CHƯƠNG 37
Sau vụ án Lưu thị, Kim thượng đã cho tiến hành lễ tế tổ để an lòng trời đất. Mà hành động Công chúa đỡ người dân kêu oan trước phủ được lan truyền rộng rãi, khiến không ít người tìm đến trước phủ đại trưởng công chúa để kêu oan. Nàng đều đối đãi họ bằng lễ nghĩa, do đó người trong kinh thành ai ai cũng ca ngợi, thanh thế của Công chúa xán lạn không hề thua kém Thiên tử. Nàng ngày càng bận rộn, thường xuyên ra vào cung cấm.
Tôi vì chuyện này mà đâm âu sầu. Cây cao thì gió lớn, hành động như vậy khó tránh khỏi sẽ dấy lên nghi kỵ và chất vấn. Ngay cả lúc luyện chữ tôi cũng không thể tĩnh tâm, song lại chẳng biết phải góp lời ra sao. Cứ chần chừ mấy ngày, lại có một tin khác truyền đến.
Đầu tháng sáu, Thái hậu đột nhiên xuất hiện trên Sùng Minh Điện, vô cùng phẫn nộ, người quở trách bá quan văn võ trên điện chẳng một ai hữu dụng, lại để Tấn Dương Đại trưởng công chúa phải gánh vác mọi chuyện. Kim thượng không nói gì, bá quan cũng lặng thinh.
Một lát sau, Hàn Lâm Học sĩ Trần Hâm đột nhiên quỳ xuống dâng lời: "Thần nghe nói từ xưa đến nay khi Thiên tử còn nhỏ tuổi đều cần tìm bậc lương sư [1] phụ tá, như các trọng thần Tỷ Can [2], Hoắc Quang [3] phò trợ. Nay Thánh thượng không có Tam công [4] phụ chính, trăm quan trong triều lại đánh mất lòng dân, duy chỉ có Tấn Dương Đại trưởng công chúa là bậc nhân hậu, được người người trông đợi. Chi bằng xin ban cho Đại trưởng công chúa tước Khai phủ nghi đồng tam ty [5], để giải nỗi khổ của dân, san sẻ muộn phiền cho Thiên tử."
[1] Thầy giỏi.
[2] Tên một vị quan trung thần thời nhà Thương trong lịch sử Trung Quốc. Ông nổi tiếng vì hết lòng can gián vua Trụ nhưng bị vua ra lệnh mổ tim để xem "tim của bậc thánh nhân có bảy lỗ hay không". Về sau, Tỷ Can trở thành một điển tích cho lòng trung thành sắt son, dám nói lời thật.
[3] Một đại thần quyền lực dưới thời Tây Hán, từng làm phụ chính cho nhiều vị vua trẻ. Ông là một điển hình cho vai trò của một vị đại thần tài năng, có khả năng phò tá, nhiếp chính để giữ vững triều cương.
[4] Tên gọi chung cho ba chức quan cao nhất, đứng đầu trăm quan trong triều đình phong kiến. Tùy theo triều đại, các chức danh cụ thể trong Tam công có thể thay đổi (ví dụ: Thừa tướng, Thái úy, Ngự sử đại phu hoặc Thái sư, Thái phó, Thái bảo)
[5] Là một chức quan, một tước hiệu và cũng là một đặc quyền cao quý. Người được ban tước hiệu này sẽ được phép lập phủ đệ riêng và tự tuyển chọn quan lại phụ tá (gọi là khai phủ), đồng thời được hưởng nghi lễ và đãi ngộ ngang hàng với Tam Công (gọi là nghi đồng tam ty).
Lời vừa thốt ra, cả triều xôn xao, đều nói từ xưa chưa từng có nữ tử nào được hưởng đại quyền như vậy, tuyệt đối không thể mở ra tiền lệ này.
Trần Học sĩ lại nói: "Tấn Dương Đại trưởng công chúa không phải nữ tử tầm thường, mà là cô mẫu của Kim thượng, năm xưa lại có ơn cứu giá Thánh thượng và Thái hậu, lòng yêu thương trăm họ chẳng thua kém bất kỳ ai trên triều. Cớ sao có thể vì thân phận nữ nhi mà xem nhẹ hành động nhân nghĩa của người, huống hồ Đại trưởng công chúa chưa từng cậy ơn mà áp chế bề trên. So với bá quan tầm thường, người càng được lòng dân hơn. Hành động này chính là để biểu dương ân đức của Thiên tử, thể hiện tấm lòng khoan nhân, biết ơn báo đáp."
Kim thượng không nói nửa lời, hồi lâu sau, Thái hậu bỗng lấy tay áo che mặt nức nở. Bá quan đưa mắt nhìn nhau, chẳng biết phải làm sao. Kim thượng chau mày, đứng dậy đỡ cánh tay Thái hậu, hỏi: "Thái hậu vì sao lại khóc?"
Thái hậu nắm tay Kim thượng, nhẹ nhàng vỗ về mu bàn tay người mà rằng: "Mẫu tử chúng ta xưa nay vốn đã khổ nhiều, phụ thân con gặp đại nạn, nếu không có Tấn Dương Đại trưởng công chúa tương trợ, mẹ con hai ta giờ này vẫn còn đang vất vưởng nơi phố chợ, khổ sở kiếm sống. Nay con đã làm Hoàng đế, sao có thể không nhớ ân đức của Đại trưởng công chúa. Đại trưởng công chúa thường xuyên vào cung bầu bạn với ta, sợ ta ở chốn thâm cung này phải chịu tủi hờn. Ta tự biết không cách nào báo đáp nên mỗi khi Hoàng đế có ban thưởng, ta đều san sẻ cho Đại trưởng công chúa một phần, vậy mà vẫn thấy lòng còn nhiều thiếu sót."
Kim thượng nặng trĩu nét mặt, bá quan không lời nào đáp lại.
Thái hậu lại ảo não thở dài: "Đại trưởng công chúa đối với Hoàng đế cũng hết mực tốt, vì con mà giải ưu, vì con mà gánh tiếng xấu. Hoàng đế có biết chăng, người đời thường nói Đại trưởng công chúa lạm quyền, là kẻ nịnh thần, Hoàng đế sao có thể để Đại trưởng công chúa chịu nỗi oan ức như vậy?"
Trần Học sĩ cúi đầu thật sâu: "Xin Thánh thượng ban cho Tấn Dương Đại trưởng công chúa tước Khai phủ nghi đồng tam ty."
Ngay sau đó, lại có thêm mấy người nữa rời khỏi hàng, quỳ trước Kim thượng xin ban ân điển. Dưới sức ép như vậy, Kim thượng không thể không chấp thuận. Nếu nói trước đây quyền lực của Công chúa đến từ thân phận hoàng thất, thì kể từ nay, nàng đã chính thức trở thành một vị quyền thần danh chính ngôn thuận.
#
Tôi đợi ở ngoài viện của Công chúa, vì chuyện khai phủ là đại sự, nàng còn bận rộn hơn cả trước kia. Mãi đến giữa tháng sáu, tôi mới hay tin Công chúa rảnh rỗi từ Triệu nương tử.
Có lẽ vì lần trước tôi đã nặng lời với Công chúa, lòng tôi áy náy vô cùng, nhưng thấy nàng bận rộn như vậy, cũng không tìm đến tôi, tôi lại nghĩ có lẽ nàng thực sự không để tâm, trái tim lại nhen nhóm một ngọn lửa không cam lòng nhỏ nhoi, tự thấy mình thật sự chẳng có khí phách nào.
Buổi chiều hôm đó, Tiết Cô mang lễ vật của Thái hậu đến gặp Công chúa. Tôi đợi một lát, vừa hay thấy Tiết Cô từ trong phòng bước ra. Cô ấy gặp tôi, thoáng chút ngạc nhiên. Tôi cúi đầu không nói, định đi vào trong, nhưng cô ấy bỗng gọi tôi lại.
"Nương tử từng gặp qua ta sao?" Tiết Cô hỏi.
Tôi hơi ngây người, chốc sau mới mỉm cười hành lễ với cô ấy: "Chắc là chưa từng gặp, chỉ là nô tỳ có nghe qua một vài chuyện về Tiết tam nương tử."
Tiết Cô im lặng một hồi, nhìn tôi từ trên xuống dưới một lượt, nói: "Ngày đó vì sao cô lại hỏi tôi những lời như vậy?"
Tôi trầm mặc một thoáng, sau đáp với Tiết Cô: "Trong lòng nô tỳ có vài chuyện bất bình, mà trải nghiệm của Tiết Tam nương tử lại thật đặc biệt, thế nên nô tỳ mới muốn hỏi thăm một chút, xem Tiết Tam nương tử có thể chấp nhận hoàn cảnh hiện tại hay không, cũng là để bản thân nô tỳ có thêm dũng khí."
Tiết Cô khẽ cụp mắt, lướt nhìn tôi hai lần: "Lạ thật, ta luôn cảm thấy nương tử rất quen, chúng ta thật sự chưa từng gặp nhau sao?"
Tôi lắc đầu cười trả lời: "Nô tỳ chỉ là một thị nữ trong phủ đại trưởng công chúa, chưa từng ra khỏi phủ, làm sao có thể gặp qua Tiết Tam nương tử được chứ?"
Cô ấy lặng thinh một hồi, cảm thấy cũng có lý, bèn gật đầu với tôi rồi rằng: "Ta không biết hoàn cảnh của cô, nhưng nếu có người có thể từ chỗ ta mà có thêm chút dũng khí nào đã, ta cũng cảm thấy vô cùng vinh hạnh."
Tôi cúi đầu đáp phải.
Tiết Cô khựng lại, rồi buông tiếng: "Thật ra, những gì ta trải qua, đều là nhờ ơn của Phạm Phò mã. Ngài ấy ở Quốc Tử Giám đã chiếu cố ta rất nhiều, khi ta vào ngục cũng vì ta mà chạy vạy cầu xin, chỉ tiếc ngài ấy mất sớm, ta chưa kịp nói một lời cảm ơn."
Tôi sững người, ngước mắt nhìn cô ấy, đáy mắt kia nhuốm vị u buồn, dường như thật lòng tiếc thương cho tôi. Tôi bỗng thấy lòng ấm áp lạ thường, sống ngần này năm tháng, chưa một ai nói với tôi những lời như vậy, bất giác tôi mỉm cười: "Nếu Phạm Phò mã còn tại thế, dĩ nhiên sẽ rất vui cho thành tựu hôm nay của Tiết Tam nương tử, chắc hẳn cũng sẽ cảm động trước sự tưởng nhớ của nương tử."
Tiết Cô nhẹ cười, thở dài một tiếng: "Phạm Phò mã khác nhiều so với nam nhân trong thiên hạ. Nói ra có thể hơi mạo phạm, nhưng ngài ấy có lẽ còn tinh ý hơn cả nữ tử. Đôi lúc ta cũng tự hỏi, có phải ngay từ khi còn ở Quốc Tử Giám, ngài ấy đã phát hiện ra thân phận nữ tử của ta nên mới chiếu cố ta như vậy."
Tôi cúi mắt không đáp, hồi lâu sau nhoẻn cười: "Có lẽ là vì bản thân Tiết Tam nương tử có những điểm đáng để người kính trọng, nên mới khiến Phạm Phò mã cũng phải khâm phục."
Tiết Cô chợt ngơ ngác, cụp mắt nghiêng đầu, dường như có điều suy nghĩ, chốc sau cô ấy nói: "Nương tử có việc tìm Đại trưởng công chúa sao?"
Tôi cúi đầu đáp phải, Tiết Cô ra hiệu cho tôi nhìn sang một hướng, nói: "Nương tử mau đi đi, Đại trưởng công chúa xem ra đã đợi lâu rồi."
Tôi ngẩn ra, ngoảnh mặt nhìn lại, dưới hàng hiên, Công chúa đang chắp tay trong ống tay áo đứng đó, thần sắc lạnh lùng, lẳng lặng nhìn tôi. Khi chạm ánh mắt tôi, nàng lầm lì phất tay áo bước vào trong, chỉ để lại một bóng lưng. Tôi vội vàng cáo từ Tiết Cô, rảo bước đuổi theo hướng Công chúa.
Vào trong phòng lại không thấy bóng dáng Công chúa đâu. Tôi khựng chân, đi vòng qua tấm bình phong thì trông thấy nàng đương đứng trước bàn trang điểm, vuốt ve hộp son phấn trên bàn. Tôi dừng một chút trước khi gọi nàng: "Công chúa."
Công chúa không nói gì, tôi cũng im lặng không lời. Hồi lâu, nàng quay đầu nhìn tôi, hỏi: "Ta đã nói ngươi phải trang điểm mỗi ngày cho ta xem, vì sao không đến gặp ta?"
Tôi ngẩn ngơ, khá bối rối trước việc nàng còn canh cánh chuyện này. Một lát sau tôi hành lễ với nàng để tỏ ý xin lỗi: "Công chúa dạo này quá bận rộn, chuyện nhỏ nhặt thế kia, không dám đến làm phiền Công chúa."
"Thế nên ngươi cứ ở trong biệt viện Phò mã luyện chữ, không hề nghĩ tới việc đến thăm ta một lần sao?"
Nàng đột nhiên chất vấn, giọng điệu lạnh bạc, so với trước đây, vẻ giận dữ của nàng dường như càng lộ rõ trên mặt, khiến tôi khá bối rối.
Được một lúc, tôi nói: "Ta vẫn luôn dõi theo Công chúa, biết dạo gần đây Công chúa bận rộn với nhiều việc trong triều, trước kia cũng lo lắng Công chúa bị triều thần chỉ trích, muốn đến thăm Công chúa, nhưng Phạm Bình không quyền không chức, lại thân là thị nữ, thân phận thấp hèn, không thể giúp Công chúa giải ưu, hiến kế, vì thế mới chần chừ đến nay mới đến hỏi thăm Công chúa."
Công chúa hừ một tiếng, nói: "Ta rất khỏe."
Tôi chợt ngơ ngác, bỗng thấy nàng quả thực đã thay đổi một chút, nếu là trước đây, dù có tức giận, tuyệt đối không nói những lời như vậy. Song tôi lại chả biết được nguyên nhân về sự thay đổi của nàng, nhất thời lúng túng, suy tư một lát rồi lên tiếng: "Phạm Bình biết lỗi, xin Công chúa trách phạt."
Công chúa khựng lại, nghiêng đầu nhíu mày: "Ta không có ý phạt ngươi, Phạm Bình, ngươi lúc nào cũng suy nghĩ nhiều."
Lòng tôi chợt an tâm, cúi thân mà rằng: "Tạ ân không phạt của Công chúa."
Công chúa không tỏ thái độ, xoay người đi vòng qua bình phong ra gian ngoài. Tôi chưa kịp đuổi theo thì nghe tiếng nàng gọi: "Phạm Bình, tới đây."
Giọng điệu chẳng còn thờ ơ như trước, thậm chí nghe ra có vài phần thân thiết, khiến tim tôi bất giác rung động.
Tôi đi ra gian ngoài, thấy nàng lấy một cái hộp từ chiếc sập nhỏ bên cạnh đưa cho tôi. Tôi vội vàng đón nhận, nhìn nàng bằng cặp mắt khó hiểu, nàng không giải thích, chỉ phất tay áo ngồi xuống sập, lặng yên dòm tôi, ý tứ có lẽ là muốn tôi mở ra.
Ngập ngừng một lát, tôi mở nắp hộp, thấy bên trong là một cuộn tranh. Tôi ngó nàng một cái, trong mắt Công chúa dường như ẩn chứa vài phần mong đợi, tôi bèn đặt chiếc hộp sang một bên, mở cuộn tranh ra, toàn bộ bức tranh chữ hiển hiện trước mắt khiến tôi kinh ngạc vô cùng: "Đây là?"
"Bức thứ bảy trong bộ Cửu Tuyệt Đồ của Quản Đạo Chân," Công chúa đổi tư thế, chống cằm nhìn tôi, "Là vật phẩm trong cung."
Tim tôi bỗng chốc đập rộn ràng,
Cửu Tuyệt Đồ là bộ tranh chữ cổ, tương truyền thời xưa ở Thanh Châu có một nữ tử tên Quản Văn Tiêu, hiệu Đạo Chân, từ năm ba tuổi đã học chữ viết, luyện vẽ tranh, mười bốn tuổi đã thành danh gia, vô số người đến cửa cầu xin tranh chữ của bà, đều không được. Năm hai mươi tuổi bà từ chối hôn sự, ẩn mình vào núi rừng, thường có người vào núi sâu cầu học, thu hoạch không nhỏ, nhưng lại chẳng một ai có được tranh thật của bà.
Đến năm Quản Đạo Chân chín mươi chín tuổi, cảm thấy đại hạn của mình sắp đến, bèn đem toàn bộ tranh chữ đốt sạch. Có một người tiều phu thấy trên đỉnh núi có khói bốc lên, bèn đi theo tìm đến, phát hiện Quản Đạo Chân đã qua đời, mà trong sân chỉ còn lại một đống tro tàn. Người tiều phu đi vô trong nhà, phát hiện trên án thư đặt chín cuộn tranh, là chín bức tranh chữ.
Người đời nói, đó là chín tác phẩm mà Quản Đạo Chân hài lòng nhất trong đời, dù chết đi cũng không nỡ đốt, đó chính là Cửu Tuyệt Đồ. Quản Đạo Chân vốn đã lừng danh, cuộc đời lại ly kỳ, nên chín bức tranh chữ này cũng được người đời tôn sùng hết mực.
Bốn khóm trúc mực đứng xen kẽ trước sau, trái phải, âm dương hướng bối rõ ràng [6]. Bên dưới là mấy khóm trúc nhỏ, xen lẫn những hòn đá cuội ven hồ được tô điểm bằng vầng mực loang đậm nhạt. Bố cục tinh diệu, bút pháp tròn trịa mà mạnh mẽ, màu sắc trang nhã. Góc trên bên trái bức tranh còn đề một bài thơ "Giá Cô Thiên", chữ viết cũng tuyệt diệu vô cùng [7].
[6] Là một thuật ngữ trong hội họa cổ điển phương Đông, đặc biệt là tranh thủy mặc. Cụm từ này miêu tả kỹ thuật thể hiện sự tương phản và chiều sâu của vật thể. Trong bối cảnh vẽ trúc, nó chỉ việc thể hiện mặt trước (dương) và mặt sau (âm), mặt sáng và mặt tối, mặt úp và mặt ngửa của lá trúc.
[7] Tác giả: Phỏng theo lời bình về bức Song Câu Trúc Đồ.
Bàn tay cầm tranh thoáng run run, tôi chưa từng được thấy bức tranh này ở khoảng cách gần như vậy, chỉ là năm xưa khi Thái Học Bác sĩ dẫn học trò đi thưởng lãm, tôi chỉ được nhìn từ xa một lần. Khi đó điều khiến tôi cảm thấy vô cùng xúc động là, đã từng có một nữ tử như vậy lưu lại danh tác trên đời, thật khiến người ta được cổ vũ vô cùng.
Tôi nhìn về phía Công chúa, thấy nàng đang ngắm tôi chăm chú, giật mình nhận ra mình dường như quá xúc động, lòng hoảng hốt, vội vàng cuộn tranh lại cất vào hộp, nói: "Cửu Tuyệt Đồ vô cùng quý giá, sao Công chúa có thể cứ thế lấy ra, lỡ làm hỏng thì phải làm sao?"
Công chúa nhìn chiếc hộp, thản nhiên buông tiếng: "Thái hậu ban thưởng, Tiết Cô không nói cho ngươi biết sao?"
Tôi nghệch mặt, hỏi: "Sao Tiết tam nương tử lại nói cho tôi biết?"
Công chúa khựng lại, cụp mắt trả lời: "Tiết Cô yêu tranh, ngươi cũng yêu tranh, ta cứ ngỡ ngươi sẽ hỏi cô ấy."
Tôi không khỏi phì cười, cảm thấy lời của nàng hơi hoang đường: "Tiết Tam nương tử đã không biết ta là ai, ta hà cớ gì phải hỏi cô ấy những lời như vậy, huống hồ ta và Tiết Tam nương tử cũng chỉ là duyên gặp gỡ mấy lần, ta cũng không biết cô ấy có sở thích gì."
Công chúa im lặng không đáp, thản nhiên "ờ" một tiếng, rồi lại đẩy chiếc hộp về phía tôi, ánh mắt dừng trên người tôi, bảo: "Ngươi đã luyện chữ rồi thì cũng luyện thêm cả vẽ đi, ta không giỏi đan thanh, giữ lại cũng vô dụng."
Tôi dòm chiếc hộp đựng Cửu Tuyệt Đồ, nội tâm dấy lên xúc động, nhưng thoáng chốc lại thấy chua xót, suy nghĩ một lát, bèn nói: "Hay là Công chúa cứ giữ lại đi, bút pháp của ta hiện nay vẫn còn khó coi vô cùng, bức tranh này đưa cho ta, chính là phung phí của trời."
Tôi không dám nhận lòng tốt của Công chúa, bức tranh này quá quý giá, mà với trình độ thư họa hiện tại của tôi, còn lâu mới đủ tư cách sở hữu nó.
Công chúa khẽ chau mày, nhìn tôi: "Phạm Bình, vậy ngươi muốn gì?"
Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Com