Truyen2U.Net quay lại rồi đây! Các bạn truy cập Truyen2U.Com. Mong các bạn tiếp tục ủng hộ truy cập tên miền mới này nhé! Mãi yêu... ♥

1.


Chiều buông màu hoàng hôn trên làng Kỳ Hạ. Ánh nắng xiên xẹo trườn qua những tán cau thưa, vắt ngang hiên nhà còn mùi vôi vữa mới. Mặt đất loang lổ bóng nắng, loang luôn cả vào lòng người. Mùa nước nổi, ráng đỏ trải như máu loãng, nhuộm mặt sông thành một tấm gương phản màu. Có người nói, trong những buổi chiều như vậy, nếu chèo ghe qua Phủ Thờ Cô Trà có thể thấy bóng một người đờn bà mặc áo dài trắng, tóc xõa tới eo, ngồi quay lưng về phía mặt trời lặn mà niệm chú bằng thứ tiếng không ai hiểu.

Không ai biết cha mẹ cô là ai, chỉ biết bốn năm trước, cổ xuất hiện ở làng Hội sau một trận mưa dông dữ dội. Lúc ấy, xác một cô gái trôi dạt vào bờ, sình lên, tím tái. Nhưng lại tỉnh dậy ngay khi người ta chuẩn bị đem chôn, mở mắt ra nhìn thẳng vào người làng. Người trong làng kháo nhau, hồn ma nhập xác sống dậy. Có người thì thề, thấy con rắn hổ đất bò ra từ miệng cổ khi cổ ho lần đầu tiên. Cô gái đó chính là Cô Trà.

Sau đó, Cô Trà ở lại, dựng một căn nhà nhỏ bên rìa làng, sống bằng nghề coi bói, giải hạn, trục vong. Ai gặp chuyện lạ, chuyện quỷ đều tới tìm cổ. Người nào được cổ cứu, đều để lại vàng. Người nào xúc phạm, chẳng bao lâu cũng phải về đây... trong cái hũ tro bằng đất nung.

Người trong làng nói Cô Trà có căn. Họ không biết "căn" ấy là do chết một lần mà sống lại. Là yêu một người mà không thể gặp lại nữa.

Căn nhà lớn vừa dựng xong giữa một khoảng sân rộng, mái ngói đỏ au như máu đông, vách tường gỗ quý trăm năm, nằm chễm chệ như một chứng tích lạ lùng giữa ngôi làng nhỏ chỉ toàn mái tranh vách lá. Người ta bảo, bà mới về làng là một người đàn bà giàu có, quyền quý gọi là mợ Cả Hải Bình, người làng Kỳ  không ai rõ ngọn ngành chuyện chồng sau của mợ, chỉ biết một điều, từ bữa mợ về đây cất nhà lớn ở đầu xóm, người ta thôi gọi mợ là "mợ Hai", mà kính cẩn gọi mợ là mợ Cả. Mợ ưa cái danh xưng đó, nghe sang, nghe lớn lối, cũng có kẻ thì cười cợt sau lưng, bảo mợ muốn tẩy sạch quá khứ, làm lại từ đầu.

Chồng đầu của mợ, con trai thứ của nhà ông Hội đồng Hiệu , chết trẻ. Khi đó mợ còn trẻ, chưa có con, tóc còn xanh, má còn hồng, người còn đẹp như tranh. Người ta tiếc cho mợ, mà cũng thương. Đứa con gái hiện tại của mợ không phải con chồng cũ, mà là máu thịt với người đàn ông thứ hai, một người chưa ai thấy mặt, chỉ biết là giàu có, chu cấp đầy đủ, nhưng không sánh vai cùng mợ trong bất kỳ lễ nghi hay tiệc tùng nào.

Mợ sống kín đáo, ít khi ra ngoài, nhưng danh tiếng thì vang xa. Người thì nể, người thì sợ. Căn nhà lớn ấy, mợ cất không phải để phô trương mà để giữ lấy một cõi riêng, dưỡng già. Đứa nhỏ con mợ, con gái, tóc dài tới thắt lưng, mắt bồ câu buồn rười rượi, lớn lên giống mợ như in, chỉ khác là đôi lúc hay ngồi một mình giữa hiên.

Trà đứng từ xa, sau lùm dâm bụt chưa trổ bông. Tóc cô xõa dài, gió lùa nhẹ, thổi tấm áo dính sát vào người. Cô không nhúc nhích. Chỉ có ánh mắt là đăm đăm về phía cổng sắt mới sơn, nơi một chiếc xe hơi màu đen đang chậm rãi dừng bánh. Cô Trà đang châm trầm trong khay bỗng khựng lại, que diêm cháy đến tận đầu ngón tay mà không hay không biết.

Hải Bình bước xuống xe.Tóc mợ búi gọn sau gáy, áo dài nhung đỏ, gót guốc gỗ chạm đất phát ra âm thanh nhỏ nhưng sắc như dao. Mợ đứng giữa sân, nhìn ngôi nhà lớn đang thi công sắp xong, rồi quay mặt nhìn quanh. Một tia nhìn thoáng lướt về phía hàng rào nhà Cô Trà .

Trong bóng lá chao nghiêng, ánh mắt hai người gặp nhau. Trà đứng đó, im lặng, tay còn vương một mảnh bùa chưa kịp cất. Tay không nhúc nhích. Chỉ có đôi mắt là run.

Dù ở kiếp sống nào, con người nào, có chạy xa đến đâu đi nữa, tôi cũng không thể thoát khỏi bàn tay mợ, phải vậy thôi...Đó là duyên phận của chúng ta rồi.

Hải Bình đứng dưới mái hiên căn nhà lợp lá, trời mưa lất phất, đất sét đỏ bám vào gót guốc như cố níu giữ bước chân người từ nơi khác tới. Một bà già lưng còng gọi là Hai Lẫm, răng nhuộm đen, ngồi nhai trầu, môi đỏ quạch như máu, mắt đục mà sắc sảo.

"Mợ hỏi bà cô hả?" Bà chép miệng, nhổ miếng trầu xuống đất, nơi đã đỏ giờ lại sậm thêm như vệt máu sắp khô. "Bà cô đó coi vậy mà giàu có hơn cả bá hộ. Căn nhà cổ dựng ở bìa làng giờ là mái ngói đỏ, vách gỗ quý. Trong có kẻ hầu, người hạ, nghe đâu cái giường bả nằm cũng đem từ Sài Thành xuống, bằng gỗ giáng hương đen thui, chạm rồng khắc phụng. Người tới tìm cổ không khi nào dứt. Có người trả bằng vàng, có người trả bằng mạng. Người làng kể, có hai người chu cấp cho cổ đó nghen. Một người... đàn bà đẹp lắm. Mỗi lần tới là đem theo hộp gấm, toàn vàng, toàn đá quý. Nhưng chưa ai nhớ rõ mặt, vì cổ luôn đi ban đêm, che mặt nữa. Còn người thứ hai là cậu Đạo."

Hải Bình khựng lại. "Cậu Đạo... là ai?"

Bà già dừng một chút, liếm môi, giọng hạ xuống:

"Là con trai út của quan huyện Đoàn. Hồi đó ba năm trước bị rắn cạp nong cắn, dân làng còn đi đưa đám. Vậy mà không hiểu sao sống lại. Người ta đồn chính bà cô bốc bùa cứu mạng, từ đó cậu mê như điếu đổ, không vợ, không con, tháng nào cũng vô cúng bà cô ba nén nhang, bỏ bao tiền bạc vô hộp gỗ. Quan huyện chết chưa được một năm, cậu Đạo lên thay, ai nói gì cũng gật, ai hỏi chi về cô Trà cũng cười trừ. Dân tình còn đồn...thằng đó thương cô Trà."

Hải Bình gật đầu, tưởng chuyện chỉ dừng lại ở đó, nhưng bà già nheo mắt, nói như thì thầm "Có người nói," bà Hai Lẫm ghé sát hơn "Mặt cô Trà... giống cô tiểu thư bạc mệnh nhà ông Trác, cô con gái lớn, tên... tên là Phạm Thị Dung . Cái con nhỏ chết cách đây bốn năm, lúc đó còn trẻ lắm. Người thì không ai nhớ rõ, nhưng tấm hình trên bàn thờ còn đó, gương mặt đẹp dữ lắm, đôi mắt như cất cả trăm ngàn chuyện buồn... Giống lắm mợ ơi. Mà lạ..."

"Cô Dung, đang độ mười bảy, mười tám thì chết bất đắc kỳ tử. Người làng đồn bị vong theo, người nói thất tình uống thuốc độc. Nhưng có người thấy hồn nó còn quanh quẩn ở đình làng lâu lắm. Cúng cơm ba năm còn bị chim cú kêu giữ trưa mà."

Hải Bình cảm thấy sống lưng mình lạnh ngắt. Những gì mợ biết về cô Dung đâu có giống bà Hai Lẫm vừa kể, lời phong thanh mợ biết là Dung từng là mối mai cho con trai nhà quan huyện, rồi bỗng một hôm uống nhầm rượu ngâm lá ngón, chết không để lại lời từ biệt. Người làng đồn cô bị ma nhập, có người nói yêu nhầm người không nên yêu.

"Vậy sao lại nói giống cô Trà?" Hải Bình hỏi, giọng mợ chùng xuống, như sợ chính miệng mình thốt ra điều không nên.

"Thì giống gương mặt chớ. Nhất là cặp mắt, bà cô đó, mắt cũng đen như mực tàu, cười cũng buồn như người không có chốn về. Nhưng tính khí khác nhau dữ lắm. Con ông Trác ngày xưa hay cười, hay nói, dễ cưng ai cũng quý, còn bà thầy thì... lúc nào cũng lặng lẽ, như thể nhìn thấy nhiều thứ người khác không thấy."

Bà già nói xong, nhổ tiếp miếng trầu xuống đất. Trời bỗng nổi cơn gió lạ, rùng mình như có cái gì vừa đi ngang qua lưng Hải Bình.

[...]

Hôm sau, tiếng trống múa lân rền vang từ đầu làng vọng về từng hồi dồn dập. Cờ phướn bay phần phật giữa khoảng trời xám tro. Người dân xúm lại hai bên đường, quỳ gối, chắp tay, thì thào niệm nguyện. Còn Hải Bình đứng lặng dưới tàn cây me già, giữa đám đông, nhìn về chiếc kiệu sơn son đang từ từ tiến đến.

Người ta bảo hôm nay là lễ cúng miễu, Cô Trà sẽ ra kiệu phù hộ cho xóm làng. Mợ không định ở lại, chỉ là... tiếng trống, tiếng chiêng, và cái mùi trầm gỗ quện trong gió ấy, quen đến lạ, kéo chân mợ dừng lại.

Kiệu đến gần.

Bảy cô gái đồng trinh, mặc áo dài trắng, đầu cài trâm hoa lài, lặng lẽ bước đều như người mộng du, khênh chiếc kiệu nặng trĩu âm khí. Hai bên là hai cô hầu, theo mợ biết, một tên Lai, dáng vẻ nhẹ nhàng như nước, một tên Dạng, gương mặt giấu sau chiếc mặt nạ bạc chỉ lộ ra đôi mắt lạnh tanh.

Trên kiệu là một người đàn bà.

Mặc bộ lễ phục đỏ thẫm, cổ áo thêu hình uyên ương kết cánh, đầu đội khăn trùm đỏ phủ xuống qua cổ. Chỉ thấy được lờ mờ đường nét gương mặt phía sau lớp khăn: một bờ môi cong, sống mũi cao, và ánh mắt, ánh mắt ấy xuyên qua làn vải, nhìn thẳng vào mợ.

Cả người Hải Bình như bị đông cứng.

Mợ không lý giải được vì sao tim lại đập mạnh vài nhịp như có ai bóp nghẹn. Trong một khắc, mợ thấy mình như người đứng giữa đêm giông, nghe lại giọng nói cũ vọng về từ nơi rất xa, rất sâu trong lòng. Gương mặt kia... lạ mà không lạ. Mợ nheo mắt, bước hẳn ra khỏi bóng cây, dõi theo chiếc kiệu khi nó lướt ngang.

Người trên kiệu khẽ nghiêng đầu. Mắt không rời khỏi mợ.

Lúc ấy, trời bỗng nổi gió. Tấm khăn đỏ mỏng tung nhẹ. Một phần gương mặt lộ ra.

Chỉ một thoáng.

Hải Bình siết chặt quai xách chiếc túi da, móng tay in hằn vào lòng bàn tay. Mợ không thở nổi. Không phải vì người kia giống người mợ yêu. Mà là cái cách người đó nhìn mợ như đã từng chạm vào nhau giữa một đêm tháng Chạp, trong một căn buồng nhỏ, với hơi thở dồn dập và tiếng nức nở không ai nghe thấy.

Mợ quay đi. Không dám nhìn nữa.

Nhưng lòng thì gợn lên như mặt nước bị khuấy bởi một cơn gió lạ. Càng cố quên, càng như bị dẫn dụ. Mợ không tin vào chuyện hồn nhập xác. Nhưng ánh mắt đó, không ai khác trên đời này có thể nhìn mợ như thế, ngoài em ấy cả.

Hải Bình không biết vì sao mình đứng ở đó, giữa đám người rạp mình trên nền đất ẩm, giữa khói nhang ngột ngạt và mùi bùn non tanh nồng. Từ lúc nghe dân làng xì xầm: "Cô Trà sắp đi lễ rước vía," lòng mợ đã thấy bất an lạ kỳ.

Tiếng trống lễ chậm chạp vang lên. Đám rước tiến tới, lấp lánh những dải lụa đỏ và sắc vàng ròng thêu trên áo. Chiếc kiệu đen phủ màn voan đỏ nhè nhẹ rung theo từng bước chân bảy cô gái đồng trinh, lặng lẽ như đang cõng số phận của cả ngôi làng.

Rồi, khi kiệu vừa đến trước mợ.

Bỗng, tiếng chuông nhỏ treo dưới kiệu khẽ rung, dù không ai chạm vào.

Đám rước dừng lại.

Bảy cô gái khênh kiệu quỳ xuống đồng loạt, như đã được báo trước. Hai cô hầu –Lai và Dạng tiến lên vài bước. Lai mở chiếc hộp gấm, lấy ra một bó nhang chưa đốt, đưa lên cao.

Từ trong kiệu, giọng Cô Trà vang ra, rất khẽ nhưng rõ đến rợn người:

"Nữ đang đứng đó là ai?"

Giọng nói là tiếng đàn bà, trầm thấp như tiếng âm ty, tạo cái cảm giác như nói chuyện với bề trên, uy quyền không sao tả được.

Hải Bình sững người. Một người dân bên cạnh lắp bắp:

"Dạ, người mới... ở trên tỉnh xuống, nghe nói là em ruột ông Thống đốc Lễ..."

Từ sau lớp màn đỏ, Cô Trà không nói nữa. Không ai dám ngẩng lên, chỉ có Hải Bình vẫn đứng yên như bị rễ bần siết chặt hai chân. Rồi, giọng nói kia lại cất lên không hỏi, mà cảnh báo:

"Nữ không thuộc về nơi này."
"Dòng sông thiêng sẽ đổ máu, đất sẽ mở lòng."
"Nếu nữ còn nấn ná, thứ trong bùn sẽ gọi tên cô... trước khi trăng tròn."

Một tiếng chuông nữa rung lên. Lai cúi đầu lùi lại, đóng nắp hộp. Dạng liếc ngang Hải Bình, nửa mặt trên lạnh băng, nửa dưới bị che bởi mặt nạ bạc. Không hé một lời, không nghe tiếng thở.

Kiệu lại tiếp tục. Trống lễ lại vang.

Nhưng trong đầu Hải Bình, mọi thứ như đứng im duy chỉ còn ánh mắt phía sau màn voan và ba câu nói ấy dính chặt vào trí nhớ như cái ngày em đi mất.

[...]

Cô Trà trong miệng người đời ít cười ít nói, nhưng cái ánh mắt như biết hết chuyện thiên hạ. Suốt bốn năm cư ngụ tại cái làng này, người quỳ thắp lễ dưới chân cô vô số kể, nhưng e là suốt cuộc đời Cô Trà chỉ quỳ gối giữa hai chân một người đàn bà duy nhất mà thôi. Lúc quỳ xuống xin bùa, dân làng phải kiêng không được nhìn thẳng vô mặt. Không phải sợ cô hù, cũng chẳng phải lo phạm giới mà sợ thấy cái vẻ đẹp lạ kỳ . Đẹp một cách sai quấy rồi từ đó mà trầm mình theo bà cô, chết mục dưới sông.

Mỗi đêm, bà cô thắp một nén nhang, mở cuốn sổ cũ mềm, giấy úa vàng như tro. Trong sổ, chữ nghĩa lấm lem, chẳng đọc ra nổi cái gì, chỉ còn lại hai cái tên in đậm như vết than:
Cậu Đạo.

Cô Liễu.

Cậu Đạo giờ là quan huyện , thằng con tưởng chết của ông Đoàn, mồ y lấp mã ba năm trước mà không có xác. Nghe đồn, chính Cô Trà là người lôi hắn ra khỏi âm ti. Từ đó, tháng nào cũng gửi lễ lộc vàng bạc tới Miễu Cô để "trả ơn cứu mạng".

Còn cô Liễu không ai dám nhắc tên ban ngày. Chỉ biết đêm rằm nào trăng gắt, là có tiếng hát vọng ra từ đình làng:

"Má ơi, má biểu con về
Về sao được nữa, chân chèo gãy đôi..."

Tiếng ai oán, như nhức vô từng giọt máu đào.
Có người nói, trước khi chết, Thị Dung chính mắt thấy Liễu nhảy sông. Có người lại bảo, hai người từng tranh giành một người đàn ông mà chính là cậu Đạo. Không ai dám chắc, chỉ biết cái xác Thị Dung giờ đây không chịu tan, không chịu đi, như còn đợi một câu trả lời chưa kịp hỏi.

Cái tên "Liễu" không nằm trong dân số làng Hội. Không ai biết ả từ đâu trôi dạt về, chỉ biết một thời đình làng đông nghịt người vì tiếng hát của ả. Gió đưa mùi tóc, trăng rớt lên môi. Một câu ả ngân là mấy trai tơ bỏ nhà đi theo. Nhưng người ả thương nghe nói chỉ có một, mà người đó... không chọn ả.

Tiếng hát cuối cùng của Liễu, có người già còn nhớ, vang lên giữa đêm mưa tháng bảy, như ai nức nở dưới mái đình rệu rã:

"Thương anh tới chỗ đoạn trường,
Gặp nhau nửa bữa cũng thương suốt đời..."

Sau đêm đó, không ai còn thấy ả nữa. Có người nói ả trầm mình. Có người bảo bị bùa phản, máu trào ra miệng mà chết. Cũng có người tin, Liễu không chết, chỉ hoá thành thứ gì đó không mang hình người nữa.

Trà lần mò trong nhật ký rách nát của Thị Dung. Mỗi lần chạm tay vào cuốn nhật ký, một cơn buốt lạnh chạy dọc sống lưng. Cô thấy hình ảnh ba người: một thiếu nữ tay cầm quạt giấy, một ả đào ánh mắt nửa cười nửa khóc, một cậu trai đội khăn đóng, gương mặt vương bụi đất mồ.

Cái đau của Dung không phải chết, mà là chết trong im lặng. Không ai biết cô oan uổng gì, không ai hay vì đâu mà xác cô trôi về gốc đa đầu làng, mắt trợn không nhắm. Không oán thư, không lời trăn trối. Chỉ còn cái xác cho Trà mượn, và rất nhiều câu hỏi treo lửng.

Trà ngủ, nhưng không thể nào yên giấc được.
Hơi thở của cô ngắt quãng, xác Thị Dung co giật như bị ai kéo xuống lòng đất, còn tâm trí cô thì rơi vào một vực khác, vực của những ký ức không thuộc về mình.

Mưa.
Gió rít qua mái ngói hỏng.
Ánh đèn dầu chập chờn như sắp tắt.

Thị Dung ngồi một mình, trước mặt là cuốn sổ, tay cầm cây bút lông, mực nhòe từ ống tẩu ngã đổ. Ngón tay cô rớm máu, móng đã gãy, da bầm tím.

Có tiếng bước chân bên ngoài.
Có ai đó gõ cửa. Một, hai, ba rồi dừng.

"Dung... mở cửa đi." là giọng đàn ông. "Anh biết em ở trong đó." Thị Dung run rẩy. Cô không trả lời. Tay cô vẫn viết.
Mực nhòe. Mắt nhòe. Máu rơi xuống trang giấy, loang quanh chữ "Đạo".

Cô viết tiếp: "Ba má ơi, con bị Liễu hại rồi, Liễu giết con rồi ba má ơi....."

Chưa kịp viết hết câu, ngòi bút trượt khỏi tay.
Tiếng cửa bật mạnh.
Có người bước vào. Mặt không rõ, chỉ thấy bóng đổ dài trên nền nhà. Mùi rượu. Mùi khói.

"Mày nghĩ mày trốn được sao? Chuyện của mày với thằng Đạo, cả làng này đều biết hết rồi. Mày tưởng tao tha cho mày?"

Một bàn tay bóp lấy cổ Thị Dung. Cô giãy, đầu đập vào góc bàn. Máu từ trán trào ra, nhỏ từng giọt lên trang giấy."Làm ơn... tha... cho... tôi..."

Cô không hét lên được. Tiếng khóc bị nuốt lại trong họng. Bóng tối trùm lên.

[...]

Trà giật mình tỉnh dậy. Mồ hôi lạnh ướt gáy, thân thể Thị Dung đang co lại, xương khớp phát ra tiếng kêu răng rắc như sắp vỡ.

Từ cửa buồng Cô Trà, Dạng cúi người nhỏ giọng. "Thưa Cô, cậu Đạo tìm gặp cô ạ."

Đêm hôm đó, trời mưa nhẹ, tiếng ếch kêu vọng từ ruộng xa như lời rủa rỉ rả của người chết không yên. Cậu Đạo bây giờ đã là người đứng đầu nhà quan huyện Đoàn tự mình bước vào nhà Cô Trà, không mang theo gia nhân, không đèn soi đường, chỉ một ngọn nến nhỏ bằng đầu ngón tay, cháy đỏ như máu đông.

Một bước, rồi hai bước, cậu tiến vào. Cô Trà vẫn ngồi yên trên chiếc ghế bành, ánh mắt không rời khỏi bộ sách cổ đang mở trước mặt. Dáng người cô vẫn thanh thoát, tóc dài buông thả, gương mặt lạnh lùng nhưng cũng đầy quyền lực. Đôi mắt cô không hề ngước lên, nhưng cậu Đạo đã cảm nhận được sự hiện diện của cô, như thể đã biết cậu đến từ lâu rồi.

Dưới chân cô, hai cô hầu quỳ gối. Lai cầm quạt giấy, lặng lẽ. Dạng thì khoác áo đen, đầu cúi thấp, mặt nạ bạc che nửa gương mặt dưới, chỉ lộ đôi mắt đen kịt, thỉnh thoảng khẽ rung như nước trong chum động nhẹ.

Cậu Đạo cúi đầu hành lễ, giọng khẩn khoản:

"Xin cô cứu tôi thêm một lần nữa... mạng tôi chưa đến số tận, tôi biết bà có cách mà."

Bà thầy không nhìn cậu, chỉ gõ nhẹ ba ngón tay lên thành ghế, ba tiếng như rơi xuống tim người nghe.

"Cậu đã chết một lần ở bến Ngang. Ta trả cậu về, thiên cơ đã lệch."
"Lần thứ hai, cậu dùng máu gái trinh để đổi dương khí. Máu đó dính nhân duyên, trời phạt cậu, nhưng ta cản."
"Giờ cậu xin lần thứ ba... thì không thể cầu thọ nữa, mà cầu đoạ."

Giọng cô lạnh, không cao không thấp, nhưng làm cậu Đạo thấy như mình đang quỳ trước một con quỷ trăm năm thành hình.

"Tôi sợ... nhưng tôi không cam lòng. Tôi còn nhiều thứ chưa giữ được..."

"Nếu cậu còn lần nữa," Cô Trà nói tiếp, mắt nhìn xoáy vào mắt cậu
"Cậu sẽ bị đày vào vòng luân hồi, không có cửa đầu thai. Kiếp sau không làm người. Kiếp sau nữa... cũng không."

Im lặng. Một cái tắt nến. Một làn khói cong.

Cậu Đạo quỳ xuống, không dám ngẩng đầu.

Khi cậu rút lui, bà không cho Lai hầu nữa, Dạng mới từ từ ngẩng đầu lên.

Bà thầy hỏi khẽ, như hỏi bóng mình:

"Hôm nay xác có bị nứt ra không?"

Dạng không đáp, chỉ khẽ cười, một tiếng cười méo mó, phát ra từ cổ họng chứ không phải môi.

Bà thầy vuốt tóc cô, tháo chiếc mặt nạ bạc xuống, bên trong là gương mặt đẹp như sứ, nhưng hai bên má lại xuất hiện hai đường chỉ đỏ vừa may, như hai con rết đỏ đang đính trên gò má, bà thầy cưng chiều Dạng, đầu ngón tay mơn trớn gương mặt nàng như sờ lên tác phẩm tâm đắc nhất đời mình.

Dạng nhớ lần đầu gặp Trà. Đêm ấy trời không sao. Sương mù dày đặc phủ kín bìa rừng phía sau gò mả cũ. Người sống không dám lại gần, kể cả đám chó cũng né xa, nhưng âm khí thì tụ lại đông như ruồi bọ quanh thịt nát.

Có một con quỷ lạc lối đang rên xiết, lết đi bằng hai tay, thân hình đen đặc, từng mảng thịt hư hại của kiếp trước còn dính lại như tấm dẻ rách.

Và trên lưng nó, một oán linh như khói đen bốc mùi rượu cũ, đang quấn quanh lấy gáy, cắn từng đoạn hồn phách mà nhai không tiếng, không lệ, chỉ một cơn đói không bao giờ dứt. Oán linh đang cắn xé linh hồn đó chính là Dạng.

Rồi, một tiếng chuông đồng nhỏ vang lên. Âm thanh ấy làm cả quỷ lạc lối lẫn Dạng đều khựng lại. Không gian như vừa bị ai đó lật trăng máu chiếu ánh sáng đỏ lên.

Người đàn bà ấy bước ra từ sau hàng tre. Mặc áo lụa đỏ, tay cầm tràng hạt đen óng, tóc dài xõa ra như thác đổ.

Bà thầy đồng.

Linh hồn Dạng rít lên, định bỏ chạy. Nhưng một bước của người kia đã chặn ngang đường lui, không chạm đất, không nhấc gót, mà như trượt trên bóng chính mình.

"Ma quỷ ở đây đều là mi ăn à?" Cô Trà hỏi.

Dạng gào lên, tiếng gào gióc thịt, nhưng cô không động lòng."Ăn một lần là oán. Ăn hai lần là ma dại. Ăn ba lần... là không còn cửa nào mở cho mi cả."

"Nhưng cô mới xin được một cái xác còn tươi, ấm, dùng để mượn xác rất tốt."

Oán linh kia khựng lại, cơn đói dừng giữa chừng.

"Muốn không? Mi theo ta. Làm hầu cho ta. Không có tự do, nhưng có hình hài. Không thể yên nghỉ, nhưng có chốn để về."

Câu nói đó như lưỡi dao mài chậm trên xương, và oán linh đó lần đầu tiên trong vô số kiếp vất vưởng, khẽ cúi đầu. "Ta gọi ngươi là Dạng. Vì ngươi chưa có hình thù. Nhưng giờ là người của ta."

Một luồng gió đỏ cuộn lại, như tấm khăn voan trùm lên vết thương cũ. Quỷ lạc lối rã thành tro, Dạng ngẩng đầu, rùng mình, và theo bước Cô Trà vào màn đêm đang mở cửa.

Từ đó Cô Trà mỗi đêm đều khâu vá hồn vào xác cho Dạng, từng tấc cơ thể mới đều là một tay bà tạo ra. Cái xác này trôi từ xóm Cái Gáo về, Mắt cô vẫn chưa kịp nhắm, mái tóc rối quấn vào cổ như ai siết. Trên cánh tay còn vết dây gai, lằn đỏ chưa nhạt, người ta đồn cô tự vẫn vì bị phụ bạc, cũng có kẻ nói cô là gái điếm bị chém chết rồi quẳng xác xuống sông.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Com