Bài viết số 7 - lớp 12
Kim Lân và Tô Hoài đã thực sự đánh dấu tên tuổi của mình trong làng văn học VN hiện đại với nhiều tác phẩm có giá trị, đi sâu vào lòng người đọc bao thế hệ chúng ta. Đề tài thường được nhắc đến trong những tác phẩm của họ thường là về những người dân lao động, với số phận và cuộc đời éo le, đặc biệt là người phụ nữ trong xã hội cũ. Có thể nói, hai nhà văn lớn trên đã hiểu được sâu sắc cảnh ngộ của người phụ nữ trong xã hội xưa, đồng thời cũng đặt cho mỗi chúng ta ngày nay những suy nghĩ, trăn trở về số phận của họ - những người phụ nữ trong xã hội hiện đại.
Với “Vợ nhặt”, số phận của người phụ nữ đương thời được phản ánh thật đau đớn và xót xa qua ngòi bút đầy tài năng của Kim Lân. Nhân vật thị - một người đàn bà không tên, không tuổi, không người thân thích đã theo không anh cu Tràng về làm vợ chỉ vì một câu nói bông đùa và bốn bát bánh đúc. Cái nghèo, cái đói khổ đã khiến thị phải gạt nhân phẩm và lòng tự trọng của mình qua một bên, để cứu rỗi lấy tính mạng của mình trong cảnh bao người chết đói như ngả rạ ở xung quanh. Thế mới biết thân phận người phụ nữ bấy giờ bị rẻ rúng, đau đớn như thế nào. Phát xít Nhật và Pháp không những cướp nước ta, mà chúng còn đẩy nhân dân ta vào cảnh lầm than, cơ cực, khiến hơn hai triệu đồng bào ta chết đói vào thời bấy giờ. Nhân vật thị trong “Vợ nhặt” đáng thương là thế, nhưng cũng chỉ là một nạn nhân tiêu biểu mà thôi. Còn biết bao nhiêu người phụ nữ đáng thương nữa rơi vào tình cảnh như thị? Và liệu họ có được may mắn như thị không khi mà thị còn được anh cu Tràng “rước” về, được mẹ và chồng cưu mang? Người mẹ của anh cu Tràng – bà cụ Tứ đó nào có cuộc sống sung sướng gì hơn. Bà là một người đàn bà góa bụa, sống côi cút cùng người con trai thô kệch, có phần dở hơi, lại là dân ngụ cư, nghèo rớt mùng tơi như bao người khác. Nhưng vì cùng là phụ nữ, bà hiểu thấu nỗi lòng thị, bà thương xót cho phận đàn bà khổ đau, bà đã cưu mang con người khốn khổ ấy, để rồi nhem nhóm lên ngọn lửa của tình người, tình yêu thương trong đêm tối mịt mùng của cuộc đời lầm than, cơ cực. Số phận của người phụ nữ trong xã hội cũ cay đắng là thế, phiêu bạt là thế, thử hỏi rằng có bấy nhiêu trong số họ được sống trong cảnh sung sướng, hay họ bị đày đọa, bóc lột cả về thể xác lẫn tinh thần? Hãy cùng nhìn sang “Vợ chồng A Phủ” của Tô Hoài mà xem! Mị là một bông hoa rừng của vùng núi Tây Bắc hoang dại, Mị có cuộc sống thanh bình, tuy vất vả nhưng đầm ấm bên người cha già, hạnh phúc bé nhỏ bên người mình yêu. Nhưng chỉ vì món nợ truyền kiếp, Mị bị bắt về làm dâu gạt nợ cho nhà thống lí Pá Tra. Sự đời đâu thường khiến con người ta muốn làm gì thì làm. Mị nhiều khi muốn tự tử, muốn chết quách cho xong cái thân trâu ngựa nô lệ, nhưng vì Mị còn người cha già đáng thương ấy, Mị sao nỡ nhắm mắt buông tay bỏ lại ông một mình với món nợ? Mị là người con có hiếu, Mị xứng đáng được hưởng cuộc sống tự do, hạnh phúc. Cuộc sống đời thường tuy thật giản dị với hạnh phúc thật đơn sơ, nhưng dường như đó chỉ còn là dĩ vãng với Mị. Khao khát một hạnh phúc bé nhỏ như vậy có gì là sai, nhưng tại sao thần quyền và cường quyền nơi đó vẫn trói buộc con người ấy, để rồi ngày qua ngày, biến cô thành “con rùa lùi lũi nuôi trong xó cửa”? Tô Hoài đã cho nhân vật của mình có những suy nghĩ thật xót xa làm sao. Mị tự nghĩ mình không bằng con trâu, con ngựa. Mà có gì là sai khi nghĩ như thế, thử hỏi nếu A Sử còn coi Mị là vợ, thì hắn có trói đứng cô vào cột nhà không! Tội ác rùng rợn như thời Trung cổ đó được Tô Hoài lột tả, như khía bao lưỡi dao vào lòng người đọc, như tiếng gào thét lên ai oán cho thân phận của người phụ nữ Tây Bắc bấy giờ. Họ có muốn phản kháng, muốn vùng lên, nhưng dường như có bao thế lực vô hình vẫn trói họ lại, không cho họ con đường tự giải thoát. Xót xa thay cho thân phận những người phụ nữ như thế! Phải chăng dư âm của xã hội phong kiến với định kiến nặng nề, bóng tối của xiềng xích nô lệ và sự lầm than của cuộc sống đã đưa đẩy người phụ nữ xưa vào bước đường như vậy? Thời gian trôi đi, lịch sử cũng thay đổi theo. Nước ta giờ đã độc lập, dân ta đang xây dựng cuộc sống no ấm cả về vật chất và tinh thần. Cùng với đó là tư tưởng tiến bộ đã được mở mang ở nhiều nơi, nhất là tư tưởng bình đẳng giới. Không còn như xưa, người phụ nữ trong xã hội ngày nay không bị phân biệt đối xử về trách nhiệm, khả năng, không còn bị phân biệt đối xử với nam giới, không còn bị chà đạp, không còn bị phụ thuộc nữa, họ có quyền bình đẳng, được hưởng cuộc sống ấm no, hạnh phúc. Giờ để tìm trong xã hội này một hình ảnh “chém cha cái kiếp chồng chung” thì quả thực là rất khó. Đảng và Nhà nước ta có nhiều chính sách tiến bộ để bảo vệ quyền lợi của người phụ nữ trong mọi mặt của cuộc sống xã hội, đặc biệt là trong hôn nhân và gia đình. Trong văn học của những giai đoạn trước, ta vẫn thường thấy hình ảnh của người phụ nữ yếu đuối, sống phụ thuộc vào người đàn ông, người chồng và sống trói buộc bởi sợi dây vô hình của những lễ giáo phong kiến. Họ không được tham gia các hoạt động xã hội như nam giới, không có quyền bình đẳng, không có tiếng nói và địa vị trong xã hội, họ chỉ như một cái bóng không thể nào đứng dậy nổi. Nói thế tất nhiên không phải phủ nhận tất cả phụ nữ xưa đều như vậy. Vẫn có những nữ anh hùng như bà Trưng, bà Triệu, … là những hào kiệt sánh ngang với nam giới trong tề gia trị quốc, nhưng số những người được như thế thì quả là không thấm vào đâu. Nhưng nếu khách quan mà so sánh với xã hội ngày nay, ta sẽ thấy ngay sự khác biệt rõ rệt. Phụ nữ tham gia vào hoạt động chính trị, hoạt động xã hội ngày càng nhiều. Ta có thể kể tới như phó chủ tịch nước Nguyễn Thị Doan, phó chủ tịch Quốc hội Tòng Thị Phóng, … Họ là những đại diện tiêu biểu cho những người phụ nữ hiện đại trong xã hội hôm nay. Và còn biết bao nhiêu người phụ nữ như thế nữa, đã và đang thể hiện rõ ràng quyền lợi của mình. Phụ nữ ngày nay đang dần thoát khỏi những ràng buộc của tư tưởng lạc hậu trong xã hội cũ, họ năng động hơn, tự tin hơn, quyết đoán hơn. Họ không còn là những cái bóng yếu đuối phải phụ thuộc hoàn toàn vào người đàn ông, có có cuộc sống không còn bị ràng buộc, họ hoàn toàn có đủ khả năng đóng góp công sức của mình xây dựng xã hội và đất nước. Họ cống hiến sức lực của mình vào hầu hết mọi lĩnh vực của đời sống xã hội như chính trị, văn hóa, giáo dục, y tế, dịch vụ … không thua kém gì nam giới. Giờ là thời đại mà người ta đề cao quyền con người, quyền bình đẳng giới, mọi áp bức, nô dịch giờ đang dần được quét sạch khỏi xã hội văn minh. Người phụ nữ được giải phóng khỏi khuôn khổ gò bó của xã hội xưa với định kiến nặng nề, họ thực sự là một nửa của xã hội loài người chúng ta. Nhưng liệu có phải như vậy mà những phẩm chất xưa của người phụ nữ sẽ không còn nữa? Câu trả lời là không! Dù thân phận họ có thay đổi, nhưng phẩm chất thì mãi còn đó, tôi tin là vậy. “Công, dung, ngôn, hạnh” vẫn là bốn đức tính căn bản và cao đẹp nhất của người phụ nữ, dù họ có sống trong thời đại nào đi nữa. “Công” là sự khéo léo, “dung” là vẻ đẹp bên ngoài thể hiện qua nội tâm bên trong, “ngôn” là lời nói, cách ứng xử, “hạnh” là phẩm hạnh. Ta có thể bắt gặp hình ảnh của nhiều hình tượng người phụ nữ trong văn học, như người vợ của Tú Xương là một ví dụ điển hình, bà tuy không phải là danh tướng hào kiệt, nhưng là một người dám hi sinh vì chồng con, chịu thương chịu khó, một lòng vì chông, vì con. Hay như nữ thi sĩ Hồ Xuân Hương – một người phụ nữ tài năng với cá tính mạnh mẽ, nhưng không vì thế mà đánh mất đi những phẩm chất cao đẹp của một người phụ nữ Á Đông. Phụ nữ trong xã hội ngày nay tuy hiện đại, nhưng phải giữ được trong mình nét văn minh. Đó là điều quan trọng nhất. Bản thân họ luôn phải tự đấu tranh cho quyền lợi của mình, vì đâu đó trong xã hội vẫn còn những mảng tối xót lại của tư tưởng lạc hậu xưa. Những mảng tối đó tuy không thể che khuất những mảng sáng văn minh, nhưng nó sẽ là vết nhơ của xã hội, là nỗi đau của nhiều bi kịch. Giờ không chỉ người phụ nữ cần đấu tranh cho thân phận và quyền lợi của mình, mà sự giúp đỡ và ủng hộ của người đàn ông là vô cùng cần thiết. Vì vậy, để đảm bảo công bằng trong xã hội, đảm bảo quyền lợi cho người phụ nữ, thì đâu chỉ cần riêng một phái nào cố gắng. Có cùng nhau chung tay góp sức, có cùng nhau một lòng đoàn kết, thì xã hội, đất nước mới ngày văn minh.
Bằng ngòi bút tài năng và tấm lòng nhân ái của mình, Tô Hoài và Kim Lân đã rất thành công trong những tác phẩm của mình, đặc biệt là niềm cảm thương và trân trọng người phụ nữ xưa. Những trang viết của họ khép lại ở đó, nhưng để lại cho thế hệ chúng ta ngày nay những suy nghĩ sâu sắc về một thời đại với những người phụ nữ bất hạnh. Điều đó hẳn sẽ thôi thúc những người phụ nữ trong xã hội hôm nay nói riêng và mỗi chúng ta trong cộng đồng nói chung sống tốt hơn, văn minh hơn để xây dựng cuộc đời và đất nước tươi đẹp hơn!
Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Com