Truyen2U.Net quay lại rồi đây! Các bạn truy cập Truyen2U.Com. Mong các bạn tiếp tục ủng hộ truy cập tên miền mới này nhé! Mãi yêu... ♥

II.2. DU NHÂN

II. XANH XANH MÀU NÚI CŨ, DU NHÂN SAO CHẲNG VỀ

2. Du nhân

Ngày ấy Thăng Phủ không đến.

Với những gì tôi được nghe về chàng, chàng đến mới đáng kinh đáng ngờ. Thánh Tư hiểu Thăng Phủ, ắt càng biết rõ việc ấy. Dẫu biết nhưng mất mát là điều khó tránh. Suốt đường về không khắc nào nàng không vén mành xe, có khi não nề thở dài, có khi yên lặng nhìn xa xăm, tựa như chỉ cần nhìn thêm một lúc thôi người nọ sẽ xuất hiện bên ngoài xe vậy.

Đôi mắt xa xăm đó theo Thánh Tư tận mấy tháng sau, ngay cả khi Quan gia tuyển hai, ba cung phi một lúc nàng cũng chẳng mảy may xao động.

Người mới vào cung ai cũng có phẩm trật cao hơn Thánh Tư. Một người là con gái của cố Bảo Nghĩa vương - Quận chúa Chiêu Hiền, được phong Huy Tư hoàng phi. Một người là cô gái hàng chè nước ở phường Tây Nhai đằng hữu Hoàng thành - Nguyễn Thị La, được phong Đệ nhị cung phi. Duy chỉ nữ quan dạy lễ nghi trong cung Vương Thị Yên có thứ bậc thấp hơn danh vị phu nhân, hiện vẫn là tần ngự.

Hậu cung bớt thưa dần, song hoàng tự vẫn vắng. Cho dù Thánh Tư không phải người có phẩm vị cao nhất hay được Quan gia yêu thương nhất, nàng vẫn là con gái họ Trần, con gái Vạn Kiếp, nên con của nàng vẫn được trông ngóng hơn cả.

Bảo là vậy, thực ra người ở hậu cung, nhất là Song Hương đường đều tỏ tường một việc. Quan gia e dè họ Trần chi Vạn Kiếp! Nếu không e dè và thậm chí tị hiềm ghét bỏ, ngài đã chẳng dấy nên việc phế lập hồi Hưng Long nguyên niên. Một tháng đầu vào cung, tuy Thánh Tư đắc sủng nhưng không được ban phong hào. Thái hậu khi ấy còn ở hành cung Vũ Lâm với Thượng hoàng, không can gián kịp lúc, hoặc dẫu biết cũng không thể can gián Quan gia.

Bây giờ, bốn năm sau, khi đã từng có với nhau một mụn con Quan gia vẫn hững hờ với Thánh Tư như lúc đầu. Từ ngày có Huy Tư Hoàng phi ngài cũng không thường đến Song Hương đường, dù một cuộc chè, một cuộc cờ cũng không. Lâu rồi chưa thấy bóng ngài, tôi vừa mừng vừa tủi thay nàng. Mừng, là vì tôi biết nàng còn canh cánh nhiều chuyện cũ, không thể để đối mặt với Quan gia mỗi ngày. Tủi, là vì nàng đã cố đối mặt với Quan gia khi sinh cho ngài một đứa con, nhưng rồi hoàng tử mất, và Quan gia cũng đi mất.

Dù muốn dù không, Thánh Tư luôn luôn lẳng lặng chờ đợi. Nhưng chính sự dùng dằng giữa mến và không mến của Quan gia khiến không chỉ một mình nàng hoài nghi, mả cả phận tôi đòi như chúng tôi cũng hoài nghi theo. Người mặc bạch bào ấy có thật là cha của hoàng tử đã mất không? Người ấy có còn là người anh Thánh Tư kính mến trong lời Ngàn kể, có còn là người chồng khấp khởi chờ đón con trẻ chào đời? Người ấy có còn là người thường xoa bụng Thánh Tư, hẹn với nàng sau khi sinh sẽ thả diều ở núi Khán? Dù biết làm vua có nhiều ràng buộc, tôi vẫn không nhịn được mà thầm trách. Là tôi đơn giản, nông cạn? Hay do những người sống trong Cấm thành trơ như gỗ đá, từ lâu đã không còn tha thiết với yêu thương?

Hoàng thành, Cấm thành suy cho cũng vẫn là bầu trời của chi Tức Mặc. Mà người đứng đầu Tức Mặc bấy giờ, không ai khác ngoài Quan gia và Thượng hoàng.

Quan gia không đến là vậy, song Song Hương đường không quá đỗi im ắng, Thánh Tư của tôi cũng không quá đắm chìm trong nỗi đau của nàng. Bởi từ dạo hồi cung nàng thường xuyên tiếp đón Đệ nhị cung phi và Vương thị, ít lâu sau lại đón thêm một vị ngự nữ tên Nguyễn Mai.

Thoạt đầu tôi còn nghĩ tần phi tần ngự đến quấy nhiễu Thánh Tư, về lâu dài mới nhận ra Thánh Tư và ba vị kia rất hoà hợp. Cứ cách vài hôm, sau buổi thỉnh an Thái hậu bốn người sẽ họp lại với nhau ở điện này hoặc đường nọ, giúp nhau xe sợi dệt vải, chia nhau giống dâu giống tằm. Khoảng giờ tỵ thì ai về điện người ấy dùng thiện, đến xế bóng lại tề tựu một buổi chè nước, đàn ca đến đêm. Có những hôm bốn người mải chơi tam cúc, đến lúc dùng bữa mới hay muộn giờ, thế là ở lại ăn cùng mâm với nhau.

Có lần Quan gia ghé ngang Tuế Hàn đường của ngự nữ Nguyễn Mai và Vương thị, đúng lúc bốn người họ đang cùng dùng cơm. Bọn hầu chúng tôi đành phải dọn mâm của bốn vị xuống sập dưới, rồi bày thêm một mâm ở sập trên cho Quan gia để ngài cùng ăn với cung phi. Suốt buổi, tôi thấy ngài thường nhìn Thánh Tư lắm, có điều tuyệt không hỏi han gì riêng nàng. Thánh Tư thì gượng gạo hơn vừa rồi, lùa cơm canh qua loa cho trọn bữa.

Nàng có chạnh lòng không? Nàng có thất vọng không? Nàng có cảm thấy oái oăm buồn cười khi mình thân thiết với những người vợ khác của chồng mình hơn cả gắn bó với chồng? Phần tôi, tôi có. Tôi chạnh lòng và buồn thay nàng lắm, ruột gan nao nao, tay chân quẫn bách khó chịu. Tôi không dám nhớ đến những ngày tháng ở Vạn Kiếp và những điều khiến Thánh Tư vui vẻ trước kia, vì sợ mình sẽ nghĩ một điều gì quá phận, sợ sẽ liên lụy đến nàng và bọn Tùng, Trúc, Mai, Ngàn, Hải. Tôi cũng sợ liên lụy đến Thăng Phủ. Mà thực lòng khi ấy, tôi nào biết Thăng Phủ đã bị liên lụy rồi.

Năm Hưng Long thứ ba, phía điện tiền có tin Hưng Đạo Đại vương tiến cử Thăng Phủ vào triều. Những tưởng người bài đạo Bụt như chàng sẽ từ chối làm quan cho một triều đình sùng Bụt quá mức, thế mà chàng vẫn đồng ý. Việc sau đó chắc đã khiến chàng hối hận lắm. Sau đợt khảo, thay vì phê chuẩn Thăng Phủ vào Hàn lâm viện, Quan gia lại sung chàng vào bộ Lễ, giúp đỡ việc lễ nhạc trong cung. Quan viên trong triều có người biết việc nên dâng trát tấu, cho rằng việc bổ nhiệm không phải do Quan gia mà do Thượng thư và Thị lang bộ Lại sơ suất. Nào ngờ Quan gia trả tấu về không phê, sớm hôm sau còn nhắc việc này trên chính điện, khẳng định chính ngài bổ nhiệm Thăng Phủ vào ty Thái chúc ở bộ Lễ.

Người trong triều ai nấy đều biết Trương Thăng Phủ là môn khách ở Vạn Kiếp, từng chịu ơn Hưng Đạo Đại vương. Lúc chàng mắc oan mưu sát thầy dạy - cũng là hoàng thất họ Trần, cùng đường mạt lộ phải về Trường Yên lẩn trốn, chỉ còn ngài Hưng Đạo tin tưởng cả tài hoa lẫn nhân phẩm của chàng. Chính chàng cũng nói sau năm Mậu Tý, nếu Hưng Đạo Đại vương không ngỏ ý giữ chàng lại Vạn Kiếp có lẽ chàng đã chán nản ấm lạnh đế đô, dứt áo lên núi trồng hoa. Mà bấy lâu Thăng Phủ ở lại xứ ấy, cảm tình khắng khít, mọi thứ không còn gói gọn trong hai tiếng "ơn nghĩa" nữa.

Và dĩ nhiên ai cũng hiểu Quan gia không thích người ở Vạn Kiếp, ý thoát li, tách bạch hai chi họ Trần ngày càng rõ; nhưng không ai nghĩ ngài sẽ vì hiềm khích mà làm thui chột nhân tài. Thế nên quyết định và sự thừa nhận thẳng thắn, bao hàm ý răn đe của Quan gia khiến lương thần kinh ngạc tột độ, bàn tán mãi đến nửa tháng sau còn chưa thôi.

Vẻ như công sự ở điện tiền bị lan truyền cũng nằm sẵn trong trù tính của Quan gia. Một chiều khi đang được Thánh Tư hầu nước, ngài bâng quơ hỏi:

- Chắc là nàng nghe chuyện Trương Hán Siêu rồi nhỉ?

- Vâng? - Thánh Tư dừng tay rót chè, mặt vẫn cúi - Vâng. Em có nghe.

Quan gia hớp một ngụm chè, gật gù:

- Nàng thấy thế nào?

Thánh Tư sượng ngắt trong một chốc, mím môi đắn đo, có lẽ không biết ý ngài muốn hỏi gì, cũng không biết trả lời thế nào mới phải. Không riêng gì nàng, tôi cũng căng thẳng, tim đập liên hồi như trống bỏi. Thực lòng mà nói, câu trả lời đơn giản và thỏa đáng nhất bấy giờ là "không biết" hoặc "không có kiến giải hay". Tôi tin những lời vô can như vậy không xa lạ gì với nàng, nhưng lại sợ nàng vì để bụng chuyện Thăng Phủ mà mất sáng suốt. May mắn thay, khi tôi còn lo lắng Thánh Tư đã nhỏ nhẹ:

- Việc trên triều hậu cung không nên can dự, nếu không sẽ loạn. Vả lại Quan gia nhọc lòng cả ngày, chiều tối mới thảnh thơi, sao không tạm quên đi ạ?

- Cũng đúng. - ngài nhướng mày - Trẫm còn nhớ mấy năm trước nàng nói thế này: Chè có loại uống để ngẫm, có loại uống để tĩnh tâm. Nàng có để ý không? Tĩnh cũng là cái cốt của ngẫm. Khuyên nhau thì khuyên thế, mấy ai không nghĩ nhiều.

Nàng cho là phải, đầu gật nhẹ miệng mỉm chi, tay lại thoăn thoắt cho tuần chè tiếp theo. Bầu trời ngoài hiên không biết tự bao giờ đã chuyển chính dậu sang mãn dậu, từ hôn ám đến đêm đen mịt mùng.

Thời gian như bóng câu bên cửa, chẳng mấy chốc đã đến tháng bảy năm Hưng Long thứ tư. Độ ấy nước to, tôi không dám về quê bằng thuyền, chỉ đành xuôi đường Thiên Lý, qua Lỵ Nhân rồi về Trường Yên. Dọc đường tôi gặp được Thăng Phủ cũng đang trên đường về quê. Chàng cưỡi ngựa còn tôi đi bộ, tình cờ ngồi chung một chuyến đò ngang, có điều chỉ tôi nhận ra chàng chứ chàng nào biết tôi là ai. Lúc lên bờ chàng giục ngựa rất mau, có lẽ đương có sự vụ gì gấp. Nghĩ lại đúng là như vậy thật. Sau Nguyên Đán, trong năm có hai dịp quan trọng là Tết mồng năm và rằm tháng bảy. Năm nay đã qua Đoan Ngọ, chỉ còn rằm tháng bảy là cớ để về quê trước Nguyên Đán. Chắc là chàng cũng giống tôi, muốn về quê cho chóng để thăm lại thầy mẹ mà thôi.

Tuy vậy tháng bảy, tháng tám triều đình thường mở lễ lớn ở chùa, đáng nhẽ bộ Lễ phải bận tối mặt, sao lại để quan liêu về quê ngay lúc này? Huống chi lễ rằm tháng bảy phát tích từ kinh điển đạo Bụt, Thăng Phủ không thích Bụt, sao lại hưởng ứng theo?

Vừa đi tôi vừa lắc đầu, trách mình nghĩ nhiều quá. Mỗi người mỗi việc, tôi không cần xét nét những việc vụn vặt đó làm gì.

Sức tôi kém, trời đổ mưa là bệnh ngay, bởi thế mà đường đi dài thêm hai ngày, thời gian ở lại Trường Yên sẽ ngắn đi chút ít. Tôi cứ đinh ninh ít ngày quá mình lưu luyến, có ngờ đâu năm ấy nhà tôi tan đàn xẻ nghé, còn tôi chỉ muốn một lần lên kinh không quay lại. Thầy tôi trộm cắp, mẹ phải gán thân làm tì theo luật. Khi tôi về đến sự đã là ván đóng thuyền, chẳng thể vãn hồi.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Com