Truyen2U.Net quay lại rồi đây! Các bạn truy cập Truyen2U.Com. Mong các bạn tiếp tục ủng hộ truy cập tên miền mới này nhé! Mãi yêu... ♥

Chương 2: Thăng Long mùa hè năm Đinh Hợi (1287)

Buổi sáng đầu tháng tư, không khí đầu hè chưa thể mang tới cảm giác nóng bức song tất thảy mọi người sống trong kinh thành Thăng Long đều có cảm giác ngột ngạt khó chịu. Thăng Long dạo này cũng im ắng một cách khác lạ. Sự im lặng đó một phần là do số người đến đây giảm hơn nhiều so với trước đó và một phần nữa là do đã có lệnh của triều đình hạn chế mọi sự tụ họp, hội hè không cần thiết. Sự hạn chế đó có lý do từ sự căng thẳng nơi biên ải, không ai có thể biết được rằng bọn giặc Mông Thát kia sẽ đánh sang nước ta vào lúc nào.

Mới một tháng trước, để đề phòng quân giặc bất ngờ vào cướp đất, triều đình đã chia người ra gìn giữ các nơi biên ải. Lê Phụ Trần được giao ba vạn quân vào trấn thủ mạn Hoan Ái(1), Nhân Huệ vương Trần Khánh Dư với hai vạn thủy quân trấn thủ cửa biển Vân Đồn, Chiêu Văn vương Trần Nhật Duật và tướng quân Nguyễn Khoái dẫn ba vạn quân giữ chặt mặt Lạng Giang. Ngoài ra, để canh phòng và cấp báo ngay khi lũ giặc kia xâm phạm biên ải, triều đình còn cho lập ra một loạt các đồn dọc theo biên giới và cử các tướng ra đó trấn giữ.

Hôm nay, đến lượt Trần Quốc Tuấn với vai trò của người Tiết chế trước buổi thiết triều đã tâu xin Thượng hoàng Thánh Tông và vua Nhân Tông cho phép dẫn ba vạn quân thủy bộ về đóng binh ở rừng Quảng Yên bên cạnh hạ lưu sông Bạch Đằng và đã được cả hai người chấp thuận.

Khi buổi chầu sớm vừa tan, vua Nhân Tông cho gọi Quốc Tuấn ở lại, ngài có một điều thắc mắc muốn hỏi kỹ đích thân Quốc công Tiết chế. Đợi cho văn võ bá quan lui ra gần hết, Quốc Tuấn bước tới sát thềm rồng chắp tay hỏi:

-        Tâu Quan gia(2)! Chẳng hay Quan gia còn có việc gì đòi thần ở lại?

-        Hoàng bá ngồi xuống đi… Có mấy việc quân cơ trước văn võ bá quan ta không tiện hỏi nên phải mời hoàng bá nán lại.

Về phía nội tộc thì Quốc Tuấn chính là bác ruột của vua Nhân Tông, còn về phía bên vợ thì Quốc Tuấn cũng lại chính là bố vợ của nhà vua. Chính vì vậy mỗi khi chỉ có hai người với nhau hoặc khi chỉ có mặt những người trong hoàng tộc thì vua Nhân tông lại gọi Quốc Tuấn một cách kính cẩn như vậy.

-        Quan gia chắc còn có điều gì phân vân chăng?

Vua Nhân Tông nhìn thẳng vào mắt Quốc Tuấn hỏi:

-        Ta vẫn chưa rõ lắm lý do hoàng bá lại quyết định chọn Quảng Yên để đóng binh ở đó?

-        Điều đó… - Quốc Tuấn lúng túng - thần cũng đã giải thích với Thượng hoàng và Quan gia rồi mà?

-        Biết là vậy… nhưng những lý do mà hoàng bá đưa ra như đề phòng quân giặc tiến đánh vào bằng đường biển… có thể hỗ trợ cho Nhân Huệ vương Trần Khánh Dư ở Vân Đồn hoặc Chiêu Văn vương Trần Nhật Duật ở phía bắc thì ta thấy chưa được thuyết phục cho lắm!

Quốc Tuấn chợt giật mình, thì ra Quan gia đã biết được phần nào những suy nghĩ mà ông vẫn còn đang giấu kín trong đầu. Đúng là ông vẫn còn một lý do nữa nhưng thật khó nói ra. Nhưng nay chính Quan gia đã hỏi như vậy thì cũng không thể không tâu bày. Quốc Tuấn vội sụp xuống lạy rồi nói:

-        Đức Quan gia quả thực anh minh…! Quả thực thần vẫn còn một lý do nữa song chưa dám tâu bày.

-        Hoàng bá mau đứng dậy đi! - Chờ cho Quốc Tuấn đứng hẳn dậy, vua Nhân Tông mới hỏi tiếp - Vậy nay hoàng bá có thể nói ra cho ta rõ được không?

-        Thực ra thần không phải cố tình giấu giếm gì, chẳng qua là vì lý do này còn rất mơ hồ… không biết liệu thần có thể thực hiện được hay không nên thần chưa dám nói ra.

Vua Nhân Tông nghe Quốc Tuấn nói như vậy thì ra vẻ trách móc:

-        Dẫu có gì đi nữa thì hoàng bá cũng không nên giấu ta như vậy… Có gì hoàng bá cứ nói ra đi để chúng ta cùng bàn?

-        Vâng…! - Quốc Tuấn có vẻ hối lỗi - Quan gia có nhớ tích Ngô vương đánh giặc bằng bãi cọc gỗ ngầm ở đất Quảng Yên năm xưa không?

-        Chuyện Ngô vương đánh giặc Hoằng Tháo đó sao ta lại có thể không nhớ?

-        Quan gia cũng đã biết, giặc Hồ năm nay đã rút kinh nghiệm của hai trận thua lần trước, chúng đã từ bỏ sở trường là đánh bộ, chuyển sang học lối đánh thủy. Hốt Tất Liệt đã cho đóng xong ba trăm chiếc thuyền chiến lớn và tướng sĩ chúng nó cũng đang ra sức luyện tập thủy binh để chuẩn bị tái chiến với Đại Việt ta... Thần trộm nghĩ có lẽ chúng ta sẽ phải có một trận Bạch Đằng nữa dành cho lũ giặc này.

Vua Nhân Tông nghe xong ngẫm nghĩ một lát rồi chậm rãi nói:

-        Vậy ra hoàng bá ra Quảng Yên lần này là định học theo cách của Ngô vương hay sao?

-        Vâng, quả đúng là thần đang có ý định như vậy…! - Quốc Tuấn sôi nổi hẳn lên - Thần nghĩ chỉ có cách đó thì ta mới có thể lấy ít địch nhiều, lấy thuyền nhỏ đánh lại thuyền lớn của chúng.

-        Nhưng… - Vua Nhân Tông tỏ vẻ phân vân - hoàng bá phải biết là để bố trí được một thế trận cọc ngầm sao cho hiệu quả là điều không đơn giản chút nào.

-        Thần cũng biết vậy nên muốn đưa đại quân của mình về đóng ở Quảng Yên để một mặt là thực hiện theo đúng như những điều thần đã tâu bày với Thượng hoàng và Quan gia… mặt khác thần muốn ở đó để có thời gian xem xét, tìm hiểu kỹ lưỡng về địa thế, địa hình và tình hình lên xuống của con nước để có thể bố trí được một thế trận cọc ngầm ở đó.

-        Vậy là ta đã hiểu! Ta không còn thắc mắc gì nữa, hoàng bá cứ yên tâm lên đường.

-        Vâng, chỉ còn ba hôm nữa là đến hội thề Đồng Cổ(1), ngay sau hội thề sẽ là lễ duyệt binh tại Giảng Võ đường. Thần sẽ cùng đại quân của mình xuất binh đi thẳng ra Quảng Yên.

-        Ta biết…! - Vua Nhân Tông buông ra một tiếng thở dài - Hội thề Đồng Cổ năm nay đích thân phụ thân ta cho đơn giản hóa bớt đi một số thủ tục và lại giới hạn số người tham dự… Không biết hoàng bá có nghe thấy trong văn võ bá quan có lời xì xào, điều tiếng gì không?

-        Tâu Quan gia! Thần không nghe thấy gì cả. Các bá quan cũng hiểu rằng các tướng quan trọng đều không thể có mặt ở Kinh thành do đang phải chia nhau trấn giữ các nơi hiểm yếu. Nên năm nay Thượng hoàng cho làm hội thề đơn giản đi cũng là điều dễ hiểu.

-        Thật vậy sao…? Liệu họ có nghĩ rằng những lời thề thốt kia dù sao cũng chỉ là lời nói chót lưỡi đầu môi hay không?

-        Thần không nghĩ như vậy… Tuy năm trước, trong hoàng thân quốc thích có nhiều người chạy theo hàng giặc nhưng năm nay, đến giờ phút này tất cả mọi người đều tỏ ra tin tưởng và trung thành tuyệt đối với triều đình.

-        Ta chỉ sợ lời người nói ra như vậy, nhưng bụng họ lại không nghĩ đúng được như vậy?

-        Thần ở gần mọi người hơn nên thần hiểu… ngay như năm trước, thần còn phải viết ra một đạo hịch để khích lệ lòng quân nhưng năm nay xem ra những việc như vậy là không cần thiết… Xin bệ hạ cứ an lòng đừng suy nghĩ nhiều kẻo tổn hại đến long thể. Chúng thần sẽ ra sức vì triều đình, vì đất nước Đại Việt.

-        Ai cũng được như hoàng bá thì ta có gì phải lo nữa!

-        Quan gia chớ lo nghĩ nhiều! Thần trước sau như một vẫn nhận định rằng năm nay đánh giặc sẽ nhàn hơn năm trước.

-        Hoàng bá cứ động viên chúng ta thôi…! - Vua Nhân Tông cả cười hỏi - Làm gì có chuyện đánh giặc mà lại có thể nhàn nhã cho được?

-        Thì… thần nói nhàn là… chỉ có ý so với năm trước đánh giặc vất vả vậy.

-        Ha… ha… ha - Vua Nhân Tông lại phá lên cười - Ai nhàn thì ta không biết chứ hoàng bá thì sao có thể nhàn cho được?

*

*       *

Quốc Tuấn còn nói chuyện với vua Nhân Tông thêm một lúc lâu nữa rồi mới cáo từ. Sau khi rời khỏi điện Thiên An, ông không trở về gia phủ mà đến thẳng Giảng Võ đường. Chỉ còn ba hôm nữa sẽ đến ngày làm lễ duyệt binh và xuất quân. Ông muốn mình trực tiếp đến để xem binh sĩ của mình luyện tập ra sao.

Ban đầu Quốc Tuấn cũng có ý định không làm lễ duyệt binh vì ông nghĩ rằng sau trận thắng vừa rồi thì tinh thần binh sĩ vẫn còn rất khí thế, không cần thiết phải có một cuộc duyệt binh khích lệ như năm trước. Song khi nghe tin giặc Mông Thát điều động đến năm chục vạn quân sang đánh phục thù Đại Việt thì vua Nhân Tông bảo ông cứ phải làm một lễ duyệt binh kết hợp với lễ xuất quân luôn một thể. Vậy là lễ duyệt binh và xuất quân cũng chỉ đơn giản và gói gọn trong khu Giảng Võ đường.

Giảng võ đường được xây dựng vào năm Nguyên Phong thứ ba (năm Quý Sửu - 1253) ngay sau khi vua Trần Thái Tông chiến thắng Chiêm Thành trở về. Ban đầu khu Giảng Võ còn nhỏ và chỉ với mục đích để cho các vương hầu tôn thất đến đó luyện rèn võ nghệ. Sau khi đánh đuổi quân Mông Thát năm Nguyên Phong thứ bảy (1258), vua Thái Tông lại cho mở rộng thêm Giảng Võ đường thành một khu rộng lớn. Lính cấm vệ các quân Tứ Thiên, Tứ Thánh, Tứ Thần đều phải tới đây học qua một khóa đào tạo rồi mới được phân về các quân, đô cấm vệ. Hàng năm, các lộ quân cũng phải cử những tướng trẻ có tài về Giảng Võ đường để luyện tập võ nghệ, luận bàn binh pháp, sau đó những người này về sẽ truyền thụ lại cho các binh sĩ trong lộ quân của mình.

Giữa trưa hè oi ả, binh sĩ các đô vẫn đang hăng hái say mê luyện tập trên thao trường. Quốc Tuấn đi xem xét một lượt, ông gật gù ra vẻ hài lòng rồi gọi các tướng đến căn dặn những điều cần lưu ý trong ngày làm lễ chính thức.

Rời khu Giảng Võ đường, Quốc Tuấn lững thững đi bộ đến Quốc sử viện. Mấy người lính cận vệ thấy chủ tướng không nói gì thì biết ông đang mải suy nghĩ nên không dám nói cười mà cứ lẳng lặng đi theo sau vị tướng già.

Khi đi ngang qua khu nhà Thái Miếu, Quốc Tuấn dừng lại ngắm nhìn ngôi nhà đang dựng dang dở. Chính khu nhà Thái Miếu này vào năm Ất Dậu (1285) đã bị lũ giặc Mông Thát đập phá đến tan hoang trong những ngày chúng chiếm đóng tại kinh thành Thăng Long. Sau khi đuổi được lũ giặc kia về nước, Thượng hoàng Thánh Tông đã quyết định cho xây dựng lại ngay khu nhà Thái Miếu để lấy chỗ làm lễ tế cáo tổ tiên trong mỗi dịp lễ tết. Song khi việc xây sửa vẫn còn dang dở thì lại được tin giặc đang chuẩn bị để tái chiến với Đại Việt. Mọi việc xây sửa phải tạm dừng lại vì sợ khi giặc phương Bắc kéo sang, chúng sẽ lại đốt phá thêm lần nữa. Quốc Tuấn đứng nhìn khu nhà nghĩ mà ngán ngẩm, ông bất chợt lắc đầu, buông ra một tiếng thở dài rồi vẫy tay ra hiệu cho mấy người lính cận vệ đi tiếp…

Đến cổng Quốc sử viện, mấy tên lính canh cổng trông thấy có Quốc công tiết chế đến thì vội vàng mời ông vào thẳng trong thư phòng rồi chạy đi gọi quan Hàn lâm học sĩ Lê Văn Hưu lên tiếp chuyện. Lê Văn Hưu ít hơn Quốc Tuấn hai tuổi, năm mười bảy tuổi Lê Văn Hưu đã đỗ bảng nhãn. Sau bốn mươi năm gắn bó chốn quan trường, Lê Văn Hưu chủ yếu làm việc tại Quốc sử viện và hiện nay đang làm Quốc sử viện giám tu. Nghe tin có Quốc công tới thăm, Lê Văn Hưu bỏ dở công việc chạy tới thư phòng. Hai ông già đứng dậy thi lễ, Văn Hưu mời Quốc Tuấn ngồi xuống rồi gọi người hầu mau dâng trà.

Trông thấy nét mặt vị Quốc công hôm nay thể hiện nhiều vẻ ưu tư không được thoải mái, thư thái như mọi khi, Lê Văn Hưu bèn mở lời trước:

-        Quan huynh hôm nay không được khỏe…?

-        Ba hôm nữa là phải làm lễ xuất quân rồi…! - Quốc Tuấn nói nhỏ - Vậy mà tôi vẫn còn có chỗ… mơ hồ!

Lê Văn Hưu ngớ người ra không tin vào đôi tai của mình, vị Quốc công Tiết chế nổi tiếng mưu lược, can trường là thế mà gần đến ngày xuất quân lại nói là còn có chỗ mơ hồ thì quả cũng lạ! Ông quan chép sử vội hỏi lại:

-        Sao quan huynh lại nói như vậy?

Quốc Tuấn không trả lời quan Hàn lâm mà nhìn vào mắt Lê Văn Hưu hỏi lại:

-        Theo quan Hàn lâm thì thế giặc năm nay thế nào?

-        Ấy chết…! Việc nhận định giặc mạnh hay yếu là việc của các quan tư mã chứ quan văn như chúng tôi sao dám lạm bàn?

-        Quan Hàn lâm không nên giữ ý với tôi như vậy! Cánh quan văn các ông mới là người biết nhìn xa trông rộng, hơn nữa quan Hàn lâm đã bao năm nghiên cứu cổ sử ắt phải có cái nhìn chính xác hơn cánh quan võ chúng tôi. Xin quan Hàn lâm cứ đưa ra nhận định của mình!

Văn Hưu tỏ vẻ ngập ngừng:

-        Quan huynh đã nói vậy thì tôi cũng có ý…

-        Phải như vậy chứ…! - Quốc Tuấn khẽ cười - Mời quan Hàn lâm!

-        Theo ý tôi thì năm nay giặc sẽ sớm tan!

-        Sớm tan…? Vì sao?

-        Sở dĩ tôi nói vậy vì bọn giặc sang đánh ta lần này có năm điều bất lợi.

-        Năm điều bất lợi là những điều gì vậy quan Hàn lâm thử nói xem?

-        Một là chúng là người phương Bắc tiến đánh nước ta sẽ không hợp thổ nhưỡng, quân sĩ tất sẽ sinh tật bệnh. Hai là quân chúng phải đi xa, việc vận chuyển lương thực, chiến cụ sẽ vô cùng khó khăn, tin tức đi lại không có lợi. Ba là quân giặc tuy đông nhưng gồm cả quân Nam Tống mới được thu phục, trong quân lại sử dụng đến cả những tên cướp biển thì dẫu tướng có dũng nhưng không có mưu, quân có đông nhưng cũng chỉ là một lũ ô hợp vô kỷ luật. Bốn là giặc bỏ sở trường là đánh bộ sang sở đoản là đánh thủy thì dẫu có nhiều thuyền to, quân có được luyện tập kỹ đến đâu cũng không thể gọi là hoàn hảo và điều cuối cùng cũng là điều quan trọng nhất đó là quân giặc mới bị thua ta nên tinh thần tướng sĩ vẫn còn đang sợ sệt chán nản mà không có được sự tự tin hăng hái… Vì có năm điều đó nên tôi nghĩ rằng năm nay giặc sẽ sớm tan rã.

Quốc Tuấn lắng nghe những lời khẳng khái của Lê Văn Hưu, tuy cách nói có phần hơi giống trong các tích trò lịch sử do suốt ngày ông quan chép sử này phải sưu tầm và đọc các loại cổ sử, nhưng ý tứ thì không sai một tí nào. Những lời Lê Văn Hưu nói ra rất hợp với những ý nghĩ của Quốc Tuấn.

-        Tôi cũng có suy nghĩ giống với quan Hàn lâm!

-        Đã nghĩ như vậy thì quan huynh sao còn phải lo nghĩ gì nữa?

Quốc Tuấn không trả lời ngay, ông thầm điểm lại những cuộc chiến tranh đã qua với giặc Hồ, nếu tính cả cuộc chiến lần này thì nước Đại Việt của ông trong gần ba mươi năm qua sẽ là ba lần bị giày xéo dưới gót chân lũ xâm lược tàn bạo. Song cũng như những lần trước, thế trận lòng dân đã thành truyền thống vẻ vang và đã ăn sâu gốc bền rễ khắp mọi nơi, ông lại càng tin tưởng vào ngày chiến thắng. Nhưng nếu cứ như vậy thì chiến tranh mới chỉ gọi là tạm qua đi chứ đâu phải đã kết thúc. Lê Văn Hưu thấy Quốc Tuấn không nói, ông bèn nói tiếp:

-        Lần này quan huynh cũng tất sẽ đại thắng trở về thôi mà!

-        Quan Hàn lâm à…! Chiến thắng thì có gì đáng tự hào đâu?

-        Chết…! Chết…! - Quan chép sử lại tỏ vẻ ngạc nhiên hơn nữa - Sao quan huynh lại nói như vậy?

-        Những cuộc chiến xảy ra ngay trên đất Đại Việt của chúng ta thì chiến thắng dẫu có vẻ vang, huy hoàng đến mấy đi nữa thì thua thiệt nhiều hơn vẫn chính là về phía quân và dân nước Đại Việt…

-        Nhưng quan huynh cũng biết những cuộc chiến tranh này là không thể tránh khỏi… vì bọn giặc Hồ kia quá tham lam và tàn bạo…

-        Đúng vậy…! Vua tôi chúng ta dẫu có nhường nhịn, nhẫn nhục đến mấy thì cũng chỉ tạm lùi được thời gian thôi chứ không thể ngăn chặn được cuộc chiến. Nhưng… chả nhẽ không còn cách nào khác để thoát khỏi cảnh binh đao vĩnh viễn?

Lê Văn Hưu bất ngờ với câu hỏi của vị Quốc công Tiết chế, hóa ra không phải ông ta đang lo về việc thắng thua trong một cuộc chiến mà ông ta đang lo nghĩ làm cách nào để thoát khỏi cảnh binh đao một cách vĩnh viễn. Một câu hỏi quá khó, không thể trả lời được câu hỏi của Quốc Tuấn, Lê Văn Hưu hỏi lại:

-        Vậy quan huynh định liệu ra sao?

Quốc Tuấn lắc đầu:

-        Tôi chưa biết… À mà quan Hàn lâm có tìm được tài liệu thư tịch cổ nào về thế trận Bạch Đằng năm xưa không?

-        Thật tiếc! - Văn Hưu lắc đầu buồn bã - Theo lời dặn của quan huynh, tôi đi đến đâu cũng có ý tìm hiểu điều đó nhưng rất tiếc là không thu thập được gì ngoài những điều quan huynh đã biết.

-        Đúng là tiếc thật…! Thôi chào quan Hàn lâm… tôi xin cáo từ!

Quốc Tuấn đứng dậy, Văn Hưu cũng vội đứng lên nài nỉ:

-        Mời quan huynh ở chơi thêm lúc nữa!

-        Giờ cũng quá trưa rồi! Tôi cũng còn nhiều việc phải chuẩn bị cho ngày xuất quân… hẹn quan Hàn lâm vào một dịp khác.

-        Nếu quan huynh đã bận như vậy thì để tôi được tiễn ngài!

*

*       *

Năm nay Quốc công Tiết chế Hưng Đạo vương Trần Quốc Tuấn đã bước sang tuổi lục tuần, song vốn xuất thân dòng dõi võ tướng nên so với những người cao niên cùng độ tuổi thì trông ông vẫn còn có vẻ tráng kiện lắm. Nhưng Quốc Tuấn thì biết rõ sức khỏe của mình, ông tự thấy sức mình đã bị giảm sút đi khá nhiều nhất là trong những năm chinh chiến nơi sa trường mấy năm trước.

Không giống như lần trước, lần này ngay khi nghe tin giặc Hồ động binh chuẩn bị tái chiến với Đại Việt, Quốc Tuấn đã nhanh chóng được Thượng hoàng và Quan gia giao cho lãnh chức Tiết chế tổng chỉ huy quân đội. Mọi việc diễn ra rất nhanh như thể sự việc tất phải như thế không có gì phải phân vân bàn bạc thêm nữa.

Biết mình sức đã yếu, chân tay chậm chạp, mắt đã mờ… sợ không xứng đáng cầm chức Tiết chế, Quốc Tuấn đã vội vàng tìm tới Thượng hoàng Thánh Tông và vua Nhân Tông để tâu xin cho được thôi giữ chức Tiết chế mà chỉ xin làm tướng cầm đầu một đạo quân. Nhưng cả hai vua đều không đồng ý. Thượng hoàng còn nói với ông:

-        Quân cốt tinh bất cốt đa! Tướng tài đâu bởi cậy sức! Đấy không phải là chủ ý của hoàng huynh hay sao? Trẫm có thể nhầm nhưng cả triều đình và trăm họ đâu có thể nhầm được? Tất cả đều trông vào tài cầm quân của hoàng huynh đấy…! Mong huynh đừng từ chối!

Vua Nhân Tông thì nói:

-        Xem trong tất cả hoàng thân, quốc thích thì chỉ có hoàng bá là người am hiểu nhiều nhất về sự mạnh yếu lũ giặc kia. Hoàng bá lại được nhân dân trăm họ tin tưởng, quân lính hết mực kính trọng, vậy hoàng bá không lãnh chức đó thì ai có thể làm tốt hơn được?

Được cả Thượng hoàng Thánh Tông và vua Nhân Tông động viên nên Quốc Tuấn không thể từ chối. Thực ra ông ngại lãnh chức Tiết chế ngoài phần vì lý do sức khỏe ra còn có một lý do nữa hết sức tế nhị, đó là do lần trước chỉ vì chức Tiết chế kia được giao vào tay ông mà một số hoàng thân quốc thích trong triều đình đã tỏ vẻ không đồng tình. Một số người còn phản đối ra mặt bằng cách đầu hàng quân giặc như Chiêu Quốc vương Trần Ích Tắc. Ngay khi Trần Kiện trở giáo đầu hàng giặc và lại còn dẫn đường đưa quân Toa Đô tiến đánh Đại Việt từ phía châu Hoan, châu Ái thì cũng có rất nhiều lời xầm xì bàn tán. Họ không biết động cơ hàng giặc thực sự của Trần Kiện ra sao mà chỉ căn cứ vào mối quan hệ giữa ông với Tĩnh quốc vương Trần Quốc Khang để mà phán xét(1). Chỉ đến khi Chiêu Quốc vương Trần Ích Tắc cũng kéo cả gia quyến ra hàng giặc thì ông mới bớt đi được phần nào những lời dị nghị cay nghiệt kia.

Ngay khi tái lãnh chức Tiết chế, Quốc Tuấn đã tâu bày kế sách đối phó với bọn giặc Hồ trước mặt cả Thượng hoàng và Quan gia. Gọi là kế sách cho quan trọng thôi chứ thực sự cũng chẳng có gì khác biệt so với lần đánh giặc năm trước. Trần Nhật Duật và Nguyễn Khoái sẽ trấn thủ mặt phía bắc. Lê Phụ Trần thay cho Trần Quang Khải đi trấn thủ mặt phía Nam. Trần Khánh Dư trấn thủ cửa biển Vân Đồn. Thượng tướng Thái sư Trần Quang Khải lần này được giao cho hộ giá hai vua và cũng chính là để dự phòng tăng cường cho những chỗ xung yếu khi cần thiết. Mặc dù được cả hai người tỏ vẻ rất đồng tình với kế sách mà ông đưa ra nhưng Quốc Tuấn vẫn cảm thấy không hài lòng vì nó quá đơn giản.

Nhớ lại khi Quan gia hỏi ông xem thế giặc lần này mạnh yếu ra sao, ông đã mạnh dạn trả lời trước mặt Quan gia là năm nay đánh giặc nhàn. Lúc đó ông cũng chỉ nói cứng như vậy để cho Đức Quan gia yên tâm mà lãnh đạo cuộc kháng chiến. Còn thực sự thì từ trong thâm tâm mình ông hiểu một điều rằng không có cuộc chiến tranh nào là nhàn nhã, không có cuộc chiến tranh nào mà không có hy sinh mất mát. Mới lần trước đây thôi, quân dân nhà Trần cũng đánh đuổi được bọn giặc Hồ này ra khỏi bờ cõi. Nhưng để được như vậy, biết bao nhiêu người con Đại Việt đã phải hy sinh thân mình. Kinh thành Thăng Long cũng bị bọn chúng đốt phá tan hoang mãi đến giờ này công việc khôi phục vẫn còn đang dang dở thì lũ giặc kia lại chuẩn bị kéo sang. Hình ảnh kinh thành rực cháy trong đêm thất thủ luôn ám ảnh ông trong nhiều đêm sau đó.

Nói gì đi nữa thì bọn giặc Hồ kia quả thực là quá mạnh! Vó ngựa của chúng đã tung hoành khắp nơi, chúng đã thôn tính và chinh phục được biết bao quốc gia từ Á sang Âu. Hai lần bị thua Đại Việt trước đây chủ yếu là do chúng không hợp thổ nhưỡng và bị thiếu thốn lương thực. Nếu lần này bọn chúng biết khắc phục được hai yếu điểm kia thì quân dân Đại Việt cũng rất khó mà thắng ngay được!

Sở dĩ giặc Hồ cho động binh liên tục cũng là vì Đại Việt đã dập tắt vầng hào quang của chúng. Vó ngựa của chúng phi đến đâu thì đất và dân nơi đó phải thuộc về của chúng. Vậy mà Đại Việt, một đất nước cỏn con chưa bằng một châu quận của chúng lại dám đương đầu và chặn đứng bước chân chinh phạt, đồng thời không cho chúng mở rộng lãnh thổ xuống phía Nam. Nước Đại Việt như cái gai ngay trước mắt, lúc nào cũng làm chúng đau buốt nhức nhối. Chừng nào chưa nhổ được cái gai này đi thì quan quân bọn chúng còn ăn chưa ngon, ngủ chưa yên.

Ngay lúc này đây, khi đang chuẩn bị cho việc xuất quân, Quốc Tuấn đã tin tưởng vào ngày chiến thắng. Nhưng chiến thắng lần này có đồng nghĩa với nền thái bình bền lâu hay không? Hay kết thúc chỉ là sự chuẩn bị để bắt đầu cho một cuộc chiến tranh mới? Làm sao để chấm dứt chiến tranh? Làm sao để bọn giặc Hồ từ bỏ hẳn ý định động binh chinh phạt Đại Việt? Những câu hỏi này ông đã phân vân và đem hỏi nhiều người nhưng chỉ nhận được một câu trả lời mà không một ai là con dân nước Đại Việt có thể chấp nhận được, đó là dâng chiếu xin cầu hòa.

Quốc Tuấn không khi nào bằng lòng với câu trả lời đơn giản như vậy! Ông luôn tự hỏi tại sao tiền Ngô vương lại có thể chấm dứt chiến tranh bằng chỉ một trận đánh? Phải rồi, chỉ có một câu trả lời mà ông cho là thỏa mãn là phải đánh cho lũ giặc kia một trận kinh hồn bạt vía. Đánh cho chúng một trận mà chúng phải sợ đến chín đời. Chỉ có như vậy mới có thể mang lại nền hoà bình, độc lập lâu dài cho nước Đại Việt.

Nhưng cả hai lần trước, giặc Hồ đều vào Thăng Long một cách dễ dàng. Chúng còn đuổi theo truy nã làm cho hai vua Đại Việt phải chạy trốn khắp nơi. Chỉ đợi đến khi quân của chúng mắc tật bệnh, thiếu thốn lương thực thì quân Đại Việt mới phản công và buộc chúng phải rút quân về nước. Cũng có nhiều trận ta thắng lớn nhưng cũng chưa làm chúng sợ và từ bỏ hẳn dã tâm xâm lược Đại Việt. Vậy phải đánh thế nào để với lực lượng nhỏ hơn nhưng vẫn làm cho giặc sợ hãi đến chín đời là câu hỏi mà Quốc Tuấn đang phải đi tìm lời giải cho mình.

-        Cứ về Quảng Yên đã rồi hãy tính!

Quốc Tuấn thầm tự động viên mình trước ngày lễ xuất quân.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Com