Pháp cú 50: Truyện kẻ hay xét lỗi người
"Chẳng nên xét nét người
Lỗi lầm nhiều hay ít
Chỉ nên xét chính mình
Lầm lỗi đã hết chưa"
(IV-Phẩm Hoa, Pháp Cú 50)
Tích Pháp Cú: Có một phụ nữ theo làm đệ tử một ẩn sỹ lõa thể tên là Ta-chi-ka. Bà cúng dường cung phụng vị đó rất chu đáo. Trong khi bà hết lòng cúng dường ẩn sỹ đó thì bà nghe danh Đức Phật. Bà đến thưa với vị đó và rằng:
- Xin phép thầy cho con đến nghe Đức Sa Môn Gô-ta-ma giảng pháp.
Ta-chi-ka không đồng ý. Bà vâng lời thầy không đi. Thế nhưng duyên xưa thúc đẩy khiến lòng bà day dứt bất an. Bà bảo con trai:
- Bây giờ sư phụ không cho mẹ đi nghe Sa Môn Gô-ta-ma giảng pháp. Vậy con hãy mời Ngài đến đây để mẹ cúng dường và được nghe pháp.
Con trai vâng lời thì ẩn sỹ Ta-chi-ka gặp cậu nói:
- Con đi mời thì nên chỉ đường sai để phần đồ ăn đó ngày mai ta với con cùng ăn.
Cậu bé vâng lời ẩn sĩ. Cậu đến gặp Đức Phật và mời Đức Phật đến nhà thọ thực. Đức Phật đồng ý. Thế nhưng dù cậu chỉ sai đường mà Phật vẫn đến đúng nhà. Lõa thể Ta-chi-ka biết chuyện. Ông tức giận đứng ở cửa gọi bà ra nói thậm tệ rồi bỏ đi. Bà vào nhà tiếp tục nghe Phật giảng pháp mà tâm tức tối không nguôi. Bà buộc miệng nói với Phật:
"Con được ngồi bên Thế Tôn như được ngồi bên ánh mặt trời sáng tỏ, như được ngồi bên dòng nước mát vô tận, như giữa trưa hè nắng gắt con được ngồi dưới bóng cây Tha-na. Những lời dạy của Thế Tôn khiến tâm con khai mở thoát mê mờ u tối. Con biết từ đây con đã có chân sư. Còn người kia con nuôi bao năm mà vẫn tham lam, ghen tị, sân hận, si mê, không biết phép lịch sự, thật là người lố bịch...."
Bà ngồi và chê vị ẩn sỹ kia không ngớt thì Phật ngăn lại bằng bài kệ:
"Chẳng nên xét nét người
Lỗi lầm nhiều hay ít
Chỉ nên xét chính mình
Lầm lỗi đã hết chưa"
(IV-Phẩm Hoa, Pháp Cú 50)
Bà hiểu ra đạo lý nên vâng lời Đức Phật.
Bài học kinh nghiệm:
Bài học 1: Chê người dù là chê đúng vẫn là ác ngữ, ác khẩu, tạo khẩu nghiệp
Bà Phật tử đã chê trách ông thầy cũ quá nhiều. Bà lôi các tính xấu của thầy đó ra trách móc đào ngoáy. Đó là phạm giới ác ngữ. Phật lập tức ngăn bà lại để bà không tạo tội. "Ghét của nào trời trao của nấy". Nếu bà cứ tiếp tục thù ghét chê bai thầy cũ thì đạo đức của bà sẽ đi xuống theo lời chê bai đó.
Phật khuyên không nên xét lỗi người mà hãy xét lỗi bản thân để sửa nội tâm của ta. Điều đó mới đúng chánh pháp, khiến đạo đức ta tăng trưởng. Đó là bài học cho tất cả mọi người.
Trên mạng tôi thấy mọi người tự khen và chê đời nhiều quá. Các bài đăng MXH khen người, ca ngợi đời thì ít mà toàn thấy cướp, hiếp, giết, chê bai, trách móc, tham nhũng, ác độc, lừa đảo, bới lông tìm vết thì nhiều. Đây chính là căn bệnh của kẻ tiểu nhân hèn kém với Thân kiến nặng nề. Kẻ đó luôn ghen ăn tức ở (GATO), đố kị, ghen tị, khinh người, chê đời. Và họ luôn thấy bản thân là người tốt, tài giỏi, xinh đẹp. Chẳng kẻ tiểu nhân nào tự thấy xấu xa bao giờ. Vì mặt họ luôn cắm xuống đất nên tâm họ đi xuống.
Bài học 2: Tâm lý khen mình chê người
Tâm lý của con người là: "Chê người tự dưng tâm ta thấy sung sướng, hả hê, hãnh diện. Ta thật là oai, là oách, là to lớn vĩ đại... Còn khen người tự dưng tâm ta cảm thấy hèn kém, nhỏ bé, khó chịu".
Chính vì tâm lý này nên mọi người thích chê bai, bới lông tìm vết, đào xới lỗi sai của người. Thế nên xã hội có nhiều kẻ oai, kẻ oách, kẻ khệnh khạng, kẻ bố đời mẹ thiên hạ. Xã hội đó toàn thấy lời chê bai chửi bới và điều xấu xa bỉ ổi. Kẻ tiểu nhân luôn tự thấy mình to lớn vĩ đại nên họ chê người, tự khen mình. Hoặc chị em bà tám, buôn chuyện cuối cùng sẽ nói xấu người thứ 3.
Nguồn gốc của tâm lý khen mình chê người là kiết sử Thân kiến. Kẻ thân kiến nặng thì cái tôi lớn. Vì cái tôi lớn nên họ tự khen. Vì cái tôi lớn nên họ thấy người là nhỏ bé kém cỏi nên hay chê người.
Người biết tu thì Thân kiến giảm, cái tôi nhỏ nên họ hay khen người và tự chê bản thân. Họ luôn xét lỗi bản thân để sửa còn lỗi người thì bỏ qua. Xã hội nhiều người biết tu luôn thấy bản thân nhỏ bé, kém cỏi, cần phải học nhiều, sửa nhiều thì xã hội đó nhiều lời khen. Nhưng xã hội thì tiểu nhân luôn nhiều hơn người quân tử thế mới chán.
Bài học 3: Thiền lõa thể
Thời Đức Phật có thiền khổ hạnh Ni Kiền Tử (Ni-gan-tha). Họ sống ẩn cư trên núi và thực hành khổ hạnh khốc liệt. Đức Phật cũng mất 6 năm tu thiền khổ hạnh cực đoan rồi thấy đây là con đường sai.
Còn phái thiền Lõa thể là một nhánh của khổ hạnh Ni Kiền Tử. Các vị thiền khổ hạnh vẫn mặc quần áo tuy có thể bị rách nát. Còn các vị phái Lõa thể thì không mặc gì, càng tu cao càng ít vải. Khi chứng đắc theo tiêu chuẩn phái đó thì tu sỹ Lõa thể hoàn toàn không mảnh vải che thân.
Lý thuyết về thiền Phật dạy thì một vị chứng sơ thiền sẽ ly Dục, ly Ác pháp. Kể từ đây vị đó hoàn toàn chấm dứt Dục được gọi là ly Dục.
Theo tôi rất có thể chứng đắc của phái Lõa thể là Sơ thiền Ly dục. Các vị lõa thể để chứng tỏ "Ta đây đã đắc đạo ly Dục" bằng cách cho mọi người thấy bộ phận sinh dục. Còn trong đạo Phật thì sơ thiền là tầng thứ nhất trong 4 tầng thiền định. Thái tử Tất Đạt Đa năm 12 tuổi đã chứng Sơ thiền khi ngồi thiền dưới bóng cây Diêm Phù Nề. Do vậy năm 18 tuổi Ngài cưới vợ là Da-Du-Đà-La thì vợ chồng thanh tịnh dục nên 10 năm không có con. Vậy sao Phật có con? Sao con Phật là "Mật hạnh đệ nhất?"
Bài học 4: Thân kiến là kiết sử thô nhất thấp nhất
Ta thấy ẩn sĩ kia vì muốn giữ đệ tử để hưởng sự cúng dường nên bày mưu ngăn cản bà. Vậy mục đích tu hành của vị đó là gì? Mục đích tu hành của vị đó không phải tìm chánh pháp mà tìm sự cúng dường.
Đó là kiết sử Thân kiến: ích kỷ, tham lam, đố đị, tật đố, ghen tị, GATO, muốn nhiều cho mình, hám lợi... Nó ngược với lòng vị tha, hi sinh vì người. Thân kiến là kiết sử thô nhất, thấp nhất trong 10 Kiết sử và là bản tính của Tiểu nhân.
Tâm lý này trong giới tu sĩ ngày nay có nhiều. Sư này thích nói xấu sư kia để hạ bệ. Họ không bao giờ cho đệ tử đến thầy khác để nghe pháp. Họ bao bọc, kìm kẹp, giữ khư khư đệ tử... để hưởng sự cúng dường. Còn chánh pháp thì họ luôn thấy họ đúng còn các vị khác là sai, là tà sư giảng tà pháp.
Bài học 5: Phật biết rõ mọi con đường
Cậu bé con bà cư sỹ chỉ sai đường nhưng Phật vẫn đi đến đúng nhà. Đó là vì Phật có Thiên nhãn minh thấy vô lượng chiều không gian, vô lượng chiều thời gian. Phật hướng tâm đến chúng sinh nào là thấy quá khứ, hiện tại, tương lai vô số kiếp kẻ đó. Phật cũng thấy luôn kẻ đó đang ở đâu trong Luân hồi.
Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Com