II.1. THĂNG PHỦ
II. XANH XANH MÀU NÚI CŨ, DU NHÂN SAO CHĂNG VỀ. (*)
(*) Lược dịch hai câu trong bài thơ "Dục Thúy sơn" của Trương Hán Siêu, nguyên văn là: "Thanh thanh sơn thượng y, Du nhân hồ bất quy".
1. Thăng Phủ
Trương Hán Siêu, tự Thăng Phủ, là một trong nhiều môn khách ở phủ Hưng Đạo Đại vương. So với những vị còn lại, tuổi đời của chàng đã được xem là trẻ. Ngày xưa, thuở còn học ở trường của ông Ích Tắc chàng đã nổi danh thông minh, có tài học xuất chúng. Ông Ích Tắc [1] từng giao cho chàng quyền thay ông dạy học trò của mình, thế nên không ít người nảy lòng tị hiềm, cố ý hãm hại. Sau này ông Ích Tắc theo giặc, chàng không quay về trường ấy thêm lần nào.
Hai mươi mốt tuổi, Thăng Phủ trở thành môn khách ở Vạn Kiếp. Vì một duyên đặc biệt nào đó, chàng được giao cho kèm cặp việc đọc sách của Thánh Tư. Duyên thầy trò chỉ dài năm năm vì nàng phải tiến cung, nhưng hễ gặp Thăng Phủ nàng lại tham bái rất mực kính trọng. Tuy vậy, hiếm có dịp để nàng nán lại Vạn Kiếp thật lâu. Dịp lâu nhất là ngày Tết, mà những ngày ấy Thăng Phủ lại phải về quê ở Trường Yên, kể ra khó lòng gặp mặt hàn huyên.
Hôm nay hội ngộ bằng thân phận khác xưa, cả Thăng Phủ và nàng đều giữ lễ mà kiệm lời. Thế nhưng đứng hầu ở góc, tôi nhìn rõ mồn một đôi mắt của nàng. Thánh Tư có vẻ vừa bất ngờ vừa hoang mang, như thể kẻ lạc tìm được lối ra, lại không chắc lối ra là thực hay ảo cảnh. Dẫu sao, thứ le lói ấy vẫn là hi vọng. Tôi biết Thăng Phủ sẽ giúp nàng, bằng một cách nào đó.
Buổi chiều hai ngày sau, Thăng Phủ đi tát đồng được hai giỏ cá rô, vừa về đến đã í ới gọi gia nô mang vào. Phần mình, chàng thay y phục lấm bùn thành bộ áo tay chẽn sẫm màu, xăm xắn chuẩn bị. Thấy chàng ra khỏi phủ, đi về hướng ruộng xanh, Thánh Tư mon men đến xem. Dọc đường nàng gặp ngài Hưng Đạo đang uống chè ở sân nhà trước, được ông vẫy tay gọi đến.
- Đi đâu đấy? - ông ôn tồn.
- Cháu tìm thầy Thăng Phủ ạ.
- Nghe nó bảo chiều nay tát được cá rô, định bày bún cho người trong phủ nấu. Chắc là đi hái rau rồi.
Hai mắt Thánh Tư thoắt sáng rỡ. Nàng nhoẻn cười, trỏ tay ra ngoài cổng:
- Thế... Cháu đi giúp thầy ấy nhé!
- Từ từ thôi, gió lớn đấy! - ông nói với theo, đoạn chỉ vào tôi, gọi giật lại - Mày... Mày đấy. Đúng rồi! Vào trong lấy cho cô mày cái áo. Dặn nhà bếp đun nước, lát cô mày về có nước nóng mà dùng.
Tôi vâng dạ, hối hả chạy đi, một lúc sau mới nhận ra mình không rành đường trong phủ. Mất những hai khắc tôi mới đến được phòng bếp; trở về lấy áo khoác cho Thánh Tư, hỏi thăm, tìm được nơi nàng và Thăng Phủ hái rau lại mất thêm một khắc nữa. Ấy là một thửa đất nhỏ nằm gần chi lưu sông Vang, xung quanh là nhà, là đồng Chiêm. Đứng từ xa tôi đã nghe tiếng nói cười rôm rả của trẻ con, thấy những bóng lưng lom khom quanh liếp rau xanh mướt. Trên cao, chim ríu rít từng đàn bay về lưng trời. Tiếng sáo diều khi dìu dặt khi vút cao, nâng khói lam lên thiên không, nhòe cả màu hôn ám.
Thánh Tư nối gót Thăng Phủ, tôi ôm rổ rau muống và thì là cùng với lũ mục đồng nối gót nàng. Thoáng chốc tôi tưởng mình đã về lại Trường Yên, mỗi chiều chăn trâu xong lại hùa với bọn trạc tuổi trêu ghẹo đôi nhân ngãi nào đó. Bài đồng dao của chúng tôi khiến hai người e thẹn, ngoảnh mặt không dám nhìn nhau. Một chốc sau khi chúng tôi thôi hát, đôi nhân ngãi len lén bước gần lại, rồi chạy vụt đi.
Tôi từng ước sau này lớn lên cũng có người đi cạnh mình như đôi trai gái kia, khấp khởi về nhà trong tiếng hò reo trêu vui của lũ trẻ. Bây giờ vào cung, lúc về e đã quá lứa lỡ thì, biết có còn ai ưng? Thể nào thầy mẹ cũng than thở "con gái lớn như hũ mắm treo đầu giường". Thể nào xóm giềng cũng tọc mạch cho mà xem. Ôi dào!
Đương chìm trong suy nghĩ, giọng Thăng Phủ vang lên khiến tôi quay về với buổi chiều Vạn Kiếp. Tự bao giờ chàng đã sóng bước với Thánh Tư, thế nhưng hai người vẫn cách nhau một khoảng xa. Thăng Phủ bước chậm, từ tốn ngâm thơ:
- Nghĩa khí bất đồng nan cẩu hợp, Cố viên tùy xứ thổ hoàng hoa. [2]
Thánh Tư ngạc nhiên:
- Thầy nhớ chuyện cũ ạ?
- Có bao giờ quên đâu! - Thăng Phủ cười sang sảng.
- Sao thầy lại đọc hai câu này? Có liên quan gì đến hoa cúc ư?
Ngẫm một lúc, Thăng Phủ đổi giọng, lầm bầm:
- Tự dưng tôi nhớ quê, thế thôi.
- Thầy nhắc con mới nhớ... - nàng thả chậm bước lại, đột ngột quay lại nhìn tôi - Đằng sau có một đóa cúc đấy ạ.
Thăng Phủ tò mò quay đầu, theo hướng nàng nhìn mà nhìn tôi. Tôi e dè mím môi, cúi đầu tránh ánh mắt chàng nên chỉ nghe tiếng chàng như thể đùa:
- Cúc Thăng Long khác cúc Trường Yên, lệnh bà à.
- Nàng ấy là đồng hương với thầy.
Đến đây Thăng Phủ chỉ cười, tuyệt không đáp thêm lời nào.
Vẻ như không phải vì chiều nay bắt được nhiều cá Thăng Phủ mới nảy ra ý định nấu bún, bởi lúc tôi và Thánh Tư theo chàng vào bếp nồi nước dùng đã nấu xong rồi. Có người đang rim thịt cá, mùi gừng và hành, nghệ dậy lên thơm lừng. Ở lò cạnh bên là một nồi nước đang đun sắp sôi. Thăng Phủ reo lên:
- Đứa nào biết ý đun nước thế! Nhặt rau thôi, nước sắp sôi rồi.
Hình như chàng vừa nhầm điều gì đó... Tôi nghĩ mãi không ra, chưa chi đã bị chàng dúi ngược mớ rau vào tay, giục:
- Nhanh lên, Cúc Trường Yên.
Đoạn, chàng lướt mắt qua những người khác, dặn kỹ:
- Rau muống nhặt xong thì luộc lên, thì là với hành thái nhỏ. Bày bún ra bát, thêm rau lá, rau mùi, cuối cùng mới thêm cá. À, nhớ cả nước canh nhé. Lát nữa mang bún khô lên thì tôi dâng hết mớ này cho các chị!
Kế đó, chúng tôi bận bịu chia bún vào bát, chờ đến giờ cơm chiều thì dâng lên ngài Hưng Đạo và các môn khách ở phủ. Dâng xong, trong bếp sót lại những phần không chan nước dùng, bún và nước để riêng thành hai bát. Tất thảy có đến mười phần như thế.
Tôi nhờ Ngàn hỏi ý Thánh Tư, Ngàn trở về thuật lại ấy là để biếu những nhà trong vùng. Chủ ý là của Thăng Phủ, thế nhưng chàng quên béng, bấy giờ nhớ ra nên giục chúng tôi nhanh chân mang đi kẻo nguội. Cứ vậy, tôi ngơ ngác theo Ngàn bê từng mâm đi, vừa biếu thức ăn vừa xin lỗi vì chậm chân để lỡ giờ cơm nhà họ, mãi đến chính thân mới được về phủ.
Sự ấy dẫn đến bữa chiều muộn, khiến tôi đến giờ tuất còn trằn trọc mãi không vào giấc. Nghĩ bụng giờ này người trong phủ đã ngủ hết, lại hiếm khi không phải gác đêm ngoài buồng của Thánh Tư, tôi đánh liều khoác áo ra sân đi lại cho tiêu thực. Tôi không thuộc đường nào ngoài đường ra phòng bếp, quanh đi quẩn lại chỉ bước từ sân nhà gia nô đến đó. Đi một vòng rồi vòng lại tôi mới hay, gian nhà vừa nãy còn tối thui giờ đã thắp đủ nến bên trong lẫn đèn ngoài hiên, cửa mở toang như đương ban ngày.
Cửa sổ đối diện với vách bếp làm hiển lộ ba chiếc bóng in trên vách. Từ giọng đàm luận, tôi nghe ra hai người đang trò chuyện là Thăng Phủ và Thánh Tư, người còn lại đứng hầu hẳn là Mai. Dẫu có người thứ ba làm chứng và nến đèn sáng tỏ, việc một cung phi gặp gỡ "đàn ông không phải Quan gia" vào lúc giữa đêm vẫn không phải việc hay. Lẽ hiển nhiên chuyện này chưa can hệ gì đến tôi, và tôi không việc gì phải nghe ngóng hay buông lời đặt điều. Tuy vậy, lòng tò mò đã níu chân tôi lại. Tôi nép mình vào một góc khuất, dỏng tai lên nghe. Vừa hay, Thăng Phủ cất tiếng:
- Siêu biết lệnh bà khó vượt qua, nhưng xin nghe tôi khuyên can vài lời. Đôi khi có mất mới có đặng, cũng như đặng rồi lại mất đi. Không phải tôi muốn bà quên hoàng tử, mà nên nhớ, thằng bé ra đi để mang lại điều gì đó khác cho mẹ nó.
- Đem lại một thị Tĩnh giống bây giờ ạ? - Thánh Tư nghẹn ngào - Nếu nói như thầy, chẳng khác nào con buộc thằng bé hi sinh cho mình.
- Nếu đổi lại là bà, buộc lòng phải hi sinh vì thầy mẹ, hay vì ngài Hưng Đạo, bà có cam nguyện không? - không chờ Thánh Tư đáp lời, chàng khẳng định - Bà sẽ nói có. Như việc bà không muốn vào cung, nhưng đã vào cung rồi...
Dường như chàng vừa thở dài, và sau tiếng thở dài ấy tôi không nghe ai nói gì nữa. Tiếng nấc của Thánh Tư ngày càng rõ, đến nỗi tôi tưởng chốc nữa thôi nàng sẽ gào lên cho bõ mấy tháng dồn nén vừa qua. Thế nhưng nàng không gào thét gì mà tiếng khóc ngày một nhỏ lại, cho đến khi đứa hầu bất chợt kêu lên:
- Bà ơi!
Tôi rướn người nhìn qua cửa sổ, thấy nàng đang ngoạm chặt tay mình để thôi nấc mạnh, mặc nước mắt lặng lẽ chảy xuôi. Cổ họng tôi nghèn nghẹn, suy nghĩ rối như tơ, lòng tựa hồ vỡ ra điều gì. Những mầm mống manh nha từ ngày đầu gặp Thăng Phủ đã thành dây khoai mọc củ đầy lòng đất. Thánh Tư của tôi! Nàng đã bỏ lại những gì để vào cung, chịu cảnh sống đời tẻ nhạt, để chung chăn chiếu người mình xem là anh đến hết kiếp này? Bất giác tôi cũng ngoạm tay mình như nàng. Nếu tôi buông ra, nỗi đau của nàng sẽ dâng lên gấp trăm gấp nghìn và biến thành nỗi đau của chính tôi nữa.
Cách một quãng lặng thật lâu, khi đèn lụi nhiều và ánh sáng không còn quá tỏ, giọng nói buồn bã của Thăng Phủ lại vang lên:
- Tĩnh nhớ vì sao tôi về đây làm môn khách không? Vì bị bọn Nguyễn Văn Long vu hại [3]. Tôi trốn về Trường Yên, rồi gặp ngài Hưng Đạo, rồi đánh giặc, rồi về đây. Mấy năm nay tôi không giao du với bọn người ở trường học cũ, thực tâm lại không thù hằn gì nhiều. Có đêm thức trắng, tôi thấy hóa ra mình cũng biết ơn chúng nó lắm. Nếu chúng không gây sự khiến tôi phải bỏ trốn, sao tôi gặp được ngài Hưng Đạo, sao tôi được về Vạn Kiếp, sao tôi được dạy cô Tĩnh học?
- Với sở học của thầy, ông ngoại đến tìm là việc tất yếu.
- Nhưng giả sử tôi còn ở lại trường, lại có quan hệ khắng khít với ông Ích Tắc, lúc ông ấy theo Thát thì tôi khó tránh cái danh bán nước. Hoặc cho rằng ông ấy trung liệt, tôi sẽ ở lại trường mãi mãi, làm gì có việc làm môn khách ở đây?!
Thánh Tư im lặng không trả lời. Vẻ như không còn lời nào để khuyên nhủ, Thăng Phủ đứng dậy rời đi. Chiếc bóng của chàng kéo dài trên vách đất, xiêu vẹo theo đồ đạc và mặt vách lồi lõm, trông không còn cứng cỏi như vẻ ngoài của chàng. Chiếc áo chàm chàng ưa mặc trông như màu hoa nào não nề, buồn thảm. Chàng nhấc bước, như rời khỏi bốn bức vách tù túng, rời khỏi những cô liêu, giằng xé bên trong, khiến tôi tưởng những gì mình vừa suy đoán đều là huyền hão.
...
Ở lại Vạn Kiếp được ít lâu, u uẩn trong lòng Thánh Tư đã vơi bớt. Vừa khi ấy phía kinh thành gửi thư giục, cho nên đến hết mồng năm tháng năm nàng phải về ngay. Cái hôm nàng đọc thư có tôi và Mai, Ngàn hầu ở cạnh. Ba đứa tôi nghe nàng buột miệng mà ngây như phỗng. Nàng nói, suýt chút đã quên mình là cung phi.
Thực ra không chỉ mình nàng, chính tôi cũng có lúc quên hoặc cố tình làm lơ việc này. So với hồi còn trong cung rõ ràng tâm tình nàng khá hẳn, khiến phận bề tôi như ba đứa tôi vui mừng khôn kể. Mới gần một tháng mà nàng đã lên da lên thịt. Thế là quý lắm, dù không kể lòng nàng buồn hay vui.
Hiềm nỗi không ngày nào không tàn, không tiệc nào không tan.
Mồng sáu tháng năm, lá ngải tết hình con dê còn treo trước cửa. Mùi rượu xương bồ thoảng trong không khí, hoa quả hôm qua thừa lại nằm trên bàn, cặp ngỗng kêu vang trước sân từ tinh mơ. Bên đầu giường là đoạn chỉ ngũ sắc cong queo ở mối buộc. Chiếc túi lụa tết hình quả khế còn giắt ở thắt lưng đứa trẻ con. Mồng sáu mà tưởng như mồng năm, khác mỗi chỗ chúng tôi phải dọn dẹp từ đêm qua để sáng nay bái biệt Vạn Kiếp, về lại đô thành.
Tôi và Mai quyến luyến nơi này thế nào thì Thánh Tư và Ngàn quyến luyến gấp bội. Chủ tớ ngẩn người ở nhà khách của phủ, mãi đến gần trưa mới chịu lên xe ngựa. Lúc sắp khởi hành Thánh Tư lại chần chừ, nán chân thêm một lần. Tôi đoán, nàng đang chờ Thăng Phủ đến tiễn.
____________________
Chú thích:
[1] Tức Chiêu Quốc vương Trần Ích Tắc (1254-1329), là con trai của Trần Thái Tông, dẫn gia quyến hàng giặc Nguyên vào năm 1285 và xin được cải phong là An Nam Quốc vương. Sau đó quân Nguyên thua liên tiếp, ông cũng sống lưu vong ở Đại Nguyên.
[2] "Nghĩa khí bất đồng nan cẩu hợp, Cố viên tùy xứ thổ hoàng hoa." trích từ bài thơ Cúc hoa kỳ 1 của Huyền Quang thiền sư đời Trần. Nguyên văn:
Tùng thanh Tưởng Hủ tiên sinh kính,
Mai cảnh Tây Hồ xử sĩ gia.
Nghĩa khí bất đồng nan cẩu hợp,
Cố viên tuỳ xứ thổ hoàng hoa.
Bản dịch thơ của Lương Trọng Nhàn:
Ngõ nhà Tưởng Hủ thông reo,
Tây Hồ xử sĩ bên hè mai hoa.
Không cùng nghĩa khí khó hoà.
Nơi nơi vườn cũ cúc hoa nở vàng. (nguồn: thivien.net)
[3] Trần Ích Tắc có xin phép anh là Trần Thánh Tông để mở trường đào tạo nhân tài cho triều đình, rất nhiều danh nhân thời bấy giờ kéo về đây xin theo học như Mạc Đĩnh Chi, Nguyễn Đại Phạp... Trương Hán Siêu là học trò giỏi nhất, được giao thay mình dạy lại cho các môn đệ. Nhưng lúc đó Nguyễn Văn Long là trưởng tràng rất ganh tị, bày mưu ám sát Trần ích Tắc rồi vu cho Trương Hán Siêu khiến Siêu phải bôn tẩu, về núp trên những hang động của Ninh Bình. (nguồn: Wikipedia)
Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Com