Chương 39 - Đại Thừa và Tiểu Thừa (Tiếp theo)
- Thật ngông cuồng, ta không còn gì để nói với cô nữa.
Ngài quay sang nhìn Rajiva rồi bảo
- Đi thôi
Sư phụ Bandhudatta tức giận đi về hướng chùa Vương Tự, Rajiva vội vã cất bước theo sau. Cậu ấy quay lại nhìn tôi, ra hiệu bảo tôi mau chóng rời đi. Vì không muốn làm Rajiva càng thêm khó xử nên tôi cũng quay trở về ngay sau đó. Nhưng chỉ mới vừa đi vài bước, tôi liền ngoảnh đầu lại nhìn, hình bóng cao gầy lặng lẽ bước đi, trông thật cô đơn và hiu quạnh.
Haizz.. không biết có phải vì câu nói của mình lúc nãy mà đã khiến cậu phải gặp rắc rối? Chỉ nghĩ đến đó thôi đã khiến lòng dạ tôi đầy nỗi bất an.
Tối đến, Rajiva đến phòng tôi như thường lệ, nhưng cậu ấy có vẻ rất mệt mỏi. Sau khi tra hỏi vài lần, cậu cũng đã kể cho tôi nghe chuyện mình bị sư phụ trách phạt, bắt cậu quỳ trước tuợng Phật niệm kinh một trăm lần.
Tôi ngạc nhiên:
- Là do tôi đúng không? Sư phụ cậu tức giận khi tôi tranh cãi với ngài ấy đúng không?
Rajiva lắc đầu:
- Không phải tại cô. Sư phụ là một cao tăng, tại sao người lại nổi giận với cô được chứ. Sư phụ trách phạt là do lỗi của tôi
- Vì sao?
Cậu thở dài, trên mặt lộ rõ vẻ mệt mỏi và phiền muộn:
- Bởi vì tôi đã lén đọc kinh Phật Đại Thừa
Tôi nhớ ra rồi, trong những tài liệu viết về cậu ta, tôi biết lúc đầu Rajiva theo học Phật giáo Tiểu Thừa nhưng sau đó đã chuyển sang Đại Thừa. Có vẻ đây chính là giai đoạn chuyển giao ấy.
Cậu ngồi xuống, ánh nền lập lòe trong đêm tối phản chiếu lên gương mặt cậu:
- Khi còn ở Sulaq, tôi theo học đại sư Suryasoma, lần đầu tiên tiếp xúc với Phật giáo Đại Thừa, tôi đã bị thuyết phục sâu sắc. Ngài ấy còn tặng cho tôi một cuộn kinh văn Đại Thừa. Đáng tiếc, trên đường trở về Khâu Từ, tôi đã làm lạc mất nó.
Gương mặt thoáng chút hối hận và tiếc nuối. Tôi chợt nhớ lại có lần mình đã từng nhìn thấy cậu ta lục lọi khắp lán trại để tìm một thứ gì đó, còn quyển kinh Phật mà tôi đã tìm thấy bên ngoài lán trại nữa chứ, chắc hẳn đó là cuộn kinh Đại Thừa mà cậu ta vừa nhắc đến.
Tôi ngập ngừng nói:
- Ừm....kinh thư của cậu...thật ra là đang ở chỗ của tôi
Mặc dù không biết vì sao cuộn kinh thư ấy lại rơi trước lán trại của mình, nhưng tôi cũng không thể tự ý lấy nó khi chưa được chủ nhân của nó cho phép.
Tôi vừa tìm vừa nói tiếp:
- Không phải tôi lấy trộm đâu. Vì nó rớt ở bên ngoài lán của tôi nên tôi mới nhặt lấy. Tôi cũng không biết nó là của cậu.
Nhưng thật kỳ lạ, không có ở đây. Rõ ràng tôi đã để nó trong tủ kia mà. Mấy hôm nay tôi thường xách balo ra ngoài nên phải để tạm một số thứ vào trong tủ. Những thứ khác đều vẫn còn, duy chỉ có cuộn kinh thư thì lại không rõ tung tích.
Tôi thắc mắc:
- Lẽ nào đã có ai vào phòng tôi sao?
Hàng ngày đều có người hầu đến dọn dẹp, nhưng bọn họ tuyệt đối sẽ không bao giờ mở tủ ra cả. Tôi nhìn khắp xung quanh một lượt, nhưng cũng không thể nào thấy được bất kỳ một dấu vết nào của kẻ đột nhập. Không có camera theo dõi, thì cũng không có cách nào để biết cả.
Rajiva suy nghĩ rồi do dự nói:
- Có thể, tôi biết người đó là ai....
- Là ai?
Nhưng cậu ta lại không chịu nói ra mà chỉ xin lỗi tôi như đó là lỗi của bản thân mình:
- Là do tôi....
Rajiva dừng lại, nhìn tôi với ánh mắt đầy vẻ lo lắng:
- Những lời cô đã nói với sư phụ tôi hôm nay, tuyệt đối đừng bao giờ nhắc đến trước mặt người khác
- Tại sao? Tôi đâu có nói sai.
- Cô không những không sai mà còn nói rất đúng. Hình ảnh thuyền buồm và chiếc thuyền nhỏ trên sông mà cô đã nói rất giống với tư tưởng của hai giáo lý Đại Thừa và Tiểu Thừa, Rajiva vô cùng thán phục. Nhưng....
Cậu ta ngừng lại, buồn bã:
- Giáo lý Đại Thừa bị cho là luận điệu hoang đường ở Tây Vực. Hôm nay khi phạt tôi, sư phụ đã nói rằng việc lén đọc giáo lý Đại Thừa sẽ khiến bản thân tôi tự hủy hoại và lạc lối.
Tôi bước đến rồi ngồi xuống đối diện với Rajiva:
- Sao lại thế chứ. Giáo lý Đại Thừa phù hợp với cậu ấy hơn
Tôi có thể hiểu được tâm trạng của cậu. Phật giáo Tiểu Thừa đã tồn tại và hưng thịnh suốt mấy trăm năm ở Khâu Từ. Thời gian đầu, cuộc phân tranh giữa hai tông phái này diễn ra rất kịch liệt. Khi ấy việc truyền bá giáo lý Đại Thừa, vốn là một tông phái nhỏ bé lúc bấy giờ, bị xem là hành vi "xấu xa" của một bộ phận rất nhỏ các "tăng sĩ tích cực". Đến thời hiện đại, sự tranh chấp này đã không còn và thuật ngữ này cũng không được nhắc đến nhiều nữa mà sẽ được phân chia theo khu vực như: Phật giáo Nam truyền, Phật giáo Nguyên thủy, Phật giáo Hán truyền, Phật giáo Tây Tạng, v.v.
Rajiva nhìn tôi kinh ngạc:
- Sao cô lại biết?
Bởi vì sứ mệnh của cậu là truyền bá Phật giáo Đại Thừa. Nhưng tôi lại không thể nào nói ra điều đó được, nên chỉ có thể lựa lời nói với cậu:
- Bởi vì, cậu không chỉ muốn giải thoát cho bản thân bằng con đường tu hành sau khi đã thấu tỏ luân hồi sinh tử, tránh xa dục vọng và đạt đến cảnh giới cao nhất, mà cậu còn mong muốn cảm hóa con người, cứu rỗi chúng sinh, tu thành chính quả, cứu giúp cuộc đời.
- Cô....làm cách nào cô lại biết mong ước của tôi?
Rajiva đang nhìn tôi chăm chú, khóe môi hơi run run, ánh mắt như muốn dồn tất cả ánh sáng vào tôi, đôi mắt ấy như đang thưởng thức, như đang xúc động và nhiều hơn cả là cảm giác như được an ủi bởi vừa gặp được tri âm.Nhưng riêng tôi thì giống như đang bị thiêu cháy dưới đôi mắt ấy. Khuôn mặt tôi nhanh chóng nóng bừng. Đây chẳng qua chỉ là những kiến thức nho nhỏ mà tôi biết được nhờ vào việc hâm mộ Rajiva thôi mà. Tôi trả cho cậu cuộn kinh mà tôi đã cứu được trong lư hương hôm nay:
- Rajiva, Tiểu Thừa xuất thế, Đại Thừa nhập thế. Thực ra, Đại Thừa được phát triển trên nền tảng của giáo lý Tiểu Thừa, hai tông phái này không đối lập nhau. Phật tổ sáng lập và đạo Phật vì muốn chống lại đạo Bà La Môn, phản đối chế độ phân biệt đẳng cấp khắc nghiệt, bởi vậy giáo lý của ngài hết sức đơn giản. Phương thức tu hành phỏng theo lối tu khổ hạnh rất được ưa chuộng lúc bấy giờ, hy vọng bằng sự cố gắng của bản thân, có thể đạt đến sự giải thoát. Nhưng xã hội đang trên đà phát triển và đổi thay. Những điểm hạn chế của giáo lý Tiểu Thừa đang ngày càng trở nên rõ rệt.
Nhớ đến quan điểm của Quý Tiễn Lâm (nhà ngôn ngữ học), tôi nói tiếp:
- Phật giáo Tiểu Thừa đề cao "tự cứu độ", muốn được giải thoát, nhất thiết phải xuất gia. Những người tu hành theo Phật giáo Tiểu Thừa không tham gia sản xuất, không sinh con đẻ cái. Nếu ai cũng xuất gia và theo tông phái này, quốc gia sẽ không thể tồn tại, loài người tất diệt vong. Đúng vậy, lúc Phật giáo và quyền lực thống trị phát sinh mâu thuẫn thì tông phái Đại Thừa ra đời để giải quyết vấn đề đó. Hơn nữa, giáo lý Đại Thừa có thể cứu giúp mọi người. Chỉ cần bái phật và đọc kinh Phật là có thể thành Phật. Và như vậy, không cần phải xuất gia, cư sĩ cũng có thể thành Phật, tức là sẽ giải tỏa được mâu thuẫn về sức sản xuất. Cư sĩ lại có thể thành thân, tức là sẽ giải tỏa được nhu cầu sinh sôi nảy nở không ngừng của nhân loại. Chỉ khi được giai cấp nắm quyền công nhận, Phật giáo mới có thể được lưu truyền rộng rãi và thu hút thêm nhiều tín đồ. Đó chính là khi Phật quang phổ chiếu, phổ độ chúng sinh.
Rajiva dường như đang nghe rất nhập tâm, vẻ mặt đăm chiêu. Tôi không biết cậu ta hiểu được bao nhiêu. Tôi chỉ đưa ra phân tích của mình dựa trên mối quan hệ giữa tôn giáo và sức sản xuất, giữa tôn giáo và giai cấp thống trị mà thôi. Sau đó bổ sung thêm:
- Rajiva, nguyện vọng thay đổi tông phái của cậu là đúng đắn. Phật giáo Đại Thừa phù hợp với xu hướng phát triển của thời đại, giúp giải tỏa nhu cầu tinh thần của rất nhiều người. Kinh Phật có câu:
'Tự vị đắc độ
Tiên độ nhân giả
Bồ tát phát tâm
Tự giác dĩ viên
Năng giác tha dã
Như Lai ưng thế'
(Kinh Lăng Nghiêm)
(*Chú thích: Chính mình chưa được độ mà độ cho người khác trước, ấy là Bồ-tát phát tâm. Phần tự-giác đã viên mãn, lại có thể thức tỉnh kẻ khác, đó là Như-Lai ứng thế.)
Đây chính là ý nghĩa của Đại Thừa
Tôi không biết Rajiva có đồng ý với ý kiến của tôi hay không. Nhưng với tính cách phóng khoáng và tư tưởng cấp tiến của cậu ấy, giáo lý Đại Thừa chắc chắn phù hợp với cậu ấy hơn. Thế nên quyết định thay đổi tông phái của cậu ấy về sau này cũng là tất yếu.
Rajiva ngẩng đầu lên nhìn tôi, khuôn mặt thiếu niên phảng phất nét ưu tư:
- Vậy ở Trung Nguyên thì sao? Liệu người Hán có đón nhận Phật giáo Đại Thừa không?
Tôi cười:
- Điều ấy là tất nhiên. Phật giáo Đại Thừa sẽ được lưu truyền rộng rãi ở Trung Nguyên từ đời này sang đời khác.
Rajiva dường đã hiểu, nỗi phiền muộn giờ đây đã biến mất khỏi gương mặt. Cậu quay sang nhìn tôi rồi nói từng chữ một cách thật nghiêm túc:
- Ngải Tình, Rajiva có phẩm hạnh gì mà được gặp cô giữa nhân gian rộng lớn này.
Dường như có một dòng suối nhỏ đang chảy róc rách trong lòng tôi mỗi khi tôi nhìn sâu vào đôi mắt Rajiva. Khuôn mặt tuấn tú vẫn còn chút trẻ con nhưng đầy vẻ cương nghị, tôi không khỏi nói thầm trong lòng: 'Không phải, Rajiva, đây là câu tôi nên nói mới đúng. Rajiva, tôi thật may mắn biết bao khi có thể quay về cả ngàn năm trước để được gặp cậu'.
Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Com