Truyen2U.Net quay lại rồi đây! Các bạn truy cập Truyen2U.Com. Mong các bạn tiếp tục ủng hộ truy cập tên miền mới này nhé! Mãi yêu... ♥

Ngày Hoà Bình Lặp Lại

Một chiều cuối đông, trong căn phòng cũ mục nát những mối mọt dường như đã ăn mòn ăn mỏi ăn đến mục rữa con người đang nằm dài bên cửa sổ. Cửa sổ kẽo kẹt, lỗ chỗ những hạt bi vàng như trứng cá, rời rạc đinh sắt, có lẽ sắp đứt, sắp lìa như chính Hiền. Trên bàn gỗ, trên tấm đệm nằm, la liệt trên sàn nhà những mảng bụi bặm là vô vàn kí ức miên man từ kỳ tận một miền xa thẳm, đau đáu nhớ mong và cả một tình yêu tận tình bị mảnh đạn bom cắt đứt lìa từ thuở nó mới chớm biết bao nhiêu nồng nàn. Căn phòng xanh lét những vệt loang lổ như vệt máu xanh rờn, nứt toác từng đường dài và to như thể có ai cố tình đục khoét. Khắp xung quanh đặc quánh một mùi hương ẩm mốc kì lạ, pha trộn giữa mùi nước mưa, mùi của những chiều mưa, mùi nồm, mùi gió về, mùi cô đơn, mùi nước mắt tích cóp trong hàng bao năm.

Góc phòng chưng một cây đàn ghi-ta màu nâu hạt dẻ, xước gần hết, dây đàn chỗ lành chỗ đứt, chẻ ra hai ba đường. Cạnh cây đàn là chiếc tủ gỗ màu nâu đậm, không lỏng lẻo, không mối mọt, không bám bụi, bám màng nhện mốc meo. Chiếc tủ nhìn sơ qua đã biết tuổi đời già nua của nó, nhưng có vẻ nó được lau chùi và gìn giữ vô cùng cẩn thận. Tủ chia thành hai tầng, ba ngăn, một ngăn to ở dưới và hai ngăn bé ở trên, có ổ khoá cẩn thận. Trên nóc tủ chưng một khung ảnh bằng đá, cũng vẫn cũ như tất thảy đồ đạc trong căn phòng này, trong tấm ảnh là hai người con trai còn trẻ măng, mới tầm đôi mươi, cả hai mặc bộ quân phục còn mới cóng, đầu đội mũ cối, lưng đeo ba lô, khoác vai nhau cười tươi rói. Bên dưới khung ảnh khắc dòng chữ: " Khương Thái Hiền, Thôi Phạm Khuê - 1971 " .

***

Ngày ấy, đất nước lâm nguy, chiến tranh bừng khói lửa. Biết bao nhiêu đồng bào ta chết oan uổng dưới làn bom, làn đạn quân thù. Cha anh Khuê - bác Khiêm cũng vậy, bác chết dưới chiến hào quân đội khi mùi thuốc súng vẫn còn nồng hắc trên đôi bàn tay, bác bị đạn găm gần chục vết trên người, chân trái gần như lìa, nhiễm trùng nặng, sốt cao, cuối cùng bác không qua khỏi.

Bác Khiêm được phong anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam năm 28 tuổi, huy chương cài trên ngực áo bác đếm không xuể, bằng tổ quốc ghi công được bác gái cất một xấp trong tủ kính, quý hơn cả vàng. Đối với bác Khiêm, ấy chính là danh dự sống của bác, là hiện vật của cuộc đời bác, những tấm huân chương ấy luôn là thứ để bác tự hào. Cuối cùng, nỗi đau được cất giấu sâu trong trái tim dưới làn áo cài đầy huy chương không bao giờ được bác Khiêm khoe ra ngoài. Chúng chỉ lủi thủi, lầm lũi, đơn độc trong ấy, rồi cứ thiết tha, cứ dày vò, chà đạp vào trái tim bác ngày qua ngày. Điều ấy thì không một ai biết cả. Cho đến tận ngày mà bác ra đi, tròn 51 tuổi đời, người ta mới biết đến những nỗi đau chiến tranh ấy qua những tập nhật kí bác ngồi viết về đêm. Những trang nhật ký của bác có gai, làm người ta ám ảnh và sầu thảm khôn cùng.

Anh Khuê - con trai thứ của bác Khiêm, cũng là người Hiền thương nhất trên đời, khóc lóc thảm thiết ngày biết tin cha đã hi sinh ngoài chiến trận. Đối với anh, bác Khiêm như thể một vì sao có thực trên đời bằng xương bằng thịt, anh yêu cha, thương cha và nể cha hơn tất thảy mọi người mà anh quen trên đời. Anh thích nghe cha kể chuyện về những trận đấu đánh giặc, rồi quân đội ta sống như thế nào ở chiến khu?... Tất cả mọi thứ cha anh trải qua. Bác luôn kể những câu chuyện ấy với giọng hào hùng và tràn đầy niềm kiêu hãnh, tự hào của một người chiến sĩ cảm tử.

Ngày hay tin bác Khiêm đã hy sinh, anh khóc nhiều lắm. Rồi năm tròn mười tám tuổi, anh viết đơn tình nguyện ra chiến trường đánh giặc. Anh hỏi Hiền : " em có muốn đi cùng anh không?" Hiền đồng ý ngay.

Ngày lên đường, cả hai chụp kỉ niệm một tấm ở nhà anh Khuê. Hứa hẹn đủ điều với mẹ cha rằng nhất định ngày toàn thắng sẽ trở về.

Trên con xe tải quân đội ngày ra đi, không tưởng tượng được rằng khi sắp sửa bước vào cửa tử, các thanh niên vẫn lạc quan và hạnh phúc đến nhường này. Tiếng hát các anh cất cao suốt dọc đường đi tới, mang âm hưởng hào hùng và tràn đầy quyết tâm của hàng ngàn người con đất Việt. Và cả cậu, cả anh cũng thế. Có lẽ ngày ấy là ngày vui nhất, là ngày nhiều tiếng cười nhất trong suốt cuộc đời Hiền.

Những ngày tháng sau đó ở chiến khu, xông pha trên chiến trận Hiền mới thật sự nhận ra độ kinh hãi của chiến tranh. Nó khủng khiếp hơn cả thảy những gì cậu thanh niên trẻ đã từng nghĩ về nó. Nó dã man, rùng rợn mà nhất là nhân tính hoàn toàn không tồn tại ở nơi đây. Cái chết, nhẹ như lông hồng, chết, chỉ là chuyện cơm bữa ngày thường. Chết ở bất cứ đâu, chết bất cứ khi nào, bất cứ ai sẽ chết. Chiến tranh và tử thần là cặp tri kỉ trung thành nhất, không gì trên đời chia cắt được chúng.

Hiền cũng lo sợ, nhưng vẫn xông pha, bởi lẽ chẳng có tấc đất nào ở đây là không nhuốm máu người lính cách mạng. Đó là trách nhiệm của họ, trách nhiệm đánh đổi bằng cả cuộc đời nhưng vinh quang và là lý tưởng luôn sáng chói trong tim. Hiền không sợ một ngày mình sẽ ngã xuống, cậu chỉ sợ... người yêu của mình sẽ nằm lại mãi mãi nơi đất mẹ quằn quại khổ đau. Bỏ lại mình cậu trơ trọi như kẻ lữ khách lạc giữa sa mạc rộng lớn thênh thang. Đối với Hiền, ấy mới là điều hãi hùng nhất.

Nhưng người ta bảo, cái gì mình càng sợ nó xảy ra thì nguy cơ nó xảy ra càng cao. Thật vậy!

_______

Một đêm mưa năm 1972, giặc tràn lên nườm nượp, lũ lượt như dòng thác khổng lồ đổ ào ào xuống từ trên cao. Ấy là một trong những đêm định mệnh, cướp đi mạng sống của không biết bao nhiêu lính lực lượng ta.

Trong bóng tối hun hút, dưới ánh trăng mờ nhoè, Hiền ôm chặt cây súng, xả đạn liên tiếp về phía quân địch. Tiếng súng nổ đùng đùng khắp xung quanh, bao trọn lấy đôi tai của Hiền khiến nó ù đi. Cậu cảm nhận được những viên kẹo đồng cứng rắn bay vù vù lơ lửng trên không trung, sượt qua người sắc lạnh đến rùng mình. Quân ta chết không ít, Hiền chắc chắn như vậy, nếu như ngay bây giờ mặt trăng đổi vị trí cho mặt trời, hẳn sẽ phơi bày ra không biết bao nhiêu xác chết của đồng đội, và cả địch, những cái xác còn hơi ấm nhưng lạnh tanh đi vì mưa, nhầy nhụa máu me đặc sệt, đỏ thẫm khắp không gian, tanh nồng mùi của cái tận cùng một đời con người. Những cái xác không còn nguyên vẹn, những cái xác mất tay, mất chân, mất tai, mất tim, mù mắt. La liệt các bộ phận cơ thể khắp chiến trường. Hiền không dám tưởng tượng mặc dù khung cảnh ấy Hiền vốn đã ghi nhớ sâu tận tâm can, có muốn quên đi cũng không được, ám ảnh vô cùng.

Ba ngày hai đêm chỉ ngập đầu trong lửa khói, phơi mình hứng từng làn bom làn đạn quân thù, Hiền mất đi bàn tay phải do phi pháo địch ném gần đó, một mảnh văng vào tay cậu khiến nó nát bấy, máu thịt lẫn lộn với nhau nhầy nhụa nhoe nhoét, lộ rõ cả xương. Phải cắt đi. Đau đớn tột cùng.

Nhưng nếu chỉ có vậy, Hiền đã cảm tạ trời đất thương mình. Một chuyện thậm chí còn kinh khủng hơn như thế đã xảy ra, và nó xảy ra mà Hiền không hề hay biết.

Anh Khuê chết rồi, anh cũng trúng phi pháo nhưng không may mắn như Hiền. Phi pháo cắm sâu vào đúng động mạch cảnh ở cổ anh, một dòng máu đỏ thẫm phun ra như pháo hoa, văng tung tóe khắp nơi hoà cùng máu các chiến sĩ khác trên chiến trường. Rồi anh ngã xuống, chết ngay lập tức, cổ, áo và mặt anh nhuốm màu tang tóc, thảm thương.

Vào cái phút giây định mệnh ấy, Hiền nào hay. Thậm chí Hiền cũng chẳng phải người đã tự tay đào từng cuốc đất chôn người yêu. Phải đến lúc đã về lại chiến khu, cậu tìm anh không thấy, người ta mới nói cậu biết tin động trời ấy. Vậy là đến cả nhìn mặt anh lần cuối Hiền cũng không còn cơ hội. Có lẽ cái điên dại trong Hiền đã chớm từ ấy, khi tử thần chơi đùa với sinh mệnh của cậu, thay thế cái chết bằng sinh mệnh của anh.

___

Thời gian trôi đi, thoăn thoắt như những viên đạn bay ra từ họng súng nóng bỏng. Hiền không còn nhớ đã bao nhiêu lần bản thân suýt chết khi chiến đấu, khi mắc bệnh ở chiến khu. Mọi thứ trong đời cách mạng của cậu thần kì đến khó tin. Liệu tử thần đang ưu ái cậu hay muốn giày vò cậu theo cách khác khổ đau và chảy máu hơn cả?.

Rồi, ngày toàn thắng đã đến, Hiền là một trong những chiến sĩ may mắn còn sống đến phút giây này.

*****

Hiền rời khỏi mặt trận chiến khu, đã đến lúc cậu về lại quê hương thân yêu, quê hương Hà Nội ba sáu phố phường nhộn nhịp những đoàn người qua lại trong kí ức một thời của Hiền. Ngày nóng bỏng đất trời Tổ quốc, nóng bỏng cả những trái tim và những trang nhật ký ố vàng trong hộc tủ, cậu và anh đã từng thắm thiết thế nào? Và rồi đau xót ra sao trước cảnh Đất nước nhuốm đỏ những cuộc đời cả xanh non cả già cỗi, trong đó có cha anh. Huân chương cài trên ngực áo sáng lấp lánh, chúng là niềm tin cũng như mình chứng cho một cuộc đời đã từng gắn bó sâu nặng với chiến tranh. Anh đi vì chúng, vì cuộc đời mà chúng đã công nhận. Còn Hiền đi vì anh, và vì Tổ quốc. Nhưng chiến tranh là cõi lang thang, sinh ly tử biệt thấu nước mắt, bước chân vào thì khó mà ra, vì sống chắc chắn không ra, chết rồi lại càng không ra được nữa, chỉ có kết thúc thì lúc ấy người lính mới có cơ hội vùng ra khỏi sợi dây xích trói chặt họ với đạn bom và cái chết vùi sâu nơi núi rừng. Mà để sống được tới cái lúc ấy thì ít lắm, liệu hoà bình đã đánh đổi hết bao nhiêu mạng người? Nhiều không đếm xuể. Làm sao có ai đếm được hết khi chẳng những người ta chết về thể xác mà còn biết bao người đã chết tàn lụi cả tâm hồn.

" Khương Thái Hiền - Thôi Phạm Khuê _ 1971 "

Tấm ảnh cũ nát gối đầu giường chụp ngày lên đường là tất cả những gì quý giá nhất đối với cậu, đối với cả những ngày tháng sau này không còn anh. Chiến tranh tàn khốc như vậy đấy, chiến tranh là kẻ cướp man rợ và khiếp đảm nhất trong tất cả những kẻ cướp trên đời nầy. Kẻ cướp bình thường sẽ cướp nhà cướp cửa hay cướp vàng cướp bạc mà để đánh đuổi nó thì dễ như không với thật nhiều người bao vây nó. Nhưng chiến tranh thì khác, nó không cần của, nó chỉ thích cướp những cuộc đời và cướp đi hạnh phúc - thứ còn quý hơn của gấp ngàn lần. Và mỗi lần cướp, nó lại cười rầm lên những tiếng đoàng đoàng vang cả trời đất. Thậm chí hàng triệu người đứng lên đuổi nó cũng phải mất trăm năm. Và Hiền, một trong hàng triệu người ấy tất nhiên không thoát khỏi tay kẻ cướp khổng lồ. Chiến tranh cướp mất bàn tay phải của cậu trong một lần địch ném phi pháo, cướp mất một tâm hồn lung linh như ngọc và hết thảy, nó cướp đi một nửa hồn người của Hiền - anh Khuê.

Trên con đường về lại mảnh đất thủ đô, Hiền chỉ lặng thinh trên con xe tải quân đội vẩn đục đến bạc màu. Cậu còn nhớ rõ một chiều mưa khi những giọt lệ trời phả vào bộ quân phục màu xanh rờn, anh còn ở bên, anh đàn hát cùng cây ghi-ta màu nâu hạt dẻ đã qua thấu bao miền kí ức, đi qua bao thế hệ anh hùng. Anh hát bài: Trường Sơn Đông, Trường Sơn Tây. Giọng hát của anh bất kể khi nào cũng đều là thanh âm trong trẻo và vang xa mãi trong Hiền, ngay cả khi anh đã hy sinh anh dũng cho Tổ quốc. Âm thanh ấy nuôi sống Hiền qua thời gian.

" Cùng mắc võng trên rừng Trường Sơn
...
Là Đông Trường Sơn nối Tây Trường Sơn."

" Hiền ơi, ngày hoà bình lặp lại, anh em mình về thủ đô, mình thuê phòng chung cư sống cùng nhau nhé, rồi ta làm nghề vẽ, nghề viết kiếm tiền, được không em? "

" Em mong là như thế, anh ạ, nhất định phải sống đến ngày ấy nhé. "

__

Lời hứa thì vẫn mãi là lời hứa, kỉ niệm thì vẫn mãi là kỉ niệm, không bao giờ chúng sống lại được lần thứ hai. Nhất là khi chúng đã nằm sâu dưới bảy tấc đất quê hương Việt Nam. Chỉ có thể nhớ lại và bùi ngùi xót xa thôi.

Tử thần đã cướp đi lời hứa và kỉ niệm của cậu, nhưng có vẻ nó chưa thoả mãn.

Quả đúng là tử thần đang muốn chơi đùa với Hiền, nó đang ấp ủ một âm mưu toan tính xấu xa, dồn cậu tới đường cùng vào một ngày nào đó, nhưng để làm được như vậy, trước tiên Hiền phải thật đau khổ. Khi cái bi kịch, khi nỗi buồn đau da diết xé nát tâm can thấm vào từng nghóc ngách trong tế bào cơ thể cậu, cái chết sẽ là một lối thoát nhẹ nhàng.

Hình như nó muốn thấy Hiền gào thét, muốn thấy Hiền tự xé ruột gan mình ra lần nữa nên nó không dừng lại. Tử thần cướp đi cả người mẹ duy nhất của Hiền. Hiền hay tin mẹ chết vì bệnh nặng, bà ra đi khi vẫn nắm chặt bức ảnh của Hiền trong tay. Ngày về lại Hà Nội, Hiền đi một mình, cô đơn đến rã rời, buồn thương đến tước đôi trái tim mình ra. Giây phút ấy, đời Hiền chỉ còn mẹ Tuyết như một sợi dây duy nhất để linh hồn tê dại của cậu bám víu vào, là cứu cánh duy nhất đời cậu. Và cuối cùng, căn nhà vẫn còn đó, vẫn vậy, không thay đổi bất cứ thứ gì ngoại trừ hơi ấm của tình thân. Mất mẹ, mất người yêu, cha thì từ khi sinh ra đã không có. Vậy là rồi đời, Hiền giờ chẳng khác con chim hải âu vũng vẫy giữa biển dầu nhớp bẩn thỉu là bao.

____

Sau này khi đã hoà bình, Việt Nam im tiếng súng, lặng tiếng bom, người người an yên và hạnh phúc tận hưởng cái thanh bình của cuộc sống độc lập, dường như trong Hiền, chưa một giây phút nào cuộc chiến ấy buông tha cho cậu, nó vẫn đeo bám, giành giật, dai dẳng, những tràng cười đùng đoàng của kẻ cướp sinh mệnh vẫn còn đó, chẳng đi đâu cả, ngay trong tâm can, đầu óc Hiền. Những cái chết dù thê thảm, tơi bời hay nhẹ nhàng, thanh thản, những cái chết của đàn ông hay đàn bà, những cái chết của người lính cách mạng hay dân thường đều đặn ám ảnh Hiền trong bất kể giấc chiêm bao nào hằng đêm. Và hết thảy, Hiền phát điên, phát ngộ dại lên vì cái chết của anh, anh Khuê thương yêu vô ngần trong trái tim cậu. Cách ngày, cách tháng, tiếng cười rống lên, rú từng tràng dài hoà cùng tiếng nấc nghẹn vẫn vang lên trong căn phòng cũ nát ủ dột khiến tất cả mọi người rùng mình kinh hãi. Người ta khiếp đảm lên được con người trong ấy, không ai dám thuê phòng ở gần phòng Hiền, họ sợ một sớm một chiều cũng sẽ bị cuốn theo nỗi buồn đau tê dại đến xé lòng ấy của người cựu binh mà điên, mà ngộ dại theo.
*****

Căn phòng của Hiền được tách riêng với các phòng còn lại. Xung quanh chỉ độc tiếng gió hú và tiếng côn trùng kêu, căn phòng u ám và cô độc như chính con người Hiền, chứa đựng những dấu tích điên dại và bi thương nhất của một linh hồn rách rưới, nát bươm. Không một ai và không một ai khác ngoài những hồn ma lang thang vất vưởng xuyên suốt cuộc chiến ghé đến tâm sự cùng người cựu binh đã già. Vậy đấy, dù chiến tranh hay hoà bình thì Hiền vẫn cô đơn và riêng lẻ, dù đã từng xuyên suốt qua bao năm tháng gian khổ và huy hoàng nhất trong lịch sử Đất nước, Hiền rốt cuộc vẫn vậy, vẫn không sao thoát khỏi những chiếc hộp khi thì lung linh, khi thì vẩn đục hoang tàn. Rốt cuộc chẳng có thứ gì khâu vá nổi vết rách trong tim đã chảy máu nhoe nhoét hàng bao năm trong Hiền. Ngày ngày hoà bình trôi qua trong tiếng người nô nức, nói cười lao xao, thi thoảng trôi qua theo tiếng khóc than, van lạy cầu xin,...Hiền cứ lặng lẽ, chầm chậm, u uất, quan sát mọi việc nhưng không tài nào hòa chung vào nhịp sống ấy nổi dù chỉ một giây. Có thể cậu chỉ muốn ra hỏi thăm người ta, lâu lâu ngồi tâm sự với một ông già nào đó dưới bầu trời rực đỏ hoàng hôn, muốn kể chuyện cho những đứa trẻ về kí ức một thời đỏ lửa đã nhuốm màu xa xăm, hoang hoải buồn đau da diết nhưng cũng hào hùng và đầy nhớ thương. Hiền muốn tập tranh vẽ " quá khứ" của mình được người ta truyền tay nhau, tò mò về câu chuyện đằng sau ấy chứ không phải chỉ nằm bám bụi trong hộc tủ. Nhưng có lẽ những chuyện tưởng chừng đơn giản như cơm bữa ấy lại là khao khát ước mong mà thậm thí cả đời nầy Hiền cũng không thực hiện nổi dù chỉ một. Người ta chỉ còn sống khi hình bóng hay cái tên còn tồn tại trong tâm trí mọi người xung quanh, khi tất cả những thứ ấy biến mất không còn dấu vết gì trong đầu óc bất kể một ai, dù cho tim vẫn đập cũng là đã chết rồi. Như Hiền, cậu chưa chết nhưng có lẽ sắp chết, bây giờ, cậu đã mờ ảo, mơ hồ.

Hiền tự hỏi, một câu hỏi không biết cụ thể từ bao giờ nhưng đã xuất hiện từ lâu, có lẽ nó bắt đầu len lói vào những ngày đầu hoà bình về lại: " Bao giờ chiến tranh và những bi kịch nó mang lại cho Hiền mới buông tha, mới để cho Hiền được sống như một con người? ". " Trời đất ơi, có thể, à không, chắc chắn là không bao giờ! Rồi chẳng biết được một ngày kia, khi lũ trẻ con đang nô nức, khi thanh niên đang hăng hái, khi người già đang thảnh thơi, khi dòng người đang tấp nập, mình sẽ ôm nỗi buồn ấy vĩnh viễn xuống mồ! Mà chẳng biết có mồ hay không, vì trên đời nầy mình làm gì còn ai thân thích, chiến tranh cướp hết, cướp sạch rồi kia mà! Mình sẽ sống dở chết dở, mòn mỏi khổ đau mãi mãi trong bóng tối của bi kịch chiến tranh hay sao? " . Ấy là câu trả lời văng vẳng trong đầu Hiền mỗi khi câu hỏi kia vang lên trong tâm, chỉ có vậy, chỉ có tuyệt vọng và chìm sâu, chỉ có đám bùn lầy nhầy nhụa chớ chẳng có sợi dây thừng nào cả. Sao mà thế giới này lại tuyệt tự như vậy, sao mà đến cái mức ấy cơ chứ? Rồi mỗi sớm mai thức dậy, lại thêm một ngày lạc lõng và đắm đuối trong nỗi buồn. Người ta bảo rằng khoảnh khắc ánh nắng sớm rọi vào phòng, ta mở mắt là thời khắc hạnh phúc và quý giá nhất, ta phải trân trọng nó. Nhưng với người cựu binh sống lầm lũi, bám dính lấy căn phòng chung cư cũ nát, rách rời ấy thì hoàn toàn ngược lại. " Than ôi! Lại ngày mới đấy ư? Lại bình minh đấy ư? Lại cái thứ " ánh sáng của hy vọng " ấy hả? Thật là phiền phức, thật là quá quắt, thật là dai dẳng. Tại sao đáp lại tôi không phải bóng tối vĩnh hằng? ". Dần dà Hiền chẳng thiết tha bất cứ điều chi. Căn bệnh đeo bám Hiền đến chảy máu, róc da róc thịt Hiền ra từng mảng đỏ choét, nhoe nhoét khổ đau. Cậu ăn không ăn nổi, uống không uống nổi, đi lại cũng chẳng ham, chỉ ở lì một chỗ. Hiền cao gần một mét tám mươi, vỏn vẹn năm mươi hai ký không hơn không kém. Da xám xịt màu tro, không sắc gì cả, nhăn nheo và cực kì thiếu sức sống, đôi môi chỉ yên lặng, dường như cũng quên mất cách mỉm cười, và cả đôi mắt to tròn đã từng lấp lánh những tháng năm mười bảy, giờ đây vô hồn và thâm sì, thâm đen.

Tập tranh " quá khứ" của Hiền được tô vẽ từ những năm đầu cậu tham gia chiến tranh. Hiền vẽ tất thảy mọi thứ, cậu vẽ để lưu giữ, vẽ để chống lại sự phai mờ khủng khiếp của thời gian. Hiền vẽ rừng núi, vẽ sông suối, vẽ các chiến sĩ, vẽ bom đạn, vẽ bầu trời và vẽ anh Khuê. Trong số đó, những bức vẽ anh Khuê chiếm sỗ lượng dày đặc. Hiền vẽ miết, vẽ anh cười, anh khóc, anh giận, anh ngủ, anh hát,... gì cũng vẽ. Vẽ đến tận bây giờ, Hiền vẽ đi vẽ lại, vẽ rồi lại vẽ tiếp, vẽ chi chít những tờ giấy ố hoen, ngả màu vàng thời gian. Hiền vẽ " quá khứ" nên gọi là tập tranh " quá khứ", tập tranh mãi chưa hoàn thành, từ ngày này qua tháng nọ vẫn chưa hoàn thành. Có lẽ nó sẽ chẳng bao giờ hoàn thành nổi, vì nó được tiếp tục để níu kéo, để mong mỏi nhớ nhung, để hoài niệm và để không quên, cốt là như thế nên tập tranh này chắc sẽ chỉ kết thúc khi Hiền được gặp lại anh Khuê...

Một chiều cuối đông, ngày hoà bình, Hiền trong căn phòng cũ mục nát, tiều tụy như một con chim hải âu nhỏ bé vùng vẫy trong bể dầu nhớt mà chìm vào, mà lịm đi. Cánh cửa gỗ kẽo kẹt mở he hé để ánh sáng vàng vọt chiếu vào kèm theo những cơn gió rét run. Người cựu binh mặc độc một chiếc áo len với quần đùi mỏng, hai môi tái đi vì lạnh, ngồi nép sát vào góc tường, trước bàn cũ. Hiền lại vẽ, vẽ tiếp, vẽ nốt những tờ cuối của tập tranh " quá khứ", vẽ anh Khuê trong tâm trí còn sót lại những gì say mê và nhung nhớ nhất của tuổi trẻ. Chiếc bút chì đã gãy làm đôi, Hiền dùng dao đẽo gọt đầu thành hai chiếc ngắn ngủn, tẩy đen sì chỉ còn một mẩu, có lẽ sắp phải mua cái mới. Bên cạnh Hiền là mẩu bánh mì mềm oặt còn sót lại sau vài bữa, Hiền để ăn sáng nhưng không ăn. Cậu vẽ, vẽ chăm chú và say mê. Chỉ thấy trong mắt cậu loé lên những tia xúc cảm trào dâng, sóng sánh và mặn chát chứ không vô hồn như những phút giây không vẽ. Chỉ có vẽ, rồi nhớ lại, rồi sống lại, rồi mơ hồ yêu thương mới khiến cho sợi xiềng xích ấy nới lỏng cổ tay Hiền chút ít. Hiền sống được đến bây giờ cũng nhờ vẽ.

***

" Hiền ơi, ve này, anh bắt được hẳn hai con nhé, vừa to vừa kêu khoẻ. Cho em một con, giữ cẩn thận đấy! "

" Chúng nó kêu cứ như hát ấy nhỉ, chẳng biết mệt, giá mà mình cũng được như nó, đời mới vui!...haha "

" Em lấy cho anh cây đàn ghi-ta, anh hát thi với tụi nó, niềm vui nhân đôi luôn."

" Cùng mắc võng trên rừng Trường Sơn
Hai đứa ở hai đầu xa thẳm
Đường ra trận mùa này đẹp lắm
Trường Sơn Đông nhớ Trường Sơn Tây
Trường Sơn Tây anh đi
Thương em, thương em bên ấy mưa nhiều con đường mà gánh gạo
Muỗi bay rừng già cho dài mà tay áo
Hết rau rồi em có lấy măng không?

...

Từ nơi em đưa sang bên nơi anh
Những binh đoàn nối nhau ra tiền tuyến
Như tình yêu nối lời vô tận
Là Đông Trường Sơn nối Tây Trường Sơn. "

Cơn mưa rừng bắt đầu đổ rào xuống chiến khu trong một khoảnh khắc. Tiếng mưa dội gột sạch những máu me đầm đìa, chết chóc chỉ vừa mới đây thôi, tiếng mưa lấn át tất cả để âm thanh của nó trong lành rót vào mắt vào tim các chiến sĩ. Trong cơn mưa anh vẫn hát, hát với tất cả những say mê hoà cùng nước mưa và những nốt nhạc trong trẻo. Một hình ảnh đẹp đẽ, một kỉ niệm cuối cùng dành cho Hiền trước khi chiến tranh chính thức cướp đi tình yêu, máu thịt con người cậu. Và chỉ sau đấy không lâu, vài ngày thôi là cậu bơ vơ, là tàn lụi, là cậu dần chết đi. Cơn mưa rừng năm nào thay áo mới cho trời đất, rửa trôi cả nồng nàn tuổi trẻ và mang theo lời hứa xa hoa về cõi vĩnh hằng

" Ngày hoà bình, mình cùng về Hà Nội..."

***

Hiền phải vẽ để mà sống, nhưng sống tạm bợ thôi. Mai này Hiền sẽ sống vui hơn khi không còn vẽ nữa, tập tranh " quá khứ" kết thúc. Còn hôm nay, bây giờ thì vẫn vẽ. Vẽ anh Khuê mười tám đôi mươi đàn ghi-ta, hát bài hai đứa thích nhất, hát dưới mưa, hát thi với những chú ve râm ran trong hộp gỗ nhỏ. Hiền già trước tuổi, bàn tay trái nhăn nheo khẳng khiu gầy guộc như những khúc gỗ mảnh góc cạnh. Bàn tay run run và bong tróc khô cằn hoạ từng nét chì trên nền giấy vàng suộm. Những bức tranh gần đây của cậu đã không còn mượt mà như trước, chúng dần gãy gọn và cứng đơ, trông vô cùng mệt mỏi và thật khó chịu với những đường nét liêu xiêu, lượn sóng không đúng chỗ. Hiền cũng vậy, cũng thất vọng về bàn tay mình, nhưng chẳng còn cách nào khác ngoài chấp nhận.

Ngày hôm nay Hiền đã vẽ rất lâu, vẽ liền từ sáng đến chiều. Âm thanh nô nức xung quanh cũng tan biến một cách kì lạ như thể trên đời nầy chỉ còn mình Hiền vậy. Sống cạnh biết bao con người mà cứ cô đơn thế nào ấy, cảm giác về đêm thậm chí gần gũi và ấm áp hơn rất nhiều. Cậu tự nhủ sẽ vẽ nốt một bức nữa thôi, và ấy sẽ là bức tranh cuối cùng khép lại một thời để nhớ, hoàn thành tập tranh khởi bút từ năm mười tám, giờ đã ba mươi tám. Hiền chấp nhận sự không hoàn hảo của nó khi cậu vẽ anh vui mà như đang buồn, vẽ anh cười mà như đang mếu. Nhưng thôi, sao cũng được!

____

Tối hôm qua, anh đã về thăm cậu lần đầu tiên kể từ ngày hy sinh nơi chiến trường khói lửa. Hai mươi năm dài đằng đẵng, Hiền không khỏi trách anh tại sao lại đến muộn như vậy. Đêm qua lạnh vô cùng, gió rét lùa qua khe cửa sổ vù vù như xay gió, tưởng chừng muốn xé tan người Hiền ra thành ti tỉ mảnh li ti tan biến vào hư không. Phòng cậu thuộc dạng xuống cấp nhất nhì khu chung cư. Tường nứt, bám rêu xanh, riêng cửa sổ có mà như không có, nó đã mục nát lắm rồi, nó chẳng ngăn gió được bao nhiêu. Lòng Hiền cứ nao hết cả lên mỗi khi gió rít ken két như thét gào ngoài kia. Cậu ước có một cái chăn dày và ấm hơn thế này. Hiền muốn khóc nhưng không khóc được, muốn cười lại càng không thể cười nổi. Chính cái cảm giác mắc kẹt ấy mới khiến cho cậu hao mòn tâm can đến sống dở chết dở. Rồi bỗng nhiên, Hiền cảm nhận được có tiếng bước chân, nhẹ nhàng và quen thuộc vô cùng. Hình bóng người cựu binh trông ngóng hai mươi năm đằng đẵng cuối cùng cũng xuất hiện. Anh Khuê, anh đến thăm Hiền. Cậu thấy anh bước vào từ ngoài cửa, trông anh vẫn vậy, trẻ lắm, vẫn thanh niên phơi phới tuổi xuân xông pha đánh giặc. Giây phút ấy Hiền chỉ ước đêm nay mãi mãi ngừng trôi, ngưng đọng lại để niềm vui còn được thắp sáng, để tình yêu lại cháy nồng nàn. Anh đến bên cậu, anh vẫn đôi mươi, cậu lại già đi thấy rõ. Gần rồi mới thấy hình bóng anh mờ đục như sương. Anh ôm Hiền vào lòng, vỗ nhè nhẹ đôi vai run lên vì lạnh cóng. Thế là Hiền bật khóc.

" Anh ơi, sao bây giờ anh mới đến thăm em? Anh biết không, hai mươi năm trời chẳng có một giây phút nào em lại không nhớ về anh. Vậy mà anh cứ mặc kệ em, anh chẳng về. Thằng Khải, anh Bân, anh Thuân cùng tiểu đội mình thi thoảng vẫn đến tâm sự với em đấy anh ạ."

" Anh xin lỗi...Nhưng em cứ mong anh mãi mà làm gì? Anh chết rồi kia mà. Em cứ sống đời em, sống sao cho đúng một đời con người. Kiếp này mình không ở bên nhau được thì kiếp sau có duyên mình gặp lại. Em đừng thế này được không..."

" Không, em không sống nổi, em không sống như người bình thường được nữa rồi anh ạ. Anh có nhớ em không? Hay em về với anh nhé."

" Ngủ đi em, anh ở đây rồi, ngủ đi, đừng bận tâm gì nữa cả! "

" Đừng bỏ em nữa anh nhé, cho em theo với."

" Ngủ đi Hiền, anh không bỏ em đâu. Anh hát cho em nghe nhé."

Bên tai Hiền ong ong, mang máng nghe được giọng hát ngày ấy, vẫn " Trường Sơn Đông, Trường Sơn Tây ". Hiền ôm chặt lấy anh, ôm chặt như thể chỉ cần lơ là chút thôi anh sẽ hoá thành bướm bay đi mất và chẳng bao giờ quay lại nữa. Hiền lịm đi, tiếng hát của anh văng vẳng trong đêm tối hoà cùng tiếng gió gầm gào ngoài cửa sổ dường như là liều thuốc an thần duy nhất bây giờ cứu rỗi được Hiền khỏi nỗi ám ảnh bám dính lấy tâm can.

Và rồi sáng hôm sau, anh tan biến vào hư vô như thể chưa từng ghé lại căn phòng cũ nát của Hiền đêm qua. Không rõ là anh về thật hay do người cựu binh tưởng tượng.

____

Hiền hoàn thành bức tranh cuối cùng của tập " quá khứ", nụ cười lần đầu tiên nở trên môi sau ngần ấy năm say ngủ. Một tập tranh dày cộm được Hiền sắp xếp cẩn thận, buộc lại bằng dây và đặt vào hộp chỉn chu. Hiền cất ngay ngắn chúng vào hộc tủ - tác phẩm cả đời của người hoạ sĩ vô danh. Hiền lục lọi trong tủ, vơ vét nốt những đồng bạc lẻ cuối cùng sót lại, còn đúng sáu mươi lăm nghìn tính cả tờ bị rách. Cậu khoác lên mình chiếc áo khoác mỏng đã sờn chỉ, nhét những tờ giấy bạc là cả gia tài vào túi áo, tay giữ cẩn thận, bước ra khỏi phòng. Bước ra ngoài tận hưởng làn nắng xế chiều ửng hồng một lần cuối cùng, có lẽ đây là lần hiếm hoi Hiền thấy ánh sáng thật đẹp, bầu trời trước hoàng hôn lung linh. Đường sá xô bồ tấp nập những dòng người qua lại, và Hiền đang hoà vào dòng người ấy lặng lẽ những bước chân.

Hiền tới một quán phở cũ, đây là nơi anh và cậu đã từng ghé qua ngày còn trẻ. Ngày ấy nhà đứa nào cũng phải dành dụm, chắt chiu nên chỉ dám gọi hai bát phở không, nhưng mà ngon lắm, ngon nhất trên đời nầy, chẳng có bát phở nào ngon bằng bát phở ấy cả. Hiền gọi một tô phở không, thở dài vì thiếu mất người ngồi ăn cùng. Buổi hoàng hôn hôm ấy, Hiền tận hưởng chút hương vị quê hương cuối cùng hoà cùng những kỉ niệm, tô phở mặn vô cùng.

Hết dư vị nơi đầu lưỡi, Hiền rảo bước đến tiệm hoa, mua chín bông cúc trắng phau, gói thành ba bó thật đẹp, rồi cậu ôm ba bó hoa đến nghĩa trang chung, nghĩa trang liệt sĩ. Hiền đặt một bó cho anh Khuê, một bó cho bác trai, một bó cho mẹ Tuyết. Hiền nán lại rất lâu, đứng trước mộ ai cũng khóc to thành tiếng. Họ đều mất từ lâu rồi, mất do chiến tranh, chẳng còn ai hết, chỉ còn những nấm mồ, những bức ảnh và những kỉ niệm. Thôi thì ôn lại kí ức một chút, để mà còn đọng lại trí nhớ kiếp này, để hằn sâu trong đầu óc không quên, thời gian tàn nhẫn lắm!

Chín giờ ba mươi phút tối, Hiền lững thững rời đi, ra khỏi nghĩa trang nom cậu chẳng khác nào một bóng ma đau khổ không thể siêu thoát. Chín giờ ba mươi phút tối, Hà Nội bổ bóng tối im lìm, chỉ còn mình Hiền lang thang giữa đường phố vắng hoe vắng ngắt. Giữa tăm tối mịt mù, ánh sáng cứu rỗi phát ra từ một tiệm thuốc trong con hẻm nhỏ may mắn vẫn mở cửa. Hiền bước vào ấy, vét túi còn đúng ba mươi lăm nghìn mua một hộp Diazepam. Nâng niu kho báu trong tay, Hiền trở về chung cư, về lại căn phòng cũ rách đã chứng kiến từng ngày khổ đau của Hiền.

Đi qua từng cánh cửa đóng chặt, cậu nghe loáng thoáng những tiếng nói cười ríu rít râm ran, cả trẻ con cả người lớn. Hiền dừng lại trước cánh cửa mục nát, cánh cửa của căn phòng được tách riêng với các phòng còn lại, đẩy cửa bước vào. Cậu hít thở sâu, tự nhủ sau đêm nay tất cả sẽ kết thúc, sau đêm nay là hạnh phúc tràn đầy, sau đêm nay là thiên đàng đón chờ, là được về với anh. Tuyệt vời biết bao nhiêu! Rồi một tập tranh vẽ sẽ mãi bị niêm phong bởi thời gian hay một lần rực sáng trong mắt bao người? Hiền chẳng biết được nữa, gia tài của cậu để lại cho đời, cậu sẽ không mang theo nó, sẽ hy vọng nó được rực cháy theo một cách thật huy hoàng chứ không phải trong ánh lửa thiêu rụi bỏng rát tâm can. Ngày Hà Nội buồn, gió lùa hẻm rét run, chỉ có Hiền là không buồn, không lạnh. Hiền vui sướng và phấn chấn lạ thường. Hiền chào tạm biệt những bóng ma đã bầu bạn với cậu hàng đêm. Hiền nâng niu cây đàn ghi-ta đã cũ trong tay mà đàn say sưa bài hát cậu và anh thích nhất. Cuối cùng, khi tất cả đã hoàn toàn bị màn đêm nuốt chửng, không còn ánh đèn điện cũng không hay tiếng nói cười, Hiền ngắm nhìn khung ảnh lần cuối dưới ánh trăng mờ đục, thả rơi tự do năm 1971 xuống mặt đất xa xăm, vỡ vụn từng mảnh thủy tinh dằm vào trái tim chảy máu nhoe nhoét. Hiền muốn mang theo kỉ niệm ngày đầu tiên lên đường.

Thôi vậy là hết rồi. Hiền lấy từ trong túi áo ra một hộp kho báu được bọc lớp màng trong suốt như sương mờ, bên trong là vô vàn những viên ngọc lấp lánh như pha lê, lung linh và hấp dẫn vô cùng. Những viên ngọc yêu quý Hiền, Hiền cũng yêu chúng, những viên ngọc thôi thúc cậu hãy mau lên đi rồi tôi sẽ cho bạn tới thiên đàng vĩnh cửu. Trong bóng tối, những viên ngọc phát ra ánh sáng thần kì, rải rác trên sàn nhà mê muội và đắm chìm. Hiền thưởng thức chúng liên tục, say mê đến mức chẳng màng đến thứ nước tầm thường ngay bên cạnh, trên chiếc bàn cũ. Vị ngọt ngào quá trớn gay gắt lan tỏa khắp khoang miệng nóng hôi hổi, trôi tuột xuống cổ họng, nhảy nhót trên từng dây thần kinh trong cơ thể cậu. Thoáng chốc ngọc ngà đã trôi đi một nửa, còn một nửa vẫn lung linh xung quanh Hiền, rải rác khắp phòng khiến cho không gian trở nên lạ lẫm mà cũng lãng mạn theo cách riêng biệt. Đúng là ngọc không nuốt lời, ngọc đưa Hiền tới thiên đàng vĩnh cửu thật sự. Hiền nằm trên chiếc giường cũ, không cần chăn đắp làm chi, để tận hưởng cái giá buốt lần cuối trước khi nó không còn cơ hội hành hạ người cựu binh thêm bất kì một lần nào nữa. Và Hiền cười tươi, nụ cười như đoá hoa rực rỡ vươn lên giữa trời đông giá buốt. Người hoạ sĩ ấy đã lên đường đi tìm thân yêu, chẳng còn ở đây nữa. Người hoạ sĩ khỏi bệnh rồi, chẳng còn là " ông điên" trong mắt lũ trẻ con nữa. Hạnh phúc rồi, chẳng còn khổ đau gì nữa cả. Hiền thoát khỏi gọng kìm chiến tranh... Chưa bao giờ niềm vui lại trào dâng mãnh liệt đến thế.

" Ngày hoà bình lặp lại, mình cùng về Hà Nội nhé..."

" Anh xin lỗi,... Ngủ đi em, anh không bỏ em đâu."

" Em ngủ đây, ngủ một giấc thôi là được gặp lại anh rồi..."

Sáng hôm sau người ta phát hiện một hoạ sĩ đã từ biệt lên đường. Đêm hôm sau người ta thấy trên trời biến mất một vì sao.

END.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Com