Chương 3
Bước nửa chân vào gian trên tôi đã thấy Ông Đàm bà Thêu cười tươi rói đứng sát ngoài lối vào, tay bắt mặt mừng đối đáp dăm ba câu khách sáo với quan khách. Ông Đàm cao hơn bà nhà một cái đầu, dáng bệ vệ, bụng bia béo húp, hai cái má đỏ hồng trông khỏe mạnh vô cùng. So với danh thương nhân thì "thầy tôi" giống tham quan còn hơn cả tham quan thật. U thì vóc dáng thấp bé, đứng chỉ đến vai thầy nhưng vòng nào vòng nấy đẫy đà đúng tướng "vượng phu ích tử" trong truyền thuyết. Nhìn cả thầy cả u đều "đầy đặn" thế này, chắc cô Kim Hương thật trên trời cũng yên tâm lắm đây.
Tiệc rằm tháng hai vốn được xem là dịp đãi nguyệt lớn, chỉ xếp sau Trung Thu một bậc, thành thử ra thầy u cũng ăn vận khác hẳn so với mọi khi: Nếu ngày thường lòe loẹt một thì giờ đấng phụ mẫu phải "chơi" gấp đôi như thế!
Nói thật, tôi cũng khó hiểu sao u tôi mang tiếng là thợ vải lành nghề nhất nội đô mà cách ăn vận thì... Chỉ thiếu vài đường tua rua kim tuyến sau cạp váy là u không thua mấy con công, con trĩ tôi có dịp thấy qua trong sở thú. Người gì đâu mà lạ đời, cứ như thể có cái gì đẹp, cái gì lóng lanh long lanh là u tôi phải quấn lên mình cho kỳ được: Cái cổ mấy ngấn mỡ của u đeo đến hai chiếc kiềng vàng, lại thêm một dây anh lạc (1) nạm ngọc trai quý hiếm. U cũng búi tóc cao trên đỉnh đầu như tôi, nhưng khác ở chỗ búi tóc của u xòe to như dáng rẻ quạt. Thêm nữa, trên đầu u hiện giờ gần như không còn thấy khoảng trống nào cả, đâu đâu cũng phải gắn thêm trang sức: Ba bốn cái trâm vàng chạm trổ cầu kỳ, rồi thêm một cái gài tóc tạo dáng nhành mai; dường như còn chưa thấy đủ, u tôi kết thêm dải hoa hòe với một dải lụa màu tím sậm (2). Nếu có con ong nào quanh quẩn trên đầu u tôi rồi vướng luôn ở đó thì tôi cũng chẳng lấy làm lạ.
Quay qua thầy tôi thì ôi thôi! Thà cứ nhắm mắt vào cho lành. Không biết đứa ác ôn nào phối cho thầy cái áo màu tím thẫm thâm sì làm làn da màu ô liu của thầy tôi tối sầm lại. Trông có khác gì vừa mới vượt quỷ môn quan về không hả trời? Mà đã áo tím thẫm rồi thì cũng thôi đi, thế nào mà chi tiết hoa văn trên áo lại toàn thêu hoa lá hẹ đủ màu sắc rối rắm. Thầy chắc cũng ganh tị với u nhiều phụ kiện trang sức hay sao mà tay nào tay nấy cũng đeo bốn, năm cái nhẫn nạm ngọc. Chưa kể đai thắt lưng cũng lủng lẳng mấy thứ túi gấm, ngọc bội ánh màu sáng loáng.
Chả lẽ thầy u sợ người ta chưa biết nhà mình giàu hay sao?
Tôi hít một hơi thật sâu, vờ như đui mù, thẳng lưng ưỡn ngực bước dọc một đường tới gần thầy u, nhẩm lại lời thoại "kịch hơn cả kịch" ở trong đầu.
– Thưa thầy thưa u, giờ con mới sửa soạn xiêm y cho thực chỉnh tề, chẳng hay thầy u còn cần con phụ đỡ gì chăng? – Tôi ngừng một lát, cố nín thở bởi hương bưởi nồng nặc đang xộc thẳng lên mũi, rồi lại nở một nụ cười thùy mị. – Y phục sớm nay của thầy u thực trang trọng, nãy quan khách đi qua cứ tấm tắc khen mãi.
– Thật đó ư? Là bậc văn nhân nào thế? – Mặt u tôi tươi hơn hoa, vừa bất ngờ lại vừa cười cười thẹn thùng.
Khác với u, thầy tôi không dễ xiêu lòng bởi mấy câu nịnh đầm, chưa để tôi đáp lời đã quở ngay:
– Hai đứa làm gì mà chậm chạp lâu la lề mề thế hở? Cái Mai không biết phụ đỡ cô mày hay sao mà giờ này mới thấy chường mặt ra? Quan khách người ta ngồi đợi từ nãy đến giờ, thân là gia chủ lại trễ hẹn, thể diện nhà này biết để đi đâu? – Hai hàng lông mày của thầy nhíu chặt, mặt mũi hầm hầm tức giận.
– Bẩm thầy, xin thầy thứ tội. Lỗi lầm gì cũng đều do con mà ra. Sớm nay con bỗng hoa mày chóng mặt, nhờ Mai xức ít dầu thơm con mới tỉnh táo đi lại được. Mai khuyên con cứ nằm nghỉ ngơi mà con lại không muốn lỡ dở tiệc của thầy u nên cố gượng dậy đi cho kịp giờ lễ. Xin thầy có trách thì cũng chỉ trách cái thân con ốm yếu quá, chẳng thể nhanh nhẹn xông xáo đỡ đần thầy u cho đặng.
Tôi nói xong u cũng xuôi xuôi, quay sang khuyên nhủ đức ông chồng khó tính của bà tha lỗi cho đứa con nhỏ dại. Hai hàng lông mày của thầy lúc bấy giờ mới giãn ra. Còn cái Mai thì đang trợn tròn mắt sợ hãi nhìn tôi điêu trá nãy giờ.
Xời, dăm ba mấy cái vụ viện cớ trốn học, nghỉ làm này thì thầy u đỡ sao nổi với người làm công ăn lương lại còn là sinh viên đại học năm cuối như tôi được chứ?
Qua ải chào hỏi đầu ngày, tôi nép sang một bên cùng phụ đón khách với thầy u. Việc cũng không có gì nặng nhọc, chỉ có đứng nhún nhún mỉm cười rồi chào mồi theo là được. Đứng hơi mỏi chân, lại nữa thời này người ta không hay đi giày dép mà chỉ đi chân trần, nên tôi cứ thấy là lạ không quen (3). Được một chốc thì u bảo tôi nếu mệt thì cứ vào trong nghỉ ngơi, thành thử tôi cũng ngoan ngoãn nghe lời xin lui. Dù sao cũng chỉ cần ra mặt cho có lúc vời khách và làm lễ vái gia tiên, đằng nào cũng còn gia đình anh cả, anh thứ phụ giúp nữa mà.
Tiện tìm được một chiếc chiếu cạp điều xếp góc nhà chưa có ai ngồi, tôi yên vị rồi bảo cái Mai rót cho mình chén nước vối:
– Ồ, bức hoành phi (4) kia lại đổi rồi à Mai?
– Vâng cô, ông mới sắm được bức mới, xin chữ từ thầy đồ Ân ở thôn Đoài đấy ạ. Sắp tới hai câu đối cũng thay lại luôn.
Mấy người họ hàng xa khi nãy nói cũng chẳng ngoa, tôi lắc đầu tặc lưỡi một cái trong khi nhìn lên tấm hoành phi sơn son thếp vàng cứ hai ba tháng lại được đổi một lần.
Hồi mới xuyên không vào xác cô Kim Hương, trông thấy tư gia "nhà mình" tôi cũng thầm khóc thét trong lòng. Thật không biết phụ ấm có tham nhũng hay làm ăn phi pháp gì không mà đào đâu ra lắm của nả thế?
Nói đâu xa xôi riêng cái sảnh chính khu thờ tự này đã đổ một đống vàng bạc vào rồi: Tủ thờ phải rộng đến ba mét, khắc chạm đủ thứ dây hoa sen mạ vàng. Trên ban đặt đối xứng hai giá nến mạ đồng hình ông hạc cưỡi rùa. Bình thường ban thờ đã đủ thức quà thức bánh, nay có tiệc còn đầy hơn gấp bội: Một phần là u chuẩn bị, phần khác là khách khứa tới đem biếu tặng. Thoáng chốc mấy mâm oản, mâm ngũ quả, mâm trầu cau têm cánh phượng đã bày kín mặt ban trên mà tràn xuống các khay, các rương đặt ở sập gụ bên dưới. Lại nói chiếc sập gụ trước mặt bàn thờ, u tôi đặt thêm một cái mõ, lại còn vài tấm nệm nhỏ cho tiện việc ngồi đọc kinh buổi sáng. Xếp hai bên là hai lọ lục bình sứ cỡ lớn, men ngọc lam ẩn chìm những đường nét hoa văn phong cảnh hữu tình, cả hai lọ đều cao hơn tôi một cái đầu. Ngước lên trần nhà, cứ một gian lại treo hai hộp đèn bọc gấm thêu hoa được chế tạo riêng bởi các nghệ nhân nổi tiếng. Đó là còn chưa nhắc tới những đồ trang trí, đồ sưu tầm độc bản trong nhân gian như tấm bình phong tố nữ nhà Gia Bình, đôi bức tranh khắc gỗ, tủ đồ, kệ sách, thảm trải da hổ, vải thổ cẩm la liệt trong nhà. Dù mấy thứ kỳ trân dị bảo này đứng cạnh nhau trông chả ăn nhập gì cả, nhưng nhìn thoáng qua cũng đủ để người ta trầm trồ về gia thế của chủ nhân nó.
Giàu sụ như vậy cũng bởi hai ông bà nhà cô Kim Hương chẳng phải hạng thương lái tầm thường. Bà Thêu, tức u cô Kim Hương, vốn là con gái của thợ lành nghề nức tiếng bậc nhất làng Dâu (5). Từ khi vua ban tên Nghĩa Đô cho làng, năm đời nhà u đã làm nghề nuôi tằm dệt lụa, nhuộm vải, các cô các cậu trong họ hàng đàng ngoại không ít người là nghệ nhân vào cung theo hầu vua chúa. Mỗi cuối năm, làng nghề của u lại được yêu cầu cống thành phẩm vào trong triều đình, đến cũng phải cả trăm thước vải lụa tơ tằm. Lại nữa, các vương tôn công tử hay tiểu thư cành vàng lá ngọc trong nội đô vẫn thường năng tới đặt riêng y phục tại tiệm vải vào mỗi dịp lễ tết quan trọng, ấy là phải gửi gắm và tin tưởng lắm mới được như vậy. Vốn đã có tên tuổi như thế, lại thêm gia thế nhà thầy tôi khi xưa có công với triều đình, được tiên vương cấp cho mấy mẫu đất mẫu ruộng nên thầy u vốn có sẵn của ăn của nả lại càng ăn nên làm ra. Một loạt các tiệm vải Đàm Thịnh cứ thế ra đời nằm rải rác quanh các khu chợ sầm uất bậc nhất kinh thành. Đến chốn Thăng Long Kinh Kỳ này, chỉ cần nhắc tới ông Lý Văn Đàm và bà Nguyễn Kim Thêu là kiểu gì người ta cũng biết tới hai ông bà có tài buôn bán, biết cân đo đong đếm lại còn có một loạt tiệm vải, may y phục thượng thừa.
Mỗi tội thứ người ta đàm tiếu nhất về nhà tôi vẫn là cái tư gia to tổ chảng với đủ món đồ kỳ trân dị bảo này mà thôi.
Tôi ngồi không cho đến khi nắng lên đứng sào. Chờ đến gần chính Ngọ thì họ hàng cũng gọi là có mặt đông đủ, thầy u tôi cũng cho vời quan khách lên gian trên để bắt đầu làm lễ buổi sáng.
Chẳng mấy chốc mà ai nấy đã xếp thành hàng thành dãy trật tự. Bậc trưởng bối lão thành thì ngay ngắn đứng hàng đầu, tiếp tới là đàn ông con trai theo thứ bậc trong gia phả, cuối cùng mới đến các mệnh phụ phu nhân, nữ tử chưa chồng xếp phía sau. Riêng thầy u tôi là gia chủ cũng như chủ tiệc thì được đặc cách cùng hàng với bậc trưởng bối trong nhà, chỉ xếp sau mỗi một sư cụ mặc áo cà sa đỏ đang tụng kinh gõ mõ (6).
Mùi hương nhang thơm nồng trong tiếng ê a không nghe rõ nghĩa. Đầu tôi bắt đầu quay quay và nước mắt thì tèm nhèm vì buồn ngủ. Hồi ở thời hiện đại tôi vốn đã chả nghe được bài kinh nào cho ra hồn, thế mà xuyên không về đúng cái thời đại chuộng Phật giáo nhất, báo ứng của tôi đây mà.
Mãi một lúc, không biết tôi đã rơi vào giấc ngủ trắng mấy bận thì sư cụ mới gõ thêm một tràng mõ dài như khi bắt đầu. Thoáng thấy dấu hiệu buổi lễ sắp kết thúc chỉ còn vái tạ nữa là xong, tôi vội vàng nháy nháy cái Mai bên cạnh. Nhưng con bé không hiểu ý, cứ nhíu mày nhăn mặt lắc đầu. Hết cách, tôi kéo tay nó, dúi người nó lại gần mình mà thì thầm.
– Tùy cơ ứng biến nhé.
Biểu cảm trên mặt cái Mai thay đổi hẳn, mặt nó biến sắc trắng bệnh.
Hiểu ý tôi rồi đấy!
Tôi thả tay con bé ra rồi quay người lên trên, chọn đúng thời điểm vàng mọi người đang vái tạ, rút cái túi gấm đựng đầy bồ kết dắt ở đai lưng khi nãy, bọc vào một miếng khăn tay rồi dí sát mũi. Tàn tro và mùi bồ kết ám khói hăng hắc xộc thẳng lên óc. Vốn đã ốm và tiền sử hen suyễn bấy lâu nay, thêm cái thứ này thì cứ phải gọi là... Chẳng độ một giây tôi đã ho sù sụ không ngừng được, nước mắt nước mũi cứ thế tuôn ra như thác. Tuy vậy, hình như thứ này có vẻ chưa đủ đô như tôi nghĩ, tôi ấn mạnh thêm lần nữa cái khăn tay vào mũi. Vị cay nồng xồng xộc ngay khi còn chưa dứt tràng ho làm họng tôi bỏng rát tắp lự. Tiếng ho cũng càng lúc càng nặng nề, cơn khó thở bắt đầu xâm chiếm, tôi cố hít vào nhưng mũi đã nghẹt cả lại. Mang tiếng diễn thì phải diễn cho trót, ngó thấy mọi ánh mắt đã đổ dồn sang phía này, tôi giả vờ che miệng rồi dí thêm lần cuối cái túi gấm vào mũi. Lần này cơ thể tôi không trụ được nữa, tôi gập mình ôm bụng cúi sát sàn nhà, miệng nôn khan liên tục rồi thế nào mà lại ho ra một búng máu. Thoáng chốc sàn gỗ trước mặt mờ tịt, xung quanh tôi nghiêng ngả chao đảo hết cả. Tiếng thất thanh của cái Mai văng vẳng bên tai, tôi thầm khen cho con mắm này. Diễn được lắm con ạ!
– Cô ơi! Cô! Cô ơi!
***
– Bạch thầy, – Tiếng nấc nghẹn vang lên. – ... Dạ bạch thầy xin cho hỏi... hức... con gái tôi...
Mở mắt ra đã thấy u đang khóc hết nước mắt ngồi bên sập gụ, nức nở mãi không thành câu. Người ngồi đối diện quả nhiên là thầy lang tôi đã sắp đặt sẵn:
– Bệnh tình tiểu thư giờ đã ăn vào máu, vào lục phủ ngũ tạng e rằng chữa trị đà chẳng kịp nữa. May ra chỉ có thể kéo dài sự sống được chừng nào hay chừng đó. Thôi thì ông bà để cô nhà tịnh dưỡng một thời gian, thay đổi chỗ ở, hoặc cho cô năng đi lại thăm thú đây đó một phen. Tôi mạn phép khuyên hai vị để cô ra ngoài ven đô, đất đai thổ dưỡng, không khí cây cối trong lành nơi đó sẽ hợp với cô nhà đây. Tôi cũng kê thêm mấy thang thuốc bổ, nếu giời có thương thì bệnh tình của tiểu thư sẽ thuyên giảm hơn được mấy phần. Không chữa được dứt bệnh nhưng chí ít trong người cũng không bị quấy quả mệt mỏi nữa.
Nghe thầy nói xong, u tôi lại rú lên nức nở.
Ngó ra bên ngoài, trước bàn trang điểm thầy tôi cũng gục đầu xoa cằm bóp trán.
Nằm trong lớp màn trướng, tôi không khỏi cười thầm đắc ý, đúng là không phụ công tôi mấy nay suy tính.
Chuyện là từ mấy hôm trước tôi đã muốn ra ngoài ở riêng, mà cụ thể là tá túc ở căn nhà sát ven đô của thầy u, nhưng mà chưa tìm được cái cớ nào hoàn hảo. Vừa hay có tiệc đãi nguyệt nhân rằm, tôi mới tương kế tựu kế sắp sẵn vở kịch này. Kịch bản là tôi sẽ ngất xỉu ngay khi vừa làm xong lễ gia tiên, đặc biệt phải trước đông đủ quan khách. Một mặt, tôi vời sẵn một thầy lang, đút cho ít tiền để người này nói đúng ý tôi: Khuyên thầy u đưa tôi ra ngoài ở tịnh dưỡng mấy tháng. Mặt khác, tôi nhờ người phao tin tôi mắc bệnh truyền nhiễm. Thêm sự vụ "mắt thấy tai nghe" ở tiệc đãi nguyệt lần này, tôi chẳng cần phải mồi người ta cũng tự khắc đồn ầm lên rằng "ông bà ông vải sắp gọi cô Kim Hương về chầu trời bởi một thứ bệnh lây lan tai quái". Cỡ này thầy u kiểu gì cũng phải tìm cách đưa tôi đi cách ly càng sớm càng tốt.
Sáng nay may mắn thế nào lại có đứa hầu đốt bồ kết với vỏ trấu, tiện cho tôi có thêm đạo cụ để diễn chân thật hơn. Lỡ chẳng may có sểnh ra bị phát hiện cái túi gấm xông mũi thì cũng không ai nghi ngờ tự tôi hại mình, có chăng chỉ là dại dột vớ nhầm quả với tro bồ kết mà thôi.
Nhác thấy vở diễn đã tới hồi kết, để thêm tấn bi kịch cho gia đình, tôi cũng nức nở theo u:
– U... U ơi... Con... con... con không muốn xa thầy u đâu...
U tôi thấy tôi đã tỉnh, vội vén rèm lại gần sờ trán tôi. Tay u mềm mà ấm, gương mặt u lại hệt như mẹ tôi, đến tính cách cũng giống bảy tám phần. Không phải vì cái thời đại phong kiến khó sống quá, đi một mét người ta đánh giá mười người "hàng real" như thế này thì tôi cũng chẳng muốn phải ra ở riêng. Thôi thì trước khi bị xử trảm hoặc bị dân làng nọc ra đánh, cạo đầu trôi sông thì tôi phải tự cứu mình cái đã. Xin lỗi u vì con gây phiền lòng cho u, xin lỗi cô Kim Hương vì không thay cô làm tròn đạo hiếu tử cho được.
– U biết rồi, khốn nạn cái thân con tôi! Giời ơi là giời! Tôi ăn ở làm sao mà khổ con khổ cái thế này hả giời? – U vừa nói vừa đấm thùm thụp vào ngực, nước mắt nước mũi tèm lem, chẳng còn đâu dáng mệnh phụ ban nãy. – Thôi con ơi hãy nín, chuyện đâu còn có đó. U đã đi xem số mệnh cho con, tất cả là bởi lá số của con phạm phải sao Thái Bạch, nhân năm nay lại đúng năm hạn tháng hạn gặp phải oan gia trái chủ, muốn hóa kiếp tai ách chỉ có thể kết duyên cùng với con trai thứ nhà Thị lang Bộ Lễ (7). Thầy tử vi cũng đã nói rồi số mệnh hai đứa càng tách riêng ra lâu thì kiểu gì một trong hai cũng đoản thọ, đi chầu ông bà ông vải sớm thôi. Con cứ yên tâm ở đây với thầy u, thầy u sẽ tìm cách kết thông gia với nhà người ta. Thị lang cũng đã ưng ý chuyện này từ lâu, mấy lần vời bà mai sang nhà ta dò hỏi thưa chuyện. U sẽ cố cho hôn sự thành trong nay mai thôi, rồi con sẽ không sao đâu. Ôi, Kim Hương con ơi... Trách ông trời sao chẳng có mắt mà hành con ra nông nỗi này, lòng u đau như cắt con ạ.
U rấm rứt thêm một tràng, mãi sau mới quay ra trách thầy tôi.
– Ông thấy chưa? Tôi đã bảo rồi, lấy sớm đi thì con bé có phải khổ thế này không? – Rồi u lại hướng về phía thầy thuốc, chấm nước mắt mà rằng. – Thôi thầy ạ, số giời đã định Kim Hương nhà tôi không thể tìm tới thuốc thang được nữa thì đành cậy nhờ cửa khác. Cảm tạ thầy hôm rày đi qua cứu khổ cứu nạn cho nhà tôi, có ít bạc vụn thay lòng thành xin thầy nhận cho. – Nói rồi u rút ra hai xâu tiền đồng dài bằng cả gang tay đưa cho thầy.
Chỉ thấy tên lang băm tôi vời sẵn vừa chạm vào xâu tiền đã đứng phắt dậy, kính cẩn chào thầy u rồi bước một mạch ra khỏi phòng.
Ơ, ơ kìa? Sao cái tên kia đã đi về rồi? Phải nói tiếp như kịch bản của tôi chứ! Ơ hay? Alo, thầy ơi?
Tôi ngó ra thì cái vạt áo xếp màu thẫm của thầy lang đã biến mất dạng sau cánh cửa từ lúc nào.
Cái quái gì đang xảy ra vậy?
U tôi lúc này vén rèm ngồi sát mép giường trìu mến nhìn tôi. Nếu có cái gương soi ở đây thì tôi cá chắc mặt mình đang thảng thốt lắm.
– Sợ nói trước bước không qua, thầy u chưa dám chắc với con điều gì nhưng con cứ tin u. – U kéo hai tay tôi rồi ôm lấy vỗ về. – Con cứ yên tâm tịnh dưỡng, chớ suy tư mà phiền não nhọc thân, thầy u sẽ không để con có mệnh hệ gì đâu.
Tôi nhìn u mà nước mắt lưng tròng, nắm chặt tay u khẽ khàng nhắm mắt gật đầu ngoan ngoãn.
"Mẹ kiếp!"
Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Com