CHƯƠNG 72 [Ngoại truyện]
Ngoại truyện: Công chúa (Phần mười một)
Nhưng sự đời trái ngang, cành mai hồng ấy đã chẳng thể giữ chân Lý nương tử được bao lâu. Bệnh tình của bà ngày một trở nặng, liên tục ho ra máu. Sau khi chẩn đoán, thầy thuốc cho hay tim phổi của Lý nương tử đã tổn thương, lao lực thành bệnh, e rằng chẳng còn nhiều thời gian.
Phạm Bình như sét đánh ngang tai, không dám tin vào những lời này, nàng ấy hết lời van nài thầy thuốc cứu mẹ mình. Thế nhưng thầy thuốc cũng đành lực bất tòng tâm. Vỏn vẹn nửa tháng sau, Lý nương tử qua đời. Phạm Bình có một thời gian tiều tụy đến gầy trơ xương, chẳng còn vẻ rạng rỡ ngày nào.
Nàng không biết phải an ủi Phạm Bình ra sao. Dù cái chết của Lý nương tử cũng khiến nàng buồn bã, tuy nhiên suy cho cùng đó không phải mẫu thân của mình, huống hồ, ngay cả khi mẫu thân Miêu Quý phi qua đời, nàng cũng chẳng hề tỏ ra quá đau thương.
Đôi lúc, nàng thoáng thấy mình thật máu lạnh. Người thường sẽ thế nào, nàng hoàn toàn không biết, bởi vậy mà đối diện với những giọt nước mắt và lời chất vấn của Phạm Bình, nàng thấy mình thật lúng túng.
Phạm Bình ít khi nổi giận. Nếu có ai đối xử bất kính, nàng ấy sẽ chỉ lặng lẽ rời đi, không bao giờ qua lại nữa, tựa như cây tùng trên đỉnh non cao, mặc cho sương gió vùi dập, vẫn điềm nhiên đối mặt.
Và rõ ràng, nàng không thể nào trói buộc được Phạm Bình.
Nàng không tài nào biết được Phạm Bình xem mình là gì, nhưng nàng có thể cảm nhận được, sở dĩ nàng ấy còn nán lại Phạm phủ lâu như vậy là vì không nỡ rời xa mẹ mình.
Suốt những năm tháng ấy, nàng luôn dõi theo Phạm Bình, biết rằng nàng ấy tuy đối xử với mọi người hòa nhã, lịch sự song trong mắt lại có một nét xa cách lạ thường. Chỉ khi gặp Lý nương tử, nàng ấy mới bộc lộ vài phần vui vẻ thoải mái, tựa hồ đối với nàng cũng chẳng có gì khác biệt.
Nàng trầm ngâm hồi lâu, cố nói vài câu an ủi, vậy mà cuối cùng vẫn không dám bộc bạch lòng mình. Nàng sợ rằng một khi Lý nương tử ra đi, Phạm Bình sẽ không bao giờ đối xử với nàng như trước nữa.
May mắn thay, Phạm Bình đã ở lại.
#
Tháng tư năm ấy, nàng hẹn gặp Lễ bộ Ngô Thị lang, song lại viện cớ có hẹn với phu nhân của ông ta để ra ngoại thành đến Huyền Diệu Quán cầu phúc. Khi đó Phạm Bình đang nghỉ phép, liền ngỏ ý muốn đi cùng.
Từ sau khi mẹ mất, Phạm Bình có phần quyến luyến nàng hơn. Mỗi khi nàng định làm gì, nàng ấy đều hỏi một tiếng. Điều này khiến nàng vừa mãn nguyện vừa vui vẻ, tuy nhiên cũng cảm thấy có lẽ Phạm Bình đang rất cô đơn, dù cho người Phạm phủ máu mủ ruột rà, nhưng rốt cuộc đó không phải là chốn nương thân của nàng ấy.
Nàng bất giác nghĩ, giá như có một ngày, mọi chuyện đều lắng xuống, nàng hy vọng có thể giữ Phạm Bình ở bên, ngày ngày ngắm nhìn, bất kể tâm tư nàng ấy ra sao, chỉ cần nàng ấy ở cạnh là đủ.
Tâm tư này khiến một người vốn chẳng tin vào quỷ thần như nàng cũng khó kìm được mà dâng hương trước thần linh, cầu một quẻ xăm. Nhưng lời xăm lại chẳng được như ý. Vị đạo trưởng nhìn nàng thở dài: "Điều cư sĩ mong cầu, e rằng thiên đạo khó lòng chấp thuận, chỉ chuốc thêm thương tình mà thôi."
Sau đó, hai vị nương tử thấy nàng ra khỏi phòng, thần sắc thất thần, không khỏi lo lắng. Nàng lắc đầu không đáp, chỉ dặn dò chuyện hôm nay bàn bạc, tuyệt đối không được để người khác biết. Hai vị nương tử đâm ra nghiêm túc, nhận lời rồi cáo lui.
Khi rời phòng, nàng gặp lại Phạm Bình, trong lòng bỗng cồn cào một nỗi bất an, không nén được ý nghĩ muốn giữ nàng ấy lại trong đạo quán, rồi lại đến trước tượng thần thắp một nén hương.
Lúc đó nàng ngẫm bụng, nếu mình có thể đi hết chặng đường núi này, liệu có thể giữ Phạm Bình ở bên dài lâu không. Nàng chẳng cầu Phạm Bình thật lòng, chỉ cần nàng ấy ở lại.
Nàng đã từng cho rằng, cái gọi là "thương tình" kia là do trời cao không chấp thuận tình ý của mình, những suy nghĩ xáo động nảy sinh với Phạm Bình sẽ khiến nàng ấy sợ hãi và rời đi, nhưng chưa từng nghĩ rằng, mình và Phạm Bình sẽ phải đôi ngả âm dương.
#
Mùa đông năm Thừa An thứ hai mươi mốt, Hoàng hậu hoăng thệ. Tin tức này khiến vị Hoàng đế vốn đã mang bệnh nặng càng thêm đau khổ, nằm liệt giường nửa tháng trời.
Dân gian thường hay bàn tán, Đế Hậu là cặp phu thê thanh mai trúc mã, ân ái sâu đậm. Khó khăn lắm mới lật đổ được Miêu thị, thế mà Hoàng hậu lại buông xuôi thế gian, há chẳng phải đáng tiếc lắm sao.
Nàng chẳng có mấy cảm xúc, dẫu Hoàng hậu từng chăm sóc mình, nhưng cũng không thể khuấy động lòng nàng quá nhiều gợn sóng. Chỉ có Tạ Nhu Viễn trách nàng vô ơn. Nàng chẳng biết nói sao, thứ duy nhất nàng cảm nhận được rằng, mình và Tạ Nhu Viễn, quả thực cả đời này cũng không thể thấu hiểu cho nhau.
Đến tháng hai năm Thừa An thứ hai mươi hai, kinh thành vẫn bao trùm một tầng mây u ám, là vì có người trong triều xin lập Hoàng hậu. Lúc này, cách ngày Tiên hoàng hậu hoăng thệ chỉ mới một năm ngắn ngủi, đây vốn là điều bất kính, vậy mà Hoàng đế lại không tỏ ra bao nhiêu tức giận, thậm chí còn mang vẻ do dự.
Bấy giờ, mọi người trong cung đều biết mẫu thân của Tề Vương, Trương Quý phi, ngày ngày ở bên chăm sóc Hoàng đế, việc gì cũng tự tay làm, đêm đến còn lặng lẽ khóc thương Tiên hoàng hậu, nói rằng trước đây mình chịu nhiều ơn chiếu cố của người đó, vì nhớ tình xưa nên không dám lơ là với Hoàng đế.
Trong đó có bao nhiêu phần thật lòng, người ngoài không biết được, nhưng giữa bối cảnh Thái tử đã đủ lông đủ cánh, còn Hoàng đế thì già yếu bệnh tật, lại có một nữ tử như vậy, mọi sự đều lấy mình làm trọng, thì dẫu thân là đế vương, cũng khó lòng không cảm động, để rồi đưa ra bao quyết định không hợp thời thế.
Lúc ấy, có rất nhiều tấu chương đàn hặc Tề Vương, đều nói Tề Vương bất kính với Đông Cung, nhen nhóm ý đồ thâu tóm quyền lực. Tề Vương lại dùng kế lùi làm tiến, từ bỏ mọi chức vụ trong triều, chỉ làm một vị vương gia nhàn tản, và thường xuyên vào cung thăm nom Hoàng đế, nói rằng bây giờ không còn vướng bận chuyện triều chính, có thể ở bên cạnh phụ hoàng mới là phúc phận của kẻ làm con.
Lời ấy gây ra một làn sóng không hề nhỏ trong triều, ai nấy đều khen Tề Vương hiếu thảo, chiến tích lẫy lừng, đã làm tròn bổn phận bề tôi, vậy mà lại bị vu oan, thật không đáng.
Hoàng đế bị kẹt giữa, không khỏi sinh lòng thương cảm với Tề Vương, vì thế chẳng lâu sau đã phục chức cho hắn, còn ban thêm nhiều của cải. Tề Vương từ chối không nhận, sau vài lần mới miễn cưỡng chấp thuận.
Thái tử lại càng thêm bất an, và cũng vào lúc này, hắn ta nhận ra rằng, mặc dù Tề Vương âm thầm chịu đựng, tuy nhiên nền tảng trong triều của hắn đã ngấm ngầm sâu rộng hơn. Hắn ta không thể không nghi ngờ những người xung quanh, và tương tự, Nhu Gia Công chúa trở thành đối tượng nghi ngờ đầu tiên của hắn ta.
Sáu năm ròng nàng mượn danh Thái tử để giao du rộng rãi với gia quyến bá quan, đã len lỏi vào tận hàng ngũ quan viên. Một số quyết sách của Thái tử đã mang hình bóng của nàng phía sau, và ngay cả Thái tử cũng chẳng thể xác định được, rốt cục những quan viên mà nàng giao thiệp, ai là địch, ai là bạn.
Một khi Tề Vương mượn tay nàng để lật đổ mình, Thái tử khó lòng lường được.
Điều này khiến Thái tử vô cùng lo sợ và bất an. Thiên gia vô phụ tử [1], nếu Hoàng hậu còn tại thế, hắn ta đã không phải sợ hãi đến vậy. Nhưng hiện này, Trương Quý phi đang có xu hướng thay thế, trong cơn kinh hoảng, hắn ta không thể không có những toan tính khác.
[1] Trong gia đình đế vương không tồn tại tình phụ tử.
Cơ hội này đã đến rất nhanh. Tháng sáu năm đó, Tương Châu xảy ra đại nạn, Thái tử tấu xin để Phò mã Phạm Bình đi giám sát. Đây là một phép thử của hắn ta, hắn ta muốn biết liệu Tạ Lam có thực sự phản bội mình không.
Suy cho cùng, hắn ta không phải kẻ ngốc, đối với Tạ Lam cũng có nhiều phòng bị, và cũng có thể nhận ra, Nhu Gia Công chúa đối với vị phò mã này có thái độ khá khác thường. Nếu Phạm Bình thực sự dính líu đến chuyện ở Tương Châu, hắn ta cũng có thể dùng điều này để uy hiếp ngược lại.
Nhưng hắn ta đâu ngờ rằng, Phạm Bình lại đi cầu cứu Tề Vương, đẩy cả huynh đệ phụ thân mình vào vòng lao lý.
Chuyện này cũng khiến Tạ Lam vô cùng bất ngờ. Tề Vương mượn đà ra tay, vị thân vương ẩn nhẫn suốt bao năm qua đã dùng thủ đoạn độc như sét bổ, ngụy tạo tội danh mưu phản cho Thái tử, nhân lúc Hoàng đế bệnh nặng, ý thức không còn minh mẫn mà nổi giận, nhanh chóng tống Thái tử và một loạt quan viên vào thiên lao.
Nàng xoay xở giữa vòng xoáy đó, hầu như không còn đường lui. Thủ đoạn của Tề Vương quá tàn nhẫn, ép nàng đến nghẹt thở. Nàng càng không thể trở mặt với Tề Vương vào lúc này, vì thế đã đồng ý với đề nghị của hắn, xin Hoàng đế ban chết cho Phạm Bình, dùng chén rượu độc giả để cứu nàng ấy ra khỏi ngục.
Điểm yếu của nàng đã bị Tề Vương phát hiện và nắm giữ, khiến nàng mất đi cơ hội đàm phán. Vốn dĩ không nên như vậy, nhưng Tề Vương giống như một con rắn độc, một khi đã bị cắn và quấn lấy thì mất đường thoát thân.
Gã nam tử đó trưng vẻ mặt thản nhiên, từ trong tay áo lấy ra một chiếc bình nhỏ, hệt như lần đầu họ lập giao ước, hắn cười nói: "Năm xưa Công chúa cầu xin tiểu vương thuốc này là để không phải viên phòng với Phạm Bình, ai ngờ bây giờ Công chúa lại động lòng với hắn, phải cầu xin tiểu vương thuốc để cứu hắn. Thế mới biết thế sự vô thường, Công chúa cũng không thoát khỏi ái tình trần tục."
Nàng lạnh lùng nhìn đối phương, không nhận lấy, chỉ đưa tay ra làm một động tác "mời".
Tề Vương thoáng sững sờ, rồi cười nói: "Công chúa có ý gì đây?"
Nàng thực ra đã có chút tức giận, nhưng biết rõ lúc này vẫn cần đến thế lực của Tề Vương, nếu không thì đại cục sẽ sụp đổ, không ai có thể chống đỡ nổi. Sau khi hít một hơi thật sâu, nàng nói: "Ngươi nói không sai, ta khó thoát khỏi ái tình trần tục, bởi vậy hiệu quả của thuốc này ra sao, ta phải xác nhận qua mới dám cho hắn uống. Nếu hắn vì thế mà chết, ngươi nên biết ta tuyệt đối sẽ không bỏ qua."
Tề Vương nhếch môi, trong mắt hiện lên vẻ tàn nhẫn, rồi lại nhanh chóng tan đi. Hắn gọi một tên tôi tớ đến, ban cho y một nửa số thuốc trong tay mình. Chỉ chốc lát, tên tôi tớ đó đã thiếp đi, cơ thể dần trở nên lạnh ngắt, mạch cũng không còn đập nữa.
Lòng bàn tay nàng khẽ rịn mồ hôi lạnh, sống lưng cứng trơ. Nàng cùng Tề Vương đợi đến đêm khuya, khoảng bốn canh giờ sau, tên tôi tớ đó mới tỉnh lại. Lúc này nàng mới thở phào nhẹ nhõm, nhận lấy lọ thuốc cất vào lòng.
Tề Vương nói: "Thuốc này tác dụng rất nhanh, Công chúa chỉ cần nắm bắt đúng thời cơ là có thể cứu được Phò mã."
Nàng không nói gì thêm, chỉ lạnh lùng liếc hắn một cái rồi lập tức cáo từ.
Khi tin tức Phạm Bình bị ban chết lan truyền khắp triều đình và dân gian, không ai có mấy phần chấn động. Chỉ có Ngự Sử Đài Thị ngự sử Trần Hâm là tỏ ra khá bất bình, cho rằng Phò mã Phạm Bình đã vì đại nghĩa diệt thân, có lòng yêu dân, sao có thể xử tử hình.
Nhưng lời này không được chấp thuận, vì Phạm Bình là phận con, thời bấy giờ thiên hạ trọng đạo hiếu, phàm kẻ nào tố cáo phụ mẫu có thể bị phạt từ ba năm tù khổ sai đến xử tử bêu đầu mà không được tha nhẹ. Tề Vương chính là dựa vào điều này để xin ban chết cho Phạm Bình.
Thánh chỉ của Hoàng đế được ban xuống rất nhanh, trong bối cảnh Thái tử mưu phản, việc ban chết cho Phạm Bình dường như trở thành một biện pháp "giết gà dọa khỉ" của vị phụ hoàng này, hòng trút bỏ nỗi đau và sự tức giận của mình.
Thế nhưng khi ông ta thẩm vấn Thái tử, người con trai này lại không khỏi lộ vẻ bi thương và oán hận, chỉ trích ông ta làm bộ làm tịch, giả vờ thâm tình, khiến Hoàng hậu u sầu không vui. Trước là Miêu Quý phi, sau lại là Trương Quý phi, thân là Thái tử, hắn ta luôn phải cẩn trọng, sợ sơ suất một bước nào.
Thái tử nói đến đây, dường như có chút điên loạn, mắng chửi vua cha là Hoàng đế, lúc Miêu thị còn tại thế đã để mình và Miêu thị tranh giành, đến khi Miêu thị suy yếu lại có thế lực của Tề Vương nổi lên, liên tục chèn ép mình.
Lời đấy đã hoàn toàn vạch trần bộ mặt giả tạo của Hoàng đế, phơi bày ra một vị đế vương vô tình nhơ nhớp nhưng lại tự cho là có tình. Hoàng đế bị hắn ta chọc giận, ho sù sụ.
Thái tử thì lại cười phá lên. Hắn ta vốn được người đời ca tụng là một vị thái tử nhân hậu, nhưng sự nhân hậu này chỉ dành cho bậc đế vương, trở thành công cụ thống trị thiên hạ, chứ không thuộc về Đông Cung.
Từ đó, hai cha con trở nên bất hòa. Tề Vương cũng nhân cơ hội này để lôi kéo các triều thần, ra sức đàn áp Thái tử, cuối cùng khiến Hoàng đế trong cơn thịnh nộ đã ban cho Thái tử án mãn môn sao trảm [2].
[2] Hình phạt giết hết cả nhà, tịch thu gia sản.
Lúc đó, đã qua ba tháng kể từ ngày Phạm Bình qua đời.
Nàng sững sờ nghe tin này, không nửa phần xúc động, nhưng tay cầm bút lại siết chặt, bắt chước nét chữ của Phạm Bình, viết nên bức thư nhận tội đó.
Thái tử đã chết, thế lực của Tề Vương không thể ngăn cản, nhưng không phải là không có cơ hội.
Nàng lấy ra chiếc ngọc bội kim thiền ngọc diệp trong hộp, trên đó có treo một chùm tua rua ngọc châu màu tím, là món quà Phạm Bình tặng năm nào. Nàng thay bộ cung trang, cài ngọc bội vào thắt lưng, theo bước chân nàng ra khỏi phủ, mọi người đều có thể thấy rõ miếng ngọc bội đó.
Sau khi vào cung, nàng đến tẩm điện của Hoàng đế. Lúc này Tiết Cô đang giữ chức vụ quan trọng trong cung, Hoàng đế bệnh nặng, cũng có Tiết Cô ở bên chăm sóc.
Đó là sau khi nàng cầu xin cho Tiết Cô, nàng đã giả truyền lời của Thái tử, mượn tay Hoàng hậu để cất nhắc người này. Hoàng hậu chả chút nghi ngờ. Trong mấy năm sau đó, Tiết Cô quả không phụ sự phó thác của nàng, phấn đấu hết mình trong thâm cung, được lòng các vị cung quyến, ngay cả Trương Quý phi cũng rất mực tin tưởng.
Không cần nghi ngờ gì nữa, nó đã là một trợ lực cực lớn giúp nàng có thể dùng thân phận hoàng nữ tránh mặt Trương Quý phi, túc trực bên giường của Hoàng đế.
Hoàng đế thực ra đã không còn mấy ấn tượng về nàng, người con gái sớm đã hạ giá này đối với ông ta chỉ như người xa lạ, mãi cho đến khi ông ta nhìn thấy chiếc ngọc bội trên thắt lưng nàng, bấy giờ mới sực nhớ ra, đây là con gái của Miêu Quý phi năm nào.
Ông ta nhất thời không biết nói gì. Vị Hoàng đế già nua dường như lúc gần đất xa trời mới nhận thấy mình chưa từng đối xử tốt với người con gái này. Ông ta buột miệng hỏi: "Sao lại nghĩ đến thăm ta?"
Nàng ngồi trước giường, cúi đầu nhìn ông ta với vẻ e lệ: "Bệ hạ... không muốn con đến sao?"
Hoàng đế thoáng sững lại, nhíu mày suy tư rồi nói: "Không phải, chỉ là con đã xuất giá, sao lại đột nhiên vào cung?"
Vừa dứt lời, nàng bỗng cúi đầu, khóc nức nở. Hoàng đế không khỏi ngồi thẳng dậy, nhíu mày hỏi: "Sao lại khóc, ai bắt nạt con à?"
Nàng ra sức lắc đầu, ngẩng lên nhìn vị phụ hoàng trước mặt, khóe mắt ngấn lệ, cổ họng nghẹn ngào, trông vô cùng đáng thương: "Trước đây con vì Phò mã mà đau lòng, có phần oán trách Bệ hạ, nhưng bây giờ đã hiểu ra nhiều điều, nên mới thấy thương cho Bệ hạ."
Hoàng đế hồi tưởng lại, người con gái trước mặt mình không lâu trước đây vừa mới xin ban rượu độc, tự tay giết phu quân mình, nhất thời cảm khái, vươn tay vỗ nhẹ lên đầu nàng: "Ta nghe nói con và Phạm Bình tình sâu nghĩa nặng, việc ban chết cho hắn chắc hẳn khiến con rất đau lòng, ta không trách con. Nhưng con nói thương ta, là vì chuyện gì?"
Nàng lau đi giọt lệ, nhẹ giọng nói: "Con giết Phò mã, cũng như Bệ hạ giết Thái tử, tuy quốc pháp là trên hết, không thể không làm, nhưng nỗi đau trong lòng, sao có thể để người ngoài biết được. Vì thế mà con lại nhớ đến chuyện năm xưa Bệ hạ xét nhà diệt tộc đại tướng quân Miêu thị. Tuy đó là ngoại tổ phụ của con, nhưng con còn nhỏ, không hiểu chuyện nhiều, lại bị người ngoài xúi giục, cũng từng vì chuyện này mà nghi ngờ oán hận. Nhưng đến tận hôm nay, nếm trải đủ mùi đời ấm lạnh, mới biết Bệ hạ cũng có nỗi khổ riêng. Bệ hạ không thích con, cũng là điều dễ hiểu. Mà nay Bệ hạ bệnh nặng, thân là con cái, sao có thể còn mang lòng oán hận Bệ hạ. Làm vua làm cha cũng thật khó. Con chỉ mong, nếu Bệ hạ cho phép, có thể ở bên cạnh Bệ hạ để làm tròn đạo hiếu. Bệ hạ, con có thể... gọi người một tiếng 'cha' được không?"
Tiếng nói nàng tha thiết, dường như mỗi lời đều xuất phát từ tận đáy lòng. Hoàng đế không khỏi nhớ lại những lần mình nổi giận và ghét bỏ nàng trước đây. Mười mấy năm trôi qua, đâu ngờ nàng cũng có thể thông suốt, thấu hiểu được nỗi khổ của ông ta. Không khỏi cảm khái mà mềm lòng, ông ta dịu dàng vuốt ve gáy nàng, nói: "Ta vốn là cha của con, đương nhiên mong con có thể gọi ta như vậy."
Nàng lập tức nở nụ cười, lại có phần rụt rè, khẽ gọi: "... Cha."
Hoàng đế thở dài, nhìn chiếc ngọc bội trên thắt lưng nàng, nói: "Thật hiếm khi con còn giữ vật này."
Nàng hơi ngẩn ra, nhìn ngọc bội rồi ngạc nhiên hỏi: "Bệ hạ biết lai lịch của vật này sao?"
Hoàng đế hỏi lại: "Con không biết sao?"
Nàng vừa lắc đầu vừa gật đầu, trong ánh mắt khó hiểu của Hoàng đế, nàng chậm rãi giải thích: "Vật này là do Hoàng hậu ban cho khi con hạ giá. Hoàng hậu nói, đây là vật của mẫu thân con, nên con luôn đeo trên cổ, không chỉ để nhớ mẫu thân, mà còn để biết ơn sự chăm sóc của Hoàng hậu bao năm qua."
Nghe nàng đột nhiên nhắc đến Hoàng hậu, Hoàng đế liền lộ vẻ đau buồn, trong tiếng ho khan, giọng nói phảng phất bi thương: "Thật hiếm khi con có lòng như vậy, còn nhớ ơn của Hoàng hậu. Ngọc bội này, là vật ta tặng cho sinh mẫu con khi bà ấy gả cho ta. Sau này bà ấy mất, vật này bị cất đi, nào ngờ Hoàng hậu lại nhớ đến, tặng lại cho con. Có thể thấy Hoàng hậu lòng dạ từ bi, con được bà ấy nuôi nấng, ta rất yên tâm. Con không giống sinh mẫu, không có vẻ kiêu căng, ngang ngược như vậy, ta rất an lòng."
Nàng cúi đầu nhìn Hoàng đế, trông hoàn toàn đồng tình, nói: "Lời dạy của Hoàng hậu con luôn ghi nhớ trong lòng, không dám quên. Trước đây Thái tử điện hạ cầu mối lương duyên ấy cho con, con còn có chút hờn trách, bây giờ xem ra, Thái tử điện hạ cũng giống như Hoàng hậu, đều vì muốn tốt cho con."
Tiếng nói vừa dứt, sắc mặt nàng bỗng tái nhợt, vội vàng lùi lại quỳ trước mặt Hoàng đế: "Tạ Lam lỡ lời, kính xin Bệ hạ thứ tội!"
Thái tử điện hạ không lâu trước đó vừa bị Hoàng đế ban chết, lúc này nhắc đến, rõ ràng là chạm vào vảy ngược. Sắc mặt Hoàng đế sa sầm, nhưng thấy nàng hoảng sợ thì có phần không nỡ, liền ra lệnh nàng đứng dậy, nói: "Đứng lên đi, hắn phạm lỗi, liên quan gì đến con. Hắn có ơn với con, con đương nhiên có thể nhớ đến hắn, ta sao có thể vì thế mà trách tội con."
Nàng hoảng sợ bái lạy thêm lần nữa, cho đến khi Hoàng đế giả vờ nổi giận mới lại đến bên cạnh ông ta. Chần chừ một lát, nàng lại nói: "Bệ hạ, không phải con nói xằng nói bậy, chỉ là Thái tử điện hạ vốn nhân hậu, con thực sự không tin Thái tử điện hạ sẽ làm ra chuyện như vậy..."
Hoàng đế nhíu mày, ánh mắt lạnh đi. Nàng giật mình, cúi đầu chả dám nói thêm. Im lặng hồi lâu, Hoàng đế xua tay cho nàng lui.
Nàng đứng dậy hành lễ với Hoàng đế, đi được vài bước thì không kìm được mà quay đầu lại, bộ dạng phục tùng như thể cầu xin: "Cha... con còn có thể đến thăm người nữa không?"
Lòng Hoàng đế ấm đi, nở một nụ cười: "Con là con gái của ta, nếu muốn thăm cha mình thì có gì mà không được?"
Nàng thoáng do dự, hai tay đan vào nhau, rụt rè nói: "Con chỉ sợ vào cung bị cản trở, không thể thường xuyên gặp được cha, hầu hạ cha."
Hoàng đế trầm ngâm, nghĩ đến việc trước đây mình đã quá lạnh nhạt với người con gái này, mới khiến cho đường đường một vị công chúa vào cung mà cũng e dè nhút nhát đến thế. Không khỏi áy náy trong lòng, Hoàng đế liền gọi nội thị đến, lệnh ban cho Nhu Gia Công chúa quyền được ra vào cung bất cứ lúc nào, không cần thông báo.
Nàng nhất thời vui mừng, nụ cười tươi rói, lại cúi đầu bái lạy Hoàng đế: "Tạ ơn cha!"
Cho đến khi ra khỏi tẩm điện đó, mọi cảm xúc trên mặt nàng đều tan biến, ánh mắt sắt lạnh, hệt như dáng vẻ hiếu thảo vừa rồi chỉ là ảo giác, chưa từng xuất hiện trên khuôn mặt nàng.
Đến một nơi kín đáo, Tiết Cô đã đợi sẵn, gọi nàng: "Công chúa."
Nàng khẽ gật đầu, chiếc ngọc bội trên thắt lưng rung rung, chói mắt dưới ánh sáng trời. Nàng nói: "Bệ hạ tinh thần không tốt, cần ngươi chú ý nhiều hơn. Sau này ta sẽ thường xuyên vào cung, chỗ của Trương Quý phi, nếu có tin tức gì truyền ra, ngươi phải xem qua hết, đặc biệt là tình cảm của Bệ hạ đối với Thái tử, không được để Tề Vương biết."
Tiết Cô nhận lệnh, ngần ngừ một lát rồi hỏi: "Công chúa định khi nào sẽ minh oan cho Phò mã?"
"Cứ từ từ đã," nàng nói, "Bây giờ vẫn chưa phải lúc."
Đồng tử nàng đen thẳm, mơ hồ nhìn về một phương nào đó, hai tay giấu trong tay áo, như sắp bị bấm đến bật máu. Nàng sẽ không quên chuyện đã thẩm vấn ngày hôm đó, lời khai của tên cai ngục trong cơn kinh hoảng—
"Ti chức, ti chức chỉ làm theo lệnh. Phạm Phò mã tuy tự vẫn, nhưng song cửa sổ gỗ trên cao đột nhiên gãy nên vẫn còn thoi thóp. Là Tề Vương đã ra lệnh siết cổ Phạm Phò mã, muốn tạo hiện trường giả Phạm Phò mã tự treo cổ..."
Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Com