Truyen2U.Net quay lại rồi đây! Các bạn truy cập Truyen2U.Com. Mong các bạn tiếp tục ủng hộ truy cập tên miền mới này nhé! Mãi yêu... ♥

Hai phong thư.

Năm 1976, khi Việt Nam đã thống nhất được một năm, tôi quay về chốn xưa cũ, đôi chân khập khiễng bước từng bước trên con đường quen thuộc. Gió thổi lá cây xào xạc, bầu trời quang đãng, tiếng ve ngày hè như có như không văng vẳng dọc theo đoạn đường tôi đi, khiến lòng tôi trào dâng nỗi nhớ quê nhà tha thiết tột cùng. Giữa cái bồi hồi xao xuyến khi được nếm trải quả ngọt của độc lập - tự do, nỗi nhớ nhung da diết về những người đã khuất để gầy dựng lên Tổ quốc khiến tim tôi như hẫng đi một nhịp.

Đặc biệt là về cái chết của một người.

Dựa theo trí nhớ, tôi dừng chân trước một bãi đất, bên trong là ngôi nhà cũ kĩ hoang tàn, mang cái nét u ám ảm đạm trông đến là sợ. Nhưng lạ thay, lá cờ đỏ sao vàng được cắm trong ống đựng trước cửa đang tung bay trong gió lại rực rỡ và sáng chói đến mờ hai mắt, xoá nhoà đi mất cái cũ nát của căn nhà. Gọi một tiếng để xem có ai ở nhà không, chờ tầm đôi ba phút, tôi thấy cánh cửa dần mở toang ra, từ trong bước ra là một người đàn ông hơn tôi khoảng một cái đầu đang mò mẫm xung quanh tay nắm cửa. Chạy vội tới đỡ lấy người ấy, khi đã ổn thỏa, tôi gửi lời chào đầu tiên sau tám năm xa cách vì chiến tranh loạn lạc.

- Anh Chiến, là em, Lương Hoàng Phúc.

Tôi nhìn chằm chằm vào Chiến, tám năm không gặp mà anh lại chẳng thay đổi gì nhiều. Vẫn dáng đứng liêu xiêu, vẫn cái vẻ điềm đạm dịu dàng - thứ đã khiến ông anh tôi si mê đến dại khờ. Chợt, tôi thấy hai vai anh buông thõng xuống, nét mặt chuyển từ ngỡ ngàng đến thất vọng, anh chầm chậm đáp lại, cái buồn man mác len lỏi trong từng câu từng chữ khiến tôi chỉ muốn quên đi mất lý do tại sao tôi lại tìm đến đây, một lần nữa.

- Phúc đấy à, vào nhà đi em.

- Vâng ạ.

Tôi đáp lại, theo chân anh đi vào bên trong. Lạ thay, khác với cái xập xệ mà tôi thấy bên ngoài, trong này ấm cúng đến lạ, dù cho chỉ có lác đác một bộ bàn ghế, một căn bếp nhỏ và một cái giường. Tôi biết lý do vì sao nó lại ấm áp đến nhường này, bởi không chỉ có mình anh sống trong này, mà qua từng ngóc ngách của khe tường, nơi mặt trời chẳng thể chiếu rọi đến, tôi lờ mờ thấy được sự sống của một người khác, và người đó rất yêu Trần Đức Chiến, rất yêu mái ấm này. Mắt tôi bỗng cay xè, lòng bàn tay bấu chặt vào nhau để ngăn tiếng nấc nghẹn chui tọt ra bên ngoài, lòng ngổn ngang những phiền muộn. Hít một hơi thật sâu, tôi thấy anh bày ra bộ ấm chén rồi rót trà vào trong, sau đấy cẩn thẩn ngồi xuống, vẻ mặt như đang đợi chờ tôi nói trước. Chẳng để anh đợi lâu, tôi gục mặt xuống, giọng lí nhí chỉ vừa đủ cho người ngồi đối diện nghe.

- Em có hai thứ muốn đưa anh.

- Đều là về Bâng hết đúng không em?

Bất thình lình nhận được câu hỏi, tôi giật nảy mình, thoáng chốc thấy bối rối, cổ họng ứ nghẹn như thể mắc xương cá, không biết nên tiếp tục mở lời như nào. Ngập ngừng một hồi, tôi vâng một tiếng, chợt thấy lòng nhói đau, liếc mắt nhìn xuống, tôi đã thấy hai tay mình vô thức lấy ra hai phong thư.

Một là bức thư được gửi từ nơi chiến trường khắc nghiệt, một là giấy báo tử của Thóng Lai Bâng, của người lính quả cảm, của người anh tựa như máu mủ thịt thà đã bên Hoàng Phúc hàng chục năm trời.

Giấy báo tử được gửi về có nghĩa là người lính ấy đã hy sinh anh dũng nơi bom rơi đạn lạc, đổi xác thịt, mồ hôi và nước mắt để giành lấy tự do. Họ nguyện một lòng dâng hiến bản thân cho Tổ quốc, cho đồng bào vì mong chờ được thấy tương lai mà không ai phải đổ máu, được thấy lá cờ đỏ sao vàng tung bay trong gió, được thấy hạnh phúc lần nữa hiện hữu trên khóe môi.

Họ hy sinh để được thấy Việt Nam hòa bình.

Giở mảnh giấy ra, tôi ráng đọc tròn vành rõ chữ, thông báo cái chết của Bâng cho anh, rồi tôi chìa giấy ra phía trước, bảo với anh rằng hãy giữ lấy. Trong cái xót xa nghẹn ngào, tôi động viên anh đủ điều, khuyên anh đừng vì quá đau buồn mà nghĩ quẩn, vậy thì Bâng ở trên cao sẽ không yên lòng. Tôi lại nhìn anh, vẫn cái nét điềm đạm chín chắn ấy, nhưng giờ đây cái mất mát như đang bao trùm lấy cả cơ thể anh, nỗi đau khôn xiết không tài nào đong đếm được.

Tôi biết Chiến thương Bâng vô vàn, bạt ngàn núi non cũng chẳng thể đem ra so sánh được với từ thương của Chiến. Thương em hai mắt to tròn lúng liếng, thương em đôi môi chúm chím nhỏ xinh, thương em bầu má phúng phính hây hây hồng. Thương dẫu có mấy bận ngược xuôi, thương lấy người lính quả cảm luôn hết lòng vì đã trót yêu lấy mảnh đất hình chữ S này.

Chỉ là tôi không ngờ phản ứng của anh ấy đối với chuyện của Bâng lại khác xa so với những gì tôi đã mường tượng trong đầu.

Nhìn anh như vậy, tôi đã chợt nghĩ liệu ba năm bên nhau của hai người chỉ là một giấc mộng mị hay không, khi Chiến chỉ ngồi đó gật gù, ậm ừ nói rằng vậy à. Những tưởng anh cũng như bao người khác, sẽ khóc lóc thảm thương, gào thét bởi cơn đau như xé ruột xé gan khi hay tin người thân thích một đi không trở lại; có người thậm chí còn chẳng nhận được xác, chẳng hay biết người thân mình đang thất lạc cõi nào để tìm lại, để xây cho họ nấm mồ mà yên nghỉ sau những năm tháng dài đằng đẵng oằn mình trong khói đạn, trong cơn oán giận với những kẻ đã cướp đi nước nhà.

Cũng như tôi ròng rã suốt mấy tháng trời chỉ để tìm lại hài cốt nơi anh tử trận, nhưng những gì tôi nhận được chỉ là mười đầu ngón tay tróc da chảy máu giữa cái nắng gay gắt của Sài Gòn.

Bâng đã hứa với tôi rằng sẽ sống sót, nhưng đến cuối cùng, cũng chỉ có mình tôi trở về, một mình tôi gắng gượng gồng mình với cơn đau âm ỉ suốt sáu năm trời.

Mải mê hồi tưởng lại quá khứ, đến khi nghe thấy tiếng thở dài nẫu ruột gan, tôi choàng tỉnh, hai mắt dán chặt vào người Chiến. Cảm thấy khóe mi dính nước, tôi lấy tay lau vội đi, chỉ là càng lau, nước mắt lại chảy nhiều hơn, để rồi vào cái khắc nhớ lại cảnh Bâng hấp hối, tôi gục mặt xuống bàn, khóc tức tưởi.

Chưa một giây nào tôi ngừng nhớ về nụ cười Bâng, về báu vật rạng rỡ và chói lọi hệt như mặt trời mà tôi chỉ muốn bảo vệ và nâng niu trong vòng tay. Bâng cười nhiều lắm, dẫu cho thân dưới đã nát bấy, hơi thở ngắt quãng từng nhịp, anh vẫn ráng giương cao khóe môi, chẳng khóc lấy một lần, trong khi tôi thì nức nở, gào thét tên Bâng đến lạc cả giọng.

Bâng rời đi vào cái độ tuổi rực rỡ nhất, để tôi ở lại với trái tim nát bấy, nhầy nhụa.

Dù đã dặn lòng mình phải mạnh mẽ lên để anh còn yên nghỉ nơi suối vàng, nhưng khổ nỗi, việc cỏn con ấy lại là điều duy nhất tôi làm không được.

Biết làm sao bây giờ, tôi nhớ anh quá.

Bâng ơi.

...

- Chiến, lại đây để em hôn anh lần cuối.

Bâng lên tiếng, nhưng em chẳng thấy người đàn ông của em nhúc nhích tí gì cả. Hết cách, em chỉ đành chạy ù về phía người đang đứng ngay cửa, nhẹ nhàng nâng hai bên má lên, hôn phớt lên môi mềm, gửi trọn tâm tư của mình vào lần chạm môi ấy.

Và rồi em đi mất.

Còn tôi thì tỉnh giấc, với bên gối ướt nhèm.

Trận chiến này được dự tính sẽ mang lại vô số thương vong, hiểm nguy rình rập khắp mọi nơi, và Lai Bâng năm hai mươi hai tuổi đã khoác lên mình bộ quân phục, gác lại chữ tình, phục chữ binh.

Khi ấy, tôi chỉ có thể ở nhà, mòn mỏi ngóng trông em về cùng với hòa bình, và buộc phải học cách chấp nhận nếu hay tin em đã hi sinh thân mình.

Qua tám năm dài dằng dặc, tôi vẫn chẳng có tý tin tức nào về em cả.

Không có giấy báo tử, vậy thì em hẳn vẫn còn sống đúng không? Nhưng sao em không quay về gặp tôi, không quay về nhà?

Kể từ sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, tôi luôn thắc mắc về điều này. Tôi chẳng biết em đang ở đâu, liệu em có ổn không, em trông ra sao, em như thế nào. Tôi đợi chờ em cùng hàng tá câu hỏi trong đầu, quyết định rằng khi em trở về, tôi sẽ đè em ra hỏi đủ điều, mắng em vì đã bỏ tôi đi quá lâu. Xong xuôi, tôi sẽ ôm chặt lấy em vào lòng, hôn em thật sâu, thương em thật nhiều.

Nhưng mà mãi, em vẫn chưa chịu về.

Để rồi vào một buổi nhá nhem chiều tàn, tôi loáng thoáng nghe được tiếng gọi từ bên ngoài. Đứng bật dậy, tôi đi ra khỏi ghế, loạng choạng bước tới cửa, cảm giác nôn nao trào dâng ra khỏi cuống họng khiến tôi chỉ muốn quên béng đi mất đôi ba lần giận dỗi hay tủi hờn vì người thương đi mãi mà chẳng chịu quay lại.

Lần này Bâng về rồi, đúng không?

Tôi nhận thấy khóe môi mình cong lên, cái niềm hân hoan vui sướng như lấn át đi mất cơn đau ở chân và mắt. Tôi thấy phía trước mình như có một mảng sáng chói lóa, tia sáng ấy soi bước đường tôi đi đến chỗ em yêu dấu. Vội vã mở cửa, tôi nghe thấy tiếng bước chân vội vàng, và rồi trước mặt tôi xuất hiện một bóng dáng của ai đó. Tôi nhận ra đây không phải Bâng, vì người trước mắt tôi cao hơn em rất nhiều.

Thờ thẫn nhìn vào khoảng không vô định, não bộ tôi trong thoáng chốc đã nghĩ đến trường hợp tồi tệ nhất, và hốc mắt tôi cay xè. Tôi nghe thấy người ấy lên tiếng, nhận ra cái tên không thể nào quen thuộc hơn, tia hy vọng mỏng manh cuối cùng cũng tắt ngấm.

Không phải Bâng, mà là Phúc.

Không phải Lai Bâng, mà là tờ giấy báo tử.

Không phải Thóng Lai Bâng, mà là bức thư tay em viết nơi chiến trường thảm khốc.

Vậy ra em mất rồi, mất thật rồi.

Nhưng lạ quá, nghe tin em mất, đáng lẽ tôi phải hét toáng lên, nói rằng không thể nào hoặc làm bất cứ điều gì tương tự như vậy chứ? Làm sao tôi lại có thể ngồi yên tại đó nghe Phúc nói về cái chết của em; ngồi yên tại đó nhìn chằm chằm người trước mặt gục bàn xuống, nức nở từng cơn; ngồi yên tại đó đọc bức thư em gửi mà chẳng mảy may rơi nước mắt dù chỉ là một giọt.

Tôi chỉ ngồi yên tại đó, mắt nhìn lơ đãng, cảm thấy nực cười.

Đúng là Bâng về rồi, nhưng không phải như cái cách mà tôi hằng mong ước.

Tôi mong em về với cơ thể còn nguyên vẹn, với nụ cười ngày càng tươi hơn vì đã chờ được tới cái ngày thấy đất nước thống nhất, chứ không phải là phần hồn em về, còn xác thịt tanh tưởi thì bị chôn vùi dưới từng tấc đất lạnh lẽo.

Tôi ước em quay về, nhưng không phải như này.
Cầm bức thư trên tay, tôi nhìn chăm chăm vào nó, không tài nào rời mắt nổi. Trong đấy chỉ có đôi ba dòng thôi, nét chữ nguệch ngoạc méo mó trông đến là cẩu thả. Nếu là của khi trước, tôi chắc chắn đã đánh vào tay xinh, bắt em viết cho đến khi chữ đẹp hẳn ra mới thôi. Thế mà giờ đây, những con chữ cẩu thả này khiến lòng tôi bất giác nhói đau, nó nhắc tôi nhớ rằng từ nay về sau, sẽ không còn ai để tôi trách mắng nữa, không còn tiếng cười lanh lảnh vang vọng khắp căn nhà, không còn nụ cười tựa ánh dương, không còn gì cả.

Chỉ còn mình tôi lang thang trong vô vọng với những rối bời, mắc kẹt trong những kỉ niệm xưa cũ, nơi còn em, còn tôi, còn một chốn để về.

Bâng vào cái ngày cất bước ra đi chỉ mang theo đúng chiếc nhẫn bằng lá mà tôi đã làm tặng, thế nhưng dường như vào khoảnh khắc em thật sự ra đi, vạn vật cũng theo em mà tan biến mất, chẳng còn chút gì sót lại ngoài hai tờ giấy về em.

Giơ cao bức thư tay, tôi khẽ khàng đặt môi chạm lên nó.

Thấy chưa Bâng, anh lại hôn em thêm lần nữa này.

...

Sau kháng chiến, các nghĩa trang liệt sĩ trên toàn nước Việt được xây dựng lên để tri ân các anh hùng đã khuất. Suốt bốn năm ròng rã từ Bắc vào Nam, Chiến đi khắp nơi, kiếm tìm hình bóng của người thương thông qua những nấm mồ vô danh, khát khao muốn gặp lại em khiến đôi chân anh dường như được tiếp thêm sức mạnh, dẫu đi bao chặng đường dài vẫn chẳng thấy mỏi mệt.

Để rồi vào một ngày nắng vàng ươm trải dài cả khu phố, ngực trái anh nhói đau từng cơn, cả cơ thể như tê dại, cứng đờ ra khi đứng trước một bia mộ. Nhìn vào dòng chữ trên tấm bia, Chiến ngã quỵ xuống, nước mắt rơi lã chã, từng giọt từng giọt rơi xuống như mưa, thấm ướt lên nền đất.

Run rẩy lấy ra hai nén hương, anh thắp nó cháy rồi quỳ lạy trước mộ của Bâng bốn cái. Xong xuôi, anh cố ngăn bản thân mình khỏi nghẹn ngào, nở một nụ cười thật tươi, ngồi đối diện bia mộ mà huyên thiên cả một buổi trời.

Anh kể về bản thân, kể về những điều đã khiến anh vui và buồn, kể về chặng đường dài mười hai năm có lẻ, về những người xa lạ mà anh bắt gặp trong chuyến hành trình, về Lương Hoàng Phúc cùng một gia đình mới và ti tỉ thứ khác.

Cho đến khi trời sập tối, anh mới đứng dậy, hai tay chắp vào nhau, thành khẩn cầu xin cho em và mình được thêm một lần bên nhau.

Ở kiếp sau, tại Việt Nam, nơi có hoà bình.
























"Gửi anh thương nhớ.
Chiến ơi, ngày thống nhất hai miền Nam - Bắc, em sẽ về cùng với hòa bình, em về với anh!"

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Com

Tags: #adcbâng