Chương 26: Niệm tưởng
"Quá khứ như biển xa"
Cô và Phương Lệ Xuân sống tại một huyện nhỏ ở phía Đông Hoàng Sơn, tuy nhỏ nhưng là quê hương của nhiều danh nhân.
Phương Lệ Xuân dựa vào gia đình họ Phương và nỗ lực của bản thân để quản lý hai nương trà trên núi cao; nhờ trồng và bán trà, cuộc sống của mẹ con cô có phần sung túc hơn so với người trong thôn. Mẹ cô một mình lo cho cô xuống thị trấn học, vì vậy cô luôn cố gắng học hành chăm chỉ, thành tích cũng khá tốt, chỉ có điều hay mơ mộng hão huyền.
Giáo dục ở những nơi nhỏ như vậy thường chú trọng các môn cơ bản; thêm vào đó, nơi này từ xưa đã nổi tiếng về thương nghiệp, văn hóa cũng hưng thịnh, nên học sinh ở trường huyện hoặc không có hoài bão lớn, hoặc nếu có thì cũng muốn trở thành thương nhân, đại văn hào hay nhà khoa học. Chỉ riêng cô là lạ lùng, lớn lên lại muốn làm phim.
Dẫu vậy, ở trường Phương Tri Vũ vẫn gặp một người cùng chí hướng, tên là Uông Nhuận, hơn cô một khóa. Uông Nhuận rất xinh đẹp và nổi bật, ước mơ làm diễn viên điện ảnh, phái thực lực. Hai người rất ăn nhịp với nhau.
Từ thôn xuống thị trấn phải đi xe hơn một tiếng, việc học ở cấp ba lại bận rộn nên khi đó Phương Tri Vũ không phải tuần nào cũng về nhà. Những cuối tuần ở lại thị trấn, mỗi khi có thời gian rảnh, rạp chiếu phim chính là thánh địa của cô và Uông Nhuận. Ngoài ra còn có quán net, vì ở quán net cũng có thể xem phim, còn có thể download, lựa chọn nhiều hơn rạp chiếu phim, giá lại rẻ.
Ở vùng nhỏ như vậy, cộng thêm những năm đầu quản lý độ tuổi chưa chặt chẽ, họ và các học sinh khác được vào thoải mái. Trong khi những người khác chơi game, hai cô lại tìm phim để xem. Cùng với những ước mơ hão huyền, những năm tháng xanh mướt trôi qua nhẹ nhàng và tươi mới như những búp trà non sau cơn mưa xuân.
Ngoài việc xem phim, họ còn cùng nhau đọc sách. Ở tuổi dậy thì, ai mà không từng yêu thích văn học? Đặc biệt là, họ còn có một giáo viên ngữ văn rất xuất sắc.
Bây giờ nhớ lại, lúc đó Chương Cẩm Tú cũng chỉ mới ngoài hai mươi. Chỉ lớn hơn họ vài tuổi, nhưng trong mắt Phương Tri Vũ và Uông Nhuận, cô giáo thực sự là người lớn, đại diện cho thế giới người trưởng thành và sự đúng đắn tuyệt đối. Khi mới tốt nghiệp và được phân về thực tập, Chương Cẩm Tú từng dạy lớp Uông Nhuận. Sau này, khi chính thức được nhận, cô không tiếp tục dạy khóa đó nữa mà quay lại dạy lớp mười, trở thành giáo viên ngữ văn của Phương Tri Vũ. Dù cô giáo không còn dạy lớp mình nhưng Uông Nhuận vẫn thường mang bài tập đến nhờ cô Chương giải đáp. Phương Tri Vũ cũng là một trong những người thường xuyên hỏi han, và cứ thế mà quen biết.
Cô Chương học đại học ở Ninh Thành. Chịu ảnh hưởng của thành thị lớn, cộng thêm tuổi còn trẻ nên tư tưởng của cô khác hẳn các giáo viên ngữ văn khác, tiến bộ hơn nhiều. Biết hai người thích phim ảnh, cô Chương khuyên rằng đừng chỉ dừng lại ở yêu thích, phim ảnh cũng có thể trở thành công việc.
Lúc đó họ chỉ mơ mộng hão huyền, chưa từng nghĩ bản thân có thể thực sự gắn kết với phim ảnh. Nhưng Chương Cẩm Tú đã trở thành cầu nối ấy. Cô giáo nói, nếu muốn đạt được công việc mà mình tha thiết ước mơ thì các em phải học thật giỏi ngay từ bây giờ. Vì sao ư? Bởi vì em, muốn làm đạo diễn, sau này có thể xem xét học ngành đạo diễn; còn em, muốn làm diễn viên thì thi vào ngành diễn xuất. Học viện điện ảnh còn rất nhiều khoa khác mà các em có thể lựa chọn, ví dụ như văn học kịch nghệ chẳng hạn. Các em biết không? Ước mơ đều có con đường hiện thực hóa, nhưng các em phải đổ mồ hôi công sức.
Nhờ Chương Cẩm Tú, Phương Tri Vũ nhìn thấy một cánh cửa hoàn toàn mới. Cánh cửa này biến những ước mơ hão huyền thành khả năng thực tế, thành những việc cụ thể mà cô có thể làm ngay hôm nay. Làm thế nào để đạt điểm số cao hơn, làm thế nào để tiến gần hơn đến mục tiêu, đột nhiên tất cả đều trở nên có ý nghĩa.
Chương Cẩm Tú còn giới thiệu cho họ các tài liệu tham khảo ngoài lề, thậm chí cả những tạp chí mà trong mắt các giáo viên ngữ văn khác là "không nghiêm túc", như Chồi Non, Châm Ngôn, Xem Phim... Cô cũng đưa vào lớp những bài văn nổi tiếng và các tác phẩm kinh điển không có trong chương trình bắt buộc để mọi người cùng đọc và phân tích.
Trong số đó, tác phẩm mà Phương Tri Vũ yêu thích nhất là "Lắng nghe cơn mưa lạnh" của Dư Quang Trung. Dù không thể thuộc lòng nhưng lại đọc từng câu từng chữ rất nhiều lần, còn chép lại khi làm bài tập hè môn ngữ văn, và viết cả cảm nhận.
Trước hết, cô rất thích kiểu thời tiết mưa phùn lất phất, vì khi đó những nương trà xanh giữa núi rừng sẽ ướt đẫm, và cũng bởi trong tên cô có chữ "Vũ". Cô từng đọc áng văn chương này khi đứng trước nương trà, núi xanh và mây mù. Vừa đọc vừa cảm nhận từ ngữ, hình ảnh và cả mùi mưa len lỏi giữa từng câu chữ:
Câu đầu tiên là: "Kinh Trập vừa qua, rét xuân càng sâu", tiếp đó là lạnh tái tê, mưa dầm dề. Bức tranh dần mở ra, từ ngõ dài ngõ ngắn, qua làng quê đến chốn thành thị, cuối cùng lan rộng khắp cả nước, từ hiện thực thấm sâu vào văn hóa...
Trong áng văn xuôi ấy, Phương Tri Vũ tìm thấy quê hương của mình:
"Hoa mơ, mưa xuân, Giang Nam. Sáu chữ vuông, có lẽ mảnh đất ấy nằm ngay trong đó."
Đúng thế, Hoàn Nam của cô chính là như vậy.
Đọc nó giữa nương trà trên núi là tuyệt vời nhất. Ngẩng đầu lên là "Mây trắng quay lại hợp thành khối, sương xanh dâng lên chẳng thấy gì"; trong đầu là cảnh mưa thẫm màu, người thiếu niên cầm ô đầy lãng mạn; cuối cùng cúi xuống nhìn thôn làng nơi chân núi. Thật xinh đẹp, tựa như chiếc khăn tay vuông vắn mà thiếu nữ khuê phòng dùng. Nhà của cô là một đường chỉ trong đó, cùng những sợi mưa phùn rơi xuống cuối bài văn ———
"Quá khứ như biển xa, nhà cũ không còn nữa. Lắng nghe cơn mưa lạnh ấy."
Và rồi, chính cô cũng hóa thành một cơn mưa. Nếu có gió xuân, sẽ theo gió rời xa núi rừng, bay ra thế giới bên ngoài.
Cô viết những suy nghĩ này vào bài tập, còn trích dẫn câu thoại trong phim "Rạp Chiếu Bóng Thiên Đường". Cô viết rằng mình sẽ giống như nhân vật chính trong phim, không quay đầu, không viết thư, nhớ nhà thì chịu đựng, cứ thế lao ra thế giới bên ngoài. Vì cô còn trẻ, thế giới là của cô.
Cô rất tâm đắc với "tác phẩm lớn" này của mình. Thực tế, sau khi nộp vào đầu năm học, bài của cô đúng là được Chương Cẩm Tú lấy làm mẫu và đọc trước lớp ———
Quay trở lại mười năm trước, trong lớp học tràn ngập ánh mặt trời thời trung học, lời nhận xét Phương Tri Vũ nhận được nhiều nhất không phải là "ngốc nghếch" mà là học sinh có năng khiếu nhất lớp. Các bạn đều biết cô giáo ngữ văn thích cô nhất, viết ước mơ hão huyền cũng có thể được điểm cao.
Thế nhưng, dù Chương Cẩm Tú khen bài văn đó hết lời, trong phần nhận xét vẫn có một câu rất lạ. Cô giáo nói áng văn này chỗ nào cũng hay, chỉ là "có chút vì ép vần mà gượng buồn".
Phương Tri Vũ không chắc câu này nghĩa là gì, bèn đem đi nhờ Uông Nhuận phân tích, cuối cùng rút ra kết luận:
Đó là Chương Cẩm Tú nói cô còn trẻ, không biết mùi vị của ưu sầu.
Lúc đó cô không phục, than phiền với Uông Nhuận rằng tại sao nỗi sầu của mình lại không phải là nỗi sầu chân chính? Chỉ vì mình 16 tuổi, cảm thán về cuộc đời lại không phải là cảm thán sao? Thật kỳ lạ.
Uông Nhuận cười cô, nói cậu để ý như vậy, sao không hỏi thẳng cô Chương?
Nói là làm. Thế nhưng hôm đó câu trả lời của cô Chương lại vô cùng có lệ, cô nói đợi các em trưởng thành rồi sẽ hiểu.
Cô giáo còn nói, Phương Tri Vũ chưa thực sự hiểu được "Rạp Chiếu Bóng Thiên Đường": trong phim nói rằng không quay đầu, không viết thư, nhưng ánh mắt của nhân vật chính trong toàn bộ hành trình lại luôn ngoái nhìn cố hương, dõi theo gia đình mình.
Phương Tri Vũ nghĩ, có lẽ vậy, nhưng ít nhất bây giờ, cô muốn đến phía bên kia ngọn núi mà nhìn ngắm. Đến một vùng đất rộng lớn nơi có thể đứng bên bờ sông hóng gió, đi theo thế giới đã đánh mất để một lần nữa kết nối, và hướng về một tương lai còn không rõ ràng nhưng nhất định sẽ ngập tràn ánh mặt trời tươi đẹp.
Mơ mộng hão huyền chính là thế, chỉ nghĩ về tương lai, không bàn chuyện hiện tại, và mãi mãi không bị quá khứ trói buộc.
Nhưng mà, mùa đông năm lớp 11.
Mẹ cô ngã trong nhà, ngã rất nghiêm trọng, được người trong thôn đưa đi bệnh viện. Vết thương do cú ngã được chữa khỏi, nhưng lại bị nghi ngờ mắc bệnh lạ khác. Sau Tết, Phương Lệ Xuân vừa làm lụng, vừa tất bật đến bệnh viện huyện, rồi sang thành phố lân cận, lại đến tỉnh lỵ...
Mùa hè năm lớp 11, Phương Tri Vũ theo mẹ đi khắp nơi tìm bác sĩ. Bôn ba đến Hàng Châu thì được chẩn đoán chính xác mắc bệnh xơ cứng teo cơ một bên.
Căn bệnh này không phải đột ngột xuất hiện mà đã âm thầm ăn mòn Phương Lệ Xuân trong nhiều năm. Bà chịu đựng được, thêm vào đó người ở nông thôn ai chẳng có chút bệnh, cứ chịu đựng cho qua là xong. Nhưng thường cảm thấy mình không còn sức, tay chân run rẩy không kiểm soát được, lại ngày càng gầy đi. Số lần ngã bắt đầu nhiều lên, nhưng bà chưa bao giờ nói với Phương Tri Vũ. Cho đến lần ngã nghiêm trọng đó.
Thử thách dội nước đá gây sốt toàn cầu lúc đó còn chưa xuất hiện. Nghe bác sĩ giải thích rõ ràng về căn bệnh này, rồi nói về tương lai mà Phương Lệ Xuân sẽ phải đối mặt, Phương Tri Vũ choáng váng.
Hôm đó trời Hàng Châu đổ mưa, cô nhớ rất rõ. Nhớ rõ mình thất thần bước xuống tầng, đi ra khỏi khu điều trị, nhớ rõ trước mắt là một mảnh xanh ngắt nhưng lại ảm đạm như mất đi màu sắc. Nhớ rõ cảm nhận được một giọt mưa rơi xuống đầu...
Bởi vậy mà cô lấy lại tinh thần, nhưng vẫn không thể tin tương lai mà bác sĩ nói thực sự sẽ đến.
Không thể chấp nhận mọi chuyện, cũng không biết nên đi nơi nào. Nhưng còn có thể đi nơi nào đây? Rõ ràng chỉ có một con đường ———
Gia đình này chỉ có cô và mẹ, mẹ cô chỉ có cô.
Những ngày sau đó, tình hình nhanh chóng chuyển biến xấu. Thuốc men chỉ có thể kéo dài sự sống, hoàn toàn không thể chữa khỏi bệnh. Mắt thấy toàn thân Phương Lệ Xuân ngày càng ít cử động, ngày càng gầy đi. Ngày càng đánh mất sức sống, giống như một bộ xương khô.
Thuốc rất đắt, điều trị cũng rất đắt. Cuộc sống tương đối đầy đủ mà mẹ cô dày công tạo dựng nơi thôn quê cho cô cùng số tiền để dành cho cô thi đại học đều dần cạn kiệt.
Phương Lệ Xuân không mua bảo hiểm. Phương Tri Vũ nghe bác sĩ nói mới biết bảo hiểm quan trọng đến thế nào. Với căn bệnh của mẹ cô, tốt nhất là có bảo hiểm thương mại, nếu không thì bảo hiểm y tế cũng ít nhiều gánh vác được một chút chi phí. "Nhưng mẹ cháu không mua loại nào."
Cô hỏi bác sĩ, giờ cháu mua có được không? Bác sĩ nói không được, từ khi bệnh được chẩn đoán chính xác, đó đã là bệnh lý có sẵn, không bảo hiểm nào có hiệu lực. Mọi thứ phải làm trước đó.
Về sau lại nhìn thấy tên hãng bảo hiểm cùng dòng quảng cáo khi đi tàu điện ngầm ở Ninh Thành. Những dòng chữ to trên sàn đối diện với cô như thể đang nói lại chuyện cũ, lại như đang giáo huấn cô. Đúng vậy, phòng ngừa tai nạn từ lúc chưa xảy ra mới có thể bảo vệ hạnh phúc.
Thực ra, sau khi có chẩn đoán, cô và Phương Lệ Xuân không tránh khỏi việc bàn đến vấn đề này. Phương Lệ Xuân đương nhiên biết bảo hiểm cơ bản quan trọng đến thế nào, đặc biệt là bảo hiểm y tế, chi phí cũng không cao, nhưng bà vẫn không đóng, luôn nghĩ phải tiết kiệm. Nói chi đến việc mua bảo hiểm thương mại.
Điều này cũng bị ảnh hưởng bởi môi trường sống: trong thôn, ngoài gia đình bà sống khá hơn một chút, những người khác đều rất chật vật, đặc biệt là người già ở lại quê nhà. Trồng trà được bao nhiêu tiền, trồng lúa được bao nhiêu tiền, lại còn mua bảo hiểm? Các dì các bà làm thuê trong nương trà đều nói, ai biết trước được chuyện tương lai. Biết đâu sau này còn chẳng sống đủ lâu để nhận lại tiền bảo hiểm, nên trước mắt vẫn quan trọng hơn.
Phương Lệ Xuân còn nói bà muốn dành dụm tiền cho Phương Tri Vũ học hành. Con khác mẹ, con nhất định phải thi đỗ đại học, tốt nghiệp xong mới có thể tìm được một công việc ổn định. Giờ cạnh tranh khốc liệt như vậy, chưa biết chừng sẽ có khoảng thời gian thất nghiệp. Khi đó còn không về ăn bám mẹ à? Đợi con tự lập, lấy chồng, có gia đình riêng, có lẽ mẹ mới yên tâm phần nào. Nhưng cũng rất khó nói, vì con vốn không kiên định gì cả.
Phương Lệ Xuân làm vậy để tự giải vây cho mình, cũng giải vây cho vận mệnh. Cho đến một ngày, ngay cả nói chuyện bà cũng thấy khó khăn. Mấy năm qua bà luôn gặp vấn đề khi nói, nhưng vì Phương Tri Vũ ở bên cạnh mỗi ngày nên không kịp thời nhận ra. Thế nhưng hôm đó, dù cô đã cố đoán cũng không hiểu mẹ đang nói gì, rồi cô nhận ra rằng tương lai mà bác sĩ nói đến là thật. Một ngày nào đó, mẹ cô sẽ không thể cử động. Đến lúc đó, nếu cô còn muốn tiếp tục đi học, liệu có gánh vác nổi không?
Thế nhưng, trong lúc Phương Lệ Xuân vẫn còn chút sức lực, dù phải xin một số công việc thủ công hay thậm chí vay tiền, bà cũng nhất quyết bắt cô tiếp tục đi học. Khi cô đề nghị nghỉ học để đi làm, Phương Lệ Xuân còn mắng cô.
Nhưng việc học không thể không bị ảnh hưởng. Sau khi lên lớp 12, thành tích của cô giảm sút rõ rệt.
Đối với vấn đề của gia đình cô, từ trường học, người trong thôn, bạn bè của mẹ... tất cả đều cố gắng nghĩ cách hỗ trợ. Vay tiền, nhận trợ cấp, tổ chức quyên góp hết lần này đến lần khác, thậm chí liên hệ với các lãnh đạo cấp trên. Cả việc chấp nhận trả lời phỏng vấn báo chí để kêu gọi quyên góp từ thiện ngoài xã hội...
Nhưng tất cả đều không phải giải pháp lâu dài.
Chính lúc đó, cô mới nhận ra rằng không phải câu nào mà cô Chương Cẩm Tú nói cũng tuyệt đối chính xác. Thì ra, muốn ước mơ cũng phải có tư cách, mà trước đây cô không biết, chỉ vì lúc ấy vận khí của cô còn tốt.
Uông Nhuận là người thông cảm nhất cho việc cô từ bỏ ước mơ, bởi vì bản thân Uông Nhuận cũng đã phải quyết định từ bỏ:
Năm đó, Uông Nhuận học lớp 12, cuối cùng đổi mục tiêu thành sư phạm, đi trên con đường mà năm xưa Chương Cẩm Tú đã đi, vì ngành sư phạm không cần đóng học phí. Còn ước mơ trở thành diễn viên, gia đình cô không thể gánh nổi. Bố mẹ nói rất rõ ràng:
Nếu không đỗ vào trường sư phạm thì cũng đừng học nữa. Sớm đi làm, sớm lấy chồng là tốt nhất.
Uông Nhuận rất cố gắng, dồn hết sức để thi đỗ trường sư phạm. Ngày rời quê lên tỉnh lỵ nhập học, Uông Nhuận do nghe tin biến cố xảy ra với gia đình họ Phương đã đến tìm cô để nói mình sắp đi. Dặn cô đừng bỏ cuộc, phải cố gắng học tiếp, bằng mọi cách phải học. Khi người bạn thân nhất thời cấp ba nói những lời đó với cô, Phương Tri Vũ đã cố kìm nước mắt.
Phương Lệ Xuân cũng nói như vậy, còn dặn cô sau này phải thi đại học. Bởi vì năm xưa Phương Lệ Xuân không có cơ hội đó, cũng không hiểu được tầm quan trọng của việc học đại học. Quê hương là đất văn chương, dù người nông dân không biết chữ cũng thuộc nằm lòng lời huấn của tổ tiên: "Ba đời không học, chẳng khác gì ổ heo". Nhưng khi tự mình trải qua, điều kiện không cho phép, cũng đành bất lực. Hơn nữa, vào thời bà, việc học đại học khó như lên trời, vì thế trong lòng Phương Lệ Xuân vẫn luôn khao khát, cũng luôn tiếc nuối.
"Không học sẽ chịu thiệt," Phương Lệ Xuân nói với cô, "Thi đại học là cơ hội rất quý giá, là lần đầu tiên con có thể tự chọn tương lai mà mình muốn".
Tuy nhiên, khi cô sắp nghênh đón thời khắc quan trọng đó, tình trạng của Phương Lệ Xuân đã đến mức không thể ăn uống được nữa. Bà phải dựa vào một ống dẫn xuyên từ mũi xuống dạ dày để đưa thức ăn vào cơ thể mỗi ngày. Lúc ăn cũng không thể nói chuyện với bà, vì nếu bà suy nghĩ nhiều có thể dẫn đến ho sặc, nguy hiểm đến tính mạng.
Tình trạng như vậy thì làm sao mà đi học đại học được? Dù thi đỗ, liệu cô có thể bỏ lại Phương Lệ Xuân vốn mỗi ngày đều cần người chăm sóc không? Phải đưa mẹ đến gần trường, vừa học vừa chăm sóc mẹ sao? Nhưng tiền đâu? Nếu cô đi học, tiền đâu ra?
Hiện thực quá đỗi thực tế. Lý trí của cô trên thực tế đã chấp nhận tương lai được định trước. Nhưng Phương Lệ Xuân vẫn tỏ ý kiến, cầu xin cô đừng từ bỏ. Tri Vũ, con phải học.
Vậy thì cứ xem ý trời thôi, Phương Tri Vũ nghĩ. Đối diện với vô thường bất ngờ ập đến, cô vẫn cố gắng lao về khe hở cuối cùng của cánh cửa thời vận trước khi nó đóng lại ———
Trong tình huống đó, cô đã rất vô tư mà tuỳ hứng một lần, theo xe chở trà đến tỉnh lỵ để tham gia kỳ thi năng khiếu của học viện điện ảnh.
Đó là ngôi trường danh giá hàng đầu, nếu cô thực sự thi đỗ, dù phải cầu xin một trăm, một nghìn lần hỗ trợ, dù phải nhờ phóng viên viết thêm cả vạn bài viết đau thương hay nghĩ cách nào khác, cô đều sẵn sàng làm, bởi vì hết thảy là ý trời.
Nhưng kết quả là, thi trượt.
Sau khi Uông Nhuận tra danh sách và thông báo tin này cho Phương Tri Vũ, cô ra nương trà, ngồi lặng bên ngọn núi cả nửa ngày trời.
Cô biết, cánh cửa thời vận đã khép lại.
Vài tháng sau, Phương Tri Vũ tốt nghiệp cấp ba. Gần như không hề do dự mà lựa chọn đi làm. Cô không nhớ mình được bao nhiêu điểm trong kỳ thi đại học, chỉ nhớ là đủ để vào một trường đại học hạng hai. Trong trường cấp ba của huyện, đó cũng được coi là thành tích khá. Nhưng cô đành bất lực, bước chân lên đồi trà.
Cuối cùng, cô vẫn không bước vào tháp ngà như kỳ vọng của mẹ.
Có một khoảng thời gian mà Phương Tri Vũ ghét tất cả mọi thứ. Ghét ông trời vô tình, ghét bản thân vụng về. Ghét những cây trà năm nay sâu bệnh nhiều, sản lượng sụt giảm. Ghét trà quê mình không cạnh tranh được, dù hương vị rất ngon nhưng không bán được giá. Ghét những công việc làm thuê để mưu sinh, vừa khó nhọc vừa khó học. Sao trà cũng cần phải học, học đến mức tay phồng rộp, thế mà sư phụ già vẫn nói là thủ pháp chưa đúng. Chà, cháu lúc nào cũng thế, làm mà chẳng để tâm.
Ghét căn bệnh này.
Bác sĩ nói đây là bệnh hiếm, tỷ lệ mắc chỉ là một phần một trăm nghìn.
Tiểu hành tinh chưa đâm trúng Trái Đất thì vận mệnh đã đâm trúng mẹ cô, đâm trúng cô.
Thời gian đầu, cô chìm đắm trong nỗi oán hận mà chịu dày vò. Đến năm thứ hai, năm thứ ba, cô mới tự buông tha cho mình, chấp nhận thời vận.
Cũng từ lúc đó, cô bắt đầu tìm lại niềm đam mê điện ảnh. Cô nghĩ, mình nói là rất thích phim ảnh, vậy mà thật lâu rồi không xem một bộ phim nào. Chỉ là thi trượt thôi, chẳng lẽ cô lại phủ nhận luôn sở thích, phủ nhận cả chính mình?
Lại bật cười tự chế giễu, rằng trong suốt hai, ba năm qua, việc duy nhất liên quan đến phim ảnh mà cô làm là "đóng máy". Nhưng "đóng máy" này không phải kiểu đó, mà là nói đến việc sao trà, đem những búp non sao nóng ở nhiệt độ cao, tăng tốc độ đảo tay để chúng hoàn toàn biến từ lá trà thành viên trà.
Phương Tri Vũ đột nhiên nghĩ, sao cô không giả định tất cả mọi thứ đang diễn ra chỉ là một bộ phim?
Nghĩ như vậy, mọi điều trải qua bỗng hóa thành chất liệu. Cuộc đời nhiều dày vò và tra tấn này như bị tách khỏi cô, cách biệt bởi ống kính. Vận mệnh không thể thoát khỏi cũng trở nên dễ tiếp thu hơn, bởi vì nó xảy ra có lẽ chỉ để cô trải nghiệm, để một ngày nào đó cô biến hết thảy những điều này thành một bộ phim.
Thế nên, nơi thiên đường như rạp chiếu phim, cô chỉ muốn cùng đi với người mà cô yêu quý.
Tiếp đến là tháng Ba, Phương Lệ Xuân giờ đây đã hoàn toàn biến thành một bộ xương nằm trên giường. Tâm trí bà vẫn hoàn toàn tỉnh táo, sống động, nhưng lại bị nhốt trong chiếc hộp tĩnh mịch làm bằng xương cốt ấy.
Trong sự phong ấn còn độc ác hơn cả lời nguyền này, Phương Lệ Xuân nói ra nguyện vọng sinh nhật của mình.
Đến lúc này, Phương Tri Vũ đã học được cách thoát ly khỏi chính cuộc đời mình. Trái tim cô dường như biến thành một đôi tay đã quen sao trà, những mất mát bình thường không còn có thể tra tấn hay làm bỏng cô nữa.
Trái tim đã chai sạn. Cô phải bước tiếp. Vì vậy, ngay cả khi mẹ cô nói hãy để bà chết, cô vẫn dùng toàn lực giữ bà lại.
Đợi nỗi buồn qua đi, đợi trời quang mây tạnh. Phương Tri Vũ bế mẹ ra khỏi phòng, ôm mẹ đặt lên xe lăn như ôm một đứa trẻ. Đẩy mẹ ra cửa, dừng lại ở sân phơi nắng, đối diện với nương trà, núi xanh, cây cầu nhỏ và dòng nước chảy. Nói với mẹ rằng trong những ngày đẹp trời, quê hương đã nhìn quen mắt cả trăm lần này hóa ra cũng có thể đẹp đến vậy. Mẹ có thấy vậy không?
Nói giỡn xong lại giả vờ tủi thân, hỏi mẹ: Phương Lệ Xuân, mẹ thật nỡ bỏ con à?
Phương Lệ Xuân có rất nhiều điều muốn nói, nhưng chỉ có thể động đậy mí mắt.
Chớp mắt rất nhiều lần, nói với cô: "Sợ làm khổ con."
Vậy mẹ càng phải sống, Phương Tri Vũ nói, vì có mẹ, con mới cảm nhận được ngọt ngào.
Sau đó, Phương Lệ Xuân không nhắc đến cái chết nữa. Bà thực sự là người phụ nữ rất kiên cường, dù trước mặt con gái sống mà không còn chút tự tôn nào, nhưng vẫn sống. Bà sống, Phương Tri Vũ mới tìm được chỗ bám víu giữa những làn mây mù. Làm thuê, dành dụm, trồng trà, bán trà.
Điều mong chờ nhất là những cơn mưa xuân hàng năm, vì như thế có nghĩa là trà sắp hái được. Suốt một năm, chỉ dồn sức cho mười mấy ngày đêm này mưa nắng bất kể, mệt cũng thấy vui. Thường vào khoảng thời gian này, cô sẽ nhờ những người trong thôn trông nom mẹ giúp để xuống thị trấn bán trà. Bận rộn xong mới có tâm tình và thời gian vào quán net xem phim...
Đúng vậy. Giai đoạn cuộc đời cô trải qua giữa màn mây mù ấy, làm sao có thể nói là không lưu lại gì?
Giống như lời Cát Tiêu nói, cô hiểu trà.
Những năm đầu của tuổi thanh xuân, cô đã tiêu hao bản thân trong nỗi oán hận. Nhưng khi vô thường lần đầu ập đến, con người thường rất khó chấp nhận.
Nếu lúc đó cô có bản ghi chép thời gian để ghi chép lại sinh hoạt hàng ngày thì nhất định có thể nắm bắt được nhiều khoảnh khắc sinh động, tươi mới. Chẳng hạn như khi Phương Lệ Xuân mới được chẩn đoán không lâu, cô nhặt về một con mèo hoang, đặt tên cho nó là "Vận May Tới". Lúc rảnh rỗi sẽ tắm rửa cho nó sạch sẽ, để lộ ra bộ lông màu cam óng ả.
Phương Lệ Xuân cũng rất thích Vận May Tới, yêu chiều nó hết mực, như thể nuôi tốt con mèo này thì thời vận cũng sẽ biến chuyển.
Người ta mê tín thực ra chỉ là để tự tìm chút hy vọng trong những ngày rơi vào thung lũng. Không mê tín thì dường như ngay cả khe hở cuối cùng cũng đóng lại. Phương Tri Vũ vừa tự an ủi mình như vậy, vừa vuốt ve mèo, nói với nó là để chị gọi em thêm vài tiếng, Vận May Tới!
Chẳng hạn như sau này khi điều kiện cho phép, cô đã dùng đến máy móc. Khi bán trà cho khách quen, họ bảo trà do cô tự tay sao có hương vị ngon hơn. Điều đó là đương nhiên, cô biết chứ, bởi ngay cả vị sư phụ già dạy cô cũng từng khen rằng cô gái nhỏ giỏi thật, có thể ra nghề được rồi. Nhưng biết sao giờ, cần càng nhiều tiền, sản lượng càng cao, cô chắc chắn phải dùng máy móc.
Hay như một ngày lao động vất vả trở về nhà. Đẩy cửa ra, trước tiên thấy bàn thờ, câu đối. Sau đó là đồng hồ cổ, bình hoa, gương. Rẽ vào phòng ngủ, lại thấy Vận May Tới đang lim dim cuộn tròn dưới gầm giường của Phương Lệ Xuân. Vừa lúc một tia sáng tự nhiên chiếu lên mẹ cô và mèo. Ánh sáng nhu hoà đến mức như đang nói với cô rằng, nhìn đi. Ngay cả ở trong mây mù, cô vẫn có những khoảnh khắc bình đạm, ấm áp, thậm chí có thể gọi là hạnh phúc như thế này.
Có lẽ cô không được thời vận ưu ái, không có phúc phận để tận hưởng lạc thú trước mắt, không có cơ hội cảm nhận niềm thoả mãn dục vọng đến từ thân xác hay vật chất, không biết thế nào là khoái cảm đầy kích thích, hay sự phù phiếm xa hoa thoáng qua.
Nhưng bên cạnh những bất hạnh, cô cũng cố gắng nhặt nhạnh những khoảnh khắc yên bình, đậm chất thiền. Những khoảnh khắc đó cũng đã mang lại cho cô niềm vui thực sự.
Những ngày tháng vụn vặt mà sống động ấy kéo dài bảy năm sau khi Phương Lệ Xuân được chẩn đoán mắc bệnh.
Bảy năm, thế mà vẫn quá ngắn.
Khi còn có thể cử động, Phương Lệ Xuân đã quyết định sau khi qua đời sẽ hiến xác cho y học. Bà nói với Phương Tri Vũ rằng hy vọng căn bệnh này trong tương lai sẽ không còn là bệnh nữa. Hy vọng sẽ không còn ai phải chịu đựng tra tấn như bà.
Sau khi biết quyết định của mẹ, Phương Tri Vũ lại ra nương trà, ngồi thẫn thờ bên ngọn núi cả nửa ngày trời.
Đương nhiên, đó là việc tốt. Chỉ là suy nghĩ của cô quá lạc hậu.
Nhưng nếu sau này nhớ mẹ, cô biết đi đâu tìm mẹ?
Dù vậy, cô không nói với Phương Lệ Xuân việc mình khó chịu. Trước mặt mẹ, cô luôn cười nhiều hơn. Luôn tự nhủ rằng bây giờ phải bắt đầu quay một bộ phim hài. Chuyển cảnh rồi, mình phải nhanh chóng nhập vai.
Về căn bệnh này, hai mẹ con họ từ cảm giác nghẹn ngào như có xương mắc trong cổ, đến lúc quen dần thì thậm chí còn cùng nhau đùa về cái chết ———
Khi mẹ cô vẫn còn nói được, còn cử động được.
Phương Lệ Xuân nói nhìn xem, mẹ vẫn sáng suốt. Một bộ xương tàn tạ, không hiến đi làm chút việc có ích thì giữ lại làm gì? Hỏa táng? Chôn cất? Cách nào cũng tốn tiền cả. Mẹ tiết kiệm hết cho con rồi. Lúc nói những điều này, vẻ mặt bà rất đắc ý.
Lại nói, bây giờ giá đất đắt đỏ thế, vì một hũ tro mà mua một mảnh đất, con thừa tiền đến vậy à?
Lại nói tiếp, Phương Tri Vũ, con thật sự nhẫn tâm nhốt mẹ vào một chiếc hộp nhỏ sao? Chết chưa chắc đã xấu. Với căn bệnh này của mẹ, khoảnh khắc đó chắc chắn là giải thoát.
Còn nói, con phiền phức quá, cứ muốn làm hình thức. Nói đi, con muốn giữ lại móng tay mẹ cắt? Hay là đất bẩn mẹ cọ ra từ người?
Phương Tri Vũ nghẹn lời, nói mẹ có ghê quá không?
Không phải con nói sao, muốn giữ lại gì đó để tưởng nhớ?
Phương Tri Vũ nghiêm túc đáp: "Nhiều người giữ lại răng."
"Nhổ răng không tốn tiền à?" Phương Lệ Xuân quở trách, "Mẹ bây giờ thế này, đối với con đã như quỷ hút máu, con còn muốn vì chuyện này mà tốn tiền à? Mẹ không đồng ý."
Phương Tri Vũ buồn bã cúi đầu, không nói gì thêm.
Cô muốn nói với mẹ rằng mẹ không phải quỷ hút máu, nhưng lại sợ khơi ra chuyện buồn hơn. Cúi đầu lặng lẽ, cho đến khi ánh mắt Phương Lệ Xuân sáng lên, bà ngập ngừng nói với cô ———
"Mẹ biết rồi... giữ lại tóc! Dù sao không lâu nữa cũng phải cắt ngắn mà."
Vậy là, sau khi mẹ ra đi, cô chỉ giữ lại một nhúm tóc được cắt trong niềm vui hôm ấy.
Sau đó, Chương Cẩm Tú cũng ra đi. Đi rất đột ngột. Khi nghe tin, Phương Tri Vũ chỉ cảm thấy có một sợi dây nào đó trong tim mình đứt phựt.
Rồi sau đó, Vận May Tới cũng ra đi. Khi nhặt được con mèo ấy, cô cũng không biết nó đã ở trên thế gian bao lâu. Vì vậy không thể xác định được nó bao nhiêu tuổi. Chín tuổi, mười tuổi, hay già hơn?
Hiện tại, các dịch vụ chăm sóc thú cưng khi qua đời rất phát triển, thậm chí có cả hỏa táng. Khi ấy, cô cuối cùng cũng có chút tiền dư dả, chi vài trăm đồng cho việc đó. Đơn vị cung cấp dịch vụ còn quay video:
Trước khi hỏa táng, Vận May Tới được đặt trang trọng giữa một vòng hoa cúc. Họ bật nhạc tang, tụng kinh Phật, cầu nguyện cho nó sớm siêu thoát... Nhiều người còn chẳng được đối đãi thế này.
Cuối cùng, biến thành một hũ tro nhỏ.
Phương Tri Vũ trở về phòng số 1402, mở hai lớp khóa cửa, bước vào hang động, bật đèn lên.
Mỗi ngày trở về nhà, cô luôn có thói quen trước hết tìm đến chiếc hộp đựng trà màu đỏ trên kệ. Đôi khi chỉ nhìn một cái, đôi khi lại phủi bụi ——— dù căn phòng kín của cô gần như chẳng có chút bụi nào.
Phương Lệ Xuân, một người sinh ra ở thôn trà và cả đời yêu trà, bình sinh thích nhất hai loại, một hồng một lục. Loại hồng chính là hồng trà Kỳ Môn.
Thời điểm kinh tế đình trệ, lục trà bán chạy hơn hồng trà ở thị trường trong nước. Lúc ấy, nhà họ từng nhận được một hộp hồng trà Kỳ Môn thượng hạng mà người địa phương biếu tặng. Dù khi ấy giá trị không cao như bây giờ, nhưng chất lượng là hảo hạng.
Phương Lệ Xuân uống đến mức "yêu không rời tay", trà uống hết, nhưng hộp trà thì không nỡ vứt đi.
Và thế là nó ở bên mẹ con họ suốt mười mấy, hai mươi năm.
Trong tâm trí Phương Tri Vũ, chiếc hộp trà cũ ấy đã trở thành một hình ảnh quen thuộc khắc sâu vào ký ức tuổi thơ, gắn liền với khái niệm "nhà", như lá mọc trên cây, khó mà phân biệt.
Giờ đây, nhà của cô không còn nữa, nhưng chiếc hộp vẫn còn, dùng để chứa một nhúm tóc, một hũ tro, và một bài văn với lời phê "vì ép vần mà gượng buồn".
Phương Tri Vũ lòng tràn đầy lưu luyến mà vuốt ve chiếc hộp ấy ———
Đây là thứ khiến căn phòng nhỏ này hóa thành "nhà", cũng là tất cả những niệm tưởng còn lại trong cô.
Còn có nó, cô còn cảm thấy bất kể chuyện gì xảy ra, chỉ cần mở cửa, trở về nơi này,
Thì vẫn có ai đó đang chờ cô.
Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Com