Truyen2U.Net quay lại rồi đây! Các bạn truy cập Truyen2U.Com. Mong các bạn tiếp tục ủng hộ truy cập tên miền mới này nhé! Mãi yêu... ♥

1001 bi an

Sự thật về “chữa bệnh bằng năng lượng”

BN) Yoga Ấn Độ quan niệm các chứng bệnh trên cơ thể con người có nguồn gốc từ Nghiệp, nói rõ hơn, đó là các Khí Nghiệp tồn tại trên cơ thể chúng ta và di chuyển liên tục xuyên qua các kinh mạch. Đến khi các Nghiệp đã chín, hoặc do khí tắc nghẽn bởi kinh mạch… các căn bệnh sẽ tìm đến. Và việc tập luyện yoga  giúp thải các Khí Hư và thu Tinh Khí thay thế, nhằm mục đích cải thiện sức khỏe.

Từ những thời đại cổ xưa nhất, các triết gia đã từng biết rõ khả năng thần diệu của âm nhạc để chữa khỏi một vài chứng bịnh, nhất là những bịnh thuộc về loại thần kinh. Ông Kircher đề cao lối chữa bịnh này sau khi đã có kinh nghiệm bản thân về những ảnh hưởng tốt lành của âm nhạc, và có diễn tả tỉ mỉ loại nhạc cụ mà ông đã dùng. Loại nhạc cụ này gồm có năm cái ly bằng thủy tinh rất mỏng, sắp thành một hàng. Trong hai ly, có hai thứ rượu nho cường độ khác nhau, ly thứ ba đựng rượu mạnh, ly thứ tư đựng dầu ăn và thứ năm đựng nước. Ông cọ ngón tay lên miệng các ly và phát ra năm loại âm thanh rất du dương. Những âm thanh này có tác dụng xoa dịu thần kinh và làm tiêu tan mọi sự đau đớn; dường như làm cho chứng bịnh lui ra khỏi xác thân để hòa lẫn với luồng sóng âm ba của tiếng nhạc và cả hai cùng nương nhau mà tan biến trong không gian. Hai nghìn năm về trước, đạo sư Asclepiades cũng đã dùng âm nhạc để chữa bịnh thần kinh; ông thổi kèn để chữa bịnh đau gân háng, tiếng kèn kéo dài làm cho những đường gân rung động và mọi sự đau đớn đều tiêu tan. Triết gia Démocrite cũng xác nhận rằng nhiều chứng bịnh có thể được chữa khỏi bằng tiếng sáo trầm bỗng du dương. Mesmer đã dùng lại nhạc ly của ông Kircher diễn tả trên đây chữa bịnh bằng khoa nhân điện. Triết gia Maxwell, người Tô Cách Lan, đề nghị ông sẽ chứng minh cho các y viện thấy rằng với vài phương tiện sử dụng từ điển, ông sẽ chữa khỏi bất cứ chứng bịnh nào mà họ đã tuyệt vọng và coi như không thể chữa được, chẳng hạn như bịnh động kinh, bất lực, loạn trí, liệt bại, phù thủng và những chứng sốt kinh niên.

Mọi người đều nhớ câu chuyện quen thuộc trong Kinh Thánh về việc trục tà ra khỏi Saul. Đoạn ấy được thuật lại như sau: “Khi Saul bị vong nhập và ám ảnh, David lấy cây đờn thụ cầm (harpe) và gẩy lên những âm thanh réo rắc. Saul liền tươi tỉnh sắc mặt và trở lại trạng thái khỏe mạnh, bình thường, và vong ấy đã xuất . . .”

Trong quyển “Từ điển Y thuật”, ông Maxwell có trình bày những quan niệm dưới đây, tất cả đều phù hợp tương tự với những giáo lý của các phái Luyện kim và huyền môn Kabala.

“Cái gọi là ‘linh hồn của thế giới’ hay Đại hồn Vũ trụ, là một sinh khí, cũng tế vi, tinh anh, nhẹ nhàng, thanh hư như ánh sáng vậy. Nó là cái tinh thần của sự sống, bàng bạc khắp nơi khắp chốn và ở đâu nó cũng vẫn y như thế . . . Mọi vật chất đều vô tri bất động, trừ phi nó được thấm nhuần cái tinh thần đó. Tinh thần này duy trì mọi vật ở vào trạng thái đặc biệt của nó. Trong thiên nhiên nó vốn thoát ly khỏi mọi chướng ngại và người nào biết cách phối hợp cái tinh thần đó với một thể xác điều hòa, người ấy sẽ sở hữu một kho tàng vô giá quí báu nhất trần gian”.

“Cái tinh thần đó là cái Thể đại đồng liên quan cùng khắp tất cả mười phương thế  giới và sinh hoạt thấm nhuần tất cả vạn vật. Người nào biết được cái tinh thần sinh hoạt đại đồng đó và sự áp dụng của nó, có thể tránh khỏi mọi bịnh tật”.

“Người nào biết sử dụng cái tinh thần đó và trụ nó vào một vật thể nhất định, sẽ thực hiện được mọi hiện tượng nhiệm mầu”.

“Người nào biết cách dùng cái tinh thần đó để tác động vào người khác, sẽ có thể chữa khỏi bịnh tật, dù cách biệt với đối tượng đến bao xa trong không gian”.

“Người nào biết cách tăng cường sinh khí của tiểu hồn bằng năng lực của Đại hồn Vũ trụ, sẽ có thể đạt tới trạng thái trường sinh bất tử”.

“Có một sự giao cảm, hỗn hợp giữa những chơn linh, những phóng phát dẫu cho chúng cách biệt xa nhau. Sự hỗn hợp, giao cảm đó là gì? Đó là sự phóng phát thường xuyên, bất tận, những tia năng lực của một thể xác này qua một thể xác khác”.

“Nhưng điều này không phải là không có những nguy cơ, hiểm họa của nó. Nhiều sự lạm dụng tai hại vẫn có thể xảy ra”.

Và bây giờ chúng ta hãy xét tới những sự lam dụng quyền năng từ điển của vài hạng đồng tử chữa bịnh.

Việc chữa bịnh, để có ý nghĩa xứng đáng với danh từ này, cần phải có đức tin nơi bịnh nhân, hay sức khỏe tráng kiện phối hợp với ý chí mạnh mẽ của ông thầy chữa bịnh. Với một ý chí mạnh mẽ, trợ giúp bởi đức tin, người ta có thể tự chữa khỏi hầu hết một chứng bịnh tật nào. Ngôi mộ một vị thánh, một xá lợi linh thiêng, một linh vật hộ phù, một liều thuốc vạn ứng, một lời tụng sám hối, hay một nghi lễ cúng vái thần linh hoặc việc đặt bàn tay truyền điện hay đọc chân ngôn thần chú v.v. . . điều nào cũng được cả. Đó là vấn đề chỉ tùy thuộc ở tâm tình, tính chất, dùng sự tưởng tượng để tự chữa bịnh lấy mình. Trong hàng ngàn trường hợp, vị bác sĩ, giáo sĩ hay một xá lợi, được gán cho cái quyền năng chữa khỏi bịnh tật, mà thật ra đó chỉ là do tác động ý chí vô thức của người bịnh mà thôi. Đó là trường hợp người đàn bà bị chứng hoại huyết, vạch đường đi rẽ qua đám đông để nắm vạt áo của đức Jésus và liền được khỏi bịnh. Bà ta được cho biết là do bởi đức tin của bà. Ảnh hưởng của tinh thần đối với thể xác mạnh mẽ đến nỗi nó đã từng thực hiện những phép lạ nhiệm mầu trải qua mọi thời đại.

Salverte nói: “Biết bao nhiêu bịnh tật nan y đã được chữa khỏi thình lình một cách thần diệu chỉ do sức tưởng tượng. Những y thư của chúng ta chứa đầy các sự kiện như vậy và được coi như những phép lạ”.

Nhưng nếu người bịnh không có đức tin thì sao? Nếu y có một thể chất thụ cảm với trạng thái tiêu cực, và nếu người chữa bịnh có sức khỏe tốt, cường tráng, tích cực và cương nghị, y có thể dùng ý chí mạnh mẽ đó đẩy lui chứng bịnh. Người này hữu thức hay vô thức sử dụng nguồn khí lực thiên nhiên và tăng cường ý chí của mình với khí lực tinh hoa của Trời đất, và lập lại sự quân bình đã bị đảo lộn trong hào quang của người bịnh. Y có thể dùng một thập tự giá để trợ lực như Gassner đã làm; hoặc đặt hai bàn tay truyền điển phối hợp với ý chí như Zouave Yacob, hoặc như nhà chữa bịnh trứ danh Newton của Mỹ, ông này đã từng chữa khỏi hàng ngàn bịnh nhân, hoặc dùng lời nói truyền lịnh như đức Jésus và vài vị tông đồ. Nhưng bí quyết sử dụng trong mỗi trường hợp vẫn y như nhau.

Những hậu quả tai hại

Trong tất cả những trường hợp đó, bịnh chữa khỏi thật sự, hoàn toàn và không có những hậu quả di hại. Nhưng nếu một người tự mình đã mắc bịnh mà lại muốn chữa bịnh cho người khác, y chẳng những thất bại mà còn truyền bịnh cho ngưới kia và rút mất sinh lực của người ấy.

Các nhà chăn nuôi cho chúng ta biết rằng không nên để những súc vật trẻ ở chung lộn với những súc vật già nua, và những vị y sĩ khôn ngoan ngăn cấm những người lớn để cho những trẻ ấu nhi ngủ trên giường của họ. Truyện tích cổ Do Thái nói rằng khi vua David đã già yếu, ông ta sống chung chạ với một người còn son trẻ và nhờ đó ông ta có thể hấp thụ sinh lực của người này để tăng cường sinh lực của mình. Bà nữ hoàng nước Nga, trong những năm cuối cùng của đời bà, đã bị suy nhược đến nỗi những viên ngự y khuyên bà nên để cho một cô gái đồng quê trẻ trung và khỏe mạnh ngủ chung với bà mỗi đêm. Nhà nữ linh thị Prevorst là bà Hauffé nói rằng bà bảo tồn sự sống chỉ nhờ những luồng từ khí phóng phát ra bởi những người ở chung quanh bà, sự có mặt của bà làm cho những luồng từ khí này được phóng phát ra một cách nhanh chóng lạ thường (Vampirism). Nhà nữ linh thị này hiển nhiên là một người thu hút từ điển và sinh lực của những người khá đầy đủ sức khỏe để chuyển qua cho bà luồng sinh khí của họ. Những người này, không ít thì nhiều, đều bị ảnh hưởng do sự tiêu hao sinh lực.

Các nhà hiền triết cổ và Paracelse cũng đã chữa bịnh bằng cách đặt một bộ phận lành mạnh vào chỗ cơ thể bị đau yếu, và trong những tác phẩm về y học của Paracelse, lý thuyết trên của những bậc triết gia cổ đã được nêu ra một cách táo bạo và dứt khoát. Nếu một người mắc bịnh dù là đồng tử hay không mà toan chữa bịnh cho người khác, y có thể còn đủ sức khỏe để làm cho những bịnh của người kia rời khỏi vị trí hiện tại, và chẳng bao lâu nó sẽ xuất hiện trở lại ở một vị trí khác; trong thời kỳ trung gian người bịnh kia tưởng là mình đã được chữa khỏi.

Nhưng việc gì sẽ xảy ra nếu chính người chữa bịnh lại mắc bịnh về tinh thần? Việc ấy có thể đưa đến những hậu quả vô cùng tai hại không thể kể xiết; vì chữa một cơn bịnh của thể xác còn dễ dàng hơn là tẩy sạch một tâm hồn bị ô nhiễm bởi một cơn bịnh tinh thần. Những sự bí nhiệm của các hiện tượng ở Norzine, Cévennes và của các nhà tu sĩ phái Jansénistes, vẫn còn là một điều bí hiểm lớn đối với các nhà sinh lý học cũng như tâm lý học. Nếu khả năng tiên tri, cũng như các chứng động kinh và loạn trí, có thể “truyền nhiễm” cho người khác thì mọi thói hư tật xấu cũng thế. Trong trường hợp đó, người chữa bịnh truyền cho người bịnh, bấy giờ là nạn nhân của y, cái chất độc tinh thần nó phá hoại tâm hồn và trí não của người này. Bản tay đụng chạm của y là một sự ô nhiễm, cái nhìn của y là một sự xúc phạm. Người bịnh thụ cảm không có cách nào để tự bảo vệ chống lại sự tác hại đó. Người chữa bịnh hoàn toàn chế ngự đối tượng dưới quyền năng độc hại của y cũng như con rắn nhiếp phục một con chim nhỏ yếu. Một người “đồng tử chữa bịnh” lại có thể gây nên những tai hại vô cùng lớn lao và ngày nay hạng người đó rất nhiều có thể đếm tới hàng trăm.

Nhưng, như chúng tôi đã nói ở trên, vẫn có những nhà chữa bịnh chân chính, có khả năng thần diệu, đã nổi tiếng trong lịch sử loài người.

Nói chung, thì các bậc hiền triết, thức giả cổ kim, kể từ Pythagore đến Eliphas Levi, từ vị cao cả nhất đến vị khiêm tốn nhất, tất cả đều dạy rằng quyền năng phương thuật thần diệu không bao giờ sở đắc được bởi những kẻ phàm phu, bị lệ thuộc những dục vọng thấp hèn. Chỉ có những tâm hồn thanh tịnh, thuần khiết mới thông công với Thượng Đế và vận dụng được những khả năng thiêng liêng? Chỉ có những người như thế mới có quyền năng chữa lành bịnh tật của thể xác, và được sự dìu dắt, trợ giúp của những ‘sức mạnh vô hình’. Chỉ có những người ấy mới đem lại sự bình an cho những tâm hồn bấn loạn và an ủi kẻ đồng loại khổ đau, bởi vì nước tịnh thủy cam lồ hàn gắn mọi vết đau thương phải đến từ nguồn suối trong lành, không mảy bợn nhơ, nhiễm độc. Chùm nho tươi ngon lành không mọc trên bờ gai góc, cũng như cây đắng không thể sinh trái ngọt. Với tất cả những điều kể trên, nền phương thuật không có gì vượt ra ngoài tự nhiên; nó là một khoa học và chí đến quyền năng ‘trục vong, đuổi tà’ cũng là một ngành của khoa ấy, mà các bậc đạo gia thời cổ đã từng dụng công đặc biệt nghiên cứu. Trong quyển ‘Bí thuật cổ xưa’ Josephus nói: “Phép thuật đuổi tà ra khỏi thể xác người bị vong nhập là một khoa học hữu ích và lành mạnh đối với con người”.

Kim Cang Thừa và những dự đoán về ngày tận thế

Vương quốc Shambhala

Shambhala hay Kalacakra, vương quốc bí ẩn nằm ở trung tâm châu Á được kinh (Mật tông) Kalachakra của Phật giáo Tây Tạng và các văn bản cổ thuộc nền văn hóa Zhang Zhung nhắc đến với huyền thoại, như là vùng đất dành cho những linh hồn giác ngộ sống và hướng dẫn nhân loại trên con đường tiến hóa.

Theo kinh sách của trường phái Kim Cang Thừa Tây Tạng, vương quốc Shambhala được bắt đầu vào những năm 900-876 TCN với Ngài Dawa Sangpo, người từng được Phật Shakyamuni (Thích Ca Mầu Ni) truyền mật chú Kalachakra. Thế giới của Shambhala bắt đầu từ năm 900 TCN và kéo dài cho đến ít nhất vào năm 2327 với 25 vị vua Kalki (thời Mạt Pháp) thay nhau trị vì và giữ gìn pho kinh sách ghi lời giảng của Đức Phật dành cho hậu thế.

Có tổng cộng 32 vì vua ở Shambhala, 7 vị đầu được gọi là Dharmarajas, 25 người sau được gọi là Kalki. Người mở đầu cho “triều đại” Kalki là Văn Thù Sư Lợi bồ tát (Manjushri Yashas), thời điểm hiện tại do vua Aniruddha cai quản từ năm 1927-2027, người tiếp theo là Narasingha từ 2027-2127… và cuối cùng là Raudra Chakrin từ 2327 trở đi.

Theo kinh Kalachakra, khi đến đời vua cuối cùng của vương quốc Shambhala, khi thế giới bị tan rã do chìm trong chiến tranh và rối loạn, vua Kalki thứ 25 xuất hiện cùng những chiến binh Shambhala, đánh tan lực lượng đen tối, mở ra thời đại vàng cho nhân loại.

Tuy vậy, Kim Cang Thừa không xác định Shambhala là vùng đất tồn tại ở thể vật lý hay bên cõi vô hình.

Rigden Takpa hay Manjushríkírti, vị vua trị vì Shambhala

Các giả thuyết khác về Shambhala

Shambhala còn được biết đến với giả thuyết về sự tồn tại của vương quốc dưới lòng đất (Agharta) xuất phát các nhà văn phương Tây như Louis Jacolliot, Joseph-Alexandre Saint-Yves d’Alveidre… hay là nơi của tổ chức Quần Tiên Hội (Brotherhood) hoạt động từ thời Atlantis theo giáo lý của Thông Thiên Học.

Shambhala trong tiếng Phạn có nghĩa là “nơi của hòa bình, tĩnh lặng”. Và có nhiều giả thuyết từ cổ điện đến hiện đại đưa ra để xác định vị trí của Shambhala từ Tây Tạng, Mông Cổ, Nga, Nhật… nhưng hầu như chưa có sự thống nhất.

Bà Helena Blavatsky, người sáng lập Hội Thông Thiên Học, từng viết trong quyển “Giáo lý bí truyền” (The Secret Doctrine – 1888), vương quốc Shambhala nằm ở sa mạc Gobivà Mông Cổ chính là vùng đất ở phía Bắc của nó.

Trong một cố gắng tìm kiếm sự bảo trợ của nước Nga chống lại sự xâm chiếm của Trung Quốc đối với Tây Tạng, tu sĩ Mông Cổ Agvan Dorjiev (1854-1938), người từng sống ở Lhasa và là trợ lý cho Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 13, nói rằng nước Nga chính là vùng đất Shambhala và Sa Hoàng Nicholas II là hóa thân của Đức Tsongkhapa.

Giữa năm 1925 và 1928, họa sĩ người Nga Nikolai Roerich đã dẫn đầu một đoàn thám hiểm đi xuyên Ấn Độ, Tây  Tạng và Mông cổ để tìm kiếm tông tích vùng đất Shambhala. Sau cuộc hành trình dài hơi này, Roerich cho rằng khu vực núi Altai ở Siberia, thuộc hướng Bắc của miền Đông Turkistan, có liên kết đến Shambhala.

Nữ thần hũy diệt Kalki của Hindu giáo

Nhà nghiên cứu tâm linh người Mỹ Morris Doreal (1902-1963) sau chuyến đi đến Tây Tạng cho biết Shambhala là ngôi đền trắng vĩ đại của Tây Tạng, nằm sâu 75 dặm dưới dãy núi Himalaya, có lối vào như cầu thang uống cong ăn sâu xuống lòng đất. Ông mô tả Shambhala được chia ra làm hai phần, dãy phía Nam là nơi dành cho các Thánh Sư và những cao đồ được điểm đạo, dãy phía Bắc thuộc về thế giới của Phật Di Lặc và hóa thân của những Đấng giáng phàm.

Năm 1936, nhà thám hiểm người Đức – Theodor Illion, người có chuyến hành hương đến Tây Tạng trong những năm 1930, mô tả trong quyển “In Secret Tibet” rằng mình được đưa đến một thành phố ánh sáng dưới lòng đất có tên là “ValleyofMystery”, nơi được cai trị bởi tay phù thủy Mani Rimpotsche.

Thông qua hội Thule, với niềm tin người Đức là dòng dõi của chủng tộc Aryan cổ xưa, Heinrich Himmler và Rudolf Hess cũng từng cử nhiều đoàn thám hiểm đến Tây Tạng tìm kiếm đường vào vương quốc Shambhala, hòng đoạt được sức mạnh siêu nhiên nhằm kiểm soát thế giới.

Lời tiên tri về cuộc chiến thế giới thứ 3 của Manjushri Yashas

Trong mật chú Kalachakra, Bồ tát Văn Thù Sư Lợi (Manjushri Yashas) tiên tri về cuộc chiến thế giới thứ 3 bắt đầu vào năm 2424, một cuộc chiến lớn không chỉ xảy ra trên hành tinh này mà còn bao trùm cả Thái Dương hệ. Ngài đưa ra lời khuyên về các thần dân Shambhala phải đoàn kết và chờ đợi sự xuất hiện của vị vua thứ 25, “sẽ đến từ vũ trụ tranh đấu với những bộ lạc ngoại xâm và tiêu trừ họ”.

Bồ tát Văn Thù Sư Lợi (Manjushri Yashas), vị vua trị vì Shambhala trong thời đại Kalki

“Từ những tiên tri này, nhiều người đã có những giả thuyết kinh đô Shambala nằm ngoài không gian và những cư dân Shambala sẽ di chuyển bằng những đĩa bay. Để hỗ trợ cho giả thuyết họ dẫn chứng đức tin của những người Aymaras (Những người từ phía bắc Péru) và những người Zoulou (Namphi ).” [1]

Trong nhiều ngàn năm trước, “những người bên ngoài vũ trụ đã mang đến hành tinh chúng ta cách tính toán lịch và niên đại cũng như những nghệ thuật hay kỹ thuật khác.”

Môn chiêm tinh Kalachakra ở Shambala

Trong mật chú Kalachakra, môn chiêm tinh học được các học giả Kim Cang Thừa nhìn nhận có sự tính toán chính xác vị trí các hành tinh và đưa ra được các dự đoán đúng đến kỳ lạ.

Vào thời đại Manjushri Yashas, các nhà chiêm tinh trong triều đình đã mô tả được vị trí những hành tinh di chuyển, dự đoán được mọi sự biến động trong xã hội và đưa ra các biện pháp điều chỉnh kịp thời.

Lịch thiên văn Kalachakra chia thời gian ra 12 cung hoàng đạo, với 27 chòm sao và các hành tinh được xác định trên tính chất (đất, nước, lửa, khí) của nó.

Sự tính toán chiêm tinh còn giúp các hành giả Mật tông lựa chọn thời gian nhập thất, tránh né sự xung khắc từ các vì sao gây hại trong lúc thiền định.

Lời tiên tri khủng khiếp về ngày 21-12-2012

Theo Sal Rachele, Thượng Đế và ngày tận thế 21-12-2012 là có thật

Nhà ngoại cảm người Mỹ Sal Rachele bắt đầu quan tâm đến lĩnh vực tâm linh từ những năm 1970. Bằng pháp môn yoga kết hợp cùng rung động với các rung động bí ẩn của âm thanh, ông thanh lọc thân tâm, khám phá và khai mở những khả năng tiềm ẩn bên trong cơ thể mình. Ông thừa nhận mình có khả năng liên lạc với các linh hồn cao cả và được ủy thác truyền tải những thông điệp tâm linh của các đấng tối cao đến nhân loại.

Sal Rachele còn đưa ra một số phương pháp phát triển tiềm năng con người, nâng cao nhận thức tâm linh, chữa bệnh… bằng năng lượng vũ trụ như “chương trình Alpha-Theta”, những giai điệu âm nhạc thần thánh “Angel Dance”, phương pháp tự thôi miên bằng âm nhạc “The Series Leonard”, hay đang chuẩn bị xây dựng một trang trại rộng 40 mẫu được cho là nằm ngoài sự ảnh hưởng của năng lượng vũ trụ – một nơi dành cho thiền định.

Linh hồn cũng là vật chất

Cũng giống như khái niệm “linh hồn” hay “cõi vô hình” của các trường phái yoga Ấn Độ, Sal Rachele cho rằng linh hồn cũng là vật chất và bao gồm khoảng 12 lớp khác nhau, tức là tồn tại cõi không gian lên đến 12 chiều. Chiều không gian thấp hơn không thể nhìn thấy chiều không gian cao hơn. Ví dụ, không gian 3 chiều của con người hiện tại không thể nhìn thấy không gian 4 chiều của “hồn ma bóng quế”. Và cao nhất là chiều thứ 12, tại đây các linh hồn phát triển cao và những rung động vật chất tương đương với Thượng Đế ngôi 2.

Tuy nhiên trong một bài nói chuyện về lịch sử Trái đất, Sal Rachele nói Địa cầu có tuổi đời khoảng 4,5 tỷ năm, và con người có mặt trên hành tinh này muộn hơn, vào khoảng 10 triệu năm trước. Điều đó làm cho các linh hồn chỉ phát triển đến chiều không gian thứ 7 (tương đương với 7 luân xa của yoga), và cõi cao nhất là cõi Bồ đề, tức lã cõi Đức Phật đạt được tâm thức Niết Bàn.

Nhà ngoại cảm Sal Rachele

Nhà ngoại cảm người Mỹ thừa nhận mình thường xuyên nhận được thông điệp từ các đấng cao cả nhưng sự khác biệt rung động vật chất đôi khi làm sự kết nối này bị ngắt quãng. Sal Rachele có nhiều bài “nói chuyện” về lịch sử địa cầu, các nền văn minh đã mất, các hành tinh trong Thái Dương Hệ… và dự đoán những thay đổi lớn cho Trái đất vào các năm 2012, 2017, 2030.

Có tồn tại người ngoài hành tinh

Sal Rachele cho rằng đang có một nhóm nhỏ người ngoài hành tinh đang sống chung với loài người, họ có thân thể vật lý và luôn tránh né chúng ta vì lòng ít hiếu khách và bởi sự vô minh.

Một số chủng tộc người ngoài hành tinh đến để giúp đỡ nhân loại, một số đến theo chương trình riêng, số khác thì khai thác lén tài nguyên, nguy hiểm hơn là âm mưu tiếp quản Trái đất khi loại người tự hủy diệt mình, tìm cách nghiên cứu mã gen và lai tạo với loài người để cải thiện tầm vóc chủng tộc, hay hiếm hơn hơn là “bọn” xem loài người như món “đặc sản” trên bàn ăn.

Trái đất đổi cực

Trong một bài nói chuyện về lịch sử địa cầu, Sal Rachele khẳng định giả thuyết trái đất đổi cực là hoàn toàn có thật. Mỗi 26.000 năm, cực bắc của hành tinh chúng ta sẽ nghiên về một chòm sao bắc cực mới để nhận năng lượng từ trường thuộc về chòm sao này và khi đó mức độ tâm linh của con người sẽ phát triển khác đi. Sự chuyển đổi cực sẽ làm rối loạn điện từ trường trên trái đất. Trong quá khứ các vị trưởng lão của nền văn minh Maya đã dự đoán trước thời điểm đổi cực và thời đại cũ sẽ chấm dứt vào ngày 21/12/2012. (Xem thêm: Kim tự tháp Ai Cập và lời nguyền Trái đất đổi cực)

Sal Rachele nói sự chuyển đổi này xảy ra trong một thời gian dài từ 20 đến 30 năm, tính từ năm 2012. Đa số nhân loại nếu không thay đổi nhận thức về tâm linh sẽ bị chết dần chết mòn bởi dịch bệnh, chiến tranh, hay thảm họa thiên nhiên. Sự thay đổi này không phải là sự trừng phạt của Thượng Đế mà do sự rối loạn “tâm lý” do Trái Đất đã nhận một luồng năng lượng từ trường của một sao Bắc Cực khác và sự rung động này không phù hợp với lớp tâm thức dưới số 4. Sự phân chia lớp tâm thức này dựa trên khái niệm hệ thống 7 Luân xa của yoga. (Xem thêm: Giải mã bí ẩn hình dáng của linh hồn)

- Luân xa số 1, tâm thức thuộc về đòi hỏi thỏa mãn ăn uống.

- Luân xa số 2, tâm thức thuộc về đòi hỏi thỏa mã dục tình, sợ hãi, căm ghét,

giận dữ và bạo hành.

- Luân xa số 3, tâm thức thuộc về hoài nghi và suy nghĩ.

- Luân xa số 4, tâm thức thuộc về tưởng tượng và mơ mộng.

- Luân xa số 5, tâm thức thuộc về tình thương, lòng từ bi.

Sal Rachele nói các rung động vật chất dưới lớp số 4 sẽ không có cơ hội phát triển tiếp tại cõi trần, các linh hồn chưa tiến hóa sẽ bị hút qua một bầu hành tinh khác có mức rung động thuộc về cõi giới này, thông qua một con đường vũ trụ tại các Kim tự tháp của Ai Cập.

Nhà ngoại cảm dẫn số liệu của cơ quan khảo sát địa lý Bắc Mỹ nói rằng, cực bắc của Trái đất đã dịch chuyển liên tục trong thời gian gần đây, từ vị trí ban đầu ở phía bắc Canada nó đang chuyển dần đến vùng Siberia của Nga. Sự thay đổi từ trường đã gây ra nhiều đại thảm họa thiên nhiên trong thời gian gần đây, như siêu bão Katrina, trận sóng thần Nam Á, động đất tại Nhật Bản…

Sự nguy hại của bom hạt nhân

Sal Rachele cho biết tác hại của các vụ nổ hạt nhân không chỉ ảnh hưởng đến thể vật lý, mà còn tạo ra các chấn động vật chất cao hơn, ảnh hưởng tiêu cực đến sự tiến hóa của các linh hồn và có khả năng lan ra tới các hành tinh khác. Vì vậy, người ngoài hành tinh đang xúc tiến một công tác tại Địa cầu để ngăn chặn sự tự hủy diệt của nhân loại. Điển hình như trong cuộc chiến tạiIraqmới đây, một nhóm cực đoanIranđã phóng vũ khí hủy diệt về lãnh thổ quốc gia láng giềng nhưng sự can thiệp kịp thời của người ngoài hành tinh đã làm cho vũ khí này tịt ngòi.

Nhà ngoại cảm Anthony Carr: ‘thiên thạch sẽ lao xuống Trái đất’

Anthony Carr dự đoán đúng vụ khủng bố khách sạn Taj Mahal (Ấn Độ)

Nhà ngoại cảm người Canada Anthony Carr, thường được ví như Nostradamus tái sinh, nổi tiếng với các dự đoán chính xác hai vụ tấn công khủng bố nổi tiếng: vụ 11/9 và vụ nổ bom tại khách sạn Taj Mahal của Ấn Độ.

Anthony Carr thừa nhận mình không sử dụng phương pháp gì đặc biệt ngoài cách liên lạc với các “lực lượng ánh sáng” bằng các rung động ở tuyến tùng trong lúc thiền định.

Nhận định về năm 2012, Carr nói không có chuyện gì xảy ra và nó bình yên như mọi năm khác. Nhưng năm 2013 sẽ là bước ngoặt, sẽ có sự kết thúc cái thế giới đầy hỗn độn này, sẽ trở lại trật tự của các vị Thiên Tinh.

Anthony Carr còn cho rằng thiên tai lớn sẽ liên tiếp xảy ra trong thời gian tới, có cuộc chiến tranh thế giới lần thứ 3. Đặc biệt, sẽ có một sao chổi hoặc thiên thạch khổng lồ chưa từng được phát hiện, không ai chú ý đến sẽ bất thần “trở mặt” lao xuống bầu khí quyển y như người ta ném hòn đá xuống hồ nước.

Ông còn dự đoán có sự xuất hiện của một tôn giáo mới và sẽ đến ngày cả nhân loại nhận ra tất cả các vị thần linh trên Trái đất đều giống nhau, chỉ khác biệt bởi văn hóa mà ra

Nhà tiên tri John Hogue: ‘Sẽ có chiến tranh thế giới thứ 3

Nhà tiên tri John Hogue

John Hogue là nhà tâm linh nổi tiếng với các nghiên cứu về sấm Nostradamus cũng như đã có những dự báo tương lai với mức độ chính xác khá cao. Hogue thừa nhận mình và Nostradamus dường như có cùng sự rung động tâm linh để dẫn đến sự đồng cảm trong cách phá giải những lời tri vô cùng khó hiểu.

Ông xuất hiện nhiều lần trên các phương tiện truyền thông quốc tế như Hãng ABC, FOX, CBS, NBC, CNN, BBC… để đưa ra các thông điệp dự báo tương lai.

Năm 1987, John Hogue viết quyển “Nostradamus và Thời đại hoàng kim” (Nostradamus and the Millennium) nhằm giải mã những bí ẩn mà nhà tiên tri nổi tiếng người Pháp truyền lại cho hậu thế. Vượt qua sự chờ đợi, quyển sách vượt quá 700 ngàn bản và được dịch sang 9 thứ tiếng.

Gần đây nhất, John Hogue tiếp tục nghiên cứu những chương cuối cùng trong sấm Nostradamus để dự đoán về năm 2012 và những vấn đề sẽ xảy ra sau đó. Ông cam đoan sẽ có một Thời đại hoàng kim sau quãng thời gian  gần 30 năm Trái đất trải qua những thảm họa khủng khiếp.

Những dự đoán đúng

Trong quyển sách dự đoán năm 2009 xuất bản ngày 24/01/2009, John Hogue dự đoán Đảng cộng hòa (Mỹ) sẽ có một tân Chủ tịch người gốc Phi đầu tiên. Kết quả sau đó như chúng ta đã biết, ngày 30/01/2009 ông Michael Steele đã được bầu chọn làm chủ tịch.

Năm 2008, John Hogue dự đoán trong năm 2009 nước Mỹ sẽ phải hứng chịu những cơn bão nhiệt đới lớn và các vùng bị ảnh hưởng sẽ là Florida, Nam Carolina, Bắc Carolina và New York City. Đúng như dự đoán, bão Claudette đã tàn phá vùng Bắc vàNamCarolina.

Năm 2009, John Hogue dự báo Ấn Độ sẽ bị tấn công bởi vụ khủng bố lớn. Thêm một lần nửa ông đã đúng, ngày 26/11/2008, thành phố Mumbai bị đánh bom làm 173 người chết và hơn 308 người bị thương.

John Hogue từng viết trong quyển sách tiên tri về năm 2008, con người đang đi vào giai đoạn đầu của thời đại Bảo Bình (Aquarian Age) [1], quãng thời gian mà theo Hogue sẽ phơi bày ra thói đạo đức giả của xã hội và con người sẽ chống lại nó bằng sự nổi loạn. Điều này có vẽ tương đối đúng với sự kiện Wikileaks tung ra hàng loạt tài liệu mật liên quan đến chính quyền Mỹ như việc che dấu chuyện thảm sát thường dân Afghanistan của quân đội, tra tấn tù nhân bất hợp pháp, những toan tính ẩn đằng sau bộ mặt ngoại giao…Và sự nổi lên của phong trào quần chúng nhằm chống lại sự cai trị độc tài của chính quyền ở Bắc Phi, Trung Đông.

Những dự đoán tương lai

John Hogue cho rằng vào giữa năm 2011 khủng hoảng sẽ trở lại ảm ảnh nền kinh tế toàn cầu, tuy nhiên đợt suy thoái mới không mấy nghiêm trọng và dễ dàng vượt qua. Các ngân hàng châu Âu sẽ rơi vào cục diện xấu và lần này sẽ đến lượt Trung Quốc ra tay cứu vớt họ.

Trong tương lai con người cũng sẽ đối diện với khủng hoảng năng lượng lớn vào cuối năm 2011 và đến năm 2012 một gallon (3,7 lít) khí đốt sẽ có giá lên đến 7 USD.

Ông cũng dự đoán Obama sẽ tái đắc cử nhiệm kỳ thứ 2 vào năm 2012 và vị Tổng thống Hoa Kỳ sẽ có số phận giống như Lincoln trước đó. Trong năm 2011 nước Mỹ sẽ có sự kiện đặc biệt đến từ Pakistanvà Bắc Triều Tiên.

Liên quan đến Hồi giáo, vào năm 2008 John Hogue dự đoán trong tương lai sẽ có sự lớn mạnh của phong trào Hồi giáo cực đoan và sự ảnh hưởng của nó sẽ lan đến Thổ Nhĩ Kỳ, Lebanon, Ai Cập và Bắc Phi. Để chống lại điều này, sẽ có một liên minh quân sự của các nước phương Tây đổ bộ vào vùng “Lưỡng Hà” (ông giả mã sấm Nostradamus) và tên lửa của phía Hồi giáo sẽ bay như mưa vào lãnh thổ châu Âu.

Linh hồn đã tiến hóa như thế nào?

Theo Sal Rachele, linh hồn là vật chất rung động theo vòng xoắn ốc

Bài viết phân tích sự tiến hóa “linh hồn xoắn ốc” theo lý giải của nhà ngoại cảm Sal Rachele trong “Thông điệp từ các Đấng sáng tạo”.

Hầu như chúng ta quen thuộc với các dạng đường xoắn ốc trong tự nhiên như các cơn bão, xoáy nước, thậm chí ngay trên đầu các ngón tay của chúng ta cũng có những xoắc ốc bí mật được gọi là vân tay. Khái niệm đường xoắn ốc do nhà bác học Archimedes định nghĩa lần đầu tiên vào thời kỳ Phục Hưng và đã được vận dụng rất nhiều trong đời sống.

Hãy tưởng tượng, vòng xoáy thiên hà được tạo ra bởi sự tác động của các hạt không gian vào biên các hạt cơ bản một cách không đối xứng tạo nên chuyển động quay tròn và chuyển động dời chỗ. Sự kiện này tạo ra lực hấp dẫn của thiên hà lên mỗi nguyên tử vật chất và làm vật chất chuyển động theo quỹ đạo xoay quanh lỗ đen trung tâm thiên hà. Những hiệu ứng và tương tác của chuyển động vừa quay tròn vừa dời chỗ làm “ngưng tụ vật chất” và “sự ngưng tụ sít chặt vật chất” xảy ra tại lỗ đen trung tâm của thiên hà.

Linh hồn xoáy ốc

Linh hồn là vật chất, điều này đã được nói đến nhiều trong các kinh sách cổ của người Hindu.

Trong “Thông điệp từ các Đấng sáng tạo” Sal Rachele nói các linh hồn có 12 lớp rung động vật chất nhưng linh hồn đi theo đường tiến hóa của con người (hiện tại) chỉ có 7 lớp rung động tâm thức, tương đương với 7 luân xa theo khái niệm của yoga.

Giống như “vòng xoáy thiên hà” tại trung tâm lỗ đen là sự “ngưng động vật chất” của luân xa số 7 (tâm thức Niết Bàn), kế tiếp bên ngoài là luân xa số 6 (tâm thức bất nhị nguyên), luân xa số 5 (tâm thức tâm linh), luân xa số 4 (tâm thức thuộc về trí tưởng tượng), luân xa số 3 (tâm thức thuộc về suy nghĩ), luân xa số 2 (tâm thức thuộc về sợ hãi và bạo hành), luân xa số 1 (tâm thức thuộc về tình dục, ăn uống).

Chịu áp lực của vũ trụ, các lớp rung động vật chất ở ngoài cùng chuyển động liên tục theo đường xoáy ốc xung quanh Chơn Ngã và đồng thời các lớp tâm thức bên trong cũng bị nhốt lại. Chính vì các rung động cao hơn không thể rót xuống, linh hồn sẽ chìm trong Vô Minh cho đến khi nào nó đạt được mức rung động thứ 5 trở lên.

Sự thăng lên của linh hồn

Sal Rachele nói về sự “thăng lên” của linh hồn, vậy sự thăng lên có nghĩa là gì? “Thăng lên” là sự kết nối từ mức rung động thấp lên mức độ tâm thức cao hơn, ví dụ từ luân xa số 3 đến luân xa số 4. Nghĩa là bạn phải giảm bớt sự rung động ở mức thấp, dọn đường để rung động ở mức cao có thể rót xuống và hấp thu thêm các rung động ở mức cao hơn.

Ví dụ: Linh hồn các loài thú tiến hóa đến mức rung động thứ hai, nghĩa là nó có sự sợ hãi, giận dữ, biết tìm thức ăn và ý thức được sự giao phối với bạn tình khác giới. Lúc này nó giao phối vì các rung động ở mức 1 (tình dục) thúc giục chứ chưa ý thức được về chàng (hay nàng) thú xin đẹp nào đó. Qua quá trình sống trong kiếp thú linh hồn tích lũy thêm các rung động ở mức trên như tình thương, tính trách nhiệm, qua việc sinh sản và nuôi con.

Như ta biết, những hành giả tu thiền (yoga) nâng mức tiến hóa cho linh hồn của mình bằng cách quán tưởng (một dạng tập trung suy nghĩ) về một rung động nào đó: như quán tình thương, lòng dũng cảm… nhưng với loài thú chưa phát triển được khả năng suy nghĩ thì nó phải luân hồi qua nhiều kiếp thú và nhiều loài khác nhau để học hỏi các loại rung động. Và đến khi linh hồn được cư ngụ trong thể xác loài thú nuôi trong nhà như chó, mèo, thì nó sắp đạt được mức rung động thứ 3, thoát lớp thú trở thành người.

Đơn cử như loài chó, bạn muốn con thú nuôi của mình trở nên tinh khôn hơn bạn hãy trao cho nó thật nhiều tình thương. Sự rung động mạnh mẽ của tình thương sẽ giúp linh hồn nó đạt tới rung động ở mức thứ 3 nhanh hơn, tức là nó có chút ít rung động của sự suy nghĩ và ý thức. Những chú chó khôn luôn là những chú có được tình yêu thương từ con người.

Từ đây bạn có thể tự lý giải những “chuyện lạ” như tại sao những con thú được nuôi trong các chùa Phật lại tỏ ra khôn hơn đồng loại.

Ve sầu thoát xác

Khi linh hồn đạt được mức rung động thứ 3, tức là nó đã tiến hóa đến giai đoạn hồn người. Sau giai đoạn “tận thế” của một nền văn minh phát triển trước đó, một lượng số đông linh hồn mới thoát kiếp thú sẽ đầu thai trong thể xác của những cư dân ở các bộ tộc kém phát triển để học hỏi các rung động cao hơn. Giai đoạn này linh hồn có được sự suy nghĩ, chút ít sự tưởng tượng nhưng hãy còn sự “man rợ” của loài thú, nó bắt đầu từ Đồ Đá kéo dài cho đến thời Cổ Đại.

Khi linh hồn tiến lên mức rung động thứ 4, nghĩa là đã phát triển được trí tưởng tượng, chút ít lòng từ bi, giai đoạn tiến hóa này bắt đầu từ thời Hậu Cổ Đại và kéo dài cho đến nay. Đây cũng là lúc Đức Phật giáng thế xuống Ấn Độ, Jesus tái sinh ở châu Âu để trở thành biểu tượng của lòng từ bi và tình thương nhằm dẫn dắt nhân loại phát triển đến các rung động ở tầm mức thứ 5.

Thời đại vàng

Theo Sal Rachele nhân loại đang đi đến chu kỳ cuối cùng của giai đoạn phát triển tâm thức thứ 4 và chuẩn bị tiến hóa sang mức rung động thứ 5. Vậy là có hơn 2.500 năm trôi qua, nhờ sự giáng thế của Đức Phật và Jesus rất nhiều linh hồn đã đạt được đến sự rung động của lòng từ bi và tình thương.

Sal Rachele cũng cho rằng: trong Thời đại vàng sắp tới, linh hồn muốn được đầu thai trong thể xác mới bắt buộc phải có sự rung động tâm linh và những linh hồn kém cõi sẽ phải dừng cuộc tiến hóa lại khoảng 26.000 năm hoặc bị hút sang một hành tinh khác.

Bước sang mức rung động thứ 5 là một vấn đề lớn, bởi vì lớp tâm thức này không thể rót xuống nếu linh hồn còn có sự rung động của lòng tham dục, và thù hận. Vậy là linh hồn phải cần có một sự bức phá mạnh mẽ, một ý chí quyết tâm cộng với việc thực hành một phép tu nào đó.

Không có sự cứu rỗi

Sự “thăng lên” của linh hồn hoàn toàn do yếu tố tinh thần ở bên trong con người y, không thể có sự cứu rỗi (theo nghĩa đen) đến từ một linh hồn cao cả nào. Bởi vì tâm thức của linh hồn do chính nó quyết định, lựa chọn con đường hóa và chịu trách nhiệm về quyết định đó chính là sự tiến hóa tự nhiên theo ý chí của Thượng Đế. Nếu như có sự cứu rỗi thì chuyện này đã diễn ra từ lâu, Trái đất đã trở thành một thiên đường và nhân loại đã không còn có sự đau khổ.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Com

Tags: #sanghk