CHAPTER 1. GIẾNG NƯỚC BÊN NHÀ
Trong đêm sương lạnh giá, bóng dáng một người phụ nữ trung niên vội vội vàng vàng băng qua cánh rừng u tối. Tay phải bà cầm đuốc, tay trái ôm một cái địu dày trước ngực. Một mình vượt rừng, bà không những không sợ hãi mà còn cố gắng đi nhanh hơn, vừa đi miệng vừa lẩm bẩm không thôi.
"Sắp rồi, sắp rồi.... Sẽ kịp thôi! Nhất định sẽ kịp!!"
Qua một lúc, người phụ nữ cuối cùng cũng ra khỏi được cánh rừng, đi đến bên cạnh đường lộ vắng vẻ. Ở đấy đã có người và xe đợi sẵn, người trong xe vừa bước xuống là một cặp vợ chồng trẻ. Lớp vải ở chiếc địu nhẹ nhàng buông xuống, để lộ bên trong là một đứa bé sơ sinh còn đỏ hỏn. Ánh mắt bà có chút luyến tiếc, sau cùng vẫn dứt khoát trao đứa nhỏ lại cho đôi vợ chồng kia. Từ đầu đến cuối bà không hé răng nửa lời, cứ thế mà cam tâm nhìn chiếc xe mang đứa bé đi xa dần và rồi biến mất khỏi tầm mắt.
Không ai có thể hiểu hết ý nghĩa của việc làm tưởng chừng vô tâm của người phụ nữ ấy. Tuy nhiên tất cả sẽ được làm sáng tỏ vào một ngày mùa hè của 28 năm sau...
HỒI 1. ÁC MỘNG HÓA SỰ THẬT
"Hiện tại còn mười lăm phút nữa là tàu cập ga số bảy, quý hành khách nào đến ga này vui lòng chuẩn bị lại sẵn tư trang, hành lý vì tàu sắp sửa tới ga...", giọng nói dõng dạc của nhân viên tàu lửa vang lên, đưa tôi thoát khỏi cơn ác mộng quen thuộc.
Suốt một tháng nay, mỗi khi chợp mắt, tôi đều mơ thấy một ngôi nhà cổ phủ đầy rêu xanh, mái ngói sậm màu ẩm thấp, bên hông nhà là một cái giếng cũ. Lần nào cũng vậy, tôi không thể tự chủ mà tiến đến gần giếng, cúi đầu nhìn xuống. Cái giếng sâu hun hút, đen đặc như không có đáy. Từ bên dưới vọng lên thứ âm thanh chói tai như tiếng trẻ con òa khóc, hòa cùng tiếng than thở đầy rợn người của ai đó. Nghe thấy chúng hai tai tôi có cảm giác bị chọt thủng, lồng ngực đau thắt, khó thở và quằn quại. Và rồi từ bên dưới một bàn tay đẫm máu, tanh ngòm vươn lên, bất chợt siết lấy tay tôi mà kéo xuống...
Tôi choàng tỉnh, lặng lẽ lau đi mấy giọt mồ hôi đọng trên trán rồi sắp xếp đồ đạc chuẩn bị xuống tàu.
Kít- tàu dừng hẳn, tôi mang theo một chút mệt mỏi bước ra khỏi sân ga. Một nỗi bất an chợt dấy lên trong lòng, dường như trên chuyến tàu vừa rồi chỉ có mình tôi là xuống ở ga số 7.
Lý do khiến tôi phải lặn lội từ thành phố về nơi heo hút chính là vì sự mất tích đường đột của vị hôn phu. Mã Gia Kỳ và tôi là thanh mai trúc mã, từ bé đã sống cạnh nhà nhau. Tính cách tôi hoạt bát, thích chạy nhảy. Anh thì ngược lại có phần trầm tĩnh hơn. Cứ ngỡ gắn bó lâu như vậy tôi đã hiểu và thuộc nằm lòng mọi điều về anh. Nhưng không, vào cận kề lễ đính hôn của cả hai, Mã Gia Kỳ bất ngờ kể cho tôi nghe một bí mật động trời. Chính là gia đình hiện tại không phải là cha mẹ ruột của anh.
Điều này theo lời anh kể thì cũng chỉ mới được cha mẹ nuôi thừa nhận trong thời gian gần đây. Tôi không rõ anh đã trải qua cú sốc ấy như thế nào, cơ mà nghĩ đi nghĩ lại thì chuyện này cũng không đến mức quá nghiêm trọng.
Nghe nói gia đình thật của Mã Gia Kỳ hiện đang sống ở một vùng nông thôn hẻo lánh. Năm đó vì gia đình gặp phải khó khăn, không thể nuôi dạy một đứa trẻ chu toàn. Bởi vậy họ mới buộc lòng mang con cháu nhà mình trao cho một gia đình khá giả khác nuôi dưỡng. Và quả thực cha mẹ nuôi đã chăm sóc Mã Gia Kỳ rất tốt.
Sau khi biết chuyện, Mã Gia Kỳ chưa từng oán hận cha mẹ ruột một lần nào. Anh chỉ có một mong muốn nho nhỏ. Rằng một ngày nào đấy có thể trở về quê hương, trực tiếp cảm nhận tình thân từ những người có cùng huyết thống.
Và rồi mong ước ấy đã thành hiện thực. Trong một bữa ăn tối cách đây bảy ngày, Mã Gia Kỳ bất ngờ bảo với tôi rằng anh cần trở về quê giải quyết vài việc.
Nơi Mã Gia Kỳ sinh ra là một thị trấn nhỏ thuộc một vùng núi xa xôi, quanh năm bị sương mù bao phủ, không có tín hiệu điện thoại, không mạng xã hội và cũng chẳng có bản đồ định vị. Tôi có ngỏ ý muốn đi cùng, tuy nhiên vì lịch trình cá nhân đúng lúc ấy quá dày đặc nên không thể sắp xếp. Dù vậy, để tôi khỏi lo lắng, anh có hứa lúc xuống ga tàu sẽ gọi báo cho tôi một tiếng. Nghe thế tôi cũng không nghĩ ngợi gì nhiều, nhưng nào có ngờ lần tiễn anh đi hôm ấy lại là lần cuối cùng chúng tôi gặp nhau... Bảy ngày trôi qua, Mã Gia Kỳ bặt vô âm tín. Tôi cảm thấy việc chờ đợi này không mang lại kết quả cho nên quyết định đánh liều, đi đến tận nơi để tìm anh.
Bây giờ đã hơn năm giờ chiều, trời bắt đầu chập tối. Tôi men theo đường lộ lớn, tùy tiện ghé vào một quán ăn đông khách, gọi bừa một món ăn giá bình dân. Đợi chủ quán bưng đồ ăn ra, tôi mới khẽ ngẩng đầu, bẽn lẽn hỏi thăm.
- Chị ơi, cho em hỏi. Mình muốn đi từ đây tới thị trấn Tích Ẩn thì bắt xe ở đâu chị nhỉ?
Chị chủ quán vừa hạ bát mì xuống bàn, nghe tôi hỏi thì liền khựng lại. Giọng chị dò xét.
- Em đi du lịch à?
- Dạ- không! Em... Em tới thăm người thân đang sống ở đấy...
Chủ quán "ồ" một tiếng, định quay người đi thì chợt nhớ ra câu hỏi trước đó của tôi. Chị đáp.
- Không có chuyến xe nào đâu em. Tại cũng chẳng có mấy ai muốn đi tới đấy...
Tôi ngạc nhiên, hỏi.
- S- Sao vậy ạ?
- Nghe giọng điệu này là biết cô em lần đầu đến đây rồi phải không? Bởi vậy mới không biết mấy vụ mất tích bí ẩn liên quan đến thị trấn đó.
Tôi tò mò hỏi thêm thì được chị chủ kể rằng, cách đây vài năm, từng có một đoàn người tham quan mất tích sau chuyến đi tự túc đến thị trấn Tích Ẩn. Không rõ là họ lạc đường hay gặp nạn như thế nào, chỉ biết cả đoàn hơn chục mạng người như bốc hơi giữa con đèo ngập đầy sương. Đội tìm kiếm và cứu hộ đã hoạt động hết công suất suốt mấy mươi ngày, tuy nhiên vẫn không tìm thấy người sống hay thi thể nào cả. Thậm chí đến chiếc xe mà đoàn người dùng để di chuyển cũng không để lại bất cứ dấu vết gì.
Song, sự việc trên còn chưa kịp lắng xuống thì ba tháng sau lại có một vụ tương tự. Nạn nhân lần này là một nhóm thanh niên trẻ tuổi gồm bảy người, bốn nam ba nữ, tìm tới địa điểm tai tiếng ấy với mục đích thám hiểm và ghi hình đăng lên mạng xã hội. Bất chấp mọi lời cảnh báo, họ vẫn cố thuê một chiếc xe ô tô cũ rồi cùng nhau tiến vào con đường đèo hẻo lánh. Ít ngày sau, chủ thuê không thấy nhóm bạn quay về trả xe thì vội vã báo với cơ quan chức năng. Chính quyền địa phương một lần nữa lâm vào cuộc tìm kiếm tung tích của bảy người trẻ nọ.
Qua nỗ lực không ngừng nghỉ trong nhiều ngày, cuối cùng họ tìm thấy được một trong số bảy người mất tích. Đó là một cô gái tuổi đôi mươi, đội tìm kiếm bắt gặp khi cô đang một mình lang thang trên đoạn đường vắng vẻ với trang phục dính đầy bùn đất. Không ai biết được cô gái đã trải qua những gì, chỉ biết lúc đưa về tinh thần cô vô cùng bất ổn. Mỗi khi có người muốn hỏi hay nhắc về những người bạn của cô, cô sẽ trở nên hoảng loạn, lúc thì bật khóc nức nở, lúc lại cười như kẻ mất trí.
Có người nói rằng, đó có lẽ là cú sốc lớn nhất đời của cô gái trẻ. Nhưng cũng có một số khác cho rằng cô đã may mắn thoát khỏi sự "truy sát" của sương mù. Chính vì lẽ ấy mà cô phải trả giá bằng việc bị nó "ăn" mất nửa linh hồn, biến thành một kẻ loạn thần loạn trí.
Nghe xong câu chuyện từ chị chủ quán, tôi rùng mình một cái. Hóa ra linh tính trong tôi đã sớm mách về tính mạo hiểm của chuyến đi lần này. Dẫu vậy, tôi không có ý định bỏ cuộc. Mã Gia Kỳ vốn là người kỹ tính, anh chắc chắn sẽ không quên gọi về điện báo bình an, trừ khi anh gặp phải sự cố bất ngờ nào đó...
Thoát khỏi dòng suy nghĩ mông lung, tôi trở lại thực tại và cố gắng hỏi thêm về cách thức để đến được Tích Ẩn. Thấy tôi kiên trì như thế, chị chủ quán đành mở lời.
- Một lát nữa chồng chị có việc chở hàng sang vùng lân cận, nếu em không ngại có thể quá giang một đoạn.
Tôi cảm ơn đôi vợ chồng tốt bụng rối rít.
Chẳng mấy chốc, tôi đã ngồi trên xe của ông chủ quán ăn. Chiếc xe tải nhỏ chở theo một ít hàng hóa băng qua từng lớp sương mù, chầm chậm đi trên tuyến đường heo hút. Không tới thì thôi, tới rồi mới thấy sương ở vùng này nhìn dày đến mức ngột cả thở. Một bên là vách núi hiểm trở, bên còn lại là lưng núi đầy góc khuất nguy hiểm, tài xế dù chắc tay thế nào cũng không dám chủ quan ở đoạn đường này.
Trên đường đi, tôi với anh chủ quán có một cuộc trò chuyện ngắn. Tuy đồng ý cho tôi đi nhờ nhưng suốt quãng đường anh ta vẫn không ngừng khuyên tôi suy nghĩ lại. Sở dĩ như vậy là vì trước đây, anh ta cũng từng cho mấy người có hoàn cảnh giống tôi đi nhờ xe. Kết quả lúc đi thì trót lọt, lúc quay về thì chẳng có ai.
Tôi nghe mà chỉ biết cười buồn. Một phần có lẽ vì trong thâm tâm mình, tôi không muốn chấp nhận điều mà mọi người đang cố ám chỉ, "Mã Gia Kỳ rất có thể đã trở thành một trong số những người xấu số kia". Dẫu thế, tôi vẫn luôn giữ nguyên một niềm hy vọng vào anh. Đây là quê nhà của anh, nơi thân thuộc như máu thịt. Chuyện kinh khủng gì có thể xảy ra được cơ chứ? Có khi anh chỉ vô tình quên gọi điện hoặc vì một lý do khách quan nào đấy thôi... như điện thoại hết pin, hay đường truyền sóng yếu chẳng hạn?
Chiếc xe lăn bánh thêm chừng nửa giờ thì dừng lại ở bìa rừng. Tôi nhìn về hướng đấy, nơi chỉ có một lối mòn nhỏ dẫn vào rừng sâu, sương mù phủ một lớp trắng xóa khiến lối đi càng thêm phần mờ ảo, kỳ quái hơn. Trước lúc đi, tôi được anh chủ tặng lại cho một cái đèn pin và bật lửa, anh nói.
- Cầm lấy đi. Tôi không thể chạy xe vào đến tận nơi nên đây là những gì tôi có thể giúp cô. Đừng khách khí, giữ lấy, có lúc lại cần dùng...
Sau khi tôi rời khỏi xe, anh ta cố ý dừng lại một chút, chờ đợi xem tôi có hồi tâm chuyển ý hay không. Nhưng tôi cảm ơn xong thì dứt khoát quay người đi vào rừng, không ngoảnh lại. Bóng dáng tôi khuất dần sau sương mờ, chiếc xe tải nhỏ của anh chủ tốt bụng cũng đã rời đi. Giờ đây tôi mới thực sự không còn đường để quay đầu.
Trời đã tối hẳn, cộng thêm sự u ám vốn có của khu rừng già quanh năm không có ai qua lại, bầu không khí có phần khá lạc lõng. Lối vào thị trấn là con đường đất đỏ lổn nhổn đá vụn. Không có bảng chỉ đường, hai bên chỉ có hàng cây lạ, thân cong quèo, đậu trên cành là vài ba con chim lợn cất tiếng kêu rợn người. Thi thoảng gió rít lên, cuốn theo từng đợt sương lạnh tạt vào mặt tôi. Trong vài khoảnh khắc, tôi nghĩ bản thân đã lạc tới một thế giới quỷ ma nào đấy.
Tôi đi thêm mười phút, loáng thoáng phía sau có tiếng người gọi với nhưng tôi không dám để tâm, kiên định đi thẳng. Tiếng bước chân ở sau càng lúc càng gần, cho tới khi đi đến một ngã ba, trong lúc tôi đang phân vân không biết đi hướng nào thì bỗng có một bàn tay vỗ vai. Tôi giật bắn mình và hét lên một tiếng.
Quay đầu nhìn thì thấy đó là một nam thanh niên dáng vóc cao ráo, tay cầm đèn pin, đi cạnh còn có một chú chó cảnh vệ to lớn. Nam thanh niên bắt gặp tôi ở đây thì thoáng ngạc nhiên, cất giọng hỏi.
- Cô là ai? Sao lại đi vào chỗ rừng sâu này?!
Giọng tôi rụt rè đáp.
- Tôi đang tìm hướng đi tới thị trấn Tích Ẩn...
Thanh niên nhìn tôi bằng ánh mắt dò xét, hỏi tiếp.
- Cô đến đó làm gì?
- T- Tôi đến tìm người thân.
- Tìm người thân sao?
Nam thanh niên tỏ ra nghi hoặc, hỏi lại. Tôi gật đầu xác nhận.
Nói thêm vài câu thì mới biết cậu ta là cảnh sát địa phương tên Lưu Văn, đang trở về trấn sau chuyến công tác bên ngoài. Trên đường đi về, thấy tôi lóng ngóng một mình dò đường trong đêm thì liền tới hỏi chuyện.
- Đường cô vừa định rẽ là đường vào rừng đấy.
Tôi kinh ngạc, ngơ ngác hỏi lại.
- Chẳng phải có lối mòn sao?
– Đấy là lối do những người đi lạc trước đây giẫm lên tạo thành. Cô mà đi vào đó thì chắc chắn sẽ lạc theo họ.
Lưng sóng tôi bỗng lạnh toát. Lưu Văn nói tiếp:
– Cũng may là giờ này cô gặp được tôi, không thì...
Lưu Văn thở ra một hơi dài đầy bất lực.
Bầu không khí lại chìm vào im lặng. Tôi chủ động mở lời nhờ đối phương chỉ đường đi vào thị trấn. Lưu Văn dù có vẻ không mấy tình nguyện nhưng giờ đã sắp tối muộn, cậu ta không còn cách nào khác nên đành đồng ý.
- Phải rồi, cô nói tới đây để tìm người thân. Ý là... người đó đang sống ở đây sao?
- À ừm... Cũng không hẳn, anh ấy sinh ra ở đây nhưng lớn lên ở thành phố với tôi. Mấy ngày trước nói là gia đình có việc nên về quê giải quyết, cơ mà ngay sau đó thì đột nhiên biến mất. Gọi điện hay nhắn tin đều không liên lạc được...
- Cô không biết vùng này sóng điện thoại kéo không tới à?
- Thì... có biết, anh ấy có nói trước với tôi rồi. Nhưng anh ấy nói đi chỉ vài ngày mà đã một tuần trôi qua không có tin tức gì cả. Tôi lo quá nên mới tìm mò đến tận đây...
Nói một hồi, Lưu Văn hỏi tên người tôi đang tìm kiếm, khoảnh khắc cái tên được thốt ra khiến cậu ra sững người.
- Mã Gia Kỳ, tên anh ấy là Mã Gia Kỳ.
- ...
Cả hai một lần nữa rơi vào trầm lặng. Lưu Văn nhìn tôi, biểu cảm thoáng có chút khó coi.
- Người cô nói... tên Mã Gia Kỳ thật sao?
Tôi không hiểu vì sao cậu ta lại phản ứng mạnh với cái tên này như thế, song vẫn không quên gật đầu xác nhận. Từ gương mặt điển trai của Lưu Văn, đôi mắt ấy lóe lên một tia khó đoán. Sau đấy là loạt câu hỏi như điều tra mối quan hệ của chúng tôi. Tôi tuy bị người khác hỏi về đời tư cảm thấy có phần không thoải mái nhưng tôi hiểu rằng là cách duy nhất để kiếm thêm manh mối về người bạn trai đang mất tích của tôi.
Chúng tôi vừa đi vừa trò chuyện. Từ đây mới biết lý do vì sao Lưu Văn lại tỏ ra ngạc nhiên với câu chuyện của tôi đến thế. Thì ra Tích Ẩn vốn là một thị trấn tách biệt với thế giới bên ngoài, người trong trấn gần như không ra khỏi phạm vi của thôn làng trong suốt cả cuộc đời họ.
Lưu Văn kể.
- Từ nhỏ, đám trẻ con được dạy rằng, rời bỏ quê hương chính là đại nghịch bất đạo! Không chỉ là bất hiếu với gia tiên mà còn bị xem là bất kính với vị thần đã bảo vệ mảnh đất này hàng trăm năm qua... Cho nên khi cô kể rằng bạn trai cô sinh ra ở đây, rồi được đưa đến thành phố để lớn lên, tôi mới cảm thấy là lạ...
Tôi gật gù như đã được thông suốt.
- Tôi không nghĩ ở đây lại có nhiều luật lệ như vậy...
- Thật ra thì bây giờ mọi thứ đã thoáng hơn trước kia nhiều rồi, ngày xưa còn có luật cấm người ngoại xứ đặt chân vào trấn cơ đấy. Nhưng cái gì rồi cũng phải thay đổi, lớp trẻ sau này như chúng tôi thì chẳng còn mấy ai giữ cái lối suy nghĩ cổ hủ ấy nữa.
Nghe cậu ta nói vậy, lòng tôi vơi đi vài phần lo lắng.
- À mà phải rồi, có điều này tôi vẫn phải nhắc nhở cô.
- Là chuyện gì?
- Người ngoại trấn không được phép lưu trú trong thị trấn quá bảy ngày.
Tôi thắc mắc.
- VÌ sao chứ?
Lưu Văn nhún vai, thừa nhận ngay cả bản thân cậu cũng không hiểu lý do tại sao điều luật đó lại tồn tại. Nhưng luật vẫn là luật. Nếu tôi không muốn rước phiền toái vào mình thì cứ an phận tuân theo là được.
Ra khỏi con đường mòn chật hẹp, chào đón chúng tôi là một tảng đá lớn, trên mặt đá khắc chìm hai chữ "Tích Ẩn". Đó cũng chính là cột mốc cho thấy tôi đã thực sự tiến vào địa bàn của thị trấn.
Chẳng có gì bất ngờ khi Tích Ẩn trông không khác mấy so với các thị trấn nông thôn thông thường. Những ngôi nhà mái ngói cũ và bức tường vàng úa theo thời gian, hàng rào đá xen kẽ cùng mấy nhánh cây gai mọc dại. Trên đường phố càng không có đèn điện, cứ cách hơn trăm mét lại có một cái đèn lồng giấy được treo lên làm nguồn sáng.
Phố xá giờ này cũng trở nên vắng vẻ. Nếu có người đi ngang, y như rằng tôi sẽ bắt gặp ánh nhìn dè chừng, không mấy thiện cảm của họ dành cho mình. Dù đã chuẩn bị tinh thần từ trước, song lúc trực tiếp đối diện tôi vẫn không thoát khỏi cảm giác bối rối. Nhất là khi đi lướt ngang một sạp hàng đã đóng cửa, tôi nhìn thấy một đứa bé chừng năm, sáu tuổi. Trong tay nó cầm một thứ gì đó giống hình nhân làm bằng gỗ nhưng không có đầu. Từ đầu đến cuối nó không mở miệng nói lời nào, chỉ lặng lẽ quan sát tôi bằng đôi mắt vô hồn, sâu hoắm như hố không đáy.
Giọng nói của Lưu Văn bất ngờ cất lên kéo tôi về thực tại.
- Tối thế này rồi, cô đi một mình trên phố không an toàn đâu. Nhà bạn trai cô ở đâu? Tôi sẽ đưa cô về đấy.
Tôi lập tức lúng túng. Thú thực, tôi cũng không biết chính xác nhà của cha mẹ ruột anh ở đâu. Nhớ lại mấy ngày trước, tôi có nghe Mã Gia Kỳ trò chuyện với cha mẹ nuôi về gia đình ruột của anh. Nghe đâu nhà họ cũng thuộc gia đình có tiền có quyền ở địa phương.
Nói đến đây, dường như cậu ta đã đoán ra gia đình mà tôi đang nói đến. Đó là Mã Gia- hậu duệ của vị trưởng làng đầu tiên.
Tiền thân của Tích Ẩn là một ngôi làng nhỏ mang tên Tích Sương. Thuở mới lập làng, tổ tiên nhà họ Mã chọn nghề trồng lúa, giã gạo làm kế sinh nhai. Nhờ vào sự cần cù và khéo léo trong công việc, gia đình họ sớm mở được một xưởng gạo nhỏ, cũng là xưởng gạo đầu tiên trong làng. Gạo nhà họ nấu thành cơm có mùi thơm nhẹ, vị ngọt dịu và giá cả lại phải chăng. Vậy nên không có gì lạ khi sự nghiệp buôn bán của nhà họ Mã nhanh chóng phất lên từ đó.
Mà sự nghiệp thành công chỉ là một phần. Gia thế mới là thứ khiến người mang họ Mã tự hào nhất. Gia chủ đời đầu chính là Mã Duy Tàng – người lãnh đạo đầu tiên và cũng là người có công lập làng dựng xã. Nhờ những đóng góp to lớn ấy mà con cháu đời sau của ông cũng được "thơm lây". Các thế hệ gia chủ tiếp theo của nhà họ Mã, ít nhiều đều giữ những chức vụ quan trọng trong bộ máy làng xã. Nhờ vậy, địa vị của dòng họ Mã vốn đã tốt nay càng vững chắc hơn.
Thế nhưng, danh tiếng tốt đến mấy cũng không thoát khỏi cái nhìn soi mói và những lời đồn đại của thiên hạ. Không biết từ khi nào, trong thị trấn bắt đầu lan truyền vô số lời đồn về Mã thị. Phổ biến nhất là hai câu chuyện "lời khóa dạ" và cái giếng cổ trong sân sau nhà họ.
"Lời khóa dạ" như một lời nguyền ám lên tất cả nữ nhân của nhà họ Mã, ý nói phụ nữ chỉ có thể sinh nở duy nhất một lần trong đời. Kỳ thực, từ xưa đến nay chưa từng thấy ai trong nhà họ Mã có anh chị em ruột, hoặc nếu có thì cũng không sống thọ. Những người phụ nữ gả vào Mã gia sau khi sinh con đầu lòng xong, dù đang khỏe mạnh, đều bất ngờ gặp vấn đề về sức khỏe. Dẫn đến cơ thể yếu dần và không thể mang thai được nữa. Tệ hơn là có người mang thai lần hai nhưng thai nhi lại bị dị tật, sinh ra với hình dạng và thể trạng không giống người bình thường. Vì lẽ đó mà qua mấy đời, các thế hệ của Mã gia gần như chỉ sinh được một đứa con, muốn có thêm cũng không thể.
Còn cái giếng cổ ở sân sau nhà họ Mã thì lại mang một câu chuyện khác. Nghe nói giếng này được đào từ thời khai sơ của thị trấn nhưng không dùng để chứa nước. Nhiều năm về trước có một người đàn ông họ Phùng được cho là đã phát hiện ra bí mật của gia đình họ Mã. Vì thế mà ông ta đã...
Đúng lúc ấy, một cơn gió mạnh thổi vù qua, cuốn bụi cát bay tứ phía, cắt ngang lời kể của Lưu Văn. Cậu ta có vẻ cũng không còn hứng thú nói tiếp, chỉ bảo nếu tôi thực sự muốn tìm hiểu, chi bằng cứ đến tận nơi mà xem thì hơn. Nói rồi, chúng tôi cuốc bộ thêm chục bước đến đồn cảnh sát địa phương. Và từ đó Lưu Văn lấy xe đưa tôi đến Mã Gia.
Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Com