09Q302E T3 Câu 8
Câu 8 : Trình bày 2 thuộc tính hang hóa từ đó phân tích tính chất 2 mặt và ý nghĩa phát hiện tính chất 2 mặt của lao đống sản xuất hang hóa?
1. Hàng hoá và hai thuộc tính của hàng hoá
Hàng hoá là sản phẩm của lao động có thể thoả mãn nhu cầu nào đó của con người
và dùng để trao đổi với nhau. Sản xuất hàng hoá ra đời là bước ngoặt căn bản
trong lịch sử phát triển của xã hội loài người, đưa loài người thoát khỏi tình
trạng "mông muội", xoá bỏ nền kinh tế tự nhiên, phát triển nhanh chóng lực lượng
sản xuất và nâng cao hiệu quả kinh tế của xã hội
Trong mỗi hình thái kinh tế - xã hội, sản xuất hàng hoá có bản chất khác nhau,
nhưng hàng hoá đều có hai thuộc tính:
a) Giá trị sử dụng.
Giá trị sử dụng là công dụng của sản phẩm có thể thoả mãn nhu cầu nào đó của con
người, ví dụ: cơm để ăn, xe đạp để đi, máy móc, nguyên, nhiên vật liệu để sản
xuất... Vật phẩm nào cũng có một số công dụng nhất định. Công dụng của vật phẩm
do thuộc tính tự nhiên của vật chất quyết định. Khoa học kỹ thuật càng phát
triển, người ta càng phát hiện thêm những thuộc tính mới của sản phẩm và lợi
dụng chúng để tạo ra những giá trị sử dụng mới. Giá trị sử dụng chỉ thể hiện ở
việc sử dụng hay tiêu dùng. Nó là nội dung vật chất của của cải. Giá trị sử dụng
là phạm trù vĩnh viễn.
Giá trị sử dụng nói ở đây với tư cách là thuộc tính của hàng hoá, nó không phải
là giá trị sử dụng cho bản thân người sản xuất hàng hoá, mà là giá trị sử dụng
cho người khác, cho xã hội thông qua trao đổi - mua bán. Trong kinh tế hàng hoá,
giá trị sử dụng là vật mang giá trị trao đổi.
b) Giá trị hàng hoá:
Muốn hiểu được giá trị phải đi từ giá trị trao đổi. Giá trị trao đổi là quan hệ
tỷ lệ về lượng mà giá trị sử dụng này trao đổi với giá trị sử dụng khác. Nếu gạt
giá trị sử dụng của sản phẩm sang một bên, thì giữa chúng chỉ còn một cái chung
làm cơ sở cho quan hệ trao đổi. Đó là chúng đều là sản phẩm của lao động. Chính
hao phí lao động ẩn giấu trong hàng hoá làm cho chúng có thể so sánh được với
nhau khi trao đổi.
Giá trị hàng hóa là lao động xã hội của người sản xuất hàng hoá kết tinh trong
hàng hoá. Chất của giá trị là lao động, vì vậy sản phẩm nào không có lao động
của người sản xuất chứa đựng trong đó, thì nó không có giá trị. Sản phẩm nào lao
động hao phí để sản xuất ra chúng càng nhiều thì giá trị càng cao.
2) Hàng hóa có hai thuộc tính không phải là do có hai thứ lao động khác nhau kết
tinh trong nó, mà là do lao động của người sản xuất hàng hóa có tính chất hai
mặt: vừa mang tính chất cụ thể (lao động cụ thể), lại vừa mang tính chất trừu
tượng (lao động trừu tượng). C.Mác là người đầu tiên phát hiện ra tính chất hai
mặt đó.
a) Lao động cụ thể
Lao động cụ thể là lao động có ích dưới một hình thức cụ thể của những nghề
nghiệp chuyên môn nhất định.
Mỗi một lao động cụ thể có mục đích, phương pháp, công cụ lao động, đối tượng
lao động và kết quả lao động riêng. Chính những cái riêng đó phân biệt các loại
lao động cụ thể khác nhau. Chẳng hạn, lao động của người thợ may và lao động của
người thợ mộc là hai loại lao động cụ thể khác nhau. Lao động của người thợ may
có mục đích là làm ra quần áo chứ không phải là bàn ghế; còn phương pháp là may
chứ không phải là bào, cưa; có công cụ lao động là kim, chỉ, máy may chứ không
phải là cái cưa, cái bào...; và lao động của người thợ may thì tạo ra quần áo để
mặc, còn lao động của người thợ mộc thì tạo ra ghế để ngồi... Điều đó có nghĩa
là: lao động cụ thể tạo ra giá trị sử dụng của hàng hóa.
Trong xã hội có nhiều loại hàng hóa với những giá trị sử dụng khác nhau là do có
nhiều loại lao động cụ thể khác nhau. Nếu phân công lao động xã hội càng phát
triển thì càng có nhiều giá trị sử dụng khác nhau để đáp ứng nhu cầu của xã hội.
b) Lao động trừu tượng
Lao động trừu tượng là lao động của người sản xuất hàng hóa khi đã gạt bỏ những
hình thức cụ thể của nó, hay nói cách khác, đó chính là sự tiêu hao sức lao động
(tiêu hao sức bắp thịt, thần kinh) của người sản xuất hàng hóa nói chung.
Chính lao động trừu tượng của người sản xuất hàng hóa mới tạo ra giá trị của
hàng hóa. Như vậy, có thể nói, giá trị của hàng hóa là lao động trừu tượng của
người sản xuất hàng hóa kết tinh trong hàng hóa. Đó cũng chính là mặt chất của
giá trị hàng hóa.
Tính chất hai mặt của lao động sản xuất hàng hóa phản ảnh tính chất tư nhân và
tính chất xã hội của lao động của người sản xuất hàng hóa.
Như trên đã chỉ ra, mỗi người sản xuất hàng hoá sản xuất cái gì, sản xuất như
thế nào là việc riêng của họ. Vì vậy, lao động đó mang tính chất tư nhân, và lao
động cụ thể của họ là biểu hiện của lao động tư nhân.
Đồng thời, lao động của người sản xuất hàng hóa là lao động xã hội vì nó là một
bộ phận của toàn bộ lao động xã hội trong hệ thống phân công lao động xã hội.
Phân công lao động xã hội tạo ra sự phụ thuộc lẫn nhau giữa những người sản xuất
hàng hóa. Họ làm việc cho nhau, thông qua trao đổi hàng hóa. Việc trao đổi hàng
hóa không thể căn cứ vào lao động cụ thể mà phải quy lao động cụ thể về lao động
chung đồng nhất - lao động trừu tượng. Do đó, lao động trừu tượng là biểu hiện
của lao động xã hội.
Giữa lao động tư nhân và lao động xã hội có mâu thuẫn với nhau. Mâu thuẫn đó
được biểu hiện cụ thể trong hai trường hợp sau:
- Sản phẩm do những người sản xuất hàng hóa riêng biệt tạo ra có thể không ăn
khớp với nhu cầu của xã hội (hoặc không đủ cung cấp cho xã hội hoặc vượt quá nhu
cầu của xã hội...). Khi sản xuất vượt quá nhu cầu của xã hội, sẽ có một số hàng
hóa không bán được, tức không thực hiện được giá trị.
- Mức tiêu hao lao động cá biệt của người sản xuất hàng hóa cao hơn so với mức
tiêu hao mà xã hội có thể chấp nhận, khi đó hàng hóa cũng không bán được hoặc
bán được nhưng không thu hồi đủ chi phí lao động bỏ ra.
Mâu thuẫn giữa lao động tư nhân và lao động xã hội là mầm mống của mọi mâu thuẫn
trong nền sản xuất hàng hoá. Chính vì những mâu thuẫn đó mà sản xuất hàng hoá
vừa vận động phát triển, vừa tiềm ẩn khả năng khủng hoảng.
Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Com