Truyen2U.Net quay lại rồi đây! Các bạn truy cập Truyen2U.Com. Mong các bạn tiếp tục ủng hộ truy cập tên miền mới này nhé! Mãi yêu... ♥

Mandukya Upanishad


Gaudapàda Kàrika
(Kàrika giải thích ngoài thơ Mundakya)


Trạng thái toàn trí (Turiya) không phải là hiểu biết về thế giới bên trong (chủ thể), không phải là hiểu biết về thế giới bên ngoài (khách thể), không phải là trạng thái hiểu biết cả thế giới bên trong và thế giới bên ngoài, không phải là tập hợp tổng số của ý thức. Đó không phải là ý thức đơn lẻ cũng không phải là Nó không có ý thức. Nó không được nhận thức, không được thuật lại, không thể lĩnh hội, không suy luận,không suy nghĩ và không thể mô tả được. Bản chất của ý thức biểu hiện như tự ngã (trong 3 trạng thái). Nó là sự cắt đứt với tất cả hiện tượng; Nó là tất cả sự yên tĩnh, tất cả niềm hạnh phúc và duy nhất. Đây là sự hiểu biết như trạng thái thứ tư (Turiya). Đó là Atman và điều này đã được nhận thức.

Bây giờ Kàrika bắt đầu giải thích thơ của Mandukya

1. Trạng thái toàn trí (Turiya) là quy luật biến hóa, là năng lực hủy diệt tất cả đau khổ. Mọi thực thể khác tồn tại không thực, chỉ Turiya duy nhất (nhất nguyên) được biết như sự sáng chói và thâm nhập tất cả.

2. Vis'va[50] và Taijasa[51] được quy định bởi nguyên nhân và kết quả. Chỉ Pràjna[52] được quy định bởi nguyên nhân. Không có nguyên nhân và kết quả nào tồn tại trong Turiya.

3. Pràjna không hề biết gì về linh hồn (tự ngã) hay phi linh hồn, chân lý hay phi chân lý. Nhưng Turiya lại luôn luôn tồn tại và nhìn thấy tất cả.

4. Sự không hiểu biết của tính nhị nguyên là chung cho cả Pràjna và Turiya. Nhưng Pràjna liên quan với giấc ngủ trong hình thức của nguyên nhân và giấc ngủ này không tồn tại trong Turiya.

5. Hai trạng thái đầu (Vis'va và Taijasa) liên quan với giấc mơ và giấc ngủ tương ứng với từng trạng thái; Pràjna liên quan với giấc ngủ, những giấc mơ đã biến mất. Người biết Brahman không thấy giấc ngủ mà cũng không thấy giấc mơ trong Turiya.

6. Giấc mơ là sự hiểu biết sai lệch và giấc ngủ là sự không hiểu biết về Thực tại. Khi tri thức sai lầm trong 2 trạng thái trên được xóa bỏ, trạng thái toàn trí Turiya được nhận thức.

7. Khi linh hồn cá nhân ngủ dưới ảnh hưởng của cái không có khởi đầu màya, nó được đánh thức, khi đó nó thấy rõ cái không nhị nguyên là cái không sinh, không ngủ, không mơ.

8. Nếu thế giới hiện tượng là có thật thì chắc chắn sẽ biến mất. Thế giới nhị nguyên chỉ là ảo giác (màya); chỉ Cái duy nhất là Thực tại tối cao.

9. Nếu bất cứ ai nghĩ rằng tư tưởng là ảo giác, khi đó chúng sẽ tan biến. những tư tưởng này là mục đích của lời chỉ dẫn. Khi Thực tại được nhận thức, nhị nguyên luận chấm dứt tồn tại.

----------

Bây giờ Mandukya Upanishad kết luận:

Trạng thái thứ tư là không có các bộ phận và không có mối quan hệ mật thiết; Đó là sự gián đoạn, sự ngừng lại của hiện tượng; Đó là tất cả những điều tốt lành và duy nhất. Aum này chính là Atman. Anh ta, người biết hợp nhất linh hồn mình trong Atman - vâng, anh ta, người biết điều này.


Vaitathya Prakarana
(Về ảo giác, ảo tưởng)

1. Môn đệ chỉ hiểu thấu tư tưởng khi được dạy bởi người thầy của mình. Atman mang hình thức của điều mà người thầy truyền dạy và theo cách đó ông ta bảo vệ môn đệ. Say mê trong tư tưởng ấy, anh ta hiểu được Atman giống như Atman.

2. Atman qua sự không khác nhau của tất cả ý niệm, xuất hiện sự khác nhau. Anh ta, người thực sự hiểu biết sự lý giải này về ý nghĩa của Veda, anh ta không có một chút sợ hãi.

3. Những giấc mơ, ảo giác và những lâu đài trong không khí được nhìn thấy cũng như vũ trụ hiển hiện rõ ràng bởi nhà thông thái, người hoàn toàn thông thạo Vedanta.

4. Không có sự hủy diệt mà cũng không có sự sáng tạo, không có ai trong tù tội mà cũng không có ai thực hành kỷ luật khắc khổ. Không có ai theo đuổi tự do mà cũng không có ai được tự do. Đây là Chân lý tuyệt đối.

5. Atman được quan niệm giống như những đối tượng không thực và được quan niệm như cái hoàn toàn không nhị nguyên. Cũng vậy, các đối tượng cũng được hình dung trong Atman duy nhất. Vì thế Đấng duy nhất là niềm hạnh phúc nhất.

6. Sự đa dạng trong vũ trụ không tồn tại như sự tồn tại giống hệt với Atman, Nó không tồn tại bởi chính Nó. Nó không là cái khác Brahman mà cũng không là cái không khác Brahman. Đây là sự trình bày của nhà thông thái.

7. Bậc thông thái, người thoát khỏi mọi sự trói buộc, sợ hãi và giận dữ, là người hoàn toàn thông thạo kinh Veda, hiểu biết Atman, không có mọi sự ảo tưởng và thoát khỏi từ ảo giác nhiều vẻ và như cái không nhị nguyên.

8. Bởi vậy, sự hiểu biết Atman như thế sẽ giữ chặt sự chú ý của anh vào Đấng duy nhất. Có sự hiểu biết Đấng duy nhất sẽ cư xử hành động trong trần thế giống như sự vật trơ ỳ.

9. Sannyàsin sáng chói không ca tụng thượng đế, không chào đón bất cứ cái tối cao nào và không thi hành các nghi lễ để làm dịu lòng các tổ tiên ra đi. Về cả thể xác và Atman như chốn trú ngụ của ta vẫn làm thỏa mãn những gì số phận đem lại.

10. Hiểu biết chân lý có liên quan tới những gì tồn tại ở bên trong, cũng như chân lý liên quan tới những gì tồn tại ở bên ngoài, anh ta trở thành hợp nhất làm một với Chân lý và anh ta không bao giờ đi chệch khỏi chân lý.


Advaita Prakana
(Bàn về cái Nhất nguyên)

1. Jiva trú ngụ nơi Brahman đem chính mình để sùng kính hết lòng. Jiva nghĩ rằng trước sự sáng tạo tất cả đã có cùng bản chất giống như Thực tại không sinh ra. Vì vậy anh ta được coi là có một trí năng hạn hẹp.

2. Cho nên bây giờ ta sẽ miêu tả Brahman, Đấng không được sinh ra, vẫn vậy muôn thuở và thoát khỏi sự hạn hẹp. Từ đó người ta có thể hiểu được rằng Brahman không trở thành sự sinh nở ngay ở mức độ không đáng kể, dù Nó xuất hiện với sự thể hiện mình khắp mọi nơi.

3. Atman, cái giống như àkàs'a (khoảng không vô định), được coi là cái được biểu hiện trong hình thức của các jiva, có thể giống như các àkàs'a được đóng trong những cái bình. Cũng vậy, những thể xác được coi là sự hiện thân của Atman đúng hệt như chiếc bình và những cái tương tự được tạo ngoài àkàs'a. Về sự biểu hiện của Atman thì đây là một sự minh họa.

4. Khi đập vỡ những chiếc bình, thì các àkàs'a chứa kèm theo chúng hòa vào àkàs'a rộng lớn, cũng giống như vậy, những jiva hòa nhập vào Atman.

5. Khi bụi bặm, khói,v.v.., làm bẩn àkàs'a chứa kèm theo 1 cái bình riêng biệt thì dĩ nhiên không thể làm bẩn những àkàs'a khác chứa kèm theo những chiếc bình khác. Cũng như vậy, sự hạnh phúc, sự đau khổ, v..v.., của 1 jiva không ảnh hưởng đến những jiva khác.

6. Mặc dầu đa dạng về hình thức, chức năng và tên gọi của các àkàs'a [gắn với những đồ chứa khác nhau] được nhận vào, tuy vậy điều này không bao hàm ý nói về bất cứ sự khác nhau nào trong chính àkàs'a. Tương tự vậy, đó cũng là kết luận đối với việc xem xét các jiva.

7. Giống như àkàs'a được chứa kèm theo trong bình không phải là kết quả mà cũng không phải là 1 phần của àkàs'a thật sự, cũng như vậy, jiva cũng không phải là kết quả mà cũng không phải là 1 phần của Atman.

8. Trẻ con coi àkàs'a cũng bị nhiễm bẩn bởi bụi bặm; cũng vậy, kẻ dốt nát xem Atman cũng bị nhiễm bẩn tương tự như thế.

9. Đối với Atman khi xem xét tới cái sinh và cái tử của Nó, sự ra đi và trở lại của Nó và việc Nó trú ngụ trong những thân xác khác nhau thì không phải là không giống với àkàs'a.

10. Tất cả tổng số được sinh ra bởi màyà của Atman như trong 1 giấc mơ. Không 1 lời biện minh nào có thể đưa ra để xác định tính thực tại của chúng, dù chúng có những địa vị ngang bằng nhau hay dù có một số ở địa vị cao hơn những cái khác.

11. Linh hồn tối cao là cái ngã của 5 vỏ bọc[53], giống như vật chất và sinh khí. 5 vỏ bọc đó đã được trình bày trong kinh Taittiriya Upanishad. Linh hồn tối cao đó giống như àkàs'a đã được trình bày.

12. Àkàs'a trú ngụ trong trái đất và trong dạ dày là 1, cũng giống như vậy, Brahman trú ngụ trong 1 cặp là 1, được miêu tả trong kinh Madhu Brahman.

13. Sự đồng nhất của jiva và Atman đã được ca ngợi bằng việc chỉ ra tính không nhị nguyên của chúng; còn tính đa nguyên đã bị phê phán. Vì vậy chỉ duy nhất học thuyết không nhị nguyên là tránh được sai lầm.

14. Sự khác nhau của jiva và Atman đã được trình bày trong phần đầu của kinh Upanishad, liên quan đến sự sáng tạo, hình tượng, ẩn dụ, bởi vì phần này chỉ nói rõ cái gì sẽ xảy ra trong tương lai. Sự phân chia này không thể có ý nghĩa thật sự của những đoạn trích.

15. Những sự trình bày trong kinh thánh liên quan tới sự sáng tạo, sử dụng các thí dụ về đất, sắt và những tia lửa, là nhằm mục đích làm sáng tỏ trí tuệ. Cái đa tạp thật sự không thể tồn tại dưới bất cứ hình thức nào.

16. Có 3 giai đoạn của cuộc sống phù hợp với 3 cấp độ nhận thức của con người: bậc thấp kém, bậc trung bình và bậc cao siêu. Kinh thánh ngoài việc kêu gọi lòng thương xót, còn dạy kỹ thuật này vì lợi ích của những gì chưa được làm sáng tỏ.

17. Các nhà nhị nguyên hết sức lúng túng với những kết luận của họ, chúng mâu thuẫn lẫn nhau. Các nhà nhất nguyên không thấy chút gì mâu thuẫn trong chính mình.

18. Vì cái nhất nguyên là Thực tại tối cao, cái nhị nguyên được coi là kết quả của Nó. Các nhà nhị nguyên xem cái nhị nguyên trong cả 2: cái tuyệt đối và cái tương đối. Vì vậy vai trò của nhà nhất nguyên không xung khắc với vai trò của nhà nhị nguyên.

19. Atman - cái không được sinh nở trở thành nhiều vẻ khác nhau qua màyà và không có cách nào khác. Vì nếu cái nhiều vẻ là tồn tại thực thì cái bất tử sẽ trở nên khả tử.

20. Các nhà biện thuyết chủ trương rằng thực thể không được sinh ra (Atman) trở thành được sinh ra. Làm sao người ta có thể cho rằng thực thể là cái không được sinh ra và bất tử sẽ trở nên khả tử được chứ?

21. Cái bất tử không thể trở nên khả tử, cũng vậy, cái khả tử không thể trở nên bất tử. Vì không bao giờ xảy ra tình trạng một sự vật lại thay đổi bản chất của nó. Không bao giờ và không có cách nào đê một sự vật lại thay đổi bản chất của mình. Ví như lửa không thể đổi bản chất của nó, đó là đặc tính nóng.

22. Làm sao người ta có thể tin rằng một thực thể với bản chất bất tử lại có thể trở nên khả tử. Sao họ giám giữ ý kiến rằng cái bất tử sau khi đã vượt qua những sự thay đổi, vẫn giữ lại được cái bản chất không thay đổi của nó?

23. Đi tới sự sinh ra có thể thật hay chỉ là ảo ảnh; cả hai quan điểm đó đều được kinh thánh ủng hộ như nhau. Nhưng quan điểm được ủng hộ bởi Kinh thánh và được khẳng định bởi lý trí là quan điểm duy nhất được thừa nhận, còn quan điểm khác thì không.

24. Từ những đoạn trong kinh thánh như " Người ta không thấy cái nhiều vẻ nào trong Atman" và "Indra (Đấng chúa tể tối cao), thông qua Màyà xuất hiện nhiều hình thức khác nhau", người ta biết rằng Atman, mặc dù chưa từng được sinh ra, sẽ xuất hiện trở thành đa dạng chỉ qua màyà.

25. Hơn nữa, bằng việc phủ định sự sáng tạo, dẫn tới sự sinh nở cũng bị phủ nhận luôn. Nguyên lý nhân quả của Brahman bị từ chối bằng những câu như: "Ai có thể khiến Nó để Nó sinh nở?".

26. Theo sự giải thích về bản chất không thể hiểu của Atman, Kinh thánh có câu: "Không phải cái này, không phải cái này", điều đó phủ định tất cả những tư tưởng của phái nhị nguyên gán cho Atman. Vì thế cho nên, Atman không sinh nở duy nhất tồn tại.

27. Cái gì tồn tại luôn xuất hiện qua sinh nở bởi màya, từ quan điểm về thực tại Nó không phải như vậy. Nhưng anh ta nghĩ rằng sự sinh nở là những sự khẳng định thật sự, như những gì đã nói, rằng cái gì được sinh ra thì cũng có khả năng sinh ra lần nữa.

28. Cái không thực không thể được sinh ra dù thực tế hay là thông qua màyà. Vì không thể xảy ra chuyện một đứa con được sinh ra từ một phụ nữ vô sinh dù là được sinh ra trong thực tế hay được sinh ra qua màyà.

29. Giống như trong những giấc mơ, tinh thần hoạt động thông qua màyà (ảo giác), hiện diện sự xuất hiện của cái nhị nguyên, cũng thế trong trạng thái đang thức tinh thần hoạt động thông qua màyà sẽ hiện diện sự xuất hiện của cái nhị nguyên.

30. Không còn nghi ngờ gì nữa rằng tinh thần, cái ở trong thực tại nhất nguyên, xuất hiện tính nhị nguyên trong những giấc mơ; cũng vậy, không còn nghi ngờ gì nữa rằng cái gì nhất nguyên xuất hiện tính nhị nguyên trong trạng thái thức.

31. Tất cả những sự vật đa dạng đều hàm chứa trong nó đặc tính chuyển động và bất động, những sự vật ấy chỉ được nhận thức bằng trí tuệ mà thôi. Vì cái nhị nguyên không bao giờ được nhận thức khi trí tuệ ngưng hoạt động.

32. Khi trí tuệ, sau khi đã nhận thức được rằng chỉ Atman mới là thật sự, nó trở thành tự do từ những tưởng tượng mơ hồ và vì thế nên trí tuệ không hiểu biết bất cứ cái gì nữa, vì không còn đối tượng để nhận thức, nó chấm dứt đối với trí tuệ.

33. Tri thức (Jnàna) không được sinh ra và nó thoát khỏi trí tưởng tượng, được miêu tả bằng sự thông thái, như là cái không thể chia cắt ra khỏi khả năng hiểu biết. Brahman không sinh nở và bất di bất dịch là mục đích của tri thức, của sự hiểu biết. Cái thông minh (Brahman) được hiểu biết bằng cái không sinh (Tri thức của thực tại).

34. Người ta sẽ biết hành vi của trí tuệ, cái được phú cho khả năng nhận thức đúng đắn và thoát khỏi những ảo tưởng. Trạng thái của trí tuệ trong giấc ngủ say không giống như cái chỉ là của một loại khác.

35. Trí tuệ bị rút ra khỏi trong giấc ngủ say nhưng nó không là như thế khi trí tuệ được kiểm soát. Trí tuệ được điều khiển là Brahman không lo sợ gì cả, ánh sáng của Người thông suốt mọi sự là sự thâm nhập khắp nơi.

36. Brahman không sinh, không ngủ, không mơ, không danh tính, không hình thù. Nó là sự sáng chói vĩnh cửu và thông suốt vô cùng. Không phận sự, có thể luôn luôn được hợp nhất với Nó trong bất cứ giác quan nào.

37. Atman là vượt ra khỏi tất cả sự diễn tả bằng những lời nói, từ ngữ và Nó cũng vượt ra khỏi những thao tác của trí tuệ. Nó là sự an bình cực độ, sự tồn tại vĩnh hằng, một sự thấu hiểu sâu xa, Nó không chuyển động và vô cùng hùng mạnh.

38. Brahman là tự do từ những hoạt động tinh thần và từ đó Nó thoát khỏi tất cả những tư tưởng về sự chấp nhận hay từ chối. Khi sự hiểu biết đã được thiết lập trong Atman thì Nó đạt được sự không sinh nở và mãi mãi vẫn thế.

39. Yoga là sự kết hợp mật thiết giữa linh hồn cá nhân và Linh hồn siêu việt, Nó không dính dáng với bất cứ thứ gì, đối với những người luyện tập Yoga bình thường thì thật là khó để đạt được sự kết hợp đó. Người ta cảm thấy sợ hãi sự kết hợp đó, vì người ta nhận thấy mình yếu đuối mà Linh hồn siêu việt thì dũng mãnh.

40. Những người luyện tập yoga những không hiểu biết được cái nhất nguyên thì thường dựa vào sự kiểm soát của trí tuệ để đạt được sự can đảm, phá tan được đau khổ, có được tri thức, hiểu biết chính mình và có được sự an bình vĩnh cửu.

41. Tinh thần phải phục tùng sự điều khiển, kiểm soát bằng sự cố gắng nỗ lực không hề chán nản; nó công phu giống như tát cạn cả đại dương, từng giọt từng giọt một, với sự giúp đỡ của một chiếc lá cỏ kus'a.

42. Trí tuệ bối rối bởi những dục vọng và những niềm vui thú phải phục tùng sự điều khiển, kiểm tra nhờ những cách thức đúng đắn, thích hợp; cũng như thế, trí tuệ thích điều vui thú trong sự biếng nhác, bất động (laya). Do trạng thái của sự bất động biếng nhác cũng tác hại như trạng thái của những dục vọng.

43. Trí tuệ quay trở lại từ sự ham muốn những khoái lạc, nên nhớ rằng những khoái lạc, dục vọng chỉ là những thứ gây đau khổ. Đừng nhìn những sự vật thụ tạo, hãy nhớ rằng tất cả là Atman không được sinh ra.

44. Nếu trí tuệ trở nên bất động, thì hãy đánh thức, khuấy động nó [từ laya]; nếu nó bị bối rối, hãy làm cho nó lặng lẽ, tịch mịch. Hãy hiểu bản chất của tinh thần khi nó còn chất chứa mầm mống của sự ràng buộc[54] hay lòng quyến luyến. Khi tinh thần đã đạt được những điều như vậy thì đừng làm xáo trộn, mất yên tĩnh nó một lần nữa.

45. Người tập luyện yoga phải không được nếm mùi sung sướng [sinh ra từ samashi]; anh ta sẽ phải nhất định tách mình ra khỏi nó bằng sự rèn luyện khôn ngoan, sáng suốt hay sự suy xét và nhận thức đúng đắn. Nếu trí tuệ của anh ta, sau khi đã đạt được sự chắc chắn, kiên định thì anh ta lại tìm kiếm, theo đuổi những đối tượng bên ngoài. Anh ta phải làm cho trí tuệ của mình hợp làm một với Atman bằng sự nỗ lực, cố gắng lớn.

46. Khi tinh thần không rơi vào tình trạng bất động, biếng nhác và không bị bối rối bởi những dục vọng, điều đó có nghĩa là khi đó nó vẫn kiên định, không thể lay chuyển được và không gây ra những cái được biểu hiện, thật sự nó trở thành Brahman.

47. Niềm hạnh phúc tối cao này tồn tại trong Bản ngã. Nó là sự an bình; Nó là sự giải thoát; không sinh nở và không thể miêu tả được bằng lời lẽ. Nó được gọi là Brahman toàn trí, toàn năng, tồn tại hợp nhất với Bản ngã không sinh ra, là đối tượng chân thật của tri thức.

48. Không bao giờ jiva sinh ra từ sự sống. Những cái tồn tại ấy không có nguyên nhân để có thể tạo ra Nó. Chân lý tối cao là cái không bao giờ được sinh ra.


Alàtasànti Prakarana
(Bàn về sự dập tắt bè gây rối)

1. Tôi tôn kính Đấng thần linh cao cả gữa những con người, nhờ vào sự hiểu biết cái giống như àkàs'a[55] và sự hiểu biết đó không khác với mục đích của tri thức, con người đã nhận thức được bản chất của jivas (dharmas), cũng vậy jivas là cái giống như àkàs'a.

2. Tôi bái phục phương pháp tu luyện yoga, được biết đến như cách cô lập hóa, tách biệt mọi sự vật, mọi vương vấn (asparsa); phương pháp đó là được dạy trong các kinh; nó khích lệ, phát huy niềm hạnh phúc và sung mãn của tất cả các tạo vật, nó thoát khỏi những sự xung đột và những mâu thuẫn.

3. Một số nhà biện thuyết mặc nhiên công nhận rằng chỉ có thực thể đang tồn tại mới có thể tái sinh ra sự tồn tại. Trong khi đó, những nhà biện thuyết khác lại tự hào về trí năng của mình và cho rằng chỉ có một thực thể không tồn tại mới có khả năng sinh ra sự tồn tại. Vì vậy họ đã cãi nhau.

4. Một thực thể đang tồn tại không thể được hưởng thừa kế sự tồn tại; cũng vậy, một thực thể không tồn tại, thì không thể được hưởng thừa kế sự tồn tại. Việc tranh luận giữa hai trường phái, vô hình chung đã thực sự thiết lập quan điểm nhất nguyên về ajàti - cái không sáng tạo.

5. Chúng ta tán thành ajàti đã được hai phái kia xác định như vậy. Chúng ta không tranh cãi với họ. Bây giờ xin hãy nghe chúng ta bàn về thực tại tối hậu, cái vượt ra khỏi tất cả những lời tranh luận.

6-8. Các nhà biện thuyết khẳng định rằng thực thể không được sinh ra (Atman) trở thành được sinh ra. Làm sao người ta lại có thể nghĩ rằng một thực thể không được sinh ra và bất tử sẽ trở thành khả tử?

Cái bất tử không thể trở nên khả tử, cũng vậy, cái khả tử không thể trở nên bất tử, vì điều đó không bao giờ xảy ra đối với một sự vật thay đổi bản chất của chính nó.

Làm sao người ta lại tin rằng một thực thể với bản tính bất tử lại trở nên khả tử được? Làm sao người ta có thể biện hộ rằng cái bất tử sau khi đã trải qua sự thay đổi lại có thể duy trì được bản chất không thay đổi của mình?

9. Bởi vì prakiti[56] hay bản chất của một sự vật phải được hiểu rằng khi đã đạt được, Nó trở thành phần thiết yếu của một sự vật, cái là tính đặc thù của sự vật, rằng Nó là bản chất không thể chuyển nhượng của Nó, đã có ngay từ lúc Nó xuất hiện, rằng Nó không lấy gì thêm cho Nó và luôn luôn dừng lại ở chính Nó.

10. Tất cả những jivas, bằng chính bản chất của mình, là thoát khỏi sự suy yếu, già lão và cái chết. Nhưng chúng nghĩ rằng chúng lệ thuộc vào sự suy yếu, già lão và sự chết và bằng chính năng lực của tư duy chúng, sai lệch bản chất trung thực của chúng.

11. Theo kẻ biện thuyết đối với những ai cho rằng nguyên nhân tự nó là kết quả phải giữ ý kiến rằng nguyên nhân được sinh ra cũng như là kết quả. Nếu nó được sinh ra thì làm sao có thể nó được gọi là cái không sinh ra nó? Nếu nó chịu sự thay đổi, thì làm sao nó có thể được gọi là cái vĩnh cửu?

12. Nếu như các người nói, kết quả không khác với nguyên nhân, thì kết quả cũng phải không được sinh ra. Hơn nữa, làm sao nguyên nhân có thể là cái vĩnh cửu nếu nó không khác với kết quả, cái được sinh ra?

13. Không có một minh họa nào để ủng hộ quan điểm cho rằng kết quả được sinh ra từ một nguyên nhân không được sinh ra. Trở lại, nếu điều đó được cho rằng kết quả được tạo ra từ một nguyên nhân, cái tự nó được sinh ra, thì điều này dẫn tới một sự thụt lùi vô hạn.

14. Làm sao họ có thể khẳng định rằng kết quả là nguyên nhân của nguyên nhân và nguyên nhân là nguyên nhân của kết quả và làm sao họ có thể giữ quan điểm rằng không có sự bắt đầu của cả kết quả và nguyên nhân?

15. Những người cho rằng, kết quả là nguyên nhân của nguyên nhân và nguyên nhân là nguyên nhân của kết quả, thì quả thật họ đã bảo vệ quan điểm cho rằng sự sáng tạo theo lối sinh con rồi mới sinh cha (sinh ra cha là từ con).

16. Nếu nguyên lý nhân - quả được khẳng định, thì trật tự trong đó, nhân và quả phải lần lượt được xác định. Nếu người ta cho rằng chúng xuất hiện cùng một lúc, thì cũng giống như 2 cái sừng của một con vật, chúng không thể liên quan gì đến nhau như nguyên nhân và kết quả.

17. Nguyên nhân mà các người khẳng định, không thể được xác định [như 1 nguyên nhân ] nếu nó được sinh ra từ 1 kết quả. Làm sao 1 nguyên nhân chính nó không được xác định lại có thể đưa tới sinh ra kết quả?

18. Nếu nguyên nhân được tạo ra từ kết quả và kết quả lại được tạo ra từ nguyên nhân, vậy thì cái nào trong 2 cái được sinh ra trước và cái nào phụ thuộc vào sự sinh ra của cái nào?

19. Sự bất lực với việc giải đáp là do sự thiếu hiểu biết và việc không có được sự xác lập trật tự kế tiếp rõ ràng đã làm cho sự hiểu biết được duy trì học thuyết ajàti, hay sự không sáng tạo dưới tất cả những điều kiện.

20. Sự minh họa về hạt giống và mầm cây là điều vẫn còn phải chứng minh. Sự minh họa mà chính nó vẫn chưa được chứng nghiệm thì sự minh họa đó không thể được dùng để xác định một giả thuyết phải được chứng minh.

21. Sự không hiểu biết 1 cách rõ ràng đối với sự có trước và sự có sau của nguyên nhân và kết quả xác nhận một cách rõ ràng không có sự sáng tạo. Nếu jiva đã được sinh ra thật sự, thì tại sao các người không thể chỉ được nguyên nhân trước nó là gì?

22. Không có bất cứ cái gì được sinh ra, dù của bản thân nó hay của một thực thể khác. Không có cái gì đã từng được tạo ra, dù Cái đó là cái tồn tại hay cái không tồn tại hoặc là vừa cả hai trạng thái tồn tại và không tồn tại.

23. Nguyên nhân không thể được tạo ra từ một kết quả không có khởi đầu; hoặc là kết quả cũng không thể được tạo ra từ một nguyên nhân không có khởi đầu. Mà cái không có khởi đầu thì tất nhiên thoát khỏi sự sinh nở.

24. Sự hiểu biết của chủ thể phải có một khách thể làm nguyên nhân của nó; nếu không có, sự muôn màu muôn vẻ sẽ trở thành không tồn tại. Hơn nữa, từ trong kinh nghiệm của sự đau khổ, sự tồn tại của các đối tượng bên ngoài được chấp nhận bởi những lời thánh có tính nhị nguyên, phải được thừa nhận.

25. Các nhà nhị nguyên bằng nỗ lực của lý trí đã khẳng định rằng có một nguyên nhân của chủ thể nhận thức. Nhưng từ quan điểm đúng đắn về bản chất chân thực của sự vật, chúng ta khẳng định rằng: cái nguyên nhân mà các nhà nhị nguyên nói, rốt cuộc,không là nguyên nhân.

26. Tinh thần không liên quan đến những khách thể bên ngoài hay là những tư tưởng đã được xem như là khách thể (đối tượng). Thật vậy, vì những đối tượng là không tồn tại và những tư tưởng [cái được xem như những khách thể hay những đối tượng bên ngoài] chúng không có sự khác biệt với tư tưởng.

27. Trí tuệ không nhập vào quan hệ nhân quả trong bất cứ thời điểm nào của 3 thời kỳ (hiện tại, quá khứ, tương lai). Làm sao nó có thể luôn luôn lệ thuộc vào sự sai lầm được, khi không có nguyên nhân đối với sự sai lầm như thế?

28. Vì thế cho nên không phải khách thể được nhận thức bởi trí tuệ được sinh ra. Việc biết sự sinh ra của chúng cũng giống như đi xem những dấu chân của những con chim bay trên bầu trời.

29. Nguyên nhân [Brahman] từ đó trí tuệ không sinh ra đã được các nhà nhị nguyên khẳng định sẽ được sinh ra là chính Nó không được sinh ra [bởi vì Brahman là không được sinh ra bao giờ] vì thế điều đó không bao giờ có thể xảy ra với Nó khác hơn cái Nó là.

30. Nếu như các nhà nhị nguyên luận đã tranh luận rằng, thế giới không có sự khởi đầu, thì thế giới không thể tồn tại vĩnh cửu. Moksha (sự giải thoát) không có 1 sự khởi đầu và Nó là vĩnh hằng.

31. Nếu 1 sự vật không tồn tại vào lúc khởi đầu và vào lúc kết thúc, thì tất yếu nó không tồn tại trong hiện tại. Các đối tượng mà chúng ta nhìn thấy thì thật sự giống những ảo ảnh, thế nhưng chúng vẫn được xem như những cái tồn tại thật sự.

32. Tính thiết thực hay sự có ích của các đối tượng trong kinh nghiệm khi còn thức được xem là trái ngược trong giấc mơ; vì vậy chúng chắc chắn là không thực. Bởi lẽ, cả 2 thứ kinh nghiệm - kinh nghiệm lúc còn thức và kinh nghiệm trong giấc mơ - đều có khởi đầu và kết thúc.

33. Tất cả những thực thể được nhìn thấy trong giấc mơ là không thực, bởi vì chúng được nhận thức ngay chính bên trong con người[57]. Làm sao những điều đó có thể chấp nhận được đối với những sự vật, chúng được nhận thức để tồn tại thật sự trong Brahman, cái không thể phân chia và đồng nhất?

34. Chẳng có lý chút nào khi nghĩ rằng một người nằm mơ đã thực sự thoát ra ngoài giấc mơ theo thứ tự để trải nghiệm các đối tượng [đã được thấy trong mơ], bởi vì sự khác biệt về thời gian cần có cho một cuộc hành trình như thế. Khi thức, anh ta tìm thấy chính mình trong các cương vị đã thấy trong trong giấc mơ mà anh ta không làm được gì cả.

35. Người nằm mơ, sau khi tỉnh giấc, nhận ra những ảo giác của những cuộc chuyện trò mà anh ta đã đàm đạo với bạn bè, với những người khác trong mơ. Hơn nữa khi tỉnh giấc, anh ta chẳng có được những cái mà anh ta đã có được trong lúc mơ.

36. Thân thể trong trạng thái mơ thì cũng không thực, vì lúc đó nó là thân thể khác, khác với nó, nó đã được nhận thức. Cũng như thân thể trong trạng thái mơ, tất cả những sự vật được nhận thức bằng trí tuệ là không thực.

37. Vì kinh nghiệm về những đối tượng trong giấc mơ giống với kinh nghiệm về những đối tượng trong trạng thái đang tỉnh, nên kinh nghiệm trong trạng thái thức được xem như là nguyên nhân của kinh nghiệm trong mơ. Chỉ có kẻ mơ mới thừa nhận kinh nghiệm trong trạng thái thức là nguyên nhân của kinh nghiệm trong trạng thái mơ. Chỉ bởi anh ta [người nhận kinh nghiệm trong trạng thái tỉnh mới là nguyên nhân của kinh nghiệm trong trạng thái mơ] mà kinh nghiệm trong trạng thái thức có thể được coi là thực.

38. Tất cả những thực thể đều được xem là không được sinh ra vì sự sinh ra không được xác định [như 1 thực tế]. Điều đó hoàn toàn không thể xảy ra được đối với cái không thực được sinh ra từ cái có thực.

39. Một người đầy ắp những cảm giác về những đối tượng không thực đã nhìn thấy trong trạng thái tỉnh, thì anh ta cũng sẽ nhìn thấy đúng những đối tượng ấy trong lúc mơ. Nhưng khi tỉnh giấc anh ta sẽ không thấy lại được những đối tượng không thực đã thấy trong mơ.

40. Cái ảo không thể có 1 cái không thực khác làm nguyên nhân của nó, cái thực không thể có cái ảo để làm nguyên nhân của nó. Cái thật không thể là nguyên nhân của cái thật. Và dứt khoát không thể xảy ra điều cho rằng cái thực là nguyên nhân của cái ảo.

41. Cũng như một người khi ở trong trạng thái thức qua hiểu biết sai lầm xuất hiện để nắm chắc các đối tượng, mà bản chất các đối tượng là bí hiểm, không thể hiểu được [y như chúng là thực], cũng như vậy, trong giấc mơ, anh ta lĩnh hội qua tri thức sai lầm, những đối tượng mà sự tồn tại của chúng chỉ có hiện được trong giấc mơ.

42. Những nhà thông thái chỉ dạy nguyên lý nhân quả vì mục đích của những người sợ hãi sự không sáng tạo, khẳng định sự thực tế của những đối tượng bên ngoài, bởi vì họ nhận thức những đối tượng như thế và cũng bởi vì họ bám víu vào những trách nhiệm xã hội và tôn giáo khác nhau.

43. Những người ấy vì sự sợ hãi của họ đối với chân lý về sự tuyệt đối, sự không sáng tạo và cũng vì sự nhận thức của họ về những đối tượng bên ngoài, họ đã phủ nhận ajàti là không bị ảnh hưởng bởi hậu quả xấu dựa trên niềm tin và sự sáng tạo. Thứ tội lỗi này, nếu có, chỉ là vô nghĩa, phi lý.

44. Giống như một con voi được nhà ảo thuật cỡi lên được nắm giữ đó là sự thật bởi vì nó được nhận thức là cái tồn tại và cũng bởi vì nó chịu trách nhiệm cách cư xử và hoạt động [của con voi thực], cũng như vậy, những đối tượng bên ngoài được chấp nhận là thực bởi vì chúng được lĩnh hội là tồn tại, và bởi vì người ta có thể tiếp xúc được với chúng.

45. Vậy Thực tại tối cao là gì? Đó là ý thức, Vijinana[58], cái chỉ xuất hiện ở sự sinh ra, ở sự chuyển động hay mang hình thức vật chất. Nhưng ý thức này thực sự chưa bao giờ được sinh ra, nó bất động và thoát khỏi những đặc tính của vật chất; nó hoàn toàn yên tĩnh và duy nhất.

46. Vì vậy, trí tuệ[59] không bao giờ phụ thuộc vào sự sinh ra. Tất cả mọi tồn tại cũng vậy, chúng thoát khỏi sự sinh ra. Những kẻ hiểu biết điều đó thì không rơi vào tri thức sai lầm.

47. cũng như 1 que lửa được huơ đi huơ lại, lúc thì có vẻ thẳng, lúc thì có vẻ cong, ý thức cũng vậy, khi bắt đầu sự vận động thì hiện ra giống như chủ thể nhận thức, một cái gì được nhận thức và cái giống như thế.

48. Như một que lửa, khi không vận động nó thoát khỏi mọi biểu hiện bề ngoài và vẫn không bao giờ thay đổi, cũng như vậy, ý thức, khi không hoạt động, nó thoát khỏi tất cả sự thể hiện bề ngoài và vẫn không bao giờ thay đổi.

49. Khi một que lửa được đặt trong sự vận động, các hình thức biểu hiện bề ngoài [mà chúng ta thấy được trong nó] không phải xuất phát từ một nơi nào khác ngoài que lửa. Khi nó vẫn còn thì các hình thức bề ngoài không lìa xa que lửa không chuyển động và không đi một nơi nào khác, chúng không nhập bản thân nó vào que lửa.

50. Những hình thức biểu hiện bên ngoài không thể tách ra khỏi que lửa, bởi vì tính chất của chúng không phải là cái thuộc về bản chất. Điều này được áp dụng tương tự đối với ý thức[60], vì sự giống nhau của những hình thức biểu hiện bên ngoài.

51-52. Khi ý thức được liên kết với tư tưởng của sự hoạt động [giống như trong các trạng thái thức và mộng] các hình thức biểu hiện bề ngoài [cái được coi như thực] không xuất phát từ bất cứ nơi nào khác nữa. Khi ý thức không ở trong trạng thái hoạt động [như trong giấc ngủ say], những hình thức biểu hiện bề ngoài không rời ý thức không hoạt động và đến một nơi nào khác, hoặc là chúng cũng không lẫn lộn vào trong ý thức. Những hình thức biểu hiện bên ngoài không thể tách rời khỏi ý thức vì bản chất của chúng không phải là bản chất thật. Chúng vô cùng khó hiểu, bởi vì chúng không chịu sự chi phối của mối quan hệ nhân - quả.

53. Một thực thể có thể là nguyên nhân của một thực thể khác và một phi thực thể có thể là nguyên nhân của một phi thực thể khác. Nhưng jiva không thể được coi như một thực thể hay một phi thực thể.

54. Bây những hình thức biểu hiện bên ngoài (những đối tượng) không có nguyên nhân từ trí tuệ, hoặc là trí tuệ không thâm sâu phải là nguyên nhân của chúng. Như vậy người có tư tưởng phải nắm chắc nguyên lý về sự không sáng tạo tuyệt đối.

55. Chừng nào người ta còn bám víu niềm tin vào mối quan hệ nhân quả, người đó sẽ tìm thấy nguyên nhân sinh ra kết quả. Nhưng khi sự ràng buộc này với quan hệ nhân quả bị suy yếu dần, bị cắt đứt đi thì nguyên nhân và kết quả trở nên không tồn tại.

56. Chừng nào người ta còn bám víu, tin tưởng vào quy luật nhân quả, thì samsàra[61] sẽ tiếp tục bành trướng ra đối với anh ta. Nhưng khi sự ràng buộc này đối với quy luật nhân quả bị suy yếu dần thì samsàra trở thành không tồn tại.

57. Toàn bộ vũ trụ được sáng tạo ra bởi nhận thức sai lầm; vì thế chẳng có gì là vĩnh cửu. ngược lại, mọi cái được xem là hợp nhất với thực tại tối cao,cái không được sinh ra, vì thế chẳng có cái gì được coi là bị phá hủy.

58. sự sinh ra được gán cho các jiva; nhưng từ quan điểm về Thực tại, sự sinh ra như thế không thể chấp nhận. sự sinh ra cũng giống như một đối tượng ảo tưởng. Cái ảo tưởng thì không tồn tại.

59. Mầm ảo tưởng được sinh ra từ hạt giống ảo tưởng. Cái mầm ảo tưởng đó vừa không bền vững lại vừa không hủy diệt được. Áp dụng cách hiểu đó rất phù hợp để hiểu các jiva.

60. Thuật ngữ bền vững hay không bền vững không thể được áp dụng cho các jiva không sinh ra. Cái gì không thể miêu tả bằng lời lẽ thì tất nhiên Nó cũng không thể được phân biệt một cách rõ ràng về sự bền vững hay không bền vững.

61. Cũng như trong những giấc mơ, trí tuệ hoạt động thông qua màyà, hình thức biểu hiện bề ngoài của tính nhị nguyên hiện diện.

62. Không còn nghi ngờ gì nữa, tinh thần, cái thực chất là nhất nguyên, nhưng lại xuất hiện là nhị nguyên trong giấc mơ; tương tự như vậy, không còn nghi ngờ gì nữa, những cái gì nhất nguyên đều xuất hiện như trạng thái nhị nguyên trong trạng thái tỉnh.

63. Kẻ chiêm bao đi lang thang khắp cả mười hướng trong giấc mơ của anh ta, thấy tất cả những hình thức khác nhau của jiva, được sinh ra từ những quả trứng, từ hơi ẩm ướt...

64. Những thực thể này, chúng là những khách thể của trí óc kẻ đang mơ, chúng không tồn tại ngoài ý thức của anh ta. Cũng vậy, trí tuệ của người chiêm bao là khách thể nhận thức riêng của người đang mơ.

65-66. Một người đang tỉnh đi lang thang cả mười hướng trong tình trạng tỉnh, anh ta gặp tất cả các trạng thái khác nhau của các jiva được sinh ra từ những quả trứng, từ hơi ẩm,v.v.. Chúng là khách thể của ý thức của người đang thức và chúng không tồn tại ngoài ý thức đó. Tương tự vậy, tinh thần của người đang thức là khách thể của chính sự nhận thức của anh ta.

67. Cả hai (tinh thần và jiva) là những khách thể nhận thức của nhau. Làm sao có thể cái này tồn tại mà không phụ thuộc vào cái kia? Câu trả lời của kẻ khôn ngoan đó là lời từ chối, lời phủ định. Không có bằng chứng về sự tồn tại của cái này mà không có cái kia; chúng được nhận thức chỉ thông qua cái kia.

68-70. Cũng như trong giấc mơ jiva tồn tại và biến mất, cũng vậy, các jiva này [được nhận thức trong trạng thái tỉnh] xuất hiện và biến mất.

71. Không một jiva nào luôn được thừa hưởng sự tồn tại. Những cái tồn tại này không nguyên nhân nào có thể sinh ra nó. Chân lý tối cao đó là không có gì đã từng được sinh ra.

72. Thế giới nhị nguyên, cái được nhận thức là tồn tại và được mô tả đặc điểm bởi mối quan hệ chủ thể và khách thể, nó thật sự là một sự vận động của trí tuệ. Trí tuệ một lần nữa, [theo quan điểm về Thực tại] không tiếp xúc với bất cứ đối tượng nào. Vì vậy, Nó được coi là vĩnh cửu và không bị ràng buộc.

73. Cái mà tồn tại dựa vào sức mạnh của nhận thức sai lầm, được đặt trên trí tưởng tượng thì không tồn tại thực. Một lần nữa, cái mà được cho là tồn tại trên sức mạnh những quan điểm tiến bộ của các trường phái khác cũng không tồn tại thật sự.

74. Atman được gọi là vô sinh (aja) từ cách nhìn của những hiểu biết sai lầm dựa trên trí tưởng tượng; thực ra Nó không bao giờ là vô sinh. Atman không sinh ra được coi là sự sinh ra từ quan điểm của tri thức sai lầm, được bảo vệ bởi tư tưởng của các trường phái tư tưởng khác.

75. Người ta khăng khăng nắm giữ ý tưởng về tính không có thật (ví dụ như tư tưởng về cái nhị nguyên). Nhưng cái nhị nguyên như thế không tồn tại. một người đã nhận thức được sự không có cái nhị nguyên, thì kẻ đó không bị sinh ra nữa,vì ở đó không còn nguyên nhân nào đối với việc sinh ra của anh ta.

76. Khi trí tuệ đã tìm thấy cái không có nguyên nhân là tối cao, hạ đẳng, hoặc trung bình, thì lúc đó Nó thoát ra khỏi sự sinh nở. Làm sao có kết quả mà không có nguyên nhân?

77. Sự không sinh nở của trí tuệ, cái trở thành tự do từ sự biểu hiện và mối liên hệ nhân quả, là có tính tuyệt đối và bất biến không thay đổi. Đối với cái nhị nguyên [ví dụ như việc nhận thức ý thức và các khách thể của nó] chỉ là sự khách thể hóa của tinh thần.

78. Nhận thức rõ việc không có mối quan hệ nhân quả như là chân lý cuối cùng và không phải tìm một lý lẽ nào khác [đối với sự sinh ra], người ta đạt được trạng thái giải thoát khỏi sự đau khổ, khoái lạc và sợ hãi.

79. Dựa trên sự giải thích về sự phụ thuộc đối với những đối tượng không thực, trí tuệ theo đuổi những đối tượng như thế, [nhưng nó trở về với trạng thái trong sạch của nó] khi nó đạt tới sự không bị phụ thuộc, thì lúc đó nhận thức rõ tính không thật của chúng.

80. Trí tuệ thoát khỏi sự ràng buộc [đối với những đối tượng bên ngoài] và không bị bối rối (bởi những đối tượng mới) lúc đó nó đạt tới trạng thái bất di bất dịch. Người thông thái nhận thức được trí tuệ như là Brahman; Nó không bị phân biệt, không sinh nở và không nhị nguyên.

81. Không có sự sinh nở, không mơ mộng và không ngủ say, thực tại bộc lộ chính mình bởi chính mình; vì Dharma (Atman) qua bản chất thực sự của Nó là linh hồn sáng chói.

82. Chúa tể (Atman) trở nên dễ dàng ẩn náu bởi vì sự ràng buộc với chỉ một đối tượng và được bộc lộ với khó khăn lớn lao.

83. Sự dốt nát, với những trí óc ngây thơ của chúng, thực sự che đậy Atman bằng sự thừa nhận về Nó như là sự tồn tại, không tồn tại, tồn tại và không tồn tại và toàn bộ cái không tồn tại, nhận biết được những những đặc tính này từ những quan niệm về sự biến đổi, sự bất động, sự kết hợp của biến đổi, bất dịch và sự phủ định hoàn toàn [cái mà chúng liên hệ với Atman].

84. Có 4 học thuyết đề cập đến Atman, nhờ vào sự ràng buộc với cái mà Nó vẫn luôn ẩn náu [từ quan điểm của con người]. Anh ta, người biết Chúa tể tối cao là không bao giờ cảm thấy được, qua chúng, anh ta thực sự hiểu biết tất cả.

85. Còn cái gì khác hơn điều anh ta vẫn ước ao là người đã đạt được trạng thái của người brahmin - một trạng thái của sự hoàn toàn thông suốt mọi sự và không nhị nguyên, trạng thái không có bắt đầu, ở giữa hay cuối cùng?

86. Sự khiêm tốn (vinaya) của những người brahmin là tự nhiên. Sự bình tĩnh của họ (s'ama) cũng là tự nhiên. Hơn nữa, quyền lực, sự chỉ huy, kiểm soát các cơ quan (dama) đến với họ cũng là tự nhiên. Anh ta, người nhận thức được Brahman, là người đạt được sự bình yên thanh thản.

87. Phái Vedànta thừa nhận trạng thái bình thường lúc thức trong trạng thái nhị nguyên, bao hàm các đối tượng và tư tưởng trong khi tiếp xúc với các đối tượng mang lại, điều đó đã được thừa nhận. Trường phái này cũng thừa nhận trạng thái bình thường tinh khiết [trạng thái mơ], ở đó được trải nghiệm cái nhị nguyên bao gồm các đối tượng và tư tưởng được sinh ra khi tiếp xúc với các đối tượng ấy, mặc dù những đối tượng như thế không tồn tại.

88. người thông thái, khôn ngoan nhận thức một trạng thái khác, trong trạng thái ấy ở đó không tồn tại các đối tượng mà cũng không tồn tại những tư tưởng có quan hệ với các đối tượng. Trạng thái này vượt ra khỏi tất cả những kinh nghiệm có tính thực nghiệm của con người. Họ nói đến 3 thứ là: tri thức,các đối tượng của tri thức và tri thức tối cao.

89. Hiểu biết tri thức và khả năng hiểu biết gấp 3 lần, cái này sau cái khác, người hiểu biết được ban cho một trí năng tối cao, đạt được trong chính cuộc sống này và trạng thái thông suốt mọi sự ở khắp mọi nơi.

90. Người ta sẽ phải có kiến thức về 4 điều, ngay từ sự bắt đầu. 4 điều đó như sau: những điều phải tránh, mục đích phải nhận thức rõ, những kỹ luật cần phải rèn luyện, tu dưỡng, trau dồi và những chiều hướng đáp lại trong kết qủa. trong 4 điều này, không kể mục tiêu phải nhận thức rõ [như Thực tại tối cao], tất cả chỉ tồn tại như là sản phẩm của trí tưởng tượng.

91. Tất cả Atman (dharmas) phải được nhận thức, với chính bản chất của chúng, là không có sự bắt đầu và [không bị trói buộc] giống như àkàs'a. Hoàn toàn không có trạng thái khác nhau trong chúng ở bất cứ mặt nào hay vào bất cứ lúc nào.

92. Tất cả những jiva với chính bản chất của chúng, chúng được làm sáng tỏ ngay từ lúc ban đầu. Ở đó không bao giờ còn có thể nghi ngờ gì về bản tính của chúng nữa. Anh ta hiểu biết được điều này, không tìm kiếm tri thức xa hơn nữa, chỉ anh ta có khả năng đạt được sự bất tử.

93. Các jiva, từ chính lúc khởi đầu và bằng chính bản chất của mình, là hoàn toàn bình yên, không được sinh ra và hoàn toàn tự do. Chúng được đặc trưng hóa bằng những cái có tính chất giống nhau và không phân tách nhau. Atman không được sinh ra thì luôn luôn được xác định ở những cái có tính chất giống nhau và sự tinh khiết.

94. Những kẻ thường xuyên sa vào vương quốc của những cái riêng biệt thì họ không thể nhận thức được tính tinh khiết của Atman. Đầu óc họ hướng về sự phân biệt và họ cố đi tìm cho được cái riêng biệt của các Atman. Vì vậy người ta gọi họ là những kẻ có đầu óc hẹp hòi.

95. Chỉ có họ trên trần gian này được ban cho sự khôn ngoan cao cả, họ tin tưởng chắc chắn về tính chất giống nhau và sự không được sinh ra của Atman. Người bình thường không hiểu được như vậy.

96. Tri thức, cái là bản chất chính của những jiva không sinh ra, chính Nó gọi là không được sinh ra và không liên hệ. Tri thức này được tuyên bố là không bị ràng buộc vì Nó không có liên hệ [với bất cứ đối tượng nào khác].

97. Đối với những kẻ ngu si, họ tin rằng Atman có thể xa rời bản chất chân thực của Nó ngay trong mức độ tối thiểu nhất. Đặc tính bất liên hệ một cách vĩnh hằng của Nó đã bị mất. [trong trường hợp đó] Sự tàn phá của cái ác là không còn nghi ngờ gì nữa.

98. Tất cả các jiva mãi mãi thoát khỏi sự ràng buộc và thanh khiết bởi bản chất của chúng. Chúng hoàn toàn sáng láng và tự do từ ngay lúc đầu. Tuy nhiên người thông thái nói về các jiva như là khả năng của sự hiểu biết [thực tại tối cao].

99. Tri thức tối cao của người thông thái thì hoàn toàn sáng chói, không bao giờ liên hệ với bất cứ đối tượng nào. Tất cả các jiva cũng như tri thức tối cao, chúng không bao giờ được liên hệ với các đối tượng. Đây không phải là quan điểm của phật tổ Buddha.

100. Nhận thức được Tri thức [về Thực tại Tối cao], cái khó hiểu thấu, sâu thẳm, uyên nguyên, không sinh ra, cứ vẫn vậy muôn thuở, hoàn toàn sáng láng và thoát khỏi tính đa tạp, chúng ta cúi chào Nó bằng sự tốt đẹp nhất mà chúng ta có thể có.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Com