Truyen2U.Net quay lại rồi đây! Các bạn truy cập Truyen2U.Com. Mong các bạn tiếp tục ủng hộ truy cập tên miền mới này nhé! Mãi yêu... ♥

CHƯƠNG 44

Hai hôm sau, nữ thương nhân buôn tranh tên Tôn Duyệt Chi đến thăm, Công chúa bèn đích thân ra nghênh đón. Trưa ngày kế tiếp, nàng cho mở tiệc, đi cùng còn có tôi, Triệu nương tử, Đinh Lan, Diệu Chân và cả vị Phùng đại gia nọ.

Tôn Duyệt Chi đã ngoài bốn mươi, dung mạo phúc hậu chân chất, dáng người hơi đầy đặn, nhưng đôi mắt lại vô cùng sáng ngời, tựa như đã quen sương gió cuộc đời. Đối đãi với Công chúa, bà không hề khúm núm cũng chẳng kiêu căng, mà với đám tỳ nữ chúng tôi cũng rất mực lịch thiệp. Phùng đại gia dung mạo diễm lệ, tuổi trạc ba mươi, mình vận đạo bào màu xanh, đầu cài trâm ngọc. Thân hình bà mảnh mai tựa cành liễu xanh, vừa đoan trang, thanh tao, lời nói lại hiền hòa, ấm áp, hẳn cũng xuất thân từ thư hương, nhưng tôi chắc là mình chưa từng gặp qua.

Công chúa dẫn họ vào một khoảng sân vắng vẻ trong Bạch Vân Quán. Tôn Duyệt Chi tỏ ra rất thoải mái, vừa đi vừa nói đùa: "Quý chủ vẫn chẳng cho Duyệt Chi nghỉ ngơi một khắc nào cả."

Công chúa khẽ cụp mi mắt, dường như thoáng lộ ý cười: "Phùng đại gia và ta đều muốn xem xem Tôn nương tử lại tìm được những bức họa nào, vừa hay Triệu Hương cũng ở đây." Nàng ngừng một chốc, ánh mắt hướng về phía tôi , "Trong phủ của ta còn có một thị nữ khá am tường thư họa, cũng muốn giới thiệu cho Tôn nương tử."

Tôn Duyệt Chi nhìn về phía tôi, gật đầu mỉm cười: "Dám hỏi nương tử phương danh?"

Tôi hơi ngẩn ra, suy tư một hồi rồi nói với bà: "Tại hạ họ Lý, tên Chất Nô."

Tôn Duyệt Chi cười nhẹ, vái chào: "Xin vấn an Lý nương tử, mỗ tên Tôn Duyệt Chi."

Tôi vội vàng cúi người đáp lễ: "Không dám nhận [1]."

[1] Đây là cách nói khiêm tốn vì Phạm Bình là thị nữ, đang ở thân phận thấp hơn nhưng được Tôn Duyệt Chi gọi một cách trang trọng là Lý nương tử.

Sau màn chào hỏi ngắn ngủi, sắc mặt Công chúa lại trở về vẻ lạnh nhạt thường thấy. Cả nhóm chúng tôi tiến vào trong vườn, nơi hoa cỏ cây cối soi bóng vào nhau, dựa núi nhìn sông, trồng đầy kỳ hoa dị thảo, phần lớn đều là những loài Công chúa yêu thích, trước kia ở Lưu Xuân Các tôi cũng từng thấy không ít. Còn có nhiều loài tôi không gọi được tên, nhưng nghĩ rằng đó cũng là sự sắp đặt có chủ ý của nàng.

Công chúa, Tôn Duyệt Chi và Phùng đại gia rõ ràng là người quen cũ, trên đường đi thong thả tán gẫu vài câu, tiếng cười không ngớt. Đi thêm mấy chục bước đến một khoảng sân rộng rãi thì thấy một tòa thủy tạ có đặt sẵn một chiếc án gỗ. Chẳng mấy chốc, đã có tiểu đồng trong đạo quán mang bút mực cùng rượu nước, hoa quả điểm tâm đến.

Công chúa và Phùng đại gia ngồi xuống một bên gần mặt nước, còn Tôn Duyệt Chi thì mở những cuộn tranh mang theo, lần lượt trải ra trên án.

Tôi và Triệu nương tử đứng cùng một chỗ, bèn nghe Công chúa nói: "Tranh chữ mà Tôn nương tử tìm được xưa nay đều là cực phẩm, hai ngươi qua xem đi."

Triệu nương tử có phần phấn khởi, sau khi hành lễ liền bước lên phía trước, tôi cũng theo sau. Bức họa đầu tiên là một bức Sĩ Nữ Mạn Bộ Đồ [2], vẽ khoảng mười hai người nữ tử mặc váy dài tay rộng, tóc cài đủ loại hoa tươi. Dáng vẻ mỗi người mỗi khác, thần thái khắc họa như sống, người thì ưu tư lặng lẽ, người thì trầm ngâm cúi đầu, người lại thong dong tự tại. Bút pháp tinh xảo, sắc thái diễm lệ, cách dùng màu cực kỳ táo bạo, dung hòa được cả sở trường của Ngô Đạo Tử lẫn Chu Phưởng [3], quả là phong thái của một danh gia.

[2] Bức tranh các mỹ nữ dạo bước.

[3] Ngô Đạo Tử là một họa sĩ trứ danh đời Đường, được tôn là "Họa Thánh", nổi tiếng với các tác phẩm về đề tài tôn giáo và nhân vật, nét vẽ mạnh mẽ, phóng khoáng, tạo nên phong cách được gọi là "Ngô đái đương phong" (tạm dịch: nét vẽ của Ngô bay như gió). Chu Phưởng cũng là một họa sĩ nổi tiếng đời Đường, cùng thời với Ngô Đạo Tử, chuyên vẽ tranh nhân vật, đặc biệt là các bức họa về phụ nữ quý tộc, phong cách tinh tế, đầy đặn, màu sắc hoa lệ, khắc họa thành công vẻ đẹp và khí chất của các cung nữ, phu nhân, được gọi là "Chu gia dạng" (tạm dịch: phong cách Chu gia).

Tôi không khỏi hỏi: "Đây là tác phẩm của danh gia nào vậy?"

Tôn Duyệt Chi cười đáp: "Là tác phẩm của một vị Liêu phu nhân ở Tương Dương. Bà ấy từng nhiều lần vào cung, rất yêu thích cổ họa, đã kết hợp thần thái của cung nữ trong cung và các tiểu thư khuê các để sáng tác nên bức tranh này."

Tôi không khỏi kinh ngạc: "Một bức họa thế này, sao ta lại chưa từng thấy qua?"

Tôn Duyệt Chi giải thích: "Phàm là tác phẩm của nữ tử, phần lớn đều không được lưu truyền ra ngoài khuê phòng, hiển nhiên rất ít người biết đến. Mỗ cũng là do duyên may tình cờ mới được chiêm ngưỡng, thấy vị phu nhân này kỹ thuật cao siêu nên mới đến cầu họa. Các bậc văn nhân nhã sĩ cũng rất yêu thích, bán được giá rất cao."

Tôi lại càng kinh ngạc hơn, nhìn lại những bức tranh trên án, trái tim ngợp một nỗi khó tả: "Chẳng lẽ những bức họa này của Tôn nương tử, tất cả đều do nữ tử sáng tác?"

Tôn Duyệt Chi liếc nhìn Công chúa, cười nhạt: "Tất nhiên rồi, nương tử thấy lạ lắm sao?"

Nếu nói không lạ thì tất nhiên là nói dối, chỉ là không ngờ Tôn Duyệt Chi là một thương nhân buôn tranh, lại đi chào bán tác phẩm của nữ tử. Người đời đều cho rằng thư pháp đan thanh chỉ có nam tử là giỏi hơn cả, còn tác phẩm của nữ tử thì xem nhẹ. Nhưng những bức họa bà ấy tìm được đều có bút pháp tinh diệu, không thua kém ai, thật sự hiếm có.

Triệu nương tử cũng hết lời khen ngợi. Sau đó, chúng tôi xem qua một lượt các bức họa, rồi đưa cho Công chúa và Phùng đại gia bình phẩm, trong đấy chọn ra bức xuất sắc nhất là Giang Phàm Xuân Các Đồ [4]. Bức này tuy là tranh du xuân nhưng nét vẽ mạnh mẽ dứt khoát mà vẫn uyển chuyển rắn rỏi, lấy thuyền con ở phía xa để làm nổi bật sự mênh mông của sông nước, tạo nên thế khói sóng cuồn cuộn ngút ngàn. Bờ sông cây cối điệp trùng, thấp thoáng lầu son gác tía, bố cục lớp lang, trật tự, cho thấy người vẽ có tâm hồn khoáng đạt, đủ ôm trọn cả thế gian.

[4] Bức họa về thuyền buồm trên sông và gác tía ngày xuân.

Từ lời của Tôn Duyệt Chi, tôi được biết người vẽ bức này là một nữ tử Giang Nam, mới mười tám tuổi, nhưng tầm nhìn của cô ấy đã có một cảnh giới siêu phàm thoát tục, khiến người ta phải cảm thán.

Lòng tôi xao động, một lần nữa vì trên đời có bút pháp của nữ tử thế này mà vừa kính phục vừa ngưỡng mộ. Triệu nương tử thì càng yêu thích không nỡ rời tay, mấy lần định nói xong lại thôi, chừng như muốn giữ bức họa này làm của riêng.

Sau khi bình phẩm xong, Tôn nương tử thấy chúng tôi hứng thú vẫn còn, bèn xin phép Công chúa: "Những bức họa này đều là Duyệt Chi dâng tặng Quý chủ, nhưng thấy có hai vị nương tử am hiểu hội họa ở đây, hay là cũng xin mời các vị hiến tặng bút tích, rồi để Quý chủ bình chọn người đứng đầu, người thắng có thể chọn một bức họa để sưu tầm, thấy sao?"

Phùng đại gia cười nhẹ: "Ta cũng có thể tham gia không?"

Tôn Duyệt Chi gật đầu hành lễ: "Có được bút tích của phu nhân, còn có thể bán được giá hơn những bức họa này nhiều."

Nụ cười của Phùng đại gia càng thêm sâu: "Tôn nương tử vẫn như vậy, người biết chuyện thì nói Tôn nương tử không nỡ thấy ngọc sáng bị bụi mờ, người không biết lại chỉ cho rằng Tôn nương tử một lòng chìm đắm trong mùi tiền, không thể thoát ra."

Tôn Duyệt Chi chẳng để tâm: "Duyệt Chi đã là thương nhân buôn tranh, dĩ nhiên hy vọng những bức họa mình tìm được có thể trở thành bảo vật vô giá. Mùi tiền tuy có hơi phàm tục, nhưng không có nó, e là không thể tìm về cho phu nhân và Quý chủ nhiều bức họa như thế này nữa rồi."

Công chúa khẽ rủ mi, dường như mang ý cười: "Như vậy cũng hay." Nàng quay sang nhìn tôi và Triệu nương tử, nhẹ giọng hỏi, "Hai ngươi thấy sao?"

Triệu nương tử lòng dạ phấn chấn, dĩ nhiên không từ chối, còn tôi thì chẳng biết làm sao để khước từ, chỉ thấy hơi ngượng ngùng, nói: "E là bút pháp của nô tỳ quá kém, khó mà lọt vào mắt xanh."

Tôn Duyệt Chi lắc đầu: "Dù thế nào cũng nên thử một lần chứ, hơn nữa ở đây chỉ có mấy người chúng ta, Lý nương tử có vẽ kém đến đâu chẳng lẽ còn có thể bị người khác thấy mà chê cười sao?"

Ánh mắt Công chúa dòm tới, dường như lấp ló mong đợi, tôi bèn không tiện từ chối nữa. Thế là Phùng đại gia, Triệu nương tử, tôi và Diệu Chân, lấy một nén nhang làm giới hạn, lấy thác nước mà Công chúa đã nhắc đến làm đề tài để vẽ.

Vẽ tranh khá là tẻ nhạt, Công chúa bèn lệnh cho Đinh Lan thổi sáo. Tôi không ngờ Đinh Lan còn học cả thổi sáo. Triệu nương tử dường như nhận ra sự ngạc nhiên của tôi, cười nhẹ nói: "Trước đây lúc rảnh rỗi, ta có dạy nàng ấy."

Tôi không khỏi bật cười, có lẽ đây chính là thú vui của họ. Chốc lát sau, Đinh Lan bắt đầu thổi sáo, hơi thở dài và đều, tiếng sáo thanh nhã vô cùng, xem ra đã bỏ không ít công sức.

Chúng tôi cứ thế cầm bút dưới tiếng sáo. Tuy trước đó cũng đã luyện lại khá nhiều, nhưng tranh của tôi cuối cùng vẫn không thể sánh bằng ngày xưa, khá là do dự, những chỗ dùng mực đậm cũng rất cẩn trọng. Còn nhìn những người khác, ai nấy đều như đã có sẵn ý tưởng trong đầu, nét mặt tươi cười, vô cùng thoải mái. Tôi không khỏi bị bầu không khí này lan tỏa, khi hạ bút bỗng nhẹ nhàng hơn nhiều.

Sau một nén nhang, tất cả chúng tôi đều dừng bút, lùi về một chỗ. Công chúa và Triệu nương tử [5] bước lên xem xét, khẽ bàn bạc. Một khắc sau, Tôn Duyệt Chi cười nhẹ bình phẩm: "Hẳn là Triệu nương tử xuất sắc nhất."

[5] Khả năng chỗ này tác giả ghi nhầm, có lẽ là "Tôn nương tử".

Mặt Triệu nương tử ửng hồng, vừa phấn khích vừa e thẹn. Tôn Duyệt Chi nhìn về phía tôi, ánh mắt áy náy: "Tranh của Lý nương tử tuy ý cảnh rất hay, nhưng bút pháp có phần kém hơn, e là bức Giang Phàm Xuân Các Đồ này không có duyên với nương tử rồi."

Bà ấy hẳn đã nhận ra sự yêu thích của tôi đối với bức họa đó nên cảm thấy áy náy. Nhưng tôi lắc đầu, nội tâm đã sớm biết kết quả này, cũng không cảm thấy tiếc nuối, chỉ bước lên xem tác phẩm của Triệu nương tử, lòng đầy ngưỡng mộ, chẳng kìm được mà vuốt nhẹ cuộn tranh, cảm khái vô ngần.

Thực ra, tôi cũng đã từng viết được những chữ thế này, vẽ được những bức thế này.

Năm mười bốn tuổi, tôi mới vào Quốc Tử Giám, về mảng thư pháp đan thanh khá là nổi bật. Hễ có cuộc thi nào đều giành vị trí đầu bảng. Thái học Bác sĩ khen tôi, bút lực mạnh mẽ, tuy có hơi non nớt, nhưng tương lai tất sẽ thành tài.

Tôi lấy đó làm vinh dự, cậy tài mà kiêu, vì chí khí tôi rất cao, không thèm giao du với đám học trò thế gia phù phiếm trong giám, chỉ kết giao với các học trò nghèo khó. Nhưng có lẽ thân phận của tôi chẳng gánh nổi sự kiêu ngạo đó, mới ra nông nỗi như vậy.

Năm mười bảy tuổi, Phạm Khiêm vào Quốc Tử Giám, hắn là cháu ngoại của Tể tướng, giao du sâu rộng với đám con em thế gia nên thường bị đem ra so sánh với tôi. Nhưng lúc đó hắn nhỏ hơn tôi ba tuổi, tôi chả hiểu sao hắn cứ muốn hơn thua, chỉ nhớ sau một lần thi, hắn xếp hạng trung đẳng [6], đám con em thế gia liền đua nhau cười nhạo. Phạm Khiêm không phục, từ đó về sau đối với tôi cũng nhiều phần lạnh nhạt.

[6] Trung bình.

Một buổi trưa nọ, hắn cùng các học trò khác kéo đến, dưới sự ép buộc của họ, đề nghị muốn thi đấu với tôi. Tôi không chịu, Phạm Khiêm vốn định thôi, thì chợt nghe một người cười khẩy: "Phạm Khiêm, ngươi há có thể để một đứa con của tiện tỳ sinh ra vượt mặt sao, ai biết trên đường lên kinh đã xảy ra chuyện gì, phụ thân ngươi cũng thật độ lượng, lại có thể dung túng cho bà ta ở trong phủ, thật là trò cười cho thiên hạ, Lâm tướng công [7] sao lại có đứa cháu ngoại như ngươi, ha ha ha ha ha."

[7] Tướng công là cách gọi tôn trọng dành cho tể tướng.

Tôi nhất thời nóng giận, vừa vì bọn họ sỉ nhục mẹ tôi, vừa vì thái độ lạnh nhạt của Phạm Khiêm, nên đã nhận lời thách đấu này, kết quả dĩ nhiên là tôi thắng, còn Phạm Khiêm thì cúi đầu lí nhí, liếc thấy tôi thì ánh mắt vô cùng oán hận.

Tôi vốn tưởng chuyện ấy coi như xong, nhưng không ngờ, đêm hôm đó cả bọn đấy trói tôi lại, trước sân ký túc xá Quốc Tử Giám, bắt tôi quỳ xuống. Tôi không thể vùng vẫy, chỉ thấy một người cầm gậy bước lên, mặt mày hung tợn, giáng mạnh xuống cánh tay tôi. Cơn đau dữ dội ập đến, toàn thân tôi bủn rủn vì đau, không nhịn được mà chửi bới ầm ĩ, nhưng cũng chẳng thấm vào đâu.

Ngay sau đó, bọn họ từng người một bước lên, vung gậy dùng sức, tất cả đều đánh vào cánh tay, ngón tay, lòng bàn tay của tôi. Tôi gần như có thể nghe thấy tiếng xương cốt gãy lìa, lồng ngực khí huyết cuộn trào, cố gắng giãy giụa muốn thoát ra, song bọn họ túm búi tóc tôi, ép tôi phải đối mặt. Sau đó tôi thấy họ nhét cây gậy vào tay Phạm Khiêm. Hắn co rúm giữa đám đông, ánh mắt lạnh lùng mà oán hận.

Tôi lập tức lắc đầu với hắn, hy vọng hắn còn nhớ tình huynh đệ trước đây: "A Khiêm, đừng giống bọn họ."

Phạm Khiêm ấp úng không nói nên lời, lại bị một tên đẩy mạnh một cái, tên đó cười khẩy: "Phạm Khiêm, ngươi tới đi, đừng có như đồ thỏ đế!"

Tôi lại lắc đầu cầu xin, vậy mà ánh mắt Phạm Khiêm càng thêm sắc lạnh, bị đẩy đưa về phía trước, ngay lập tức gậy gỗ được giơ lên cao, rồi vận hết sức giáng mạnh xuống cánh tay tôi. Khoảnh khắc đó, dường như mọi tình nghĩa ngày xưa đều tan biến, bao trùm lấy tôi chỉ còn nỗi tuyệt vọng và bi phẫn vô tận.

Tôi không thể tin nổi mà giương mắt nhìn hắn, người đệ đệ trên danh nghĩa, giọng khản đặc hỏi: "Phạm Khiêm, rốt cuộc ta đã có lỗi gì với ngươi?"

Nhưng hắn không nói gì, tôi đột nhiên thấy có người cầm đèn từ xa chạy tới, trong tiếng ồn ào, cả đám tan tác như bầy khỉ, chỉ còn lại Phạm Khiêm và tôi xa xa đối mặt. Bị Giám chính xua đuổi, hắn mới hoàn hồn, nhanh chóng chạy đi. Tôi níu lấy vạt áo Giám chính, cố gắng cầu xin: "Xin Giám chính... hãy đòi lại công bằng cho học trò..."

Giám chính ngẩn ra, đỡ tôi dậy, giọng đầy tức giận, quát: "Phạm Bình, gây ra chuyện thế này, ngươi cũng khó mà chối tội!"



---

Editor: Chương trước quên nói, nhắc lại nếu có ai quên, hint thân phận của Diệu Chân là ở chương 15, con ruột của Lâm nương tử, con nuôi của Lưu nương tử, giờ mò đọc lại mới phát hiện HE kkk 🤣


Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Com