Chương 21
---
Hướng Vãn dừng lại, rồi em nhìn Vu Chu và nở một nụ cười tươi tắn, thanh thoát tựa gió mát trăng thanh, trông em chẳng khác nào một cây bạch ngọc lan quý giá.
Thứ mà vốn dĩ không nên sinh trưởng giữa nền xi măng của đô thị.
Thế là Vu Chu hỏi em: "Ở chỗ này một thời gian rồi, chắc em thấy chán rồi phải không?" Cũng không tốt đẹp như tưởng tượng, đúng không? Nào là ô nhiễm ánh sáng, ô nhiễm tiếng ồn.
"Muôn màu muôn vẻ, trời đất rộng lớn, mở mang tầm mắt, chuyến đi thật đáng giá."
*Trong nguyên tác "光怪陆离,广阔天地,大有见识,不虚此行。": trong đó "光怪陆离,不虚此行。" là 2 thành ngữ của Trung Quốc.
光怪陆离 (Guāng guài lù lí): Nó có nguồn gốc từ văn học cổ điển (ví dụ trong "Tây Kinh Phú" - 西京赋 của Trương Hành), dùng để mô tả cảnh tượng kỳ lạ, phức tạp, muôn hình vạn trạng, khó hiểu.
不虚此行 (Bù xū cǐ xíng): Nó có nghĩa là "chuyến đi này không uổng công, không lãng phí, rất đáng giá".
Còn "广阔天地,大有见识" không phải là thành ngữ. Nhưng đó cũng là những cụm từ thông dụng, phổ biến.
"Cứ bốn chữ rồi lại bốn chữ, bộ em đang đối thơ đấy à?" Vu Chu cảm thấy hơi khó chịu nha, cảm thấy cái mác "dân viết lách" của mình cứ như một trò cười vậy.
"Vậy em không nhớ cha mẹ à?" Lẽ ra theo đúng kịch bản thì không phải giờ là lúc em ấy nên khóc lóc sướt mướt à.
Ai ngờ Hướng Vãn lại nói: "Nhớ, nhưng cũng không hẳn là rất nhớ."
"Hả?" Vô tình đến mức này sao.
Vậy thì công nàng chăm sóc Hướng Vãn một thời gian ở đây, đến khi em ấy về rồi, chắc cũng sẽ chẳng nhớ đến hai chữ "Vu Chu" này đâu nhỉ.
Nghĩ đến đây, nàng có chút hụt hẫng. Dù sao thì nàng cũng đã tốn không ít tiền bạc ah.
"Ở chỗ của bọn em, tất cả tình cảm, cảm xúc đều có thời hạn." Hướng Vãn nói, hướng ánh mắt nhìn ngọn đèn đường vàng vọt, tới dải đèn giăng đầy trên tán cây, cuối cùng dừng lại ở phía cuối con đường nơi bóng tối và ánh sáng đan xen trải dài.
"Tình cảm cũng giống như bổng lộc hàng tháng vậy, sự quan tâm, chăm sóc mỗi ngày cũng giống như phần lương thực và vải vóc được cấp phát, mọi thứ đều có định lượng của nó."
"Không thiên vị, biết chừng mực, đó là điều phụ thân mẫu thân đã dạy."
Thảo nào, ngay cả món tôm hùm đất cũng phải ăn một miếng vị cay tê, rồi mới một miếng vị tỏi băm. Nếu không phải vì món ăn ở thời hiện đại có giới hạn, có phải còn quy định mỗi món không được gắp quá 5 lần hay không? Trên TV thấy hoàng thượng cũng vậy mà.
*Trong nguyên tác là "每个菜不夹超过五次" (měi ge cài bù jiā chāoguò wǔ cì): Mỗi món ăn không gắp quá 5 lần. Đây là một quy tắc ăn uống nổi tiếng (thường được nhắc đến trong phim ảnh) của vua chúa Trung Hoa ngày xưa, nhằm tránh việc vua quá yêu thích món nào đó mà lộ ra ngoài (dễ bị đầu độc) và cũng để thể hiện sự tiết chế, uy nghi của các quý tộc xưa.
"Việc thỉnh an, vấn an mỗi ngày, làm tròn đạo hiếu đều có thời hạn, huống hồ là chuyện hôn nhân. Đợi khi lớn hơn một chút, em sẽ phải xuất giá về nhà chồng, hầu hạ nhà chồng, lúc đó sẽ khó mà gặp lại phụ thân mẫu thân nữa."
*请安 (qǐng'ān): Đây không chỉ đơn thuần là hỏi thăm bằng lời nói, mà thường bao gồm cả một nghi thức cụ thể: đến phòng của bề trên vào một thời điểm cố định (thường là buổi sáng, đôi khi cả buổi tối), hành lễ (như cúi đầu, khấu đầu, vái lạy tùy theo địa vị), và nói những lời chúc an lành theo khuôn mẫu. Nó thể hiện sự tôn kính tuyệt đối và là một phần của lễ nghi bắt buộc.
*问安 (wèn'ān): Đây là hành động tập trung nhiều hơn vào hành động hỏi thăm sức khỏe, sự bình an bằng lời nói hoặc thư từ. Nó không nhất thiết phải đi kèm với một nghi lễ phức tạp hay một thời gian biểu cứng nhắc như "请安".
"Khi em xuất giá, bái biệt phụ mẫu đại nhân, mẫu thân của em sẽ khóc tiễn tân nương theo tục lệ, nhưng sẽ không đến mức má đau đớn đứt ruột, tan nát cõi lòng đến không gượng dậy nổi."
Cuối cùng Hướng Vãn nói: "Em nói như vậy, chị hiểu không?"
Nàng chắc cũng hiểu đại khái rồi, tình thân là thứ tình cảm bị giới hạn trong khuôn khổ và quy định, tuy phong tục nghe có vẻ cởi mở nhưng lại không có tự do.
Không phải cái kiểu không có tự do như "đại môn không ra, nhị môn không đến", mà là không dám yêu hết mình, cũng không dám hận đến tận cùng, tình cảm một trăm phần thì chỉ được phép thể hiện ở mức vừa đủ mà thôi, đó mới là mất tự do chân chính.
*Trong nguyên tác là "大门不出二门不迈" (dà mén bù chū, èr mén bú mài): đây là thành ngữ của Trung Quốc, dịch là "đại môn không ra, nhị môn không đến", nghĩa là hoàn toàn bị cấm cung trong nhà, không có tự do đi lại, sống tách biệt với bên ngoài, thường ám chỉ sự quản thúc nghiêm ngặt đối với phụ nữ thời xưa.
"Nói như vậy thì, em cũng không nhớ nhà lắm, phải không?"
Hướng Vãn không trả lời.
"Không đúng nha, lúc em đột nhiên xuất hiện ở nhà chị, chị nói cha mẹ em chắc đều qua đời rồi, không phải em còn ôm ngực sắp khóc sao." Vu Chu nghi ngờ.
Hướng Vãn mặt không đổi sắc: "Hiếu thảo là đầu, cha mẹ là trên hết, đó cũng là giáo dưỡng của em."
"Ý của em nói là..."
Hướng Vãn nghĩ đến một từ rất "trend": "Là diễn thôi."
Đệt... hết chỗ nói.
"Nói xong chuyện của em rồi, hay là nói về chị đi." Hướng Vãn nói.
"Chị?"
"Từ cổng khu nhà đến giao lộ này, đã đi qua hai cái tiệm... siêu thị nhỏ, chị đến liếc mắt nhìn một cái cũng không có, qua đó có thể thấy, đi dạo đêm khuya, không phải vì thứ nguyệt bố kia, mà là vì... Tô cô nương."
*"Nguyệt bố" trong nguyên tác là "月布" (yuèbù): Đây là cách gọi cũ, văn vẻ hơn cho từ "băng vệ sinh".
*Đoạn này "đã đi qua hai cái tiệm... siêu thị nhỏ" trong nguyên tác là "经过了两家小......超市" (jīngguòle liǎng jiā xiǎo... chāoshì): có thể hiểu là Hướng Vãn chưa hiểu siêu thị là như nào, trên đường đi nhìn thấy 2 cái tiệm nhỏ kiểu tạp hóa nên ban đầu mới nói là "tiệm".
Hướng Vãn nhìn nàng đầy ẩn ý.
"Em là con sâu bò trong bụng chị đấy à?" Mới 18 tuổi thôi đấy, ai mà tin nổi cô gái này mới 18 tuổi cơ chứ.
Vu Chu trêu xong, lại hít sâu một hơi, nhìn dòng xe cộ không ngừng qua lại trên đường, rồi lại quay đầu nhìn khu nhà, đèn trong nhà nàng không sáng. Có những hôm Vu Chu về nhà sau khi tăng ca, lúc bắt taxi về đến cổng, đi vào từ hướng vườn hoa, nàng cũng hay thỉnh thoảng ngẩng đầu lên nhìn tầng lầu nơi có nhà của bản thân, xem đèn trong nhà có sáng hay không.
Rõ ràng là trước đó Tô Xướng đã gửi tin nhắn WeChat cho nàng, nói rằng chị đã thu âm xong rồi, hỏi nàng có muốn chị đến đón không?
Nàng nói không cần. Tô Xướng liền nói, vậy chị về nhà trước.
Nhưng Vu Chu vẫn muốn nhìn một chút, bởi vì khi có Tô Xướng ở nhà thì ngọn đèn mới được bật sáng, mới đủ để cụ thể hóa việc "đợi nàng về nhà".
"Đúng vậy," Vu Chu ngẩng đầu lên, thẳng thắn thừa nhận, "Vì Tô cô nương."
"Nếu đã tình cũ còn vương vấn, vì sao lại cố chấp chia tay?"
*Nguyên tác là "既然余情未了,又为何执意分开?": trong câu này Hướng Vãn sử dùng toàn từ trang trọng, nên khi dịch mình vẫn sẽ giữ nguyên các từ này để thể hiện đúng nhân vật. Như "余情未了" (yú qíng wèi liǎo): Đây là một thành ngữ của Trung Quốc, nghĩa là Hai người yêu nhau đã chia tay rồi nhưng tình cảm còn sót lại chưa dứt hẳn. "为何" (wèihé): Tại sao, vì sao (cách hỏi trang trọng hơn 为什么 - wèishénme).
Vu Chu cười, rồi quay đầu lại, sau đó nàng đá văng đi hòn sỏi ở dưới chân không biết từ đâu ra: "Để chị nói cho em biết, thật ra trong giới lồng tiếng của họ, à không, thật ra ở trong rất nhiều lĩnh vực, điều kiện của phụ nữ, so với đàn ông, đều kém hơn."
"Nữ CV sẽ không có nhiều cơ hội, nhân vật có thể để họ thể hiện cũng rất ít, trong môi trường mà rất nhiều thính giả đều thích chạy theo nam giới hơn thì tài nguyên của nữ CV so ra cũng không nhiều, như vậy nói một cách khác, có nghĩa là không nổi bằng. Ờm, 'nổi', em hiểu không, chính là nổi tiếng, được biết đến, nhận được sự tán thưởng của mọi người."
"Nhưng Tô Xướng lại là người có thể sánh ngang với các nam CV hàng đầu."
"Độ nổi tiếng của chị ấy, cũng chính là lưu lượng, vô cùng vô cùng cao. Em có biết tại sao không?"
Hướng Vãn lắc đầu.
"Bởi vì, trời sinh Tô Xướng, chính là để được người khác ngưỡng mộ."
Hướng Vãn nhớ lại lúc làm việc, sức hút trong từng cử chỉ của Tô Xướng, hình như có chút gì đó khác biệt.
Vu Chu lại lắc đầu: "Không chỉ vì chị ấy xinh đẹp, cũng không phải do vóc dáng đẹp hay gì đó tương tự, mà là có một số người, trời sinh đã mang cảm giác xa cách, thần bí, cũng như trời sinh đã thích hợp để ngắm nhìn từ xa."
Cũng giống như những minh tinh gạo cội hàng đầu vậy, chị ấy thậm chí có thể không cần tích cực xuất hiện trước công chúng, tương tác với fan, hay ra sản phẩm để duy trì sức hút, mà chỉ cần thỉnh thoảng mới xuất hiện, hoặc căn bản là hoàn toàn không xuất hiện. Sức hút của chị ấy, cũng có thể được fan dùng trí tưởng tượng để lấp đầy, thậm chí khi ở trong trí tưởng tượng chị còn tỏa sáng rực rở hơn.
Chị ấy rất kiệm lời, trong mọi cử chỉ, hành vi lại có thói quen thường không bộc lộ hết, trông có vẻ rất dè dặt, ẩn đằng sau lớp vỏ bên ngoài dịu dàng ấy lại chính là một thế giới cảm xúc dường như trống rỗng, thiếu vắng thất tình lục dục, điều đó để lại cho người ta một sự tưởng tượng không có giới hạn, lại càng kích thích một cách mạnh mẽ cái bản chất ham muốn khám phá, soi mói của con người.
*Trong nguyên tác chỗ "khám phá, soi mói", sử dụng từ "窥探" (kuītàn): đây là từ có sắc thái hơi tiêu cực, kiểu như tò mò quá mức, hoặc soi mói.
Dò xét chị ấy, phỏng đoán chị ấy, theo đuổi chị ấy, sùng bái chị ấy.
Bạn có thể đánh bại bất kỳ một con người bằng xương bằng thịt nào đó, nhưng bạn rất khó chiến thắng được 'kim thân' – cái hình tượng được nhào nặn, tạo dựng từ tình yêu và khát vọng của những chàng trai, cô gái ôm đầy mộng tưởng.
*Câu này mình dịch khá sát trong nguyên tác "你可以打败任何一个有血有肉的人,但你很难战胜怀揣着梦想的男孩女孩们用爱与渴望来塑造的金身。", và nó cũng hơi khó dịch. Nhưng mọi người có thể hiểu như sau: "金身" (jīnshēn), có nghĩa là Kim thân. Trong ngữ cảnh này, nó mang nghĩa bóng chỉ hình tượng lý tưởng hóa, hoàn hảo, gần như bất khả xâm phạm mà người hâm mộ (những chàng trai, cô gái ôm mộng tưởng) tạo dựng nên cho thần tượng của họ bằng tình yêu và sự khao khát của mình. Hình tượng này không phải là con người thật "có máu có thịt" mà là một sản phẩm của niềm tin và trí tưởng tượng tập thể, do đó rất khó bị "đánh bại" hay làm tổn hại bởi những yếu tố thực tế.
Bởi vậy, chị ấy mới khiến người ta khó lòng với tới như thế.
"Nhưng người như vậy, là ngôi sao trên trời, cứ treo ở chân trời là được rồi, chị mà cứ muốn nhét người ta vào túi của mình, làm sao mà 'hold' nổi chứ."
"Ờm, ý chị không phải là bảo người ta nên bị 'treo' theo nghĩa đen kia đâu nha." Vu Chu thấy hơi buồn cười, rồi nàng tự mình bật cười.
*"hold" ở đoạn trên là một từ lóng, đầy đủ là "Hold住" (hold zhù): Đây là một từ được mượn trực tiếp từ tiếng Anh "hold" và kết hợp với trợ từ kết quả "住" (zhù). Nó trở nên cực kỳ phổ biến trong giới trẻ và trên mạng xã hội Trung Quốc, mang nghĩa là giữ, giữ vững, kiểm soát, cân,... Trong nguyên tác, đoạn trên sử dụng "怎么hold得住啊", có thể hiểu là "làm sao mà giữ/ kiểm soát nổi chứ".
*Đây là một kiểu chơi chữ. Ở câu trên, Vu Chu dùng "挂着" (guà zhe - treo, như sao treo trên trời). Nhưng "挂了" (guà le) lại là tiếng lóng rất phổ biến có nghĩa là chết, toi rồi, ngỏm rồi... Vu Chu chợt nhận ra cách dùng từ "treo" (挂) của mình có thể bị hiểu nhầm sang nghĩa tiêu cực kia, nên vội vàng giải thích và tự thấy buồn cười.
Nàng nhớ có một lần cùng Tô Xướng ra ngoài ăn cơm, Tô Xướng xuống xe trước, vừa trả lời tin nhắn WeChat vừa đi thẳng về phía trước.
Vu Chu cố ý dừng lại một chút, muốn xem khi nào chị phát hiện nàng không còn đi theo nữa, hành động này đặc biệt kiểu cách, nhưng lúc đó nàng chỉ muốn xem phản ứng của Tô Xướng thôi.
*"kiểu cách" trong nguyên tác là "矫情" (jiǎoqing): Đây là một từ khá khó dịch chính xác sang tiếng Việt bằng một từ duy nhất. Nó mang nghĩa là: làm màu, điệu bộ, giả tạo, không tự nhiên, làm quá lên, nhõng nhẽo một cách không cần thiết, cố tình làm ra vẻ để gây chú ý hoặc thử phản ứng người khác theo một cách hơi trẻ con, phức tạp hóa vấn đề đơn giản.
Tô Xướng đi một đoạn khá xa, nói xong năm sáu câu vào WeChat rồi mới dừng lại, nhìn Vu Chu, rồi lại tiếp tục nhíu mày nhìn WeChat, sau đó chị đưa bàn tay đút trong túi ra, giơ giơ về phía nàng một cách hờ hững.
Sau đó cứ giơ tay như vậy, tay kia vẫn đang bận trả lời WeChat.
Khóe mắt liếc thấy Vu Chu đã bước đi, Tô Xướng không đợi nàng nữa, lại bước tiếp về phía trước.
Vu Chu lúc đó liền cảm thấy, Tô Xướng thật là đẹp quá đi, đứng đó trả lời WeChat thôi cũng tạo thành một bức họa phong cảnh, nhưng nàng cũng là lần đầu tiên cảm thấy, Tô Xướng nếu không có nàng, cứ một mình đứng đó, cũng rất tốt.
"Chị ở bên Tô Xướng, rất mệt mỏi, không phải nói chị ấy đối xử với chị tệ, ngược lại, thật ra không tệ chút nào, cũng không phải vấn đề từ một phía, chủ yếu là tâm lý của chính chị có vấn đề."
"Em nói xem bây giờ nếu như có một mỹ nữ đứng đây trả lời WeChat, chị có phải nghĩ nhiều như vậy không? Không hề nhé, chẳng liên quan đếch gì đến chị cả. Nhưng tâm lý của chị đối với Tô Xướng lại có bệnh."
"Chị đối với Tô Xướng luôn luôn là lo được lo mất, đoán tới đoán lui, suy nghĩ rất nhiều, nghĩ đến mức không ngủ được. Sau cùng, chị cảm thấy, nguyên nhân căn bản vẫn là..." vẫn là cảm thấy, nàng không xứng với Tô Xướng. Nhưng câu này Vu Chu không nói ra.
Nàng rất mâu thuẫn, vừa tự ti, lại vừa tự cao. Vừa cảm thấy bản thân không ổn lắm, nhưng lòng tự trọng lại mạnh mẽ, kiêu ngạo hơn bất kỳ ai.
Nhưng lòng tự trọng của nàng là lòng tự trọng kiểu Schrödinger, chỉ tồn tại đối với người nàng yêu mà thôi.
*"Lòng tự trọng kiểu Schrödinger", trong nguyên tác là "薛定谔的自尊心" (Xuēdìng'è de zìzūnxīn) là một cách nói ẩn dụ, dựa trên thí nghiệm tưởng tượng nổi tiếng trong vật lý lượng tử là "Con mèo của Schrödinger" (薛定谔的猫 - Xuēdìng'è de māo). Về thí nghiệm "Con mèo của Schrödinger" thì mọi người hãy tra trên Google. Còn câu nói của Vu Chu, mọi người có thể hiểu như sau: trạng thái của lòng tự trọng này không phải lúc nào cũng rõ ràng là "có" hay "không", "cao" hay "thấp". Nó tồn tại ở một trạng thái "chồng chập", mơ hồ. Lòng tự trọng của Vu Chu chỉ thực sự xuất hiện, trở nên nhạy cảm, có hiệu lực khi đối mặt hoặc tương tác với Tô Xướng. Trong những tình huống khác, hoặc với những người khác, lòng tự trọng đó có thể không biểu hiện ra, hoặc Vu Chu sẽ không bận tâm đến nó, như thể nó vẫn đang ở trạng thái "vừa có vừa không" trong chiếc hộp chưa được mở.
Nàng cảm thấy như vậy cũng khá giày vò Tô Xướng, huống hồ về sau này, hai người các nàng lại xuất hiện sự lệch pha trong giao tiếp.
Có lúc Tô Xướng ngủ rồi nhưng nàng lại không ngủ được, lúc đó nàng sẽ cầm acc phụ Weibo của bản thân lướt xem tài khoản của Tô Xướng, nhìn thấy những lời nhắn chân thành và cảm động bên dưới, sẽ có một loại cảm giác đặc biệt không chân thực, là chị ấy sao? Là người đang ngủ bên cạnh mình đây sao?
Ấy thế mà, nàng và ngôn ngữ cơ thể của Tô Xướng dường như lại ăn ý đến lạ, chỉ cần nàng hơi nâng vai lên một chút, lúc đó dù cho Tô Xướng vẫn còn chìm trong mộng đẹp nhưng liền theo bản năng đưa tay ra, kê cánh tay dưới cổ nàng, rồi dịu dàng ôm nàng vào lòng.
"Chị thích Tô Xướng, rất thích." Giọng của Vu Chu nghẹn lại, bởi vì những dòng ký ức đang ùa về lúc này thật sự quá đỗi xúc động, thật sự vượt quá mức chịu đựng của nàng mà.
"Nhưng đôi khi chị cũng khá thông minh và thức thời đấy chứ, chính là biết như thế nào là dừng lại đúng lúc."
"Chị đã thấy quá nhiều người xung quanh chia tay rồi, ban đầu họ đều yêu nhau đến chết đi sống lại, cứ hễ ai mà phản đối một câu thì chẳng khác nào chính là Vương Mẫu Nương Nương dùng trâm cài tóc vạch sông Ngân Hà vậy. Nhưng đến cuối cùng họ lại cắn xé nhau tan nát như gà bay chó sủa, chửi tới chửi lui, bạn nợ tôi bao nhiêu, tôi đã bỏ ra bao nhiêu, bạn có lỗi với tôi ở chỗ nào, bản thân lại hận không thể tự chọc mù mắt bản thân mình trước kia."
*Đây là một điển tích của Trung Quốc: Vương Mẫu Nương Nương trong truyền thuyết đã dùng cây trâm của mình vạch một đường trên trời, tạo thành dòng sông Ngân Hà để chia cắt vĩnh viễn cặp đôi Ngưu Lang và Chức Nữ.
"Chị chính là không muốn, không muốn cuối cùng sẽ là chị trách em, em trách chị, cãi nhau như kẻ thù."
Mặc dù Vu Chu biết, khả năng cao Tô Xướng sẽ không tranh cãi với nàng, bởi vì với nền tảng giáo dục của bản thân hẳn cũng khiến chị ấy hiểu việc 'sum họp vui vẻ, chia ly êm đẹp' mà.
*"sum họp vui vẻ, chia ly êm đẹp", trong nguyên tác là "好聚好散" (hǎo jù hǎo sàn): Đây là một thành ngữ của Trung Quốc. "好聚" (hǎo jù) là tụ họp vui vẻ, tốt đẹp; "好散" (hǎo sàn) là chia ly/tan rã một cách tốt đẹp, êm thấm. Cả cụm dùng để chỉ việc khi đến với nhau thì vui vẻ, khi chia tay cũng văn minh, lịch sự, giữ hòa khí, không làm khó nhau. Thường dùng trong bối cảnh kết thúc một mối quan hệ.
Nàng chỉ không muốn kéo dài sự dây dưa mệt mỏi này, đến độ khi cả hai nhìn mặt nhau thôi cũng đã thấy chán ghét, để rồi cuối cùng khi Tô Xướng nhớ về nàng, lại chỉ có —— cái bà chằn đó.
*"cái bà chằn đó", trong nguyên tác là "那个泼妇" (nàge pōfu): Đây là một cụm từ mang ý nghĩa rất tiêu cực và xúc phạm trong tiếng Trung. Từ "泼妇" (pōfu), dùng để chỉ người phụ nữ hung dữ, đanh đá, chua ngoa, hay chửi bới, gây gổ, làm ầm ĩ nơi công cộng, hành xử thiếu văn hóa, mất kiểm soát. Đây là một từ mang tính miệt thị nặng nề.
Nàng đặc biệt sợ Tô Xướng sẽ cảm thấy rằng mối quan hệ này là không đáng.
Và cũng đặc biệt sợ chính bản thân mình rồi cũng sẽ cảm thấy không đáng.
"Bây giờ cũng khá tốt, giờ thì cả hai cứ từ từ phai nhạt thôi, sau này để chị nhớ lại cũng sẽ không thấy tôi tệ lắm, sau này lại đợi đến khi chị 40, 50 tuổi, đến cái giai đoạn người trung niên hay 'chém gió' với hay nhớ chuyện xưa rồi ấy, vẫn có thể mặt dày nói 'bạn biết Tô Xướng không, tôi từng quen cô ấy đấy'."
Aiya, nói ra rồi thật dễ chịu quá, nhất là khi Hướng Vãn lúc này trông cứ như một con mèo vậy, ngoan hết sức.
Trông em ấy cũng không còn gian xảo nữa.
Hướng Vãn không đáp lại lời nào, sau cùng lại hỏi: "'Chém gió' là..."
"Chính là khoác lác, khoe khoang với người khác rằng, Tô Xướng là bạn gái cũ của chị."
Hướng Vãn mỉm cười: "Không cần đợi đến 40, 50 tuổi đâu, chị 25 tuổi, đã làm việc đó rồi đấy."
Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Com