Truyen2U.Net quay lại rồi đây! Các bạn truy cập Truyen2U.Com. Mong các bạn tiếp tục ủng hộ truy cập tên miền mới này nhé! Mãi yêu... ♥

augusty-phan tang

PHÂN TẦNG XÃ HỘI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY – PHƯƠNG PHÁP TIẾP CẬN VÀ KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU

http://thongtinphapluatdansu.wordpress.com/2010/04/14/4747-2/

Posted on 14/04/2010 by Civillawinfor

TRỊNH DUY LUÂN

Công cuộc đổi mới gần 2 thập kỷ qua đã làm thay đổi căn bản diện mạo đời sống kinh tế – xã hội ở nước ta. Nền kinh tế thị trường định hướng XHCN – sản phẩm của đổi mới đã phát huy hiệu quả của nó ở tốc độ tăng trưởng kinh tế cao và ổn định cùng với việc nâng cao mức sống của hầu hết các tầng lớp dân cư. Bên cạnh đó, kinh tế thị trường cũng làm nảy sinh ra không ít những hệ quả xã hội mà chúng ta đang phải tập trung giải quyết. Một trong các hệ quả như vậy là sự phân tầng xã hội (PTXH). Nghiên cứu về vấn đề này cho thấy bức tranh tổng thể về sự PTXH cũng như các yếu tố có liên quan. Qua đó, góp phần định hướng các mục tiêu và chiến lược giảm bất bình đẳng xã hội.

Về khái niệm PTXH, PTXH theo mức sống

PTXH là một trong những khái niệm cơ bản của xã hội học. Nó được định nghĩa là: “sự xếp hạng (ranking) một cách ổn định các vị trí trong xã hội xét từ góc độ quyền lực, uy tín hoặc các đặc quyền, đặc lợi không ngang nhau”. Trong sự PTXH, có các “tầng” (stratum), mỗi tầng là một tập hợp người (cá nhân) giống nhau về địa vị, bao gồm địa vị kinh tế (tài sản, thu nhập), địa vị chính trị (quyền lực) hay địa vị xã hội (như uy tín), từ đó mà họ có được những cơ hội thăng tiến, sự phong thưởng và những thứ bậc nhất định trong xã hội. Sự PTXH thường được mô tả dưới dạng các “tháp phân tầng” với những hình dáng khác nhau tuỳ thuộc vào đặc trưng của các loại xã hội. Về cơ bản, PTXH là một sự phân chia mang tính cấu trúc các tầng lớp, giai tầng xã hội dựa trên những đặc trưng về vị thế kinh tế – xã hội của các cá nhân. Vì vậy, khái niệm PTXH phân biệt với các khái niệm gần gũi như: phân hoá giai cấp, phân hoá giàu nghèo, phân cực xã hội. Các khái niệm sau này có thể xem như những biến thể, hay là trường hợp riêng của PTXH.

Trong lịch sử, tương ứng với các loại xã hội khác nhau, có những hệ thống PTXH khác nhau. Một số quốc gia có thể có sự bất bình đẳng về kinh tế rất cao, song quyền lực lại được phân bố một cách dân chủ, bình đẳng hơn. Trong khi ở một số quốc gia khác, bất bình đẳng về kinh tế có thể không lớn, nhưng quyền lực lại bị tập trung cao độ trong tay một nhóm cầm quyền, độc tài. Các nhà xã hội học thường dẫn ra những ví dụ điển hình như nước Anh trong lịch sử đã là một xã hội giai cấp, dựa trên cơ sở những khác biệt về sở hữu tài sản. Nước Đức quốc xã đã từng được phân tầng theo quyền lực. Xã hội Nam Phi trước đây là ví dụ về một xã hội phân tầng theo sự thống trị về chủng tộc.

Khái niệm PTXH vừa nêu trên, thực chất chỉ ở bình diện lý thuyết, vĩ mô. Để đưa vào phân tích những vấn đề thực tế, một cách thực nghiệm, cần phải tìm ra các phương pháp và các chỉ báo cần thiết để thực hiện việc đo lường này. Nhìn chung, người ta đều thừa nhận rằng, việc đo lường các khác biệt về kinh tế (tài sản và thu nhập) dễ hơn nhiều so với 2 lĩnh vực còn lại trong định nghĩa về PTXH. Việc xác định những khác biệt về kinh tế, vấn đề đo lường chính xác các khác biệt về tài sản và thu nhập cũng không dễ dàng, nhất là trong các xã hội đang phát triển. Vì vậy, có thể là hợp lý khi các nhà nghiên cứu tạm thời chấp nhận việc sử dụng các chỉ báo về thu nhập và mức sống để xem xét sự PTXH, tức là chỉ theo các dấu hiệu kinh tế. Bởi vì, sẽ cần rất nhiều thời gian để xử lý các vấn đề phương pháp luận và phương pháp cụ thể nếu muốn đo lường đồng thời cả 3 dấu hiệu này để xác định sự PTXH thực tế.

Thời gian qua ở nước ta, trong các tài liệu nghiên cứu và cả trên các phương tiện truyền thông, thường sử dụng thêm một khái niệm có nội hàm hẹp hơn – “phân hoá giàu – nghèo” – đi kèm theo khái niệm PTXH. Điều này là cần thiết (như đã nói trên) và nó cũng phản ánh một sự thật là hầu hết các nghiên cứu và các kết luận về PTXH ở nước ta gần đây thực chất mới chỉ đề cập tới sự phân hoá giàu nghèo chứ chưa phải sự PTXH với nghĩa chính xác của từ này. Chính vì thế, một số nhà nghiên cứu khoa học xã hội đã thận trọng hơn bằng cách sử dụng khái niệm “PTXH theo thu nhập”, “PTXH theo mức sống” thay cho khái niệm PTXH nói chung.

Các chỉ báo được sử dụng trong nghiên cứu về PTXH theo thu nhập và mức sống

Với hướng tiếp cận nói trên, các nghiên cứu về PTXH vừa qua đã cố gắng sử dụng những hệ chỉ báo khá linh hoạt và đa dạng để đo lường và phân loại các nhóm, tầng xã hội theo thu nhập và mức sống. Trong cuộc nghiên cứu về những biến đổi xã hội trong thời kỳ Đổi mới tại Hà Nội vào năm 1992 (lần đầu tiên, khái niệm PTXH được sử dụng), các tác giả đã đề xuất ý tưởng sử dụng khái niệm PTXH theo mức sống, gồm 4 chỉ báo “khách quan” và 1 chỉ báo “chủ quan” để xét sự phân tầng các hộ gia đình theo mức sống:

Điều kiện nhà ở, bao gồm các yếu tố: sở hữu, diện tích và loại nhà, khu phụ, vị trí, hoạt động cải tạo nâng cấp trong 5 năm qua, chất lượng nhà và đánh giá.

Tiện nghi trong nhà, bao gồm 12 loại tiện nghi chủ yếu, đa số mới xuất hiện trong đời sống của các gia đình trong 5 năm vừa qua. Ví dụ: tivi màu, xe máy, đầu Video, máy giặt, máy điều hoà nhiệt độ…

Chi tiêu, bao gồm các yếu tố: thói quen dùng năng lượng đun nấu, tiền điện hàng tháng, thói quen ăn sáng, ăn trưa, chi cho việc học của con cái, các chi tiêu cho nhu cầu văn hoá…

Thu nhập, bao gồm các yếu tố: nguồn thu nhập, mức độ ổn định, bất ổn định của thu nhập, tổng thu nhập và thu nhập bình quân trong gia đình (theo kê khai của chủ hộ).

Chỉ báo chủ quan, bao gồm 2 loại đánh giá: tự đánh giá của chủ hộ về mức sống của gia đình hiện nay trên thang đo 5 bậc; đánh giá của điều tra viên qua phỏng vấn và quan sát cũng trên thang đo 5 bậc trên cơ sở các nhận xét về nhà ở, tiện nghi, gia phong, gia cảnh, trang trí nội thất, phong cách trả lời… hoặc một phần thông tin thu thập được từ bên ngoài (từ cán bộ tổ dân phố, phường, hàng xóm…).

Một công trình nghiên cứu khác của Viện Xã hội học thuộc Chương trình Nghiên cứu khoa học cấp nhà nước (KX.04) cũng đã tập trung cho chủ đề PTXH được thực hiện trong 3 năm 1992-1994. Trong công trình này, các tác giả chỉ sử dụng khái niệm PTXH, không nói cụ thể là PTXH theo mức sống. Tuy nhiên, xem xét hệ biến số được sử dụng khi thu thập thông tin cũng như khi phân tích kết quả thì về thực chất là nghiên cứu PTXH theo thu nhập và mức sống. Có thể dẫn ra cụ thể hơn các biến số đó gồm:

- Hai biến số phụ thuộc: 1) Sự tích tụ vật chất của các tầng lớp khác nhau. Thực chất vẫn bám sát mức thu nhập bình quân của cá nhân và hộ gia đình, được phân nhóm theo chính các mức thu nhập này hoặc chia theo “ngũ vị phân” 20% từ dưới lên. Biến số thu nhập được tính toán trên cơ sở hộ gia đình và cá nhân kê khai trong tháng với các khoản mục chính là: lương và các khoản phụ cấp của nghề chính, thu nhập do làm thêm có liên quan đến nghề chính, các loại lãi suất (nếu có), những khoản thu nhập khác; 2) Sự đầu tư và tiêu dùng văn hoá của các tầng lớp khác nhau. Các chỉ báo được sử dụng gồm: việc đầu tư cho học hành của con cái (kể cả việc tìm trường tốt, lớp tốt, học thêm), đầu tư thời gian chăm sóc việc học của con, mua sắm các loại sách báo, phương tiện nghe nhìn cho gia đình.

- Sáu biến số độc lập: 1) Truyền thống gia đình (nguồn gốc xuất thân của chồng, vợ); 2) Trình độ học vấn và chuyên môn có được qua các thời kỳ; 3) Nghề nghiệp và sự thăng tiến trong nghề có liên quan đến quyền lực có thể có; 4) Tính tích cực chính trị; 5) Môi trường và vị trí của chỗ ở hiện nay; 6) Tuổi của người được hỏi.

Như vậy, các nghiên cứu xã hội học những năm vừa qua đã hình thành nên nhiều nguồn số liệu về thực trạng PTXH ở nước ta hiện nay. Song về cơ bản, nghiên cứu và đo lường sự PTXH ở ta thời gian qua mới thực hiện ở một giác độ quy giản. Với thang đo 5 nhóm mức sống để phản ánh sự phân hoá giàu – nghèo ở các địa phương, các vùng, hay trong các nhóm xã hội nghề nghiệp. Các chỉ báo này nhiều khi được phân tích và rút ra kết luận như là sự PTXH. Nhiều nghiên cứu xã hội học sau đó lại thường sử dụng chỉ báo này như một biến số độc lập để phân tích và giải thích các biến số phụ thuộc khác. Sự PTXH theo quyền lực và uy tín hầu như không được đề cập đến. Thêm vào đó, các công trình nghiên cứu còn không thống nhất về chuẩn được sử dụng để phân hạng và tên gọi của các nhóm. Vì thế, rất khó so sánh cả theo không gian lẫn thời gian, ngoại trừ các phân tích trên nền số liệu của các cuộc điều tra mức sống dân cư toàn quốc năm 1993 và 1998.

Tháp phân tầng và vài kết quả điều tra thống kê

Để mô hình hoá cấu trúc phân tầng của một xã hội, người ta thường sử dụng các “tháp phân tầng”, tương tự như “tháp dân số”, tức là sắp xếp các “tầng” theo thứ tự từ dưới đáy là các tầng lớp nghèo khổ (hạ lưu) lên đến tầng lớp trung bình (trung lưu thấp và cao) và trên cùng là tầng lớp giàu có (thượng lưu), cùng với tỷ lệ phần trăm mà các tầng lớp này chiếm trong cơ cấu xã hội. Trong lịch sử, người ta đã “loại hình hoá” một số kiểu tháp phân tầng đặc trưng cho các xã hội. Có 5 kiểu thường gặp sau:

Tháp hình nón: phản ánh mức độ bất bình đẳng cao của các xã hội, nhóm người giàu, có quyền lực (phần đỉnh tháp) chiếm tỷ lệ rất thấp; trong khi đa số nghèo khổ (ở đáy tháp) lại chiếm tỷ lệ rất cao.

Tháp hình nón cụt: tầng lớp giàu có tăng lên, tầng lớp trung lưu chiếm tỷ trọng lớn hơn, mức độ bình đẳng cao hơn.

Tháp hình thoi (quả trám, con quay): cả 2 nhóm giàu và nghèo đều chiếm tỷ lệ nhỏ, nhóm trung lưu chiếm đa số nằm ở phần thân tháp. Tuy nhiên, khoảng cách của 2 nhóm đỉnh và đáy tháp còn khá xa.

Tháp hình trụ: tỷ lệ các nhóm giàu có, nghèo và trung lưu tương đối đồng đều. Tuỳ vào chiều cao của tháp để nói về mức độ bình đẳng xã hội.

Tháp hình “đĩa bay” (thấp dẹt): có thể có 2 trạng thái là bình quân nghèo khổ hoặc xã hội lý tưởng, thịnh vượng toàn dân, với tuyệt đại bộ phận các thành viên của xã hội có mức sống trung lưu và khá giả (xã hội trung lưu).

Về hình dáng, tháp có hình “con quay” với phần giữa thân (mức sống trung bình) phình rộng, phản ánh mức độ đồng đều, sản phẩm của chủ nghĩa bình quân thời bao cấp còn rất rõ. Đỉnh và đáy tháp (tỷ lệ hộ có mức sống giàu và mức sống nghèo) rất hẹp, phản ánh mức độ phân cực “giàu – nghèo” còn hạn chế. Tỷ lệ mức sống trung bình khá vượt tỷ lệ mức sống trung bình kém 2,5 lần. Đáng tiếc là không có một tháp phân tầng tương tự vào thời kỳ 1970-1980 để có thể so sánh. Song nếu được tái hiện, tháp phân tầng thời kỳ bao cấp sẽ còn phình rộng hơn ở mức sống trung bình và hẹp hơn ở cả 2 phía đỉnh và đáy tháp, phản ánh một thời kỳ điển hình với mức sống định lượng bình quân theo tem phiếu.

PTXH cũng được nghiên cứu theo hướng khác là xử lý và phân tích kết quả của các cuộc điều tra mức sống dân cư và hộ gia đình để từ đó rút ra các kết luận về thực trạng và xu hướng phân hoá giàu nghèo (PTXH theo thu nhập hoặc mức sống). Những phân tích dưới đây sẽ minh họa cho hướng nghiên cứu này trên cơ sở số liệu của các cuộc điều tra mức sống dân cư toàn quốc năm 1993, năm 1998 và cuộc điều tra hộ gia đình đa mục tiêu 1994-1997.

Trong thập kỷ 90 của thế kỷ trước, mức sống của đại đa số dân cư nước ta đã tăng lên đáng kể. Tuy nhiên, sự chênh lệch về mức sống cũng ngày càng tăng, tạo nên một sự PTXH rõ nét hơn giữa và trong các nhóm xã hội. Chẳng hạn, chênh lệch về chi tiêu giữa nhóm 20% giàu nhất và nhóm 20% nghèo nhất là khoảng 5,52 lần vào năm 1998 và 4,58 lần vào năm 1993. Còn chênh lệch theo thu nhập thì cao hơn. Năm 1998, chênh lệch về thu nhập giữa nhóm 20% giàu nhất và nhóm 20% nghèo nhất là 11,26 lần, giữa nhóm 10% giàu nhất và nhóm 10% nghèo nhất là hơn 20 lần, còn giữa nhóm 5% giàu nhất và nhóm 5% nghèo nhất là hơn 40 lần.

Sự phân tầng theo mức sống hiện nay cũng có liên quan với số nhân khẩu và tỷ lệ phụ thuộc của hộ gia đình (tỷ lệ người ngoài độ tuổi lao động so với người trong độ tuổi lao động). Tỷ lệ này của 20% hộ nghèo nhất là 1,13, cao gấp đôi so với nhóm 20% hộ giàu nhất (0,54).

Người có học vấn càng cao, càng có nhiều khả năng thuộc vào nhóm có mức sống cao. Trong những chủ hộ có học vấn đại học, cao đẳng trở lên thì 70% thuộc nhóm 20% giàu nhất, chỉ có 1,5% thuộc nhóm 20% nghèo nhất. Chi tiêu của hộ có chủ hộ học vấn đại học, cao đẳng trở lên cao gấp 2,33 lần (năm 1993) và 3,4 lần (năm 1998) so với hộ có chủ hộ chưa bao giờ đến trường.

Phân tầng mức sống cũng gắn liền với sự khác biệt theo khu vực và vùng kinh tế – xã hội. 97% dân số trong độ tuổi lao động thuộc nhóm 20% nghèo nhất là ở nông thôn và 65% dân số trong độ tuổi lao động thuộc nhóm 20% giàu nhất là ở đô thị. Sự chênh lệch mức sống giữa thành thị và nông thôn đóng góp phần chủ yếu (tới 96%) vào mức độ phân tầng mức sống nói chung trên quy mô toàn quốc. Phần lớn dân số trong độ tuổi lao động thuộc nhóm 20% giàu nhất sống ở các vùng: Đông Nam Bộ (37%), Đồng bằng sông Hồng (21%) và Đồng bằng sông Cửu Long (18%), trong khi ở vùng núi phía Bắc chỉ có gần 7% và ở Bắc Trung Bộ là 6%.

Phân tầng mức sống cũng liên quan rõ rệt theo các khu vực kinh tế. Phần lớn người làm việc trong khu vực kinh tế nhà nước có mức sống thuộc nhóm 20% giàu nhất, hoặc rơi vào 2 nhóm trên cùng (75-80%). Tình hình cũng tương tự như vậy ở nhóm làm việc trong doanh nghiệp nước ngoài. Chỉ có 1/3 lao động trong doanh nghiệp tư nhân và gần 1/5 lao động trong hộ sản xuất kinh doanh nhỏ, thuộc vào nhóm 20% giàu nhất. Khoảng 40% những người lao động thuộc hợp tác xã, doanh nghiệp tư nhân và hộ sản xuất kinh doanh nhỏ thuộc vào nhóm có mức sống dưới trung bình. 3/4 người thuộc nhóm 20% nghèo nhất là lao động trong hộ sản xuất kinh doanh nhỏ, trong khi 60% người thuộc nhóm 20% giàu nhất làm việc trong 3 khu vực của Nhà nước (kinh tế, hành chính – sự nghiệp, chính trị – xã hội). Như vậy, người có khả năng sẽ có mức sống cao hơn nếu gắn với khu vực nhà nước, khu vực chính quy (chẳng hạn, doanh nghiệp có đăng ký) và khu vực đầu tư nước ngoài. Ngược lại, mức sống thấp hơn thường gắn với những người làm việc trong khu vực ngoài nhà nước, khu vực phi chính quy (informal sector), hộ sản xuất kinh doanh nhỏ, hợp tác xã.

PTXH cũng có biểu hiện trong lĩnh vực phúc lợi xã hội. Trợ cấp phúc lợi xã hội là công cụ mà nhà nước dùng để giảm bớt những chênh lệch quá lớn, bảo đảm công bằng xã hội. Tuy nhiên, ở Việt Nam hiện nay, những trợ cấp này còn chiếm tỷ trọng rất thấp trong tổng thu nhập của dân cư (khoảng 4,4%). Dân cư Việt Nam chủ yếu có thu nhập từ lao động cá nhân và gia đình; thu nhập do phân phối lại, mang tính xã hội còn thấp. Trong việc phân phối phúc lợi xã hội, chiếm tỷ trọng cao nhất là chi cho bảo hiểm xã hội, bao gồm chi hưu trí và mất sức lao động (82,4%), tiếp theo là chi cho bảo trợ xã hội (16,0%), chi cho xoá đói giảm nghèo (1,1%). Tương quan giữa phúc lợi xã hội và PTXH chỉ ra rằng, hiện nay chủ yếu là nhóm có mức sống “trung bình” và “trên trung bình” được hưởng phúc lợi cao hơn các nhóm khác.

Qua phân tích ở trên, nhìn chung, hiện trạng PTXH ở nước ta khá đặc trưng cho thời kỳ đầu chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang kinh tế thị trường. Mức chênh lệch giữa các tầng lớp chưa lớn, tốc độ tăng chênh lệch chưa cao. Tuy nhiên, có một số đặc điểm cần lưu ý là: các tầng lớp trung lưu và trung lưu trên thường gắn với khu vực nhà nước, khu vực kinh tế chính quy. Hai nhóm này cũng được hưởng lợi nhiều hơn từ việc phân phối phúc lợi xã hội so với các nhóm còn lại.

Kết luận

Thực chất cách tiếp cận và phương pháp nghiên cứu về PTXH ở Việt Nam trong thời gian qua mới chỉ là nghiên cứu về sự phân hoá giàu nghèo, khoảng cách giữa các nhóm theo chỉ báo kinh tế, thu nhập, mức sống. Các cuộc điều tra định lượng dựa trên các chỉ báo này đã được tiến hành để mô tả và xác định thực trạng và đặc trưng của vấn đề. Tuy nhiên, để tiếp cận và phân tích có cơ sở khoa học vững chắc về sự PTXH theo đúng nghĩa của từ này cần dựa trên nhiều thông tin và chỉ báo khác nữa, cũng như cần có thêm những cách tiếp cận thích hợp hơn. Nó ít nhiều sẽ mang tính lý thuyết và vĩ mô hơn.

Đương nhiên, các cuộc điều tra, nghiên cứu quy mô lớn và định lượng về sự phân hoá giàu nghèo, tương quan mức sống giữ các tầng dân cư cần được tiến hành thường xuyên là rất cần thiết để có cái nhìn tổng thể về xu hướng biến đổi bất bình đẳng xã hội. Mặt khác, cũng cần có các hướng tiếp cận mới, với thế mạnh của một số ngành khoa học xã hội để tìm hiểu sâu hơn động thái của các nhóm, tầng xã hội đáng chú ý trong giai đoạn hiện nay. Ví dụ, giai tầng, nhóm xã hội nào đang là động lực của sự phát triển hoặc đang có triển vọng trở thành một lực lượng như vậy? Đã hình thành một tầng lớp trung lưu mới của xã hội Việt Nam chưa? Nếu có, thì ai là những thành viên và xu thế vận động, phát triển của nó như thế nào? Đóng góp của tầng lớp đó cho sự phát triển của đất nước trong tương lai sẽ ra sao?… Cần phân tích một số nhóm, giai tầng xã hội mới, đáng chú ý như giới doanh nhân, giới trí thức, đặc biệt là trí thức khoa học công nghệ; công nhân kỹ thuật tay nghề cao; giới quản lý và đội ngũ công chức. Đặc biệt, cần chỉ ra xu hướng biến đổi các nhóm này dưới tác động của của các nhân tố mới trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước trong thập niên đầu của thế kỷ XXI.

Việc khai thác triệt để nguồn dữ liệu thống kê kinh tế – xã hội, các cuộc tổng điều tra dân số, điều tra mức sống dân cư, kết hợp với các nghiên cứu chọn mẫu, định tính và phân tích xã hội học sẽ là hướng có triển vọng để hiểu và nắm bắt được bản chất của sự PTXH ở nước ta hiện nay. Đó không chỉ là hướng nghiên cứu thích hợp về mặt xã hội mà còn là hướng nghiên cứu kinh tế – chính trị về cấu trúc xã hội và về mô hình xã hội tổng thể của đất nước trong giai đoạn mới.

Sau cùng, theo kinh nghiệm của Trung Quốc, các nhà xã hội học cũng đã phát triển một số hướng phân tích về kết cấu giai tầng của xã hội Trung Quốc hiện nay. Theo Giáo sư Lục Học Nghệ, nghiên cứu này vận dụng một hướng tiếp cận mới, được gọi là “giai tầng luận”, thay thế cho quan điểm giai cấp cứng nhắc thời kỳ trước cải cách (trong XHCN chỉ còn 2 giai cấp là công nhân, nông dân và 1 tầng lớp trí thức XHCN). Quan điểm giai tầng là phù hợp với thực tế xã hội thời cải cách, khai phóng, mở cửa. Cũng theo tác giả quan điểm này, xã hội Trung Quốc đương đại có 10 tầng lớp xã hội được phân tầng theo 3 tiêu chí cơ bản là: nguồn lực tổ chức (chính trị), nguồn lực kinh tế và nguồn lực văn hoá. Sự phân hoá thành người giàu – người nghèo, tầng lớp có lợi thế – tầng lớp yếu thế, đều căn cứ ở việc họ không có, hoặc có 1, 2, hay cả 3 nguồn lực này với các mức độ khác nhau. Đây cũng là một cách tiếp cận mới, sáng tạo, đáng tham khảo.

Xin giới thiệu bài tham luận của PGS.TS. Lê Ngọc Hùng 

http://dangcongsan.vn/cpv/Modules/News/NewsDetail.aspx?co_id=28340652&cn_id=427766

tại Hội thảo “Phát triển bền vững thủ đô Hà Nội văn hiến, anh hùng, vì hòa bình” về “Chênh lệch giàu nghèo và phân tầng xã hội ở Hà Nội hiện nay”.

Tóm tắt

Bài viết phân tích các dữ liệu định lượng và định tính hiện có để làm rõ một số xu hướng chênh lệch giàu nghèo và phân tầng xã hội ở Việt Nam nói chung và ở Hà Nội nói riêng. Các xu hướng đó là:

Tỉ lệ nghèo của Việt Nam giảm nhanh chóng trong thời gian qua và tiếp tục giảm cùng với mức sống của các giai tầng xã hội được cải thiện không ngừng.

Khoảng cách thu nhập và chi tiêu của nhóm 20% giàu nhất và nhóm 20% nghèo nhất tăng lên nhưng được kiểm soát để không tăng quá nhanh. Khoảng cách giàu nghèo về giáo dục không tăng mà giảm, nhưng càng lên bậc học cao thì chênh lệch giàu nghèo về cơ hội đến trường càng giảm. Trên phạm vi cả nước cũng như ở Hà Nội, đa số người nghèo sống ở nông thôn và đa số người giàu sống ở thành thị.

Cơ cấu xã hội ít thành phần chuyển sang cơ cấu phân tầng xã hội gồm nhiều thành phần, nhiều tầng lớp xã hội phong phú, đa dạng về ngành nghề hướng vào kinh tế thị trường. Cơ cấu xã hội nghề nghiệp nặng về nông nghiệp đang chuyển sang cơ cấu xã hội công nghiệp-dịch vụ.

Sự phân tầng xã hội có xu hướng chuyển mạnh từ ít thành phần sang nhiều thành phần, từ trì trệ sang năng động, linh hoạt, mềm dẻo nhằm tạo ra các cơ hội và đáp ứng các nhu cầu đa dạng, phong phú của các cá nhân, các nhóm xã hội và các giai tầng xã hội.

Cơ chế phân phối có xu hướng tuân theo các quy luật thị trường như quy luật giá trị và định hướng xã hội chủ nghĩa, tức là phân phối theo nguyên tắc: làm nhiều hưởng nhiều, làm theo năng lực-hưởng theo lao động, có tính đến công bằng xã hội, bình đẳng xã hội, bình đẳng về các cơ hội thể hiện trong các chính sách và chương trình xoá đói giảm nghèo và các chương trình, chính sách khác nhằm hỗ trợ nhóm xã hội yếu thế.

Mặc dù Việt Nam là một nước còn nghèo, nhưng nhờ công cuộc đổi mới kinh tế-xã hội nên vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế đang được củng cố và tăng lên. Mặc dù nguy cơ tụt hậu về kinh tế vẫn còn rất lớn, nhưng khoảng cách chênh lệch về kinh tế-xã hội của Việt Nam so với các quốc gia khác đang được cải thiện rõ rệt. Hà Nội là một thành phố đi đầu trong công cuộc xoá đói, giảm nghèo, kiềm chế chênh lệch giàu nghèo và định hướng, điều chỉnh sự phân tầng xã hội nhằm mục tiêu chung là dân giàu, nước mạnh, xã hội phát triển công bằng, dân chủ và văn minh.

Đặt vấn đề

Chênh lệch giàu nghèo và phân tầng xã hội là một quá trình tự nhiên, tất yếu của xã hội loài người. Bởi vì cứ có sự phân công lao động là có sự phân hoá giàu nghèo và phân tầng xã hội. Sự phân hoá giàu nghèo và phân tầng xã hội có thể biểu hiện dưới nhiều hình thức: đơn giản nhất và dễ nhìn thấy nhất là những người giàu, nhà giàu sống trong trung tâm thành phố và những người nghèo, nhà nghèo sống ở ngoại ô thành phố, thậm chí trong những khu nhà tạm bợ “ổ chuột”. Dưới hình thức phức tạp, tinh vi là sự phân chia thành các giai cấp như giai cấp công nhân và nông dân; các giai tầng như tầng lớp trí thức, tầng lớp thương nhân, tầng lớp doanh nhân; các nhóm nghề nghiệp như bác sỹ, kỹ sư, giáo viên, thợ thủ công, những người làm công ăn lương trong cơ quan nhà nước, những người làm việc; và cả sự phân tầng xã hội thành những giai tầng lãnh đạo, quản lý và những giai tầng bị lãnh đạo, quản lý.

Điều quan trọng nhất là sự phân hoá giàu nghèo vừa là kết quả vừă là tác nhân của sự sự phân tầng xã hội. Những người giàu có điều kiện đầu tư cho việc học tập và nâng cao sức khoẻ, nhờ vậy họ sẽ có năng lực để tiếp cận thị trường và kiếm được việc làm có thu nhập cao. Trong khi đó, người nghèo không có điều kiện học tập và sức khoẻ yếu nên khó tìm được việc làm có thu nhập cao mà thường phải làm những công việc ít tiền với vị thế xã hội không cao. Như thế có nghĩa là sự chênh lệch giàu nghèo là nguyên nhân của sự phân tầng xã hội và ngược lại.

Sự phân tầng xã hội đã xảy ra trong thời kỳ quản lý kinh tế theo cơ chế tập trung quan liêu bao cấp và trong kinh tế thị trường kể cả khi được định hướng và điều chỉnh của nhà nước, sự phân tầng xã hội vẫn xảy ra một cách tất yếu với các hình thức biểu hiện rất khác nhau mà mỗi cá nhân có thể ý thức không giống nhau vế sự tác động của nó. Nhưng rõ ràng là nếu hiểu rõ các đặc điểm, tính chất của sự chênh lệch giàu nghèo và phân tầng xã hội, các nguyên nhân và hậu quả của chúng sẽ giúp đề xuất được những giải pháp để có thể xoá đói giảm nghèo và giảm mức độ chênh lệch giàu nghèo, đồng thời điều chỉnh được sự phân tầng xã hội theo hướng phát triển bền vững và công bằng xã hội. Đặc biệt nếu xác định được xu hướng biến đổi mô hình phân tầng xã hội thì có thể chủ động và tích cực thúc đẩy sự phân tầng xã hội theo hướng có lợi cho sự phát triển tự do của mỗi người, mỗi thành viên trong cơ cấu xã hội.

Mặc dù sự phân tầng xã hội là không tránh khỏi, nhưng ở Việt Nam, việc nghiên cứu khoa học về chênh lệch giàu nghèo và sự phân tầng xã hội mới thực sự bắt đầu sau khi Đảng và Nhà nước Việt Nam chính thức tiến hành công cuộc đổi mới toàn diện đời sống kinh tế-xã hội của đất nước vào năm 1986.

Cần đánh giá cao những công trình nghiên cứu về sự phân tầng xã hội của thời kỳ đầu đổi mới, cuối những năm 1980 đầu những năm 1990, bởi vì các nghiên cứu đó đã gợi ra sự cần thiết phải đánh giá các biểu hiện của thực trạng và xu hướng chênh lệch giàu nghèo và sự biến đổi trúc xã hội và phân tầng xã hội ở Việt Nam. Sự phân tầng xã hội ở Việt Nam có những xu hướng biến đổi như thế nào là phụ thuộc rất nhiều vào sự tác động của sự phân hoá giàu nghèo và nhiều yếu tố kinh tế, văn hoá, xã hội mà các nhà khoa học cần phải nghiên cứu thường xuyên để kịp thời phát hiện và có giải pháp định hướng, điều chỉnh phù hợp.

Không có nhiều kết quả nghiên cứu về sự chênh lệch giàu nghèo và phân tầng xã hội ở Hà Nội. Do đó, một mặt cần tìm hiểu bối cảnh phân hoá giàu nghèo và phân tầng xã hội chung của cả nước để có thể theo cách suy luận từ cái chung đến cái riêng để hiểu được Hà Nội. Mặt khác, cần khai thác triệt để những dữ liệu hiện có để có thể bổ sung thông tin cần thiết nhằm đánh giá đầy đủ hơn, chính xác hơn về chênh lệch giàu nghèo và phân tầng xã hội ở Hà Nội.

Bối cảnh chung về mức thu nhập và tỉ lệ nghèo ở Việt Nam

Công cuộc đổi mới của Việt Nam trong hơn 25 năm qua đã trực tiếp cải thiện đời sống của nhân dân ở cả thành thị và nông thôn. Điều này thể hiện rõ ràng qua mức thu nhập bình quân đầu người liên tục tăng trên phạm vi cả nước. Mức thu nhập bình quân đầu người Việt Nam tăng từ 295 nghìn đồng/tháng vào năm 1999 lên 995 nghìn đồng/tháng năm 2008. Trong cùng thời kỳ này mức thu nhập bình quân đầu người ở thành thị tăng từ 517 nghìn đồng lên 1605 nghìn đồng và ở nông thôn tăng từ 225 nghìn lên 762 nghìn đồng (xem bảng 1).

Bảng 1. Thu nhập bình quân đầu người từ 1999-2008 (nghìn đồng)

TT

Tỷ lệ hộ nghèo

1999

2002

2004

2006

2008

1

Cả nước

295

356

484

636

995

2

Thành thị

517

622

815

1058

1605

3

Nông thôn

225

275

378

506

762

Nguồn: Niên giám thống kê 2009, Nxb Thống kê, 2010

Mặc dù mức sống của người dân đều được cải thiện nhưng chênh lệch giàu nghèo vẫn xảy ra và vẫn có không ít người nghèo, hộ gia đình nghèo và các cụm dân cư nghèo ở cả thành thị và nông thôn. Các cơ quan hữu quan sử dụng nhiều thước đo khác nhau để xác định tỉ lệ nghèo và chênh lệch giàu nghèo. Trên thế giới, các quốc gia và các tổ chức quốc tế có thể sử dụng thước đo 1 đôla/ngày/người, 2 đô la/ngày/người để xác định xem có bao nhiêu người có mức sống dưới mức như vậy để từ đó tính ra tỉ lệ nghèo dưới 1đôla/ngày/người hay dưới 2đôla/ngày/người.

Ở Việt Nam chuẩn nghèo, được xác định dựa trên các tính toán của các cơ quan chức năng như Tổng cục Thống kê hay Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội (MOLISA). Tổng cục Thống kê đã xác định chuẩn nghèo dựa trên cách tiếp cận của Ngân hàng Thế giới, gồm hai mức:

- Nghèo lương thực thực phẩm: tổng chi dùng chỉ tính riêng cho phần lương thực thực phẩm, làm sao để đảm bảo lượng dinh dưỡng tối thiểu cho một người là 2100 kcal/ngày đêm;

- Nghèo chung: tổng chi dùng cho cả giỏ hàng tiêu dùng tối thiểu, được xác định bằng cách ước lượng tỷ lệ: 70% chi dùng dành cho lương thực thực phẩm, 30% cho các khoản còn lại.

Theo cách xác định trên, năm 1998 chuẩn nghèo lương thực thực phẩm của Việt Nam bằng 107 234 VND/tháng; chuẩn nghèo chung bằng 149 156 VND/tháng. Để đánh giá chính xác chuẩn nghèo cho các thời điểm, các mức này cần hiệu chỉnh lại theo chỉ số giá tiêu dùng.

Chuẩn nghèo của Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội được xác định một cách tương đối bằng cách làm tròn số và áp dụng cho từng khu vực và vùng miền khác nhau (nông thôn miền núi, hải đảo, nông thôn đồng bằng, thành thị) (Theo Ngưỡng nghèo, http://Wapedia.mobi, 18/2/2010)

Từ 1993 đến nay Chính phủ Việt Nam đã nhiều lần điều chỉnh mức chuẩn nghèo. Theo Quyết định số 143/2001/QĐ-TTg của Thủ tướng chính phủ ngày 27/9/2001, trong đó phê duyệt "Chương trình mục tiêu quốc gia xóa đói và giảm nghèo giai đoạn 2001-2005", thì những hộ gia đình có thu nhập bình quân đầu người ở khu vực nông thôn miền núi và hải đảo từ 80.000 đồng/người/tháng (960.000 đồng/người/năm) trở xuống là hộ nghèo, ở khu vực nông thôn đồng bằng những hộ gia đình có thu nhập bình quân đầu người từ 100.000 đồng/người/tháng (1.200.000 đồng/người/năm) trở xuống là hộ nghèo, ở khu vực thành thị những hộ có thu nhập bình quân đầu người từ 150.000 đồng/người/tháng (1.800.000 đồng/người/năm) trở xuống là hộ nghèo.

Trước đó, vào những năm 1990, chuẩn nghèo ở Việt Nam được xác định theo mức: những hộ gia đình có thu nhập bình quân đầu người ở khu vực nông thôn miền núi và hải đảo từ 45.000 đồng/người/tháng (540.000 đồng/người/năm) trở xuống là hộ nghèo, ở khu vực nông thôn đồng bằng những hộ gia đình có thu nhập bình quân đầu người từ 70.000 đồng/người/tháng (840.000 đồng/người/năm) trở xuống là hộ nghèo, ở khu vực thành thị những hộ có thu nhập bình quân đầu người từ 100.000 đồng/người/tháng (1.200.000 đồng/người/năm) trở xuống là hộ nghèo.

Theo Quyết định số 170/2005/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 8/7/2005 về việc ban hành chuẩn nghèo áp dụng cho giai đoạn 2006-2010 thì ở khu vực nông thôn những hộ có mức thu nhập bình quân từ 200.000 đồng/người/tháng (2.400.000 đồng/người/năm)trở xuống là hộ nghèo, ở khu vực thành thị những hộ có thu nhập bình quân từ 260.000 đồng/người/tháng (dưới 3.120.000 đồng/người/năm) trở xuống là hộ nghèo.

Tiêu chuẩn nghèo tại Hà Nội năm 2005 là thu nhập bình quân đầu người/ tháng dưới 270 000 đồng ở khu vực nông thôn và dưới 350 000 đồng ở khu vực thành thị. Còn ở thành phố Hồ Chí Minh năm 2004 là thu nhập bình quân đầu người dưới 330.000 đồng/tháng hoặc 4.000.000 đồng/năm (tương ứng 284USD/năm thấp hơn tiêu chuẩn 360 USD/năm của quốc tế).

Chính phủ xác định chuẩn nghèo dựa vào số liệu thu nhập bình quân đầu người hàng tháng của hộ gia đình giai đoạn 2006 – 2010. Theo quy định các chuẩn nghèo được tính riêng cho thành thị và nông thôn. Dựa vào chuẩn nghèo có thể xác định được tỉ lệ nghèo hộ gia đình các năm 2004, 2006, 2008.

Tỉ lệ người nghèo được tính dựa vào số liệu chi tiêu bình quân đầu người/tháng của hộ gia đình, chứ không phải là số liệu thu nhập, trong khảo sát mức sống và chuẩn nghèo của Ngân hàng thế giới (WB) và Tổng cục thống kê xây dựng năm 1993, được cập nhật theo biến động của giá cả tại các năm tiến hành khảo sát mức sống dân cư. Chuẩn nghèo của Ngân hàng thế giới chỉ có một mức chung cho cả thành thị và nông thôn (xem bảng 2). Dựa vào chuẩn nghèo này để tính tỉ lệ người nghèo chứ không phải hộ nghèo, do vậy có tên gọi là “nghèo chung” hoặc “nghèo chi tiêu”.

Bảng 2. Chuẩn nghèo của Việt Nam và của Ngân hàng thế giới năm 2004 - 2008

Đơn vị tính nghìn đồng

Việt Nam

Ngân hàng thế giới

Thành thị

Nông thôn

Chung

2004

218

168

173

2006

260

200

213

2008

370

290

280

Nguồn: Niên giám thống kê 2009, Nxb Thống kê, 2010

Theo số liệu thống kê tỷ lệ hộ nghèo ở nước ta từ 2004 đến 2008 liên tục giảm (bảng 2). Nếu vào năm 2004 tỷ lệ hộ nghèo cả nước là 18,1% thì đến năm 2009 giảm còn 12,3%; trung bình mỗi năm giảm gần 1,2%. Tuy nhiên tỉ lệ hộ nghèo giảm không đều ở các vùng miền trong cả nước. Tỉ lệ nghèo giảm nhanh ở vùng đồng bằng sông Hồng từ 12,7% xuống còn 7,7%, nhưng giảm chậm ở vùng trung du, miền núi phía Bắc: từ 29,4% xuống còn 23,5% trong giai đoạn 5 năm từ 2004 đến 2008. Hà Nội ở đồng bằng sông Hồng nên cũng có xu hướng giảm nhanh tỉ lệ nghèo trong những năm qua.

Bảng 2. Tỷ lệ hộ nghèo theo các vùng của Việt Nam từ 2004-2009 (%)

TT

Tỷ lệ hộ nghèo

2004

2005

2006

2007

2008

1

Cả nước

18,1

15,5

14,8

13,4

12,3

2

Thành thị

8,6

7,7

7,4

6,7

6,0

3

Nông thôn

21,2

18,0

17,7

16,1

14,8

4

Đồng bằng sông Hồng

12,7

10,0

9,5

8,6

7,7

5

Trung du, miền núi phía Bắc

29,4

27,5

26,5

25,1

23,5

6

Bắc trung bộ và Duyên hải miền Trung

25,3

22,2

21,4

19,2

17,6

7

Tây Nguyên

29,2

24,0

23,0

21,0

19,5

8

Đông Nam bộ

4,6

3,1

3,0

2,5

2,1

9

Đồng bằng sông Cửu long

15,3

13,0

12,4

11,4

10,4

Nguồn: Niên giám thống kê 2009, Nxb Thống kê, 2010

Dựa vào chuẩn nghèo của Ngân hàng thế giới, ví dụ chuẩn nghèo năm 2004 là 173 nghìn đồng/người tháng, 2006: 213 và năm 2008 là 280 nghìn đồng tháng, Tổng cục thống kê xác định được tỉ lệ người nghèo chung hay tỉ lệ nghèo chi tiêu cho các năm (xem bảng 3).

Bảng tỉ lệ nghèo chung dưới đây cho biết, Việt Nam đã rất thành công trong công cuộc xoá đói giảm nghèo: tỉ lệ người nghèo chung đã giảm hơn một nửa từ 37,4% năm 1998 xuống còn 14,5% năm 2008.

Trong sáu vùng, không kể vùng miền núi phía Bắc, vùng đồng bằng sông Hồng trong đó có thủ đô Hà Nội là nơi có tỉ lệ nghèo giảm nhanh nhất, giảm hơn 3,5 lần từ 30,7% năm 1998 xuống còn 8% năm 2008.

So với nông thôn, tỉ lệ nghèo ở thành thị giảm nhanh hơn nhiều gần ba lần trong khi đó nông thôn chỉ giảm hơn hai lần trong cùng thời kỳ này. Năm 2008: tỉ lệ nghèo ở thành thị là 3,3% chỉ bằng 1/6 so với tỉ lệ nghèo ở nông thôn: 18,7%.

Từ những thông tin sơ bộ như vậy có thể thấy rằng tỉ lệ hộ nghèo ở Hà Nội nhìn chung là thấp và cũng giảm nhanh trong thời gian qua cùng với nhịp độ xoá đói giảm nghèo chung của cả nước.

Bảng 3. Tỷ lệ người nghèo chung theo các vùng ở Việt Nam từ 1998-2008 (%)

TT

Tỷ lệ hộ nghèo

1998

2002

2004

2006

2008

1

Cả nước

37,4

28,9

19,5

16,0

14,5

2

Thành thị

9,0

6,6

3,6

3,9

3,3

3

Nông thôn

44,9

35,6

25,0

20,4

18,7

4

Đồng bằng sông Hồng

30,7

21,5

11,8

8,9

8,0

5

Trung du, miền núi phía, Bắc

64,5

47,9

38,3

32,3

31,6

6

Bắc trung bộ và Duyên hải miền Trung

42,5

35,7

25,9

22,3

18,4

7

Tây Nguyên

52,4

51,8

33,1

28,6

24,1

8

Đông Nam bộ

7,6

8,2

3,6

3,8

2,3

9

Đồng bằng sông Cửu long

36,9

23,4

15,9

10,3

12,3

Ghi chú: Tỉ lệ nghèo chung hay còn gọi là tỉ lệ nghèo chi tiêu theo cách tính của Ngân hàng thế giới và Tổng cục thống kê.

Nguồn: Niên giám thống kê 2009, Nxb Thống kê, 2010

Chênh lệch giàu nghèo ở Việt Nam và Hà Nội

Mặc dù tỉ lệ nghèo ở Việt Nam cũng như ở Hà Nội đều được kiểm soát và giảm mạnh trong những năm vừa qua nhưng chênh lệch giàu nghèo không giảm mà tăng lên nhất là những năm gần đây. Trên phạm vi cả nước, thu nhập bình quân đầu người của các nhóm giàu và nhóm nghèo theo giá thực tế đều tăng. Ví dụ, thu nhập bình quân đầu người của nhóm 20% nghèo nhất tăng hơn gấp 2,5 lần từ 107,7 nghìn đồng /tháng năm 2002 lên 275 nghìn đồng/tháng năm 2008. Chênh lệch giàu nghèo về thu nhập bình quân đầu người được tính bằng cách lấy mức thu nhập bình quân đầu người của nhóm 20% giàu nhất về thu nhập chia cho mức thu nhập bình quân đầu người của nhóm 20% nghèo nhất. Số liệu thống kê ở bảng 4 cho thấy rõ: trên phạm vi cả nước chênh lệch giàu nghèo không giảm mà tăng lên từ 8.1 lần năm 2002 đến 8.9 lần năm 2008. Cần ghi nhận rằng, so với mức sống còn thấp mặc dù đã được cải thiện rất nhiều của người dân Việt Nam, thì mức chênh lệch giàu nghèo gần 9 lần như vậy là rất cao và đang là mối quan tâm của toàn xã hội bởi vì phân hoá giàu nghèo gắn liền với phân tầng xã hội và bất bình đẳng xã hội.

Bảng 4. Thu nhập bình quân đầu người/tháng chia theo 5 nhóm thu nhập ở Việt Nam

Đơn vị tính: 1000 VNĐ

Năm

Chung

Nhóm 1

Nhóm 2

Nhóm 3

Nhóm 4

Nhóm 5

Chênh lệch 5/1

2002

356,1

107,7

178,3

178,3

251,0

370,5

8,1

2004

448,4

141,8

240,7

240,7

347,0

514,2

8,3

2006

636,5

184,3

318,9

318,9

458,9

678,6

8,4

2008

995,2

275,0

477,2

477,2

699,9

1067,4

8,9

Nguồn: Tổng cục thống kê. Kết quả điều tra mức sống hộ gia đình năm 2008. Hà Nội. 2010

Chênh lệch giàu nghèo ở Hà Nội cũ và Hà Nội mới cũng tăng lên cùng với xu hướng phân hoá giàu nghèo đang tăng lên của cả nước. Tuy nhiên, mức độ chênh lệch giàu nghèo về thu nhập bình quân đầu ngưòi của nhóm nhóm 20% giàu nhất so với nhóm 20% giàu nhất của Hà Nội (cũ) chỉ ở mức 6,7 lần thấp hơn nhiều so với mức chênh lệch giàu nghèo chung của cả nước (8,1 lần) năm 2002 (xem bảng 5) . Đến năm 2008, mức chênh lệch giàu nghèo ở Hà Nội cũ đã tăng lên đến 7,1 lần và vẫn ở mức thấp hơn nhiều so với mức chênh lệch giàu nghèo chung của cả nước (8,9 lần). Nhưng khi Hà Nội cũ mở rộng bao gồm nhiều huyện nghèo như Phúc Thọ, Quốc Oai, Thạch Thất thì chênh lệch giàu nghèo của Hà Nội tăng lên 8,7 lần gần bằng mức chênh lệch giàu nghèo của cả nước.

Có thể giải thích điều này ở một trong những đặc trưng của Hà Nội cũ: đó là đặc điểm đô thị hoá, công nghiệp hoá ở trình độ của Hà Nội trước khi mở rộng. Trước đây vào năm 1999 Hà Nội cũ có gần 58% dân số thành thị trong khi Hà Tây có tới 92% dân số nông thôn. Năm 2009 Hà Nội mới có 42% dân số thành thị và 58% dân số nông thôn. Do sống ở thành thị và chủ yếu dựa vào nguồn thu nhập từ các nghề nghiệp làm công ăn lương trong các cơ quan nhà nước, các doanh nghiệp công nghiệp và dịch vụ, thương mại nên rõ ràng là mức sống trung bình của người dân Hà Nội cũ cao hơn nhiều so với mức sống của người dân Hà Nội mới. Trên thực tế, năm 2008, mức thu nhập bình quân đầu người dân Hà Nội cũ là 1719,6 nghìn đồng/tháng nhiều hơn hẳn so với mức thu nhập bình quân đầu người dân Hà Nội mới là 1296,9 nghìn đồng/tháng. Mức thu nhập bình quân đầu người của nhóm 20% nghèo nhất ở Hà Nội cũ là 535,1 nghìn đồng/tháng nhiều hơn mức thu nhập của nhóm 20% nghèo nhất ở Hà Nội mới là 363,4 nghìn đồng. Trong khi đó mức thu nhập trung bình đầu người của nhóm 20% giàu nhất ở Hà Nội cũ là 3777,8 nghìn đồng/tháng so với mức 3156,2 nghìn đồng/tháng ở Hà Nội mới.

Bảng 5. Thu nhập bình quân đầu người/tháng chia theo 5 nhóm thu nhập ở Hà Nội cũ và Hà Nội mới

Đơn vị tính: 1000 VNĐ

Năm

Chung

Nhóm 1

Nhóm 2

Nhóm 3

Nhóm 4

Nhóm 5

Chênh lệch 5/1

Hà Nội cũ

2002

621,0

204,6

368,4

499,8

672,8

1360,5

6,7

2004

806,9

255,3

471,4

659,5

908,1

1739,9

6,8

2006

1050,0

329,1

589,2

878,4

1201,0

2252,3

6,8

2008

1719,6

535,1

957,0

1386,5

1933,3

3777,8

7,1

Hà Nội mới

2008

1296,9

363,4

585,4

889,9

1486,6

3156,2

8,7

Nguồn: Tổng cục thống kê. Kết quả điều tra mức sống hộ gia đình năm 2008. Hà Nội. 2010

Căn cứ vào chuẩn nghèo mới của cả nước và có tính đến điều kiện của địa phương, Hà Nội xác định hai mức cận nghèo cho thành thị và nông thôn. Theo chuẩn nghèo mới, khu vực thành thị những hộ có mức thu nhập bình quân trên 500 nghìn đồng/người/tháng đến 650 nghìn đồng/người/tháng là hộ cận nghèo. Tại khu vực nông thôn những hộ có mức thu nhập bình quân trên 330 nghìn đồng/người/tháng đến 430 nghìn đồng/người/tháng là cận nghèo. Theo thống kê đến tháng 1-2009, toàn thành phố Hà Nội có khoảng 117 nghìn hộ nghèo với hơn 406 nghìn nhân khẩu, chiếm 8,43% số hộ toàn thành phố. Hà Nội cũng còn 12/29 quận/huyện có tỷ lệ hộ nghèo cao trên 10%; 43/577 xã phường có tỷ lệ hộ nghèo từ 25% trở lên tập trung ở 9 huyện: Ba Vì, Mỹ Đức, Sóc Sơn, Chương Mỹ, Thạch Thất, ứng Hòa, Phú Xuyên, Quốc Oai và Thanh Oai.

Theo kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội, Hà Nội đang phấn đấu giảm tỷ lệ hộ nghèo chung mỗi năm từ 1% đến 2%, đến cuối năm 2010 giảm tỷ lệ hộ nghèo xuống còn dưới 4,5% và đến cuối năm 2013 đưa tỷ lệ hộ nghèo xuống dưới 3%, không còn xã nghèo và xã thuộc Chương trình 135.

Trong những năm vừa qua, trung bình mỗi năm Hà Nội giải quyết việc làm cho hơn 100 nghìn người, đào tạo nghề cho hơn 100 nghìn lao động, xây dựng Quỹ Đền ơn đáp nghĩa của thành phố với nhiều tỉ đồng, xoá nghèo cho hơn hàng chục nghìn hộ gia đình, hỗ trợ xây dựng hàng nghìn ngôi nhà cho hộ nghèo. Tất cả những hoạt động này đều nhằm xoá đói, giảm nghèo và giảm chênh lệch giàu nghèo và bất bình đẳng xã hội trên địa bàn thành phố. Tuy nhiên, xoá đói và giảm nghèo là cả một quá trình lâu dài đòi hỏi phải thực hiện trong một chiến lược tăng trưởng kinh tế, phát triển xã hội một cách đồng bộ, toàn diện và định hướng bền vững, công bằng xã hội và bình đẳng xã hội.

Từ thực tế phân hoá giàu nghèo đến một số vấn đề lý luận về phân tầng xã hội và phát triển kinh tế xã hội

Phân tầng xã hội là sự phân hoá xã hội theo chiều dọc tạo nên cấu trúc xã hội tầng lớp trong đó tầng đỉnh chiếm vị thế và vai trò quyết định đối với sự vận động, biến đổi của các tầng lớp khác và cả hệ thống xã hội. Phân tầng xã hội tạo ra các tầng lớp trên dưới, cao thấp khác nhau về kinh tế, chính trị, văn hoá, giáo dục, y tế, xã hội và nhiều đặc điểm, tính chất khác.

Nghèo khổ và phân hoá giàu nghèo tạo nên sự phân tầng xã hội về mặt kinh tế trong đó tầng lớp trên chiếm tỉ trọng lớn tài sản và các ưu thế kinh tế và tầng lớp dưới chiếm một tỉ trọng nhỏ các tài sản và một phần nhỏ các ưu thế kinh tế, thậm chí tầng đáy hầu như không có tài sản và không có ưu thế gì về mặt kinh tế và vì vậy cần được sự hỗ trợ đặc biệt từ phía các giai tầng khác của xã hội.

Học thuyết Marx-Lenin nhấn mạnh các nguyên nhân kinh tế của sự phân hoá giàu nghèo và phân tầng xã hội. Khi vận dụng học thuyết Marx-Lenin vào đánh giá thực trạng và vạch ra xu hướng biến đổi sự phân tầng xã hội cần chú ý tới những yếu tố phi kinh tế như xu hướng hành động của các giai cấp, các tầng lớp xã hội với trình độ nhận thức, tính tự giác và sự tiến bộ khoa học, công nghệ. Học thuyết Marx chỉ rõ rằng cùng với yếu tố kinh tế đóng vai trò quyết định, nhưng không phải là duy nhất, các yếu tố như các thiết chế chính trị, văn hoá, xã hội cũng đóng những vai trò rất quan trọng đối với sự vận động, biến đổi của sự phân tầng xã hội.

Lý thuyết của Max Weber, một nhà xã hội học người Đức, vạch ra các nhân tố kinh tế, phi kinh tế và tình huống thị trường của sự phân tầng xã hội. Một mặt, Weber thừa nhận vai trò quyết định của các yếu tố kinh tế, mặc khác ông chỉ ra vai trò quan trọng của các yếu tố văn hoá, đạo đức xã hội và các đặc điểm thuộc về năng lực của cá nhân, các đặc điểm thuộc về sự đầu tư của gia đình và cả các yếu tố thuộc về bối cảnh xã hội cụ thể. Đặc biệt, Weber nhấn mạnh vai trò của sự tương tác giữa các yếu tố trong việc tạo ra những động lực thúc đẩy hoặc kìm hãm sự phân tầng xã hội. Theo Weber sự phân tầng xã hội biến đổi từ kiểu truyền thống sang kiểu hiện đại: sự phân tầng trong xã hội truyền thống dựa vào sự phân công lao động đơn giản, thủ công, sự phân tầng trong xã hội hiện đại dựa vào sự phân công lao động phức tạp, lao động cơ khí. Trong xã hội truyền thống, sự phân tầng xã hội phụ thuộc nhiều vào yếu tố kinh tế gia đình và di truyền xã hội kiểu thừa kế. Trong xã hội hiện đại, dưới tác động của thị trường, sự phân hoá giàu nghèo và sự phân tầng xã hội không chỉ phụ thuộc vào yếu tố kinh tế như sở hữu, tài sản, thu nhập, chi tiêu mà còn phụ thuộc vào những yếu tố cá nhân và xã hội như trình độ học vấn, chuyên môn, nghề nghiệp và những yếu tố xã hội như quyền lực, vị thế, vai trò xã hội, hệ giá trị văn hoá, chuẩn mực xã hội và các nguồn vốn phi kinh tế khác.

Kết quả của sự phân hoá giàu nghèo là người nghèo bị rơi xuống tầng đáy của thang bậc phân tầng xã hội và người giàu nổi lên tầng trên, nắm giữ phần lớn quyền lực, uy tín và của cải của toàn xã hội. Trong quá trình này, rất có thể một số người bị mất tài sản trở nên nghèo đói, nhưng những người đó không nhất thiết bị rơi xuống tầng đáy của xã hội bởi vì tình trạng đó có thể chỉ mang tính tạm thời. Người nghèo kinh niên có thể may mắn có tài sản, ví dụ do trúng số độc đắc, những vẫn có thể bị nghèo do không biết sử dụng số tiền kiếm được nhất thời đó. Những người có uy tín xã hội hoặc nắm giữ quyền lực đều có thể trở nên giàu có, nhưng những người giàu chưa chắc đã có uy tín và vị thế cao trong hệ thống phân tầng xã hội. Điều này cho thấy tính phức tạp và năng động của các quá trình di động, cơ động của sự phân tầng xã hội.

Bất bình đẳng xã hội là sự phân hoá xã hội đến mức làm tăng lợi ích của tầng lớp xã hội này với cái giá của sự phương hại lợi ích của nhóm xã hội khác trong cấu trúc phân tầng xã hội nhất định. Sự phân hoá xã hội luôn dẫn đến sự khác nhau thậm chí sự phân tầng xã hội nhưng không phải sự phân hoá nào, cũng không phải sự phân tầng xã hội nào cũng là sự bất bình đẳng xã hội. Ví dụ, sự khác nhau về năng lực và trình độ học vấn, tay nghề có thể dẫn đến sự khác nhau về thu nhập giữa các nhóm người. Nhưng đây chưa chắc đã là sự bất bình đẳng xã hội bởi vấn đề còn nằm ở chỗ cơ hội học tập và cơ hội việc làm cũng như nhiều yếu tố khác nữa.

Bất bình đẳng xã hội diễn ra trên cấp độ cá nhân, hộ gia đình, nhóm xã hội, trong phạm vi một cộng đồng, một vùng, một quốc gia. Đồng thời giữa các quốc gia, giữa các khu vực trên thế giới cũng xảy ra sự phân tầng xã hội, trong đó một số nước lâm vào cảnh đói nghèo, lạc hậu và một số nước trở nên phồn thịnh.

Mối quan hệ giữa kinh tế và xã hội được bộc lộ rõ qua các nghiên cứu về mối tương quan giữa tăng trưởng kinh tế và bất bình đẳng xã hội. Các nhà nghiên cứu không dừng lại ở nhận định rằng kinh tế là nhân tố quyết định của sự bất bình đẳng xã hội mà đi sâu tìm hiểu mối tương tác qua lại giữa hai hiện tượng này. Khái niệm tăng trưởng kinh tế được dùng để chỉ sự tăng lên bền vững của cả khả năng cung cấp hàng hoá kinh tế và khả năng đổi mới công nghệ và điều chỉnh một cách phù hợp các thiết chế kinh tế, văn hoá, xã hội. Quan niệm như vậy đã hàm chứa vai trò quan trọng của hai yếu tố phi kinh tế - công nghệ và thiết chế xã hội đối với tăng trưởng kinh tế. Simon Kuznets([1] ) định nghĩa, tăng trưởng kinh tế là “sự tăng lên trong dài hạn của khả năng cung cấp các hàng hoá kinh tế ngày càng đa dạng của nhân dân, khả năng liên tục phát triển này dựa trên cơ sở công nghệ tiên tiến, những điều chỉnh về thể chế và hệ tư tưởng mà nó đòi hỏi”([2] ). Những nước nghèo có đặc điểm chung, ví dụ như Kuznets đã chỉ ra, là năng suất lao động thấp, kinh tế dựa vào nông nghiệp và ngành khai thác, quy mô sản xuất nhỏ, quy mô dân số lớn. Sự tăng trưởng kinh tế đòi hỏi các nhân tố kinh tế (ví dụ tăng vốn đầu tăng, chuyển đổi cơ cấu kinh tế, kỹ thuật công nghệ tiên tiến) và “một khuôn khổ chính trị và xã hội ổn định nhưng linh hoạt, đủ khả năng chấp nhận sự thay đổi về cấu trúc và giải quyết các xung đột mà nó tạo ra”([3] ).

Công trình nghiên cứu nổi tiếng của Arthur Lewis về sự nghèo đói và tăng trưởng kinh tế đã đưa ra hai mô hình giải thích mối quan hệ này trên hai cấp độ: nghèo đói ở một nước chậm phát triển và sự bất bình đẳng giữa nước chậm phát triển và nước phát triển([4] ). Theo Lewis, một nước chậm phát triển có đa số dân cư sống bằng kinh tế nông nghiệp “tự cung tự cấp” và một bộ phận sống bằng kinh tế công nghiệp - dịch vụ hiện đại. Sự tăng trưởng nhanh chóng định hướng vào thị trường của khu vực kinh tế hiện đại là do được đầu tư mạnh mẽ và dồi dào từ các nguồn lực, trong đó có nguồn nhân công rẻ của khu vực nông thôn. Kết quả là kinh tế hiện đại ở khu vực tập trung ít dân cư (ví dụ chỉ chiếm khoảng 20 - 30%) phát triển vượt trội so với kinh tế ở khu vực nông thôn đông dân cư (ví dụ chiếm 70 - 80%). Điều đó có nghĩa là tăng trưởng kinh tế ở những nước chậm phát triển gắn liền với sự nghèo đói tập trung ở nông thôn và sự bất bình đẳng xã hội gia tăng giữa thành thị và nông thôn, giữa các ngành công nghiệp - dịch vụ hiện đại với ngành nông nghiệp truyền thống.

Cách giải thích mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và bất bình đẳng xã hội của Lewis gợi ra hướng nghiên cứu nguyên nhân phi kinh tế: vai trò của sự đầu tư giáo dục, của vốn người đối với phát triển kinh tế. Schultz và Becker đã rất thành công trong việc phát triển hướng nghiên cứu này. Schultz đã chỉ ra ưu thế lợi suất cao hơn hẳn của vốn người ở các nước giàu so với nước nghèo và từ đó đi đến giải thích tại sao các nước giàu đầu tư nhiều và nhanh vào giáo dục hơn hẳn so với các lĩnh vực khác. Ông rút ra kết luận hoàn toàn có tính xã hội học kinh tế là: “đầu tư vào cải thiện chất lượng dân cư có thể tăng cường đáng kể triển vọng kinh tế và phúc lợi cho người nghèo”([5] ). Gary Becker cũng nhấn mạnh vai trò của việc đầu tư vào giáo dục và đào tạo để nâng cao vốn người nhằm lợi ích kỳ vọng lâu dài. Điều quan trọng là kết luận này đúng cả với trường hợp ra quyết định của các cha mẹ và nhà doanh nghiệp thuộc cấp vi mô và của các nhà hoạch định chính sách của bộ, ngành và quốc gia thuộc cấp vĩ mô khi họ luôn phải tính toán, so sánh chi phí trước mắt với lợi ích có thể đạt được trong tương lai. Tầm nhìn xa ở đây được hiểu là kỳ vọng về lợi ích trong tương lai. Một bộ phận người nghèo có tầm nhìn xa khi ra quyết định cho con học lên đại học bằng mọi cách khi bản thân và gia đình họ phải chi phí rất lớn cho quyết định đó: họ có thể phải giảm bớt những mục chi tiêu không trực tiếp liên quan tới việc học tập của con cháu đồng thời phải tìm cách thu nhập thêm để bù đắp cho những chi phí học tập. Những bậc cha mẹ nghèo này đã có tầm nhìn xa về khả năng tìm được việc làm ổn định với thu nhập cao của con cái họ. Trên thực tế, những quyết định đầu tư cho con học tập của các bậc cha mẹ này đã được đền đáp: cuộc đời nghèo đói của cha mẹ đã không di truyền cho con cháu, mà trái lại, những người con của họ nhờ kết quả học tập ở bậc đại học nên đã đổi đời nghèo lấy cuộc đời của những người thuộc tập lớp trung lưu, thậm chí là tầng lớp khá giả.

Một số nhà nghiên cứu về sự tăng trưởng kinh tế ở những nước chậm phát triển và những nước đang phát triển trong nửa cuối thế kỷ 20 đã tập trung vào vấn đề nghèo đói và tăng trưởng kinh tế. Một trong những kết luận có tính phương pháp luận đối với các quá trình phát triển kinh tế-xã hội ở những nước này là: hãy bắt đầu từ những người nghèo khổ([6] ). Theo quan điểm này, tăng trưởng kinh tế bắt đầu không phải từ việc vay vốn hay đổi mới kỹ thuật đơn thuần mà là từ việc tìm hiểu những khó khăn, những mối quan tâm của người nghèo và tìm cách giúp người nghèo phát triển năng lực để họ tự xoá đói, giảm nghèo. Cách tiếp cận này đã được Robert Chambers, Amartya Sen và các đồng sự viết thành sách xuất bản vào những năm 1980. Sự nghèo khổ biểu hiện ra là sự thiếu thốn các phương tiện vật chất để sản xuất và sinh hoạt hàng ngày của cá nhân và gia đình. Nhưng thất học, ốm đau bệnh tật, sự cô lập, hoặc bạo lực gia đình cũng có thể gây thất nghiệp và giảm thu nhập dẫn đến sự nghèo đói. Các tác giả này đã phác hoạ được các yếu tố cơ bản của vòng luẩn của đói nghèo và gọi nó là “bãy nghèo khổ”.

Amartya Sen - nhà kinh tế học người ấn Độ được giải thưởng Nobel về kinh tế năm 1999 đã đưa ra thuyết Phát triển là mở rộng quyền lựa chọn” thay cho thuyết “Phát triển là tăng trưởng kinh tế”([7] ). Do vậy, sự phát triển bền vững bao hàm sự phát triển văn hoá, giáo dục, sức khoẻ, là sự mở rộng quyền tham gia quản lý xã hội, quyền lựa chọn các cơ hội, là nâng cao năng lực thực hiện các quyền và thực hiện các quyết định đã lựa chọn cho mọi người. Amartya Sen cho rằng, đói nghèo chỉ xảy ra đối với những người dân không có cơ hội, không có khả năng lựa chọn, không có tiếng nói đối với ai. Chính phủ và giới lãnh đạo, quản lý sẽ rất ít quan tâm tới “xoá đói giảm nghèo” chừng nào mà họ không có thông tin về chúng, không chịu sức ép của dư luận xã hội đòi hỏi họ phải chịu trách nhiệm về nạn đói nghèo. Một lý do rất đơn giản của sự thờ ơ đối với sự nghèo khổ là bản thân họ chưa bao giờ bị nghèo đói hoặc đơn giản là họ đã quên sự nghèo đói mà chính họ đã trải qua. Do đó, người nghèo cần phải lên tiếng về sự nghèo khổ và các nhà nghiên cứu cần thông tin chính xác và đầy đủ về tình trạng phân hoá giàu nghèo và xu hướng biến đổi cơ cấu phân tầng xã hội để các nhà hoạch định chính sách điều chỉnh, đổi mới các chương trình hành động cho phù hợp.

Có thể nói, Amartya Sen là người có công mở ra trào lưu xem xét vấn đề bất bình đẳng xã hội và tăng trưởng kinh tế từ góc độ xã hội học kinh tế liên ngành ở cuối thế kỷ XX. Bởi vì, ông đã nhấn mạnh tới quyền của con người, tới vai trò của việc mở rộng quyền và nâng cao năng lực thực hiện các quyền tự do kinh doanh, học tập, chăm sóc sức khoẻ và tham gia vào các quá trình chính trị-xã hội trong xoá đói giảm nghèo, tăng trưởng kinh tế và phát triển xã hội. Một số nhà kinh tế học nổi tiếng khác như Joseph Stiglitz đã phát triển hướng tiếp cận này khi đưa ra thuyết phát triển toàn diện trong đó nhấn mạnh vai trò của thông tin và sự tham gia của người dân trong các quá trình của xã hội. Không chỉ người nghèo mà tất cả các tầng lớp xã hội đều cần được tham gia vào các quá trình quản lý xã hội để thực hiện các mục tiêu phát triển xã hội. Tương tự như việc phát triển năng lực con người là mục tiêu của sự phát triển, bản thân sự tham gia xã hội cũng trở thành mục tiêu của sự phát triển xã hội. Tính cơ động và sự di động xã hội sẽ tăng lên và các cơ hội phát triển sẽ mở ra nhiều hơn với sự tham gia chủ động và tích cực của các cá nhân, gia đình, tổ chức, tầng lớp, giai tầng xã hội.

Do đó, việc tôn trọng quyền con người trong quá trình phát triển xã hội và nhất là việc nâng cao năng lực thực hiện các quyền đã được pháp luật quy định, việc thực hiện dân chủ hoá, việc mở rộng các cơ hội tham gia vào quá trình xã hội là những yếu tố mới góp phần xoá đói, giảm nghèo và cải thiện đời sống của các giai tầng xã hội.

Chênh lệch giàu nghèo, phân tầng xã hội về mặt kinh tế đã được đo lường kỹ lưỡng qua các cuộc điều tra về mức sống ở Việt Nam trong những năm qua. Một số chỉ báo quan trọng thường được sử dụng là tỉ lệ nghèo chung, tỉ lệ nghèo lương thực, mức thu nhập bình quân đầu người và mức chi tiêu bình quân người của các nhóm ngũ vị phân (nhóm 20%), tỉ trọng chi tiêu của các nhóm ngũ vị phân và mức chênh lệnh về tỉ trọng chi tiêu giữa nhóm giàu và nhóm nghèo, khoảng cách hay chênh lệch về thu nhập và chi tiêu giữa nhóm 20% giàu nhất với nhóm 20% nghèo nhất, khoảng cách hay chênh lệch về thu nhập và chi tiêu giữa vùng giàu với vùng nghèo nhất trong cả nước. Một thước đo khác về sự phân hoá giàu nghèo và bất bình đẳng xã hội về mặt kinh tế là hệ số Ghini về thu nhập và hệ số Ghini về chi tiêu. Các chỉ báo khác như khoảng cách nghèo và các ngưỡng nghèo 1 đô la thu nhập một người một ngày và ngưỡng nghèo 2 đô la thu nhập một người một ngày cũng thường được sử dụng để đánh giá sự phân hoá giàu nghèo. Các thước đo này có thể khác nhau về cách tính toán nhưng đều là những thước đo kinh tế bởi vì đều dựa vào mức thu nhập và mức chi tiêu được quy đổi thành đơn vị tiền tệ.

Ngoài các thước đo về mặt kinh tế, sự phân tầng xã hội có thể biểu hiện rõ ở trình độ học vấn, tỉ lệ đi học, mức độ tiếp cận y tế, mức độ tham gia lãnh đạo, quản lý xã hội. Cần sử dụng các thước đo phi kinh tế để nắm bắt chính xác, đầy đủ các biểu hiện và xu hướng biến đổi phân tầng xã hội ở Việt Nam hiện nay.

Mô hình phân tầng xã hội đã được định hình rõ ở những nước công nghiệp phát triển, ở đó các giai tầng được gọi bằng những cái tên còn xa lạ và thậm chí là “nhạy cảm” là giai tầng thượng lưu tinh hoa, giai tầng trung lưc bậc cao, giai tầng trung lưu, giai tầng trung lưu bậc thấp và giai tầng hạ lưu. Cơ sở của mô hình phân tầng này bắt nguồn từ các hình thức sở hữu, sự phân công lao động xã hội, trình độ chuyên môn nghề nghiệp và biểu hiện ra là mức độ thu nhập, trình độ học vấn, lối sống văn hoá (xem hộp).

Tóm lại

Sự phân hoá giàu nghèo và phân tầng xã hội ở Việt Nam nói chung và Hà Nội nói riêng cũng diễn ra theo xu hướng chung của lịch sử xã hội loại người, tức là những người giàu có thường chiếm tầng lớp trên và những người nghèo đói bị rơi xuống tầng lớp dưới. Tuy nhiên, xu hướng phân hoá giàu nghèo, phân tầng xã hội ở Việt Nam được điều tiết bởi đường lối, chính sách lãnh đạo quản lý định hướng xã hội chủ nghĩa, tức là một mặt khuyến khích làm giàu chính đáng và mặt khác hỗ trợ xoá đói giảm nghèo cho các nhóm xã hội yếu thế ở thành thị, nông thôn và nhất là đồng bào dân tộc ở vùng sâu, vùng xa.

Trong thời gian qua ở Việt Nam đã hình thành một số xu hướng biến đổi phân tầng xã hội như sau:

Tỉ lệ nghèo của Việt Nam giảm nhanh chóng trong thời gian qua và tiếp tục giảm cùng với mức sống của các giai tầng xã hội được cải thiện không ngừng.

Khoảng cách thu nhập và chi tiêu của nhóm 20% giàu nhất và nhóm 20% nghèo nhất tăng lên chậm chạp với tốc độ trung bình khoảng một lần/10 năm.

Sự phân phân hoá giàu nghèo và phân tầng xã hội diễn không đồng đều và không giống nhau trên cùng một địa bàn: ở Hà Nội cũng như trên phạm vi cả nước, đa số người nghèo sống ở nông thôn và đa số người giàu sống ở thành thị.

Sự phân tầng xã hội diễn ra trên tất cả các phương diện của đời sống từ kinh tế đến giáo dục, y tế, văn hoá, thể thao, giải trí, chính trị. Ví dụ, tỉ lệ nữ tham gia lãnh đạo quản lý ít hơn nam rất nhiều. Trong đó đang diễn ra những xu hướng trái ngược nhau như sau: phân tầng xã hội về mặt kinh tế (thu nhập và chi tiêu) có xu hướng tăng lên chậm và phân tầng xã hội về mặt giáo dục giảm nhanh nhờ chủ trương và pháp luật phổ cập giáo dục tiểu học, tiến đến phổ cập giáo dục trung học cơ sở.

Cơ cấu xã hội ít thành phần chuyển sang cơ cấu phân tầng xã hội gồm nhiều thành phần, nhiều tầng lớp xã hội phong phú, đa dạng về ngành nghề theo hướng dịch vụ và thị trường. Cơ cấu xã hội nghề nghiệp nặng về nông nghiệp đang chuyển sang cơ cấu xã hội công nghiệp-dịch vụ.

Cùng với xu thế công nghiệp hoá, hiện đại hoá đã xuất hiện nhiều nghề nghiệp gắn với khoa học-công nghệ thông tin, thị trường tài chính và các loại dịch vụ xã hội.

Cùng với xu thế phát triển kinh tế thị trường đã xuất hiện và đang lớn mạnh tầng lớp xã hội gồm các doanh nhân được xã hội bắt đầu tôn vinh. Ngày 13/10 được chính thức ghi nhận là Ngày Doanh nhân Việt Nam.

Cơ chế phân phối có xu hướng tuân theo các quy luật thị trường như quy luật giá trị và định hướng xã hội chủ nghĩa, tức là phân phối theo nguyên tắc: làm nhiều hưởng nhiều, làm theo năng lực-hưởng theo lao động, có tính đến công bằng xã hội, bình đẳng xã hội thể hiện ở chính sách và chương trình xoá đói giảm nghèo và các chương trình, chính sách khác nhằm hỗ trợ nhóm xã hội yếu thế.

Sự phân tầng xã hội có xu hướng chuyển mạnh từ trì trệ sang năng động, linh hoạt, mềm dẻo nhằm tạo ra các cơ hội và đáp ứng các nhu cầu đa dạng, phong phú của các cá nhân và các giai tầng xã hội.

Mặc dù Việt Nam là một nước còn nghèo, nhưng nhờ công cuộc đổi mới kinh tế-xã hội nên vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế đang được củng cố và tăng lên. Mặc dù nguy cơ tụt hậu về kinh tế vẫn còn rất lớn, nhưng khoảng cách chênh lệch về kinh tế-xã hội của Việt Nam so với các quốc gia khác đang được cải thiện rõ rệt. Hà Nội là một thành phố đi đầu trong công cuộc xoá đói, giảm nghèo, kiềm chế chênh lệch giàu nghèo và định hướng, điều chỉnh sự phân tầng xã hội nhằm mục tiêu chung là dân giàu, nước mạnh, xã hội phát triển công bằng, dân chủ và văn minh.

TÀI LIỆU THAM KHẢO CHÍNH

1. Lê Ngọc Hùng. Xã hội học kinh tế. Nxb Lý luận Chính trị. Hà Nội. 2004. Tr. 218-238

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Com

Tags: