Chương 140 - Chân tướng là gì
Lữ Quang không nói muốn gặp tôi, nhưng vì lo lắng cho Rajiva, tôi chủ động đi theo chàng. Vẫn là đại điện to rộng ngày hôm qua, vẫn là đám con cháu bất nghĩa đang đứng vây quanh ông ta. Nhận thấy ánh mắt ác ý của Lữ Soạn, tôi thầm nguyền rủa trong lòng. Lúc này đây tôi chỉ muốn hét vào mặt hắn ta rằng: 'Tương lai của ngươi hoàn toàn không được yên ổn đâu!'
- Pháp sư, hương vị của đêm qua không tồi chứ? Khuyển tử ta đã tận mắt chứng kiến khoảnh khắc thăng hoa của ngài.
Lữ Quang cất tiếng cười thỏa mãn, không giấu diếm, hắn có vẻ rất hài lòng.
- Làm người thì nên tận hưởng niềm hoan lạc ấy, tụng kinh niệm Phật nhiều có gì vui thú đâu! Nếu ta không ra sức tác hợp, e là kiếp này pháp sư chẳng thể được thưởng thức mùi vị của niềm vui sướng tột độ ấy!
Vốn đã có sự chuẩn bị từ trước, rằng đến gặp ông ta là để nghe những lời nhục mạ chẳng kiêng nể gì ai, nhưng khi những lời ấy vang lên bên tai mình, tôi có cảm giác ghê tởm như ăn phải ruồi nhặng. Tôi lén quan sát Rajiva, mặt chàng hơi biến sắc, nhưng dáng vẻ vẫn đạo mạo, điềm tĩnh. Tôi ngậm ngùi nuốt giận, ai bảo chúng tôi là những kẻ yếu thế cơ chứ!
Lữ Quang đưa ánh mắt cú vọ sang phía tôi:
- Thì ra pháp sư cũng giống ta, chỉ thích những thiếu nữ yêu kiều, duyên dáng người Hán. Trong phủ đệ của ta ở Trường An đã thu nạp không ít phụ nữ Hán, ngày sau có dịp đến Trường An, ta nhất định sẽ tặng ngài vài nàng.
Rajiva vẫn lặng thinh không đáp, môi mím chặt, lưng vươn thẳng. Tuy khoác trên mình bộ y phục dân dã, nhưng vẻ ung dung, tĩnh tại trong mắt chàng, khí chất thanh cao, thoát tục của chàng khiến cho một kẻ thô thiển, kệch cỡm như Lữ Quang trở nên nhỏ bé hơn vài phần.
Thấy Rajiva lặng yên không đáp hồi lâu, chừng như bực tức, Lữ Quang đằng hắng vài tiếng:
- Mấy ngày tới pháp sư cứ an tâm nghỉ ngơi trong cung, ta sẽ cho người đến hầu hạ pháp sư chu đáo.
Rồi ông ta lại giả bộ tử tế, quan tâm:
- Pháp sư có thiếu thốn gì không?
Rajiva khẽ cúi người, hai tay chắp lại, điềm tĩnh đáp lời:
- Tôi rời chùa đã lâu, lòng đầy lo lắng. Nếu Lữ đô đốc cho tôi trở về chùa Vương Tân hoặc chùa Tước Li thì tôi rất cảm ơn.
- Pháp sư không cần phải vội, ta còn rất nhiều vấn đề về Phật pháp muốn thỉnh giáo Pháp sư mà!
- Những vấn đề Phật pháp của ngài, tôi đây không đủ sức giải đáp. Rajiva chỉ hiểu kinh Phật, không biết bói toán, cũng chưa từng tin vào những điều tiên tri.
Rajiva tỏ ra cương quyết không nhượng bộ:
- Tôi là người xuất gia, không màng thế sự. Lữ đô đốc giam giữ tôi cũng chỉ có thể ép tôi phá đi thân giới, tấm lòng hướng Phật của tôi, ngài chẳng thể lay động được. Những điều đô đốc kỳ vọng ở tôi, e là tôi chẳng thể giúp gì cho ngài, mong ngài sớm từ bỏ ý định đó đi.
Tôi cảm thấy hết sức băn khoăn. Những lời Rajiva vừa nói tôi có thể hiểu được. Phật giáo ban đầu khi mới được truyền bá đến Trung Nguyên, người Hán đã xem Phật giáo tựa như Đạo giáo, một giáo phái tiên tri. Từ thời nhà Hán cho đến thời Nam Bắc triều, việc tiên tri và bói toán rất thịnh hành, vì vậy, Lữ Quang xem Rajiva là một pháp sư biết thuật bói toán là điều bình thường. Tuy nhiên, những câu sau đó của Rajiva lại khiến tôi băn khoăn. Lữ Quang đang mong đợi điều gì kia chứ?
Trước khi suy nghĩ được thêm gì nữa thì tôi đã ngẩng lên nháy mắt với Rajiva, ra hiệu cho chàng đừng kích động Lữ Quang.
Tuy nhiên, Lữ Quang chưa kịp phản ứng, thì Lữ Soạn đã tức giận, liền rút thanh kiếm đeo bên thắt lưng của mình rồi lao về phía Rajiva:
- Không muốn uống rượu kính mà chỉ muốn uống rượu phạt, ta thấy ngươi chắc không cần cái mạng này nữa...
Lữ Quang hét lên:
- Soạn nhi, không được vô lễ!
Hắn ta ra lệnh cho Lữ Soạn thu kiếm lại, hòa nhã nói:
- Mấy ngày qua chắc pháp sư đã thấm mệt, ngài nghỉ ngơi đi. Về những chuyện khác, ngày sau nói tiếp cũng chưa muộn.
Rajiva chắp tay cúi chào rồi quay người rời đi, tôi cũng vội vàng đi theo ngay sau đó. Trước khi đi, tôi cũng kịp thấy khuôn mặt Lữ Quang, miệng ông ta tuy cười nhưng ánh mắt lại trần ngập đầy ác ý.
- Rajiva, nếu mục đích của Lữ Quang chỉ là muốn ép chàng phá giới, nay ông ấy đã đạt được, vậy vì sao vẫn muốn giam giữ chàng? Ông ta muốn gì ở chàng?
Lựa lúc không có ai, tôi vội hỏi chàng câu hỏi quẩn quanh mãi trong đầu kể từ lúc gặp Lữ Quang đến khi trở về căn phòng giam giữ chúng tôi lúc trước.
- Ngải Tình, nàng có biết thất bại thảm hại của nước Tần trong cuộc đại chiến với nước Tấn không?
Tôi biết chứ và tôi tin hầu hết người Trung Quốc đều thuộc làu lịch sử về trận chiến đó. Đêm trước cuộc chiến, Phù Kiên vẫn còn là một bậc quân vương thành công nhất trong thời kỳ Thập lục quốc. Luận về cương vực, về cơ bản, lần đầu tiên Phù Kiên đã thống nhất toàn miền bắc Trung Quốc (lãnh thổ rộng lớn hơn thời kỳ của Thạch Lặc rất nhiều). Luật về phẩm cách, có thể xem Phù Kiên là một vị vua nhân từ hiếm có trong thời đại loạn (mà hầu hết các đấng quân vương đều là hôn quân). Luận về chính sách dân tộc, trong thời kỳ "không chung dòng tộc, ắt sinh khác lòng", phương châm của ông hết sức tiến bộ: hòa hợp dân tộc, không giết hại lẫn nhau. Nhưng trận đại chiến ở Phì Thủy đã làm thay đổi cục diện, thậm chí đã "đưa tang" nhà Tiền Tần vốn rất hùng mạnh trước đó.
Cuộc chiến kỳ lạ ấy vừa mới xảy ra một năm trước thời điểm tôi có mặt ở đây, vào tháng Mười một năm 383. Mức độ chênh lệch về lực lượng quân sự hai bên trong cuộc chiến này được đánh giá là kỳ lạ nhất trong lịch sử Trung Quốc: 87:18. Tính chất hoang đường của toàn bộ quá trình diễn ra cuộc chiến khiến không ai có thể tin nổi. Bên giành thắng lợi không hề nắm chắc phần thắng, cũng không hiểu do đâu mà chiến thắng. Bên thua, thua trong nỗi ngỡ ngàng, bàng hoàng, đế quốc Tiền Tần hùng mạnh sụp đổ chỉ trong một sớm một chiều.
Lữ Quang dẫn quân chinh phạt Tây vực vào tháng Giêng năm 383, trận Phì Thủy diễn ra vào đầu năm đó. Lữ Quang đánh chiếm Qarasahr (Yanqi), rồi tấn công Khâu Từ năm 384. Thực ra kế hoạch Tây chinh từng làm dấy lên cuộc tranh luận gay gắt trong triều đình của Phù Kiên từ trước đó. Nhiều đại thần không tán đồng việc phân tán lực lượng quân sự cho việc chinh phạt Tây vực, vì nhà Tần đang phải tập trung binh lực để đối phó với Đông Tấn. Nhưng sự tự tin thái quá được tích lũy sau những thắng lợi liên tiếp, khiến Phù Kiên muốn nhanh chóng trở thành Tần Hoàng (Tần Thủy Hoàng), Hán Vũ (Hán Vũ Đế) và ông cũng tự tin cho rằng lực lượng còn lại dư sức đối phó với Đông Tấn. Nếu không có cuộc Tây chinh này, e là muốn gặp đại tướng quân Lữ Quang, bạn phải tham gia trận chiến tại Phì Thủy. Và như thế, có lẽ đã không tồn tại nhà Hậu Lương do Lữ Quang dựng lên trong thời kỳ Thập lục quốc.
Nhưng trận chiến có ảnh hưởng to lớn đến lịch sử Trung Quốc ấy, đối với một quốc gia xa xôi tận miền Tây vực như Khâu Từ và bản thân Rajiva có mối liên quan gì?
- Lữ Quang đã hay tin nhà Tần bại trận. Tình hình hiện nay vô cùng rối ren, người Yên phục quốc, người Khương làm phản, vua Phù Kiên đã không còn đủ sức để cứu vãn thời cuộc.
Ánh mắt chàng rực sáng, chàng bóp mạnh tay tôi:
- Ngải Tình, theo nàng, vì sao nước Tần đang khốn đốn và cần viện binh như vậy, Lữ Quang lại ghìm giữ binh lính ở Khâu Từ dài ngày, không chịu quay về?
Suy nghĩ giây lát, tôi chợt hiểu ra:
- Ông ta muốn thống trị Tây vực?
Vào thời Thập lục quốc, hầu hết những kẻ nắm giữ trong tay chút ít binh quyền đều muốn cát cứ, xưng vương xưng bá. Luận về dũng mãnh, Lữ Quang không bằng Thạch Lặc, luận về độ gian xảo, ông ta không bằng Diêu Trường, luận về mưu lược, cũng không bằng Mộ Dung Thùy. Nếu không có trận Phì Thủy, ông ta sao dám sinh lòng bội phản với triều đình Phù Kiên. Nhưng tình thế hiện nay đã khác, ông ta cầm quân ở nơi xa xôi, Phù Kiên lại đang đau đầu với quân phản loạn khắp nơi, chẳng còn hơi sức và tâm trí đâu mà nhớ tới Lữ Quang, bởi vậy, Lữ Quang nảy sinh tham vọng xưng bá cũng là dễ hiểu. Giữa vòm trời cao rộng, ở nơi khuất bóng hoàng đế này, ông ta có thể làm mưa làm gió mà không ai động đến.
Rajiva gật đầu:
- Đúng vậy! Lữ Quang có dã tâm rất lớn, những chức tước mà vua Tần phong cho ông ta: Tán kỵ thường thị, An Tây tướng quân, Tây vực hiệu úy đều không thỏa mãn tham vọng bành trướng và xưng bá của ông ta.
Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Com