DẪN NHẬP TỔNG QUÁT CÁC THƯ CỦA THÁNH PHAO-LÔ
Dẫn nhập Lời Chúa Cho Mọi Người
Ngay từ đầu, Hội Thánh đó đây đã cẩn thận bảo tồn những thư tín thu nhận từ các Tông Đồ, bởi vì nhận thấy các ngài là những chứng nhân đức tin được Thiên Chúa tuyển chọn. Tuy nhiên vào thời ấy, công việc thu thập các tài liệu này khó khăn hơn ngày nay, ngay cả việc cứu khỏi ẩm ướt các bản giấy cói cũng khó hơn, vì đó là chất liệu rất dễ bị hư hại.
Rất sớm, đã có một sưu tập đầu tiên gồm bảy lá thư đầu của thánh Phao-lô, xếp theo thứ tự dài trước ngắn sau : bốn thư "lớn" là các thư gửi tín hữu Rô-ma, Cô-rin-tô và Ga-lát, và các "ngục thư" nghĩa là các thư viết trong tù. Thêm vào sau là các thư khác, thứ nhất là hai thư gửi tín hữu Thê-xa-lô-ni-ca, thật ra là những thư xưa nhất, rồi đến các thư được đưa vào với sự bảo trợ của thánh Phao-lô : các thư gửi ông Ti-mô-thê và ông Ti-tô, được viết vài ba chục năm sau ; và lá thư tuyệt vời gửi cho người Híp-ri ("thư Híp-ri"), mà người ta không biết tác giả là ai tuy có thể nói ông này đã ngồi viết bên cạnh thánh Phao-lô.
Có một cụm từ trong "thư thứ hai của thánh Phê-rô", không phải do chính thánh Phê-rô viết nhưng là khoảng năm chục năm sau khi ngài mất, cho chúng ta thấy rằng ngay từ thời đó các thư của thánh Phao-lô đã được kể vào số các Sách Thánh được linh hứng (2 Pr 3,15-16).
Thánh Phao-lô tự xem mình là "tông đồ các dân ngoại", lấy đó làm ơn gọi riêng của mình, bên cạnh thánh Phê-rô là người được Thiên Chúa uỷ thác trách nhiệm loan báo Tin Mừng cho giới người Do-thái, không những ở Pa-lét-tin, mà còn trong khắp đế quốc Rô-ma, bất cứ nơi nào những người này định cư. Thánh Phao-lô đã nhận sứ vụ ấy từ chính Chúa Giê-su, khi ngài trở lại (Cv 22,21 ; Gl 2,7). Trong kế hoạch Thiên Chúa liên quan đến sứ mạng của Hội Thánh và làm cho Hội Thánh ngày càng lan rộng, sứ vụ của thánh Phao-lô đã chiếm một vị thế trọng yếu đến nỗi nó không chấm dứt với cái chết của ngài. Tinh thần của thánh Phao-lô, một trong những vị biểu lộ rõ nét nhất tinh thần của Chúa Giê-su, mãi tác động trong thế giới chúng ta qua các lá thư của ngài.
Dẫn nhập KINH THÁNH 2011
Trong số các tác giả Tân Ước, thánh Phao-lô là nhân vật chúng ta biết rõ nhất, nhờ sách Công vụ Tông Đồ và các thư của ngài.
Công vụ Tông Đồ và thư Phao-lô là hai nguồn văn độc lập, nhưng xác nhận và bổ túc cho nhau, mặc dù có nhiều chi tiết khác biệt. Thánh Truyền đã để lại cho chúng ta mười bốn thư. Xét chung, các thư này được coi là của thánh Phao-lô. Quy điển công giáo sắp mười bốn thư đó theo thứ tự dài trước ngắn sau, trùng hợp với tầm quan trọng lớn hay nhỏ của người nhận thư, tập thể trước, cá nhân sau. Thư gửi tín hữu Híp-ri được đặt cuối cùng vì người ta không rõ tác giả là ai, chỉ biết chắc chắn không phải là thánh Phao-lô.
Đối chiếu những sự kiện ghi lại trong sách Công Vụ với các biến cố lịch sử, đặc biệt thời ông Ga-li-on làm thống đốc Cô-rin-tô (Cv 18,12) và ông Phét-tô đến thay thế ông Phê-lích (Cv 24,7 – 25,1), chúng ta có thể xác định một số thời điểm, để lập một bản niên đại tương đối chính xác về cuộc đời thánh Phao-lô :
+ khoảng 10 CN : Sinh tại Tác-xô xứ Ki-li-ki-a, trong một gia đình Do-thái, thuộc chi tộc Ben-gia-min, đồng thời là công dân Rô-ma. Đến Giê-ru-sa-lem rất sớm, theo học ông Ga-ma-li-ên thuộc phái Pha-ri-sêu. Vì vậy, sau này ngài kịch liệt ngược đãi Hội Thánh mới hình thành.
+ khoảng 30 CN : Đức Giê-su chết và phục sinh.
+ khoảng 36 : Thánh Tê-pha-nô tử đạo. Thánh Phao-lô có tham gia vụ án này.
+ 36 : Trên đường Đa-mát, Đức Giê-su hiện ra và trao cho ngài sứ mạng làm Tông Đồ các dân ngoại. Ngay sau đó, ngài bắt đầu công cuộc rao giảng Đức Giê-su Ki-tô.
+ 39 : Lên Giê-ru-sa-lem gặp các Tông Đồ lần đầu tiên ; trở về Xy-ri, Ki-li-ki-a, rồi sau đó qua An-ti-ô-khi-a với thánh Ba-na-ba.
+ 45 – 49 : Chuyến đi truyền giáo đầu tiên : Sýp, Pam-phi-li-a, Pi-xi-đi-a và Ly-cao-ni-a. Ở đây, ngài bắt đầu được gọi là Phao-lô (tên La-tinh) ; về sau, tên này thường được dùng hơn là Sao-lô (tên gốc Do-thái).
+ 49 : Dự Công Đồng Giê-ru-sa-lem. Tại đây, có lẽ nhờ ảnh hưởng của ngài, các Tông Đồ quyết định không buộc người Ki-tô hữu gốc ngoại phải giữ luật Do-thái ; đồng thời, các ngài cũng công nhận thánh Phao-lô làm Tông Đồ các dân ngoại.
+ 50 – 52 : Chuyến đi truyền giáo lần thứ hai : ngài lưu lại Cô-rin-tô hơn mười tám tháng, viết hai thư 1 Thê-xa-lô-ni-ca và 2 Thê-xa-lô-ni-ca (50 – 51).
+ 53 – 58 : Chuyến đi truyền giáo lần thứ ba : – hơn hai năm tại Ê-phê-xô ; viết thư Phi-líp-phê (56-57), thư 1 Cô-rin-tô (Vượt Qua 57), – một năm tại Ma-kê-đô-ni-a : viết thư 2 Cô-rin-tô (mùa thu 57), và có lẽ thư Ga-lát cũng được viết tại Ma-kê-đô-ni-a, – hai năm tại Cô-rin-tô ; viết thư Rô-ma (mùa đông 57-58).
+ 58 : Bị bắt tại Giê-ru-sa-lem.
+ 58 – 60 : Bị giam tại Xê-da-rê Pa-lét-tin.
+ mùa thu 60 : Bị giải về Rô-ma và giam tại đó. Viết các thư Cô-lô-xê, Ê-phê-xô và Phi-lê-môn.
+ 63 : Được miễn tố và trả tự do.
+ 63 – 66 : Các năm hoạt động cuối cùng. Viết các thư Ti-tô và thư 1 Ti-mô-thê.
+ 66 : Bị bắt giam tại Rô-ma lần thứ hai ; viết thư 2 Ti-mô-thê.
+ 67 : Tử đạo tại Rô-ma.
CÁC THƯ
Người ta chia các thư thánh Phao-lô thành ba loại :
– các thư "lớn" : Gl, 1 và 2 Cr, Rm, 1 và 2 Tx. Nội dung xoay quanh các đề tài lớn như ơn công chính hoá, Ngày Quang Lâm của Đức Giê-su, các vấn đề mà cuộc sống hằng ngày đặt ra cho các tân tòng và các Hội Thánh mới được thành lập.
– các thư viết trong tù : Cl, Pl, Ep và Plm. Vấn đề nổi bật là phải hiểu vai trò của Đức Ki-tô trong vũ trụ và lịch sử như thế nào. Do đó, các thư này có tính chất "quy Ki-tô". Ngoài ra, trong các thư đó, chúng ta còn cảm thấy tác giả lo âu trước những thuyết khắc kỷ sai lầm, khiến ngài phải cố vạch ra một lối sống Ki-tô giáo toàn diện.
– các thư mục vụ : 1 và 2 Tm và Tt. Cả ba thư cho thấy thánh Phao-lô rất bận tâm với các cộng đoàn đang sống giữa những trào lưu tiền ngộ đạo (pré-gnostiques). Vì thế, và đồng thời cũng vì linh cảm "cuộc ra đi" của mình đã gần kề (2 Tm 4,6), nên ngài đã ra những nguyên tắc lãnh đạo cộng đoàn cho hai môn đệ Ti-mô-thê và Ti-tô.
XÉT VỀ THỂ LOẠI
Thư Phao-lô là những bản văn được viết ra để đáp ứng những hoàn cảnh cụ thể. Đó không phải là những luận đề thần học, nhưng là những suy tư để đáp ứng những vấn đề cụ thể của thời đại. Do đó, có những chỗ tối nghĩa và một vài đoạn ám chỉ những thực tại mà hiện nay chúng ta không biết rõ. Khi viết, tác giả lại theo những công thức thông dụng thời bấy giờ (Rm 1,1), nên các thư không hoàn toàn có tính cách riêng tư, cũng không hoàn toàn có tính cách văn chương : đó là loại trần tình mà thánh Phao-lô gửi đến những độc giả cụ thể, và qua họ, đến mọi Ki-tô hữu. Ngài không nghiên cứu vấn đề như người trí thức lập ra một học thuyết. Vậy không nên coi các thư đó như một văn tập trình bày quy mô và đầy đủ tư tưởng của ngài, mà như những bản ghi lại sứ vụ Tông Đồ của ngài thôi. Nên biết rằng đàng sau các thư là lời rao giảng sống động, còn chính các thư chỉ là những lời bình luận về điểm nọ điểm kia.
Dù vậy, thư Phao-lô vẫn là vô giá, vì đề cập đến rất nhiều vấn đề và trình bày thật phong phú, giúp chúng ta thật sự tìm thấy cốt tuỷ thông điệp của thánh nhân. Tuy tiếp xúc với những đối tượng khác nhau, ngài vẫn đưa ra một giáo lý căn bản duy nhất, chung quy nói về Đức Ki-tô chết và sống lại. Suốt cuộc đời tận tuỵ lo cho mọi người, thánh Phao-lô đã thích nghi, khai triển và làm cho giáo lý đó ngày càng thêm phong phú (1 Cr 9,19-22). Sự tiến triển nhất quán này đã đưa tư tưởng thần học của ngài đến mức sung mãn, biểu lộ rõ nhất trong thư Ê-phê-xô.
BỐ CỤC CHUNG CÁC THƯ
Các thư thánh Phao-lô được viết theo kiểu đương thời. Đại khái bố cục như sau :
– lời mở đầu gồm :
+ tên người viết và người nhận thư,
+ lời cầu nguyện, tạ ơn và chúc tụng ;
– phần giáo lý và khuyến dụ, đề cập đến những đề tài giáo lý chính yếu cũng như những chỉ dẫn thực hành trong đời sống ;
– lời chào kết thúc.
Tuy theo những công thức xã hội vẫn quen, nhưng thánh Phao-lô đã làm cho các thư của ngài mang những nét đặc sắc của Ki-tô giáo, nhờ bản lĩnh và tài năng của ngài, như ta sẽ thấy trình bày trong phần dưới đây.
TÁC GIẢ : Con người và sứ vụ Tông Đồ
Thư Phao-lô và sách Công vụ Tông Đồ phác hoạ những nét thật đặc sắc, gây ấn tượng sâu đậm về bản lĩnh của thánh Phao-lô.
Thánh Phao-lô là con người đầy nhiệt huyết, biết xả thân cho một lý tưởng mà không hề tính toán. Lý tưởng của ngài, căn bản là Đạo. Đối với ngài, Thiên Chúa là tất cả, và ngài thờ Thiên Chúa với tấm lòng trung thành tuyệt đối. Chính bởi thế, lúc đầu, ngài bắt bớ các Ki-tô hữu vì cho họ là những kẻ lạc đạo (1 Tm 1,13 ; x. Cv 24,5.14), sau ngài lại rao giảng Đức Ki-tô, vì được mặc khải Người là Vị Cứu Tinh duy nhất. Lòng nhiệt thành vô điều kiện này biểu lộ qua một đời sống quên mình để phục vụ Đấng ngài yêu mến. Ngài không quản nhọc nhằn, đau khổ, thiếu thốn, hiểm nguy (1 Cr 4,9-13 ; 2 Cr 4,8-12 ; 6,4-10 ; 11,23-27), miễn sao hoàn thành được nhiệm vụ (1 Cr 9,16-18). Không gì có thể tách ngài ra khỏi tình yêu Thiên Chúa và Đức Ki-tô (Rm 8,35-39). Nói đúng hơn, mọi gian khổ đều quý giá, vì làm cho ngài được thông phần cuộc Thương Khó và thập giá của Thầy mình (2 Cr 4,10-12 ; Pl 3,10-11).
Vì ý thức mình được Thiên Chúa tuyển chọn để đảm nhận một sứ mệnh đặc biệt, nên ngài mang những hoài bão to lớn. Khi ngài nói lên "nỗi bận tâm ray rứt" lo cho "tất cả các Hội Thánh" (2 Cr 11,28 ; x. Cl 1,24), khi tuyên bố mình đã vất vả nhiều hơn kẻ khác (1 Cr 15,10 ; x. 2 Cr 11,5), khi mời gọi các tín hữu bắt chước mình (1 Cr 11,1 ; 2 Tx 3,7-9), thì không phải vì tự kiêu, mà do niềm tự hào chính đáng và khiêm tốn rất mực của một bậc thánh. Ngài tự cho mình là kẻ rốt hết vì đã ngược đãi đạo Chúa Ki-tô (1 Cr 15,9 ; Ep 3,8), và nhận chân rằng tất cả những điều cao trọng ngài đã thực hiện đều do ân sủng của Thiên Chúa (1 Cr 15,10 ; 2 Cr 4,7 ; Pl 4,13 ; Cl 1,29 ; Ep 3,7).
Tâm hồn đa cảm của ngài dạt dào những tâm tình đối với Đức Ki-tô và các tín hữu. Đối với Đức Ki-tô, ngài tỏ ra say mến, danh hiệu "Giê-su Ki-tô" không ngớt trên môi miệng, dưới ngòi bút của ngài. "Nhờ Đức Ki-tô", "với Đức Ki-tô", và đặc biệt "trong Đức Ki-tô" là những lời xác quyết xuất phát tự đáy lòng và kinh nghiệm sống của thánh Phao-lô. Với tín hữu Phi-líp-phê, ngài đơn sơ và đầy tin tưởng (Pl 1,7-10 ; 4,10-20) ; với tín hữu Ê-phê-xô, ngài thiết tha trìu mến (Cv 20,17-38) ; ngài sôi sục bất bình khi tín hữu Ga-lát muốn chối bỏ đức tin (Gl 1,6; 3,1-3), và ngỡ ngàng khổ sở trước thái độ huênh hoang của tín hữu Cô-rin-tô (2 Cr 12,11 – 13,10). Để trị kẻ hai lòng, ngài mỉa mai khéo léo (1 Cr 4,8 ; 2 Cr 11,7 ; 12,13) và khiển trách nặng lời (Gl 3,1-3 ; 4,11 ; 1 Cr 3,1-3 ; 5,1-2 ; 6,5 ; 11,17-22 ; 2 Cr 11,3 tt). Nhưng ngài làm như thế chỉ cốt để xây dựng (2 Cr 7,8-13), rồi liền sau đó, ngài lại dùng những lời lẽ dịu dàng thấm thía mà an ủi (2 Cr 11,1-2 ; 12,14-15). Ngài coi mình là người ruột thịt của các tín hữu, như người cha duy nhất (1 Cr 4,14 tt ; 2 Cr 6,13 ; x. 1 Tx 2,11 ; Plm 10), như người mẹ dịu hiền (1 Tx 2,7 ; Gl 4,19), mong sao nối lại mối thâm tình thuở ban đầu (Gl 4,12-20 ; 2 Cr 7,11-13) ! Những lời lẽ như thế đã vượt không gian và thời gian, đến với tâm hồn của mọi Ki-tô hữu.
Thật ra, ngài không quở trách đoàn chiên cho bằng những địch thủ đang tìm cách mê hoặc họ. Đó là những người Do-thái chống đối ngài khắp nơi (Cv 13,45-50 ; 14,2.19 ; 17,5.13 ; 18,6 ; 19,9 ; 21,27), hoặc những Ki-tô hữu gốc Do-thái muốn tròng vào cổ những người tân tòng cái ách của lề luật Do-thái (Gl 1,7 ; 2,4 ; 6,12 tt). Đối với họ, ngài chẳng chút nương tay (1 Tx 2,15 tt ; Gl 5,12 ; Pl 3,2). Để chống lại những luận điệu hiếu thắng phàm tục của họ, ngài nêu lên sức mạnh thiêng liêng biểu hiện nơi con người yếu kém (2 Cr 10,1 – 12,12) cũng như lòng chân thành vô vị lợi của mình (Cv 18,3 tt). Có người cho rằng địch thủ của ngài là những Tông Đồ cấp cao ở Giê-ru-sa-lem. Nhưng điều này không có bằng chứng. Đúng ra, đó là những Ki-tô hữu gốc Do-thái có khuynh hướng bảo thủ, tự xưng cùng phe với ông Phê-rô (1 Cr 1,12) và ông Gia-cô-bê (Gl 2,12) để làm mất uy tín của người. Trong thực tế, ngài luôn tôn trọng quyền của các Tông Đồ chân chính (Gl 1,18 ; 2,2), đồng thời cũng đòi phải được coi là ngang hàng với những chứng nhân Đức Ki-tô (Gl 1,11 tt ; 1 Cr 9,1 ; 15,8-11). Có lần ngài đã phải đối đầu với thánh Phê-rô về một điểm đặc biệt (Gl 2,11-14), nhưng ngài vẫn tỏ ra hiếu hoà (Cv 21,18-26), và hết sức lo cho việc lạc quyên giúp người nghèo ở Giê-ru-sa-lem được thành công (Gl 2,10). Đối với ngài, cuộc lạc quyên này là bằng chứng đẹp nhất của tình đoàn kết giữa các Ki-tô hữu gốc ngoại giáo với Giáo Hội mẹ gốc Do-thái (2 Cr 8,14 ; 9,12-13 ; Rm 15,26-28).
Cách chung, lời giảng thánh Phao-lô theo "lời rao giảng tiên khởi" của các Tông Đồ (Cv 2,22 tt), tức là công bố Đức Ki-tô chịu đóng đinh và sống lại theo đúng lời Kinh Thánh (1 Cr 2,2 ; 15,3-4 ; Gl 3,1). Tin mừng "của ngài" (Rm 2,16 ; 16,25) không phải là của riêng ngài, nhưng là nội dung của niềm tin chung (Gl 1,6-9 ; 2,2 ; Cl 1,5-7), với đặc điểm duy nhất là Tin Mừng được rao giảng nhằm đưa dân ngoại vào đạo (Gl 1,16 ; 2,7-9), theo hướng đại đồng đã bắt đầu tại An-ti-ô-khi-a. Về mặt truyền thống, thánh Phao-lô vẫn giữ liên đới với các Tông Đồ mà chắc chắn ngài đã học được, trưng dẫn mỗi khi có dịp (1 Cr 11,23-25 ; 15,3-7) và coi như ai ai cũng biết. Dường như ngài không được giáp mặt Đức Ki-tô khi Đức Ki-tô tại thế (x. 2 Cr 5,16 tt), nhưng đã thấm nhuần giáo huấn của Người (1 Tx 4,15 ; 1 Cr 7,10 tt ; Cv 20,35). Mặt khác, ngài cũng là một chứng nhân trực tiếp, và niềm xác tín có sức lôi cuốn của ngài dựa trên kinh nghiệm bản thân : ngài đã "thấy" Đức Ki-tô lần đầu tiên ở Đa-mát (Cv 9,17 ; 22,14 tt ; 26,16 ; 1 Cr 9,1 ; 15,8) và nhiều lần khác nữa sau đó (Cv 26,16 ; 22,17-21). Ngài được Chúa ban nhiều ơn mặc khải và xuất thần (2 Cr 12,1-4). Những điều ngài đã lãnh nhận từ truyền thống, nói được rằng, đó cũng là do Đức Ki-tô trực tiếp ban cho ngài được thấu hiểu (Gl 1,12 ; 1 Cr 11,23).
Nhiều người muốn coi những kinh nghiệm thần bí của thánh nhân như là hậu quả của một tính khí cuồng nhiệt và bệnh hoạn. Điều này không có căn bản. Cơn bệnh đã khiến ngài dừng lại ở Ga-lát (Gl 4,13-15) có thể chỉ là một cơn sốt rét ; và "cái dằm đâm vào thân xác" ngài (2 Cr 12,7) dường như là thái độ thù địch không ngớt của người Do-thái đối với ngài, làm ngài nhức nhối vì họ, bởi họ là những "anh em đồng bào của ngài, theo huyết thống" (Rm 9,3). Có thể nói ngài không hề mắc bệnh cuồng tưởng, vì ngài chỉ dùng một số ít hình ảnh và là những hình ảnh tầm thường : sân vận động (1 Cr 9,24-27 ; Pl 3,12-14 ; 2 Tm 4,7-8), biển (Ep 4,14) ; còn hình ảnh trồng trọt và xây cất thì ngài thích kết hợp với nhau và đôi khi dùng lẫn lộn (1 Cr 3,9 ; Cl 2,7 ; Ep 3,17 ; x. Cl 2,19 ; Ep 4,16). Đúng hơn, phải nói ngài thuộc hạng người suy tư. Đi đôi với một tâm hồn nồng nhiệt là một khối óc thông minh, sáng suốt, mạch lạc, đòi hỏi, chú tâm trình bày đức tin sao cho phù hợp với hoàn cảnh của thính giả. Nhờ vậy, chúng ta có được những đoạn thư tuyệt vời, trong đó, tuỳ hoàn cảnh, ngài khai triển theo hướng thần học những tín điều ngài đã công bố. Chắc chắn lối suy luận đó không quen thuộc đối với chúng ta. Lắm khi, thánh Phao-lô biện luận theo kiểu các thầy ráp-bi, dùng những phương pháp chú giải ngài đã học từ môi trường sống và nền giáo dục ngài đã hấp thụ (vd. Gl 3,16 ; 4,21-31). Nhưng thiên tài của ngài đã vượt quá di sản ngài đã kế thừa. Qua những lối văn hơi cũ kỹ đối với chúng ta, ngài đã để lại một giáo lý thật sâu sắc.
Hơn nữa, tuy là người Sê-mít, nhưng có lẽ ngay từ thuở thiếu thời, thánh nhân đã hấp thụ một nền văn hoá Hy-lạp vững chắc tại Tác-xô. Nền văn hoá này lại được thêm phong phú nhờ các cuộc giao tiếp thường xuyên với thế giới Hy-La. Tất cả đã ảnh hưởng nhiều đến lối suy tư và ngôn ngữ cũng như bút pháp của ngài. Khi cần, ngài có thể trưng dẫn các tác giả cổ điển ; chắc chắn ngài am hiểu ít nhiều triết lý dân gian dựa trên thuyết khắc kỷ, và đã vay mượn một số quan niệm của những thuyết đó (ví dụ quan niệm hồn ra khỏi xác quy về thần giới trong 2 Cr 5,6-8, vũ trụ viên mãn trong Cl và Ep ; 1 Cr 8,6 ; Rm 11,36 ; Ep 4,6) ; cách biện luận đanh thép qua những câu vấn đáp ngắn gọn (Rm 3,1-9 ; 27,31) hoặc những lời hùng biện sôi nổi (2 Cr 6,4-10), hay ngược lại, những đoạn văn dài trình bày tư tưởng từng đợt (Ep 1,3-14 ; Cl 1,9-20). Ngài rành tiếng Hy-lạp như tiếng mẹ đẻ (x. Cv 21,37), pha rất ít kiểu nói Sê-mít. Dĩ nhiên, đó là tiếng Hy-lạp đương thời, tiếng phổ thông thanh tao và không kiểu cách.
Tuy nhiên, văn phong của thánh Phao-lô là trường hợp điển hình cho thấy vấn đề chuyển biến ngôn ngữ : khi ngôn ngữ thông dụng của một nền văn hóa nhất định được dùng lại để truyền đạt giáo lý Ki-tô giáo, thì ngôn ngữ đó mang một nội dung mới. Và thông thường, mọi ngôn ngữ đều biến chuyển theo thời gian. Nhưng sở dĩ ở đây có biến chuyển lớn, là vì bất cứ nền văn hoá nào trên thế giới, dù đã tiến bộ đến đâu, cũng đều phát xuất từ trí tuệ con người, còn giáo lý Ki-tô giáo thì lại phát xuất từ kế hoạch của Thiên Chúa, vượt quá trí tuệ con người. Khi kế hoạch này được mặc khải cho con người thì bắt buộc phải thông qua ngôn ngữ loài người. Do đó, ngôn ngữ này như phải ra khỏi giới hạn nguyên thuỷ của nó, để vươn tới nội dung của những thực tại mới, thuộc lãnh vực mặc khải. Mặc khải Ki-tô giáo ở trong trường hợp này. Ngòi bút của thánh Phao-lô đã làm biến chuyển một số từ ngữ thuộc triết học Hy-lạp hay Do-thái một cách thật táo bạo.
Ngài ít chú trọng đến lối văn cầu kỳ và muốn cho sức thuyết phục của mình chỉ dựa vào sức mạnh của lời lẽ đức tin được Thánh Thần củng cố (1 Tx 1,5 ; 1 Cr 2,4 tt ; 2 Cr 11,6 ; Rm 15,18). Thậm chí, ngài có những câu văn không chỉnh và bỏ lửng (1 Cr 9,15), cho thấy quả thật "ngôn bất tận ý", và lời văn không diễn đạt hết nguồn tư tưởng quá phong phú, những cảm xúc quá mãnh liệt của ngài. Trừ trường hợp ngoại lệ hiếm hoi (Plm 19), thánh Phao-lô "viết thư" bằng cách đọc cho người ta chép (Rm 16,22) theo thói quen của người xưa, và chỉ viết lời chào kết thúc (2 Tx 3,17 ; Gl 6,11 ; 1 Cr 16,21 ; Cl 4,18). Vài đoạn văn có lẽ là thành quả của một việc soạn thảo công phu lâu dài (vd. Cl 1,15-20), còn nhiều đoạn khác lại rất tự nhiên, không gọt giũa, xuất phát từ những nguồn cảm hứng dồi dào. Tuy có khuyết điểm, hay có thể nói, nhờ có khuyết điểm, câu văn sôi nổi của các thư thánh Phao-lô đạt tới mức độ súc tích lạ thường. Một tư tưởng cao siêu, được diễn tả qua những lời văn nồng cháy, hẳn làm cho độc giả lắm khi thấy khó hiểu (2 Pr 3,16), nhưng đồng thời, về mặt tôn giáo cũng như văn chương, lại tạo nên những áng văn có sức lôi cuốn, mà có lẽ trong lịch sử văn học, chưa từng có bản nào đạt tới.
KẾT LUẬN
Tóm lại, đọc các thư thánh Phao-lô, chúng ta thấy thánh Phao-lô không phải chỉ là một tác giả, mà còn cả một con người nổi bật về mọi mặt. Ngài vừa là nhà thần bí vừa là người hoạt động, là nhà thần học lại là nhà truyền giáo, là nhà sáng lập kiêm người tổ chức, vừa là người khai hoang vừa là người vun trồng, là giáo lý viên kiêm linh hướng, có tài tranh luận cũng như hùng biện. Ngài quả là một thiên tài đã được Đức Ki-tô chinh phục và biến thành "lợi khí chọn lọc để mang danh Chúa đến trước mặt các dân ngoại, các vua chúa và con cái Ít-ra-en" (Cv 9,15).
Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Com