ngay lập tức.
Và từ hôm đó, tôi và Chí Huân hình thành một thói quen kỳ quặc: sáng đến lớp, cậu ấy sẽ quàng khăn cho tôi, tan học, tôi lại quàng trả. Lũ bạn trong lớp thấy vậy thì cười rúc rích, có đứa còn chọc ghẹo:
"Cậu ấy là quản gia của cậu hả, Tại Hách?"
Tôi chưa kịp đáp, Chí Huân đã gật đầu chắc nịch: "Ừ, tớ là quản gia. Quản gia thì phải chăm sóc thiếu gia chứ!"
Tôi không biết trong đầu cậu ấy nghĩ gì nhưng tôi rất thích ý tưởng này. Vậy là từ đó, tôi nghiễm nhiên thành "thiếu gia", còn Chí Huân là "quản gia". Tôi chẳng phải làm gì cả, còn cậu ấy thì cứ xoay quanh tôi như một vệ tinh nhỏ, chăm chỉ nhắc nhở tôi mặc áo ấm, nhắc tôi uống thuốc, thậm chí còn nhặt giúp tôi bút mỗi lần tôi làm rơi.
Có lần tôi hỏi: "Cậu chăm sóc tớ như vậy, có khi nào cậu chán không?"
Chí Huân nghiêng đầu suy nghĩ một chút, rồi nhún vai: "Chán chứ. Nhưng mẹ tớ bảo, nếu thích một ai đó thì phải đối xử với người đó thật tốt."
Tôi chống cằm nhìn cậu ấy, cười khúc khích:
"Vậy là cậu thích tớ à?"
Chí Huân lập tức đỏ mặt, lắp bắp: "Không phải kiểu thích đó! Là kiểu thích... thích giống như thích mèo thích chó ấy!"
Tôi gật gù đầy tâm đắc. "Tớ cũng thích cậu theo kiểu thích mèo thích chó vậy."
Chí Huân thở phào nhẹ nhõm. Nhưng từ hôm đó, mỗi lần nghe ai nhắc đến chuyện thích ai đó, cậu ấy lại nhanh chóng lảng sang chuyện khác, hai vành tai vẫn đỏ bừng như ngày đông tuyết phủ.
2.
Nhắc đến kỉ niệm hồi nhỏ lại ngượng chín người, có thể bạn chưa hiểu được tình cảm Huân dành cho tôi (vì thời gian đó tôi chẳng hiểu phong trần đời người, chúng tôi vẫn là mấy đứa trẻ tuổi một chữ số thôi à). Sau đó tôi nghĩ lại, giời, Huân thích tôi từ năm cấp một rồi, thế mà tôi lại không nhận ra.
Chúng tôi lúc nào cũng dính lấy nhau như hình với bóng mà tôi chẳng thèm để tâm. Có lẽ trong mắt tôi hồi đó, Huân giống như một cậu quản gia thực thụ, lúc nào cũng sẵn sàng giúp tôi nhặt bút, xách cặp, thậm chí còn lau ghế cho tôi trước khi tôi ngồi xuống. Tôi thì cứ vô tư nhận lấy tất cả mà không nghĩ ngợi gì. Đến tận bây giờ, nhớ lại tôi mới thấy, nếu có ai nhìn vào, chắc sẽ tưởng tôi là một ông hoàng nhỏ còn Huân là đầy tớ tận tụy nhất trên đời.
Có một lần, tôi bị ốm, nghỉ học mất ba ngày. Khi quay lại lớp, tôi thấy trên bàn mình có một mẩu giấy gấp lại rất ngay ngắn. Tôi mở ra, bên trong là một bức vẽ nguệch ngoạc bằng bút chì màu: một đứa bé đang nằm trên giường, đắp chăn kín mít, bên cạnh là một cốc nước và một viên kẹo tròn xoe. Phía dưới là dòng chữ viết cẩu thả của Huân:
"Tại Hách, nghỉ cho khỏe nha. Đừng quên uống thuốc. Nếu không sẽ bị bắt chước mèo kêu."
Tôi nhìn bức vẽ, nhịn không được mà bật cười. Nhưng khi quay sang nhìn Huân, tôi thấy cậu ấy giả vờ chăm chú vẽ cái gì đó, mặt đỏ lên một cách kỳ quặc. Tôi chẳng suy nghĩ gì nhiều, chỉ cảm thấy hơi buồn cười. Thế mà đến giờ nghĩ lại, mới thấy hình như lúc đó Huân đang mắc cỡ.
Rồi có một lần khác, vào một buổi trưa oi bức, chúng tôi cùng ngồi dưới gốc cây bàng trong sân trường. Tôi ngả đầu ra sau, mắt lim dim sắp ngủ, thì Huân đột nhiên cất giọng:
"Tại Hách này, lớn lên cậu muốn làm gì?"
Tôi uể oải đáp: "Không biết nữa. Chắc là làm siêu nhân."
Huân bật cười. "Siêu nhân để làm gì?"
"Để bay." Tôi ngáp một cái, mơ màng nói tiếp, "Thế còn cậu?"
Huân im lặng một lúc lâu. Tôi mở hé mắt, thấy cậu ấy đang nhìn lên bầu trời, hai tay bấu vào vạt áo đồng phục, như thể đang nghĩ rất nghiêm túc về chuyện này.
Rồi cuối cùng, cậu ấy nói:
"Tớ muốn làm người lớn."
Tôi tròn mắt nhìn cậu ấy. "Người lớn á? Người lớn thì có gì hay đâu!"
Huân nghiêng đầu, giọng rất nhẹ: "Có chứ. Người lớn có thể bảo vệ người khác."
Tôi cười hì hì, vỗ vai cậu ấy: "Thế cậu làm người lớn đi, còn tớ làm siêu nhân. Cậu bảo vệ tớ, tớ bảo vệ thế giới, thế là công bằng!"
Huân quay sang nhìn tôi, đôi mắt sáng rỡ, như thể câu nói đó của tôi đã quyết định một điều gì đó rất quan trọng. Tôi lúc đó nào có hiểu gì, chỉ cảm thấy cậu ấy cười tươi như vậy trông cũng đáng yêu phết.
Mãi đến sau này tôi mới hiểu, Huân thật sự đã giữ lời hứa. Nhưng cậu ấy không bảo vệ cả thế giới-cậu ấy chỉ bảo vệ tôi thôi.
3.
Có nhiều người bảo tôi kể về tuổi thơ của chúng tôi đi, cũng có người bảo tôi nói dối.
Các bạn không phải là người luôn có một cậu nhóc nhỏ hơn mình một cái đầu, đi đâu cũng lẽo đẽo theo sau, cẩn thận nhắc nhở từng chút một, như thể cuộc sống của cậu ta chỉ xoay quanh mình. Các bạn không phải là người bước vào cấp hai rồi vẫn còn có một người kiên nhẫn chờ mình tan học, dù có mưa hay nắng cũng chẳng bao giờ vắng mặt.
Nếu các bạn là tôi, có lẽ các bạn cũng sẽ không nhận ra điều gì cả.
Năm tôi lên cấp hai, tôi bắt đầu cao nhanh hơn. Còn Chí Huân, lúc nào cũng nhỏ con như vậy, đến mức đứng bên cạnh tôi trông cứ như em trai tôi không bằng. Cậu ấy vẫn giữ thói quen cũ—chạy lại xách cặp hộ tôi, đợi tôi cùng về nhà, thậm chí còn kiểm tra xem tôi có mặc đủ áo ấm không vào mùa đông và có mang đủ hai bình nước không vào mùa hè.
Và cũng vào năm đó, tôi bắt đầu thấy kỳ lạ.
Hồi tiểu học, chuyện có một đứa bạn thân cứ đi theo mình không có gì đặc biệt cả. Nhưng lên cấp hai rồi, tự nhiên thấy khác hẳn. Bọn bạn trong lớp bắt đầu trêu chọc, nói rằng tôi với Chí Huân như một cặp vậy. Có hôm, một thằng trong lớp hất cằm về phía chúng tôi, cười gian xảo:
"Ê, hai cậu có phải kiểu đấy đấy không?... kiểu hai đứa yêu nhau không đấy?"
Tôi bật cười, định gõ vào đầu nó một cái, rồi đột nhiên, tôi quay sang nhìn Chí Huân.
Cậu không cười.
Không phản bác, không đỏ mặt, cũng không phản ứng gì mạnh mẽ cả. Cậu chỉ đứng đó, im lặng, bàn tay nắm chặt dây cặp, mắt nhìn xuống sàn nhà.
Tôi không biết lúc đó mình đã nghĩ gì. Có lẽ tôi chỉ cảm thấy hơi kỳ lạ, mà cũng chẳng suy nghĩ nhiều. Tôi vỗ vai cậu, cười hề hề: "Này, sao mặt nghiêm túc vậy? Đừng có buồn, để tớ đấm vào mặt chúng nó nhé?"
Chí Huân chớp mắt, cười theo.
Mãi sau này tôi mới nhớ lại khoảnh khắc đó và chợt hiểu ra. Khi ấy, Chí Huân không cười vì thấy hài hước. Cậu ấy cười, bởi vì đó là cách duy nhất để che giấu cảm xúc thật của mình.
Và tôi, lúc đó nào có hiểu gì đâu.
4.
Hỏi tôi theo đuổi Huân thế nào hả? Thì là hồi cấp ba lớn rồi hiểu nhiều thứ rồi, sợ mất người quan trọng nhất nhì đời nên mới theo đuổi rồi tỏ tình thôi.
Ngại lắm nên đừng hỏi, tôi chết mất.
5.
Huân hỏi cưới tôi, la la la, trên đời làm gì có ai hạnh phúc bằng tôi.
6.
Mai cưới nhưng hôm nay tôi dỗi Huân, được rồi, xem ai là thằng đàn ông tệ bạc không dỗ chồng tương lai của cậu ấy nào.
KhÔng nói Huân, cậu ấy là thằng nhóc tôi gặp năm 7 tuổi, không phải thằng đàn ông tệ bạc trong miệng ai hết (trừ tôi) nhưng Huân-lì-lợm không dỗ tôi một chút nào kể từ khi Huân cúp máy tôi giữa chừng vì việc gì đó.
Tôi quan trọng hơn hết cả, bố tôi bảo thế, mẹ tôi đồng ý, anh chị em của tôi đều quan tâm tôi, Huân-bé quan tâm tôi hết mực, cậu ấy cho tôi kẹo, cho tôi kem ly, che cho tôi ăn vặt trong lớp học, làm bài tập thay tôi, ngoan ngoãn để tôi chỉ cho một đống lỗi sai môn anh văn và toán học.
Huân-lớn hay bỏ quên tôi lúc em ấy bận rộn, cau có khi tôi đọc sách quá lâu, nằm sai tư thế, ăn uống suồng sã, Huân-lớn luôn khen ngợi tôi, tôi trẻ, tôi đẹp, tôi ngoan ngoãn, hiền lành, giọng nói hay... một tỷ câu khen ngợi trên đời chắc đều được Huân nghe, đọc và học thuộc hết thảy.
Những câu Huân-bé-lớn khen tôi, tôi đều viết lại trong nhật ký, Huân muốn viết nhật ký cùng tôi, em ấy là con sâu lười, ngày nào cũng phải ngồi cùng tôi, xem tôi viết gì, bắt chước cách tôi viết.
7.
Thôi hết giận, đoán xem ai đã nhận được món quà đặc biệt từ chồng tương lai nào?
Đừng ai chê mấy đứa nghiêm túc học kỹ thuật không có tí cảm xúc lãng mạn nào, Huân của tôi gửi một chồng sách dày ơi là dày, có quyển vẫn được bọc kín mít.
Tôi ngồi xuống, mở từng quyển một trong chồng sách được gói ghém cẩn thận bằng giấy trắng và ruy băng bạc. Có mười quyển, bìa là tên những tác phẩm quen thuộc đến mức khiến tôi thoáng rùng mình vì cảm giác như đang đụng vào một phần ký ức của chính mình, thế nhưng khi mở ra, từng quyển lại không giống bất kỳ điều gì tôi đã đọc, đã biết hay từng mong đợi. Những cuốn sách tưởng là văn chương, hóa ra là ruột gan của Huân được tháo ra từng đoạn, trải lên từng trang, lặng lẽ và kỳ công như người ta gấp một tờ thư tình không gửi.
Quyển đầu tiên là Bình minh mưa của Paustovsky, một tập văn xuôi mà tôi từng đọc lén trong thư viện hồi cấp hai, câu chữ mềm như lớp sương sớm và buồn thì không có cách nào gọi tên. Tôi nhớ có một đoạn viết về người đàn ông cầm chiếc ô ướt đẫm đi trong sương mù, nghĩ về thứ bánh mứt mà ông không kịp ăn, rồi bỗng nhiên tôi thấy nghèn nghẹn mà không hiểu vì sao. Lần này mở ra, tôi vẫn nghẹn ngào vì từng trang sách đều bị thay bằng ảnh của hai đứa tôi, từ hồi cấp một, có tấm tôi cười toe toét như kẻ vừa phát hiện ra điều vĩ đại nhất thế giới, có tấm Huân nhắm mắt ngủ gật dưới tán bàng, má còn dính vụn bánh, có tấm cả hai đứng trong mưa, mỗi đứa cầm một que kem đãtan nửa, ướt sũng mà nhìn nhau như chẳng có gì khác đáng bận tâm. Một quyển văn bị bóc ruột để trở thành cái thứ giống như nhật ký hình ảnh, không thứ gì cao siêu, không dòng nào đẹp đẽ, nhưng đầy đến mức tôi chỉ mới lật trang đầu đã phải khựng lại.
Quyển thứ hai là Một ngày trong đời của Ivan Denisovich. Tôi cứ ngỡ sẽ đọc lại cái lạnh của trại tù, cái đói cồn cào được mô tả như thể cơn đói ấy biết nghĩ, biết đay nghiến con người, thế mà khi lật vào trong, tôi chỉ thấy những trang giấy được ghi chép tỉ mỉ bằng nét bút nghiêng nghiêng. Có ghi giờ, có ghi cả thời tiết, có dòng ghi: "07:15, cậu ấy đến lớp, tóc còn chưa khô hết." Có dòng khác lại viết: "12:30, ăn một nửa suất cơm, bỏ lại miếng trứng vì chê quá mặn, mình ăn nốt." Cả quyển chỉ toàn những thứ như thế, chi chít những ngày tôi sống mà chẳng để ý, trong khi có người ngồi đâu đó ghi nhớ từng điều không đáng kể nhất.
Quyển thứ ba có tên Và khi tro tàn, bìa đã sờn mép, có vết cà phê nhạt màu dính ở góc trên bên phải, tôi còn chưa kịp cảm thán thì đã thấy bên trong là mười bức thư tay viết bằng mực tím, có thư dày đến hai trang, cũng có thư chỉ vỏn vẹn một câu ngắn ngủi. Tôi đọc đến thư thứ ba thì cảm thấy tim mình bắt đầu nhói lên một cách kỳ lạ, nội dung không đau đớn gì đừng hiểu lầm Huân. Có một bức thư chỉ viết: "Có thể là nhiều hơn thế." Tôi gập lại trước khi mình bật khóc.
Quyển thứ tư là Đồi gió hú, tôi thận trọng mở ra vì đã quen với kiểu cuồng loạn u ám trong truyện gốc, song điều tôi thấy lại là một loạt ảnh chụp màn hình tin nhắn của tôi, từ những năm cấp ba cho đến tận hôm trước hôm Huân gửi tôi chồng sách. Dưới mỗi đoạn tin là một chú thích viết tay rất nhỏ, ví dụ như: "Tin nhắn này tôi đọc mười bảy lần", hoặc "Lúc này cậu ấy đang ở nhà bạn, tôi thì ngồi ở ga xe điện." Không có trách móc, không có giận dỗi, Huân ghi lại tất cả như thể em ấy đang làm công việc của một người giữ kho, cẩn thận đếm từng thứ thuộc về tôi.
Quyển thứ năm có tựa Chuyện phiêu lưu của Mít Đặc và các bạn, là quyển duy nhất khiến tôi vừa bật cười muốn ngại ngùng (riêng quyển này sẽ được cất kỹ). Mỗi trang là một tai nạn nho nhỏ của tôi, được ghi lại bằng hình ảnh và chú thích đầy hả hê. Có ảnh tôi cười như ngốc giữa sân trường vì bị vẽ bậy lên mặt, có ảnh tôi đội mũ ngược, mặc áo trong ra ngoài, ngồi ăn bánh kem dính đầy mũi mà vẫn không biết. Tôi đã quên mất, tôi nào dám nghĩ Huân còn nhớ đâu, những ký ức khiến tôi đỏ mặt.
Quyển thứ sáu là Con đường đau khổ, bên trong chứa đủ những tin nhắn cộc lốc, những câu tôi từng nói lúc giận dỗi, cả những im lặng kéo dài đến mức chỉ cần một dấu chấm cũng đủ khiến người ta suy sụp. Có đoạn tôi viết: "Cậu làm gì kệ cậu." Dưới đó Huân không viết gì cả, em ấy vẽ một cái dấu chấm hỏi rất to.
8.
Quyển thứ bảy, mang tên Những người khốn khổ, thật sự khiến tôi khốn khổ đúng nghĩa. Là nhật ký của Huân viết từ hồi lớp sáu đến hết năm nhất đại học, mỗi trang là một ngày, mỗi ngày là một dòng. "Hôm nay tôi chờ cậu dưới mưa", "Hôm nay tôi nói dối rằng mình ổn", "Hôm nay tôi muốn ôm cậu nhưng không dám." Có dòng tôi đọc xong chỉ muốn đập đầu vào tường. Có dòng khiến tôi phải ngồi im gần năm phút mới dám lật sang trang kế.
Quyển thứ tám là Thư gửi một người, chỉ toàn thư không gửi. Mỗi bức đều ghi rõ người nhận là tôi, nhưng không ghi địa chỉ, không có phong bì, không có ngày tháng chính xác. Chỉ có một câu duy nhất lặp đi lặp lại ở cuối thư: "Anh không cần đọc đâu, em chỉ viết vui một chút." Tôi không biết sức nặng của mình là bao nhiêu trong lòng Trịnh Chí Huân nữa.
Quyển thứ chín, Bức thư của người đàn bà không quen, lạ ở chỗ nó được viết bằng tiếng Nga, xen lẫn vài đoạn tiếng Việt và một dòng duy nhất bằng tiếng Anh được gạch chân đỏ: "I would have died quietly if I didn't write you." Tôi ngồi nhìn trang sách một lúc rất lâu, vừa thấy buồn cười vừa thấy buốt trong ngực như có kim châm.
Quyển cuối cùng, to và dày nhất, mang tên Chiến tranh và hòa bình. Bên trong không có chữ, chỉ có hình vẽ nguệch ngoạc như vẽ bằng tay trái: một cái bàn ăn, một hiên nhà, một đôi dép để song song, một cái giường có chăn xếp gọn, một bóng người đang cầm ly nước và quay về phía bên trái. Ở trang cuối cùng, giữa khoảng trắng lớn là một dòng viết tay rất nhỏ: "Em viết chín quyển rồi. Quyển này là phần anh."
Tôi khép sách lại, tay vẫn còn run, thật lòng, tôi không tin nổi trên đời vẫn còn có người tỉ mẩn đến mức này. Mười quyển, tên mượn từ người khác, ruột dành hết cho tôi.
9.
Tôi sẽ không tiết lộ tôi đã làm gì với phần Huân để dành cho tôi.
Cuối cùng chúng tôi đã kết hôn với nhau.
10.
Tôi đã tặng Huân bảy chiếc bút màu như (điều tôi chưa thể hồi nhỏ) và Huân đã thề trước Chúa sẽ bảo vệ tôi suốt đời. Chúng tôi hoàn thành lời hẹn ước với nhau từ nhiều năm trước.
Không ai hỏi lại rằng vì sao hai đứa con trai lại cưới nhau.
Không ai dám cười chiếc nơ trên đầu Huân trong lễ cưới. Cũng chẳng ai bảo tôi mơ mộng quá đà khi nói rằng tình yêu đầu đời của tôi đã sống sót qua hai mươi năm, qua bệnh tật, qua hiểu lầm, qua những lần chối bỏ và im lặng.
Tình yêu ấy từng bé xíu, nằm lọt thỏm trong chiếc khăn tay có thêu hoa cúc, từng trốn trong ngăn bàn và túi áo đồng phục, từng im thin thít dưới gốc cây bàng sân trường.
Bây giờ nó lớn rồi, nó đứng dậy, nó làm chứng.
Tôi gọi Huân là chồng.
Tôi là người mà em ấy từng viết mười quyển sách để yêu cho trọn.
Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Com