Chương 67 - Pháp hội Quan Âm (Tiếp theo)
Trong đại điện, người người chen chúc nhau tìm chỗ để ngồi. Phía trước là bức tượng Quan Âm Bồ tát, không phải trong hình tượng nữ giới quen thuộc như chúng ta thường thấy mà là hình ảnh một người đàn ông dũng mãnh với bộ ria mép ưa nhìn. Bức tượng này có hình ảnh tương tự như bức tranh được điêu khắc trên tường ở hang Mạc Cao và những bức tượng Phật giáo thuộc triều đại Nam Bắc. Trước thời nhà Đường, hầu hết các bức tượng Phật bà Quan Âm đều được khắc họa là một nam giới. Tuy nhiên, vì Quan Âm là vị bồ tát nhập thế, đi khắp các cõi nhân gian, thường cứu độ chúng sinh, lại có thể 'tống tử', vì vậy, người đời đã chuyển sang hình tượng nữ từ đó.
Phía trước tượng Phật, một lễ đài cao được dựng lên, chính giữa lễ đà là một chiếc ghế sư tử được thếp vàng, phía trên còn phủ lên một tấm nệm gấm được dệt từ những sợi chỉ vàng. Và nhờ vào ánh nến trong đại điện, chiếc ghế ấy càng tỏa ánh sáng vàng chói lói và rực rỡ. Các hoàng thân, quý tộc và sứ thần của các quốc gia đều đang ngồi trên mặt đất trước lễ đài. Nhận thấy có khá nhiều dân thường đang chen chúc vào nhau ở phía sau, bọn họ tỏ ra khó chịu, liền lất khăn che mặt, mũi và miệng của mình. Ngồi ở phía trước hàng đầu tiên là Bạch Chấn, ông ấy đang cúi đầu và quay lại sau lưng để nói gì đó với Côn Sa. Sắc mặt không được tốt lắm, có lẽ đang tức giận Rajiva vì cậu đã làm trái lệnh. Ngồi bên trái Bạch Chấn là một cô gái trẻ đẹp. Cô ấy ăn mặc lộng lẫy, đầu đội mũ ngọc, đang ngẩng đầu ngước nhìn về phía sau lễ đài.
Đây không phải là cô gái cao ngạo mà tôi đã từng gặp đó sao? Tôi còn trông thấy Kumarayana, ông đang ngồi cách Bạch Chấn khoảng 3 người và đó cũng là chỗ ngồi gần với Rajiva nhất. Mười năm trôi qua, những người con trai của ông giờ đây đã bước vào độ tuổi huy hoàng nhất của cuộc đời mình, trái lại, nó lại để trên mặt ông những vết hằn sâu của thời gian. Hóa ra khuôn mặt của ông gầy đến như vậy, tóc cũng đã bạc trắng. Ông năm nay đã ngoài 50 tuổi hay chưa? Kumarayana trông rất ốm, thỉnh thoảng lại còn ho. Vài lần bắt gặp ánh mắt của ông, tôi như thấy được sâu trong đôi mắt ấy là một vẻ u buồn. Tôi lại tiếp tục nhìn về phía bên trái Kumarayna, nhưng không thể tìm ra được chàng thanh niên khoảng 21 – 22 tuổi nào cả. Lạ thật, Pusyseda không đi cùng với cha mình sao?
Bỗng đám đông phía trước náo động hẳn lên, những cô gái đều rướn cổ lên nhìn một cái gì đó. Tôi cũng không thể nào ngăn được sự tò mò của mình, bắt chước họ, ngẩng đầu nhìn lên. Có người bước lên đài, không phải Rajiva, mà là Bạch Chấn. Dù ông ấy không sở hữu một gương mặt ưa nhìn, nhưng trên người ông ta vẫn toát lên phong thái của một bậc đế vương. Bạch Chấn hiên ngang bước tới trước chiếc ghế sư tử.
Sau đó, Rajiva bước ra. Cậu ấy mặc một chiếc áo cà sa được may bằng chỉ vàng, từng bước từng bước chậm rãi tiến đến lễ đài. Ngay khi Rajiva xuất hiện, cả đại điện như bừng sáng, khắp nơi như được bao phủ bởi làn gió xuân ấm áp và mát mẻ. Tất cả mọi người bất giác đều nhìn về cùng một hướng, con người ấy tuy là người phàm trần, nhưng quá chói mắt và lộng lẫy, tựa như không thuộc về thế giới này.
Vẫn bước đi với phong thái điềm tĩnh, cậu bước đến trước mặt chiếc ghế sự tử. Bạch Chấn quỳ xuống trước ghế, giơ hai tay ra theo động tác nâng người. Rajiva dùng một chân dẫm lên tay Bạch Chấn, chân kia dẫm lên vai. Nương theo lực đỡ, cuối cùng cậu cũng đã ngồi lên chiếc ghế sư tử. Ai nấy đều khá sửng sốt trước hành động vừa rồi, có vẻ người dân Khâu Từ chưa một ai từng chứng kiến qua. Tôi cũng không ngoại lệ. Trong tiểu sử của Rajiva, từng viết rằng: "Vua Khâu Từ đã từng làm một chiếc ghế sư tử bằng vàng. Trên chiếc ghế đó còn có một tấm nệm bằng gấm của Đại Tần (Daqin) và trang trí thật lộng lẫy." – Hôm nay được tận mắt chứng kiến, mới biết những ghi chép ấy không phải tất cả chỉ là giả dối.
Đợi sau khi Rajiva đã ngồi xuống chỉnh tề, Bạch Chấn mới quay trở về chỗ của mình. Sau đó, Rajiva lắc chiếc chuông đồng trong tai, mọi người lập tức im lặng. Ánh mắt cậu di chuyển, nhìn khắp bốn phương, trên mặt lộ vẻ thương cảm, tựa như một vị thần đang nhìn xuống nhân gian.
Giọng nói của Rajiva vang vọng khăp nơi, dày nhưng không thô, thanh tao như âm thanh của trời:
"Tự lợi thị trí, Lợi tha thị phi, Bồ Tát nhân trí năng chi thể, khởi từ bi chi dụng, sước hoan pháp giới chúng sinh, tùy kỳ cơ duyên, bạt khổ dư lạc, tự do tự tại, vô sở chướng ngại"
So với tuổi mười lăm, giọng nói của Rajiva đã mất đi vẻ trẻ con và thêm phần chững chạc. Đại điện rất rộng, sức chứa lên đến hàng ngàn người, nhưng giọng nói của cậu ấy dường như có ma lực, cứ tự nhiên truyền đến tai một cách rõ ràng, ấm áp và ngọt ngào xoa dịu mọi giác quan của mọi người.
Rajiva vẫn tiếp tục nói, nhưng tôi thì càng nghe lại càng thêm hoa mắt chóng mặt. Những gì cậu ấy nói đều là những câu chuyện kể liên quan đến Đức Phật, nhưng với trình độ tiếng Phạn mà tôi có thể giao tiếp hàng ngày, lại nói khi quay trở về thời hiện đại, tôi cũng đã cố gắng đọc rất nhiều tài liệu liên quan về cậu ấy, bao gồm cả kiến thức Phật giáo, tôi vẫn có thể nghe ra một vài thứ. Tuy nhiên, những kiến thức Phật giáo là vô biên, mặc dù cậu nói không nhanh và cũng rất rõ chữ, nhưng hầu hết lại là những chữ Phạn mà tôi không biết đến, nên hiện tại tôi cũng rất choáng váng với những gì đang diễn ra.
Rajiva mỗi lần thuyết giảng đều không bao giờ chuẩn bị trước. Tôi từ lâu đã biết rằng cậu ấy rất thông minh và cũng nhớ rất lâu, nhưng để có thể thuyết pháp một cách lưu loát, truyền đạt như vậy, lại càng khiến tôi càng thêm ngưỡng mộ cậu. Từ những gì tôi có thể hiểu và đoán ra, Rajiva đang giảng giải về tính "không" trong Đại thừa, và bản kinh cậu đang đề cập đến cũng sẽ trở thành một trong những bản dịch nổi tiếng của cậu sau này: "Kim Cương Ban Nhã Ba La Mật Kinh", hay còn được gọi là "Kinh Kim Cương"
"Kinh Kim Cương" là cuốn kinh duy nhất mà tôi có thể đọc thuộc lòng. Toàn bộ bộ kinh không dài, chỉ khoảng 5.000 chữ, tất cả đều được giải thích thông qua những câu vấn đáp giữa Phật Tổ và đại đệ tử của Ngài – Tu Bồ Đề. "Không" là vấn đề rất khó diễn đạt bằng lời, vì vậy trong kinh Kim Cương có rất nhiều câu nói sâu sắc, đậm chất suy ngẫm. Đó là vì 'vô khả ngôn chi ngôn, vô khả thuyết chi thuyết'. Và mặc dù tôi có thể đọc thuộc lòng toàn bộ văn bản, nhưng để hiểu rõ được nó thì có vẻ tôi vẫn chưa đạt được. Bộ kinh này có 6 bản dịch, bao gồm cả 2 bản dịch của Rajiva và pháp sư Huyền Trang. Giới Phật giáo gọi bản dịch của Rajiva là bản dịch cũ, và bản của pháp sư Huyền Trang là bản dịch mới. Tuy nhiên, bản dịch của pháp sư Huyền Trang vì quá tuân thủ nghiêm ngặt nguyên bản ban đầu, khó đọc khó nhớ, nên dường như đã bị lãng quên. Trong khi bản dịch cũ cuaa3 Rajiva lại được lưu hành rộng rãi từ những năm 1650.
Trong bản dịch của Rajiva, tôi thích nhất câu:
'Nhất thiết hữu vi pháp,
Như mộng, huyễn, bào, ảnh,
Như lộ diệc như điện,
Ưng tác như thị quán.'
Thật đơn giản và dễ hiểu, tuy được dịch thoát ý nhưng cách gieo vần điệu khiến cho người đọc dễ học dễ thuộc. Bản dịch của Rajiva còn được gọi là 'những câu thơ lục bát'. Vì thế sau khi đọc được một bản dịch như vậy, mọi người có thể hiểu được tại sao bản dịch của Rajiva lại có thể tồn tại hàng nghìn năm sau.
Tất cả đều đang chăm chú lắng nghe, cứ như sợ chỉ một phút lơ đễnh, sẽ lỡ một điều gì đó thật qquan trọng. Trong bầu không khí linh thiêng ấy, Rajiva giống như một vị thần với khí chất phi phàm cùng với trí tuệ phi thường, sự tự tin và phong thái điềm đạm khiến cho cậu càng trở nên thoát tục. Cậu phất tay áo, liền để lộ một chuỗi hạt màu đỏ đang quấn quanh tay. Đó không phải là chuỗi hạt mã não mà tôi đã tặng cậu ấy hay sao? Tôi không thể không nhoẻn miệng cười, nhẹ nhàng quàng lên cổ chiếc khăng Atala.
Nhưng khi ánh mắt tôi rơi trên người cô công chúa Khâu Từ, tôi đã rất ngạc nhiên ngay sau đó. Đôi mắt cô ta bổng sáng lên, nhìn Rajiva chằm chằm, không thèm để ý đến bất kỳ thứ gì xung quanh mình nữa. Đôi mắt của cô ấy đầy vẻ dịu dàng và ngọt ngào, bất cứ ai nhìn thấy cũng có thể thấy rõ tâm tư của công chúa. Trái tim tôi bỗng nhiên loạn nhịp, tôi quay sang hỏi ông lão bên cạnh:
- Xin hỏi, vị cô nương ngồi ở hàng đầu, đầu đội chiếc vương miện bằng ngọc trai là ai?
Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Com