II.3. VỀ NHÀ
II. XANH XANH MÀU NÚI CŨ, DU NHÂN SAO CHẲNG VỀ
3. Về nhà
Ngày thứ hai tôi về, trời Trường Yên đổ mưa ngâu từ tối đất. Lòng tôi đã rối nay vì tiếng mưa sầm sập trên mái ngói mà rối thêm. Chờ đến giờ thìn mưa mới vơi, tôi cũng bình tâm dần, cẩn thận suy xét lại việc vừa nghe. Thầy tôi là phường chữ nghĩa, vì thi trượt, rượu chè nên sinh tâm dối gian. Hồi Tết tôi đã nghe mẹ kể thầy trộm rượu của người ta, phước sao người nhà ấy dễ tính không kiện cáo. Nào ngờ "ăn cắp quen tay, ngủ ngày quen mắt", được tha bổng một lần nhưng thầy không chừa thói cũ, tháng sáu vừa rồi lại trộm mấy giò lan quý ở làng bên, mang bán cho người ở tít châu Khoái.
Việc tra ra được, thầy bị bắt. Theo luật, mất một phải đền đến chín, mà nhà tôi đào đâu ra số tiền gấp chín lần những giò lan kia. Ấy là chưa kể món tiền mà người mất lan gán thêm: nào là công chăm bón của lũ hầu nhà lão cộng lại, nào là công lão mua hoa từ châu Hóa về, nào là trồng nhiều năm sinh tình sinh nghĩa... Hai làng tôi và làng lão xưa nay không thuận thảo, việc lại do người làng tôi sai quấy nên đành chịu nhún nhường làng kia. Thầy tôi bị phạt tám mươi gậy, phải bán hết đồ đạc trong nhà để trả nợ, cả cái chạn bát mục nát chỉ đáng làm củi đốt cũng bán cho nhà nuôi lợn cuối làng. Bấy nhiêu vẫn chẳng bõ bèn với ngót trăm quan lão vòi thầy tôi, thành ra mẹ tôi phải vào nhà ấy làm tì gán nợ.
Mẹ tôi đi, thầy tủi hổ nên trốn mất, giờ chẳng biết tìm ở phương nào. Tôi là người sót lại trong nhà, vừa về đến đã bị trưởng làng gọi đến đình bàn tính. Có lẽ vì cám cảnh, ông bảo chỉ cần tôi chia món nợ thành kỳ và cam đoan trả đúng trả đủ, ông sẽ giúp tôi nài nỉ lão phú làng bên bớt mấy trinh lẻ cho. Tôi suy tính mất một đêm, thấy món tiền ơn nghĩa tình cảm với mấy giò lan phi lý quá bèn gom hết dăm đồng chắt chiu được ra đếm, định bụng hôm sau sẽ tìm quan phân xử rồi trả bớt nợ một thể.
Tờ mờ sáng tôi đến gõ cửa nhà trưởng làng. Bị làm phiền nhưng ông không có vẻ gì cáu giận, còn thực dạ khuyên tôi nên thôi, nếu làm lớn chuyện khéo sẽ bị tra ra việc trộm rượu, tội của thầy sẽ càng nặng thêm. Tôi chỉ nghe tội nặng chứ không biết nặng nhẹ ra sao, cương quyết xin ông chỉ đường lên quan. Thành ra tuy muốn nài nỉ lão phú giúp, ông cũng đành thôi.
Đáng nhẽ tôi định lên huyện, nhờ trưởng làng bảo ban mới tìm đến nhà xã quan trước. Nếu không nghe lời ông mách có lẽ tôi đã bỏ nhỡ cơ hội lần này: ở nhà xã quan tôi gặp được người quen, cũng là bạn hữu của vị xã quan ấy. Đó là chàng, Thăng Phủ.
...
Xã quan là một người đàn ông ở ngưỡng tam tuần, có đôi mắt luôn híp nhẹ và khuôn miệng nhếch lên. Y và Thăng Phủ nghe tôi thuật lại việc một cách cẩn thận, đoạn rút từ chồng sách trên án thư ra một quyển sách cũ mèm, chậm rãi lật xem. Thăng Phủ suốt buổi vẫn ngồi chân co chân khoanh trên sập, phe phẩy quạt. Thấy hai người họ ung dung không đoái nên tôi nôn nóng, toan quỳ xuống cho đủ thành ý thì nghe Thăng Phủ bảo với xã quan:
- Quan anh tìm gì đấy? Quốc triều hình luật à?
- Ừ. - xã quan cười cười - Xem xem tội đặt điều vòi tiền phải xử thế nào.
Đặt điều vòi tiền? Xã quan đang nhắc lão phú làng bên chăng? Đinh ninh sắp được giúp đỡ, tôi mừng như mở cờ trong bụng, lại chẳng dám biểu lộ gì nên chỉ cúi gằm mặt, nhênh nhếch môi. Vừa lúc ấy Thăng Phủ đập quạt xuống bàn, khoát tay:
- Gượm đã! Gấp quá hỏng việc. Anh Kinh Bang không thấy sự xảy ra một tháng mà thầy mẹ thị cam chịu, đến nay thị mới trình lên à?
- Cô còn điều gì khuất tất? - xã quan nghe khuyên can vội buông sách, nhìn tôi ngờ ngợ - Muốn được giúp phải thành thật và rõ ràng đã. Nếu cô giấu khác gì xúi giục tôi giúp người làm điều dối trá, biến tôi thành phường thất trách.
Bị vạch trần ngay trong thoáng chốc, tôi sượng ngây ra, cắn răng suy tính. Quả thật tôi đã giếm việc thầy trộm rượu lại vì cho rằng nhà họ không truy cứu nghĩa là không có tội theo luật. Nếu chối đây đẩy nghĩa là có tật giật mình, cầm bằng kể ra lại chẳng khác nào lạy ông tôi ở bụi này. Giữa lúc tôi phân vân Thăng Phủ lại vỗ bàn lần nữa, khiến tôi hoảng quá quỳ sụp xuống lạy. Chàng gằn giọng:
- Thế nào? Cô lập lờ đánh lận điều gì?
Bọn hầu chúng tôi việc vái lạy để vuốt xuôi cơn thịnh nộ của bề trên, mà tôi xưa nay không cảm thấy Thăng Phủ là bề trên hà khắc, uy quyền như người trong Cấm thành. Việc bị chàng quát và đột nhiên quỳ lạy chàng khiến tôi nhận ra mình vẫn là đứa hầu đớn hèn trên trán có thích chữ, thầy là phường trộm cướp bất nghĩa, mẹ là nô tì phục dịch người khác. Giờ tôi lại vì muốn thoát tội mà gian dối, tội chồng thêm tội, từ rày về sau không cách nào ngẩng mặt trước người.
Nước mắt tôi rỉ ra rất mau. Nếu đổi lại người khác chứ không phải Thăng Phủ ngồi trước mặt tôi, có lẽ tôi đã không đau đớn như thế. Chàng còn làm tôi nhớ đến một người khác, là Thánh Tư. Tưởng đến ngày đánh mất sự tín nhiệm của nàng, tôi thấy đời mình chẳng còn gì là niềm vui nữa. Cho đến nay, được hầu hạ, bầu bạn với nàng là điều tôi tự hào nhất. Ở Trường Yên tôi đã mất thầy mất mẹ, nếu Thăng Phủ kể việc này với nàng, tôi sẽ mất chốn về duy nhất, chỉ còn lại tăm tối như cái hồi tôi chưa vào cung.
Bất giác nước mắt lã chã. Bất giác khom lưng, run rẩy. Dường như tôi quỳ ở đó suốt đêm suốt ngày, cho đến khi Thăng Phủ đột nhiên cười xòa còn xã quan lắc đầu, tặc lưỡi:
- Anh dọa thị rồi kìa!
- Nào phải tôi, do quan anh cả đấy.
Cười với nhau một chốc, Thăng Phủ ra hiệu dừng, vẫn không nhìn tôi mà nhìn xã quan:
- Tôi quen thị, mà người quen dễ giãi bày với nhau hơn. Hay anh Kinh Bang để tôi và thị tránh đi một lúc rồi hẵng tính?
Xã quan tuy tần ngần, song sau chốc lát suy ngẫm vẫn chấp thuận.
Thăng Phủ dẫn đầu ra vườn trước, tôi lạy xã quan rồi cũng lau mắt tất tả bước theo sau. Chàng sải chân rất dài, chẳng mấy chốc đã mất bóng, tôi phải quanh co thêm vài bước mới thấy chàng đang đứng dưới gốc cây bàng chờ mình. Mùa thu lá rụng, những cụm còn lại trên cành đỏ quạch, hiu hắt, qua ánh nhìn kèm nhèm nước mắt của tôi trông càng não nề. Tôi đứng cách Thăng Phủ một khoảng bằng cánh tay mà tựa như dưới vực ngóng lên trời. Nước mắt tôi dù vẫn khó cầm nhưng không còn nấc thành tiếng nữa. Tôi chỉ mặc chúng tuôn như thế, mặc lồng ngực thùm thụp tiếng tim đập, mặc mình run rẩy đến độ muốn quỳ lần thứ hai. Tôi kính nể chàng, song khoảng cách này khiến tôi vừa kính nể vừa cảm thấy mình mọn mằn và đáng khinh dưới con mắt của chàng. Chẳng biết từ bao giờ, do ai gầy cho mà chàng trong lòng tôi đã như sao mọc ban ngày. Tôi kính mến sao, biết sao trên cao, ở đâu đó giữa trời rộng nhưng không bao giờ thấy và không cách nào chạm tới.
Tôi vừa khóc vừa ước, giá như người hôm nay tôi gặp chỉ có một mình xã quan.
Thăng Phủ rất kiên nhẫn, chờ tôi khóc chán chê mới ôn tồn nhắc tôi trần tình. Tôi tỉ mỉ kể lại việc của thầy, bao gồm cả lần đầu tiên thầy trộm rượu. Nghe xong chàng giắt quạt vào đai lưng, khoanh tay trầm ngâm. Rồi chàng rằng:
- Tôi bảo trước, nói sao cô cũng không được khóc nhé? Mau nước mắt quá thì hỏng việc.
Tôi nấc lên, đáp "vâng", chàng lại giải thích:
- Theo luật, trộm đồ lần thứ nhất chỉ phải chịu tám mươi gậy và trả món nợ gấp chín lần đồ bị trộm. Trộm đến lần thứ hai thì chịu chặt tay, chặt chân. Nếu còn tái phạm phải giết làm răn. Thầy cô trộm đồ hai lần, lần đầu quả thực không bị kiện cáo nhưng tội vẫn là tội. Lần này bị người ta vòi tiền, tội ở người ta; hai việc trước và sau vốn không can hệ gì nhau. Cô chỉ e nếu buộc lão phú làng bên giải trình rõ ràng, cắt bớt nợ thì gã hặc tội thầy cô trộm rượu đúng chứ?
Tôi gật đầu, chàng tiếp tục:
- Việc trộm rượu, nếu đã là tội thì phải nhận tội. Cô về trả gấp chín lần tiền rượu cũ cho nhà ấy, nhờ người ta viết giấy hoặc theo đến trước làng, chờ cô thưa xong mọi việc mới đồng ý không buộc tội, cho qua. Hoặc tốt hơn là cậy người ta, để người ta xem như thầy cô mua rượu nhà họ, nhà họ cho tạm khất vậy. Sau đó mới tính chuyện mấy giò lan. - dừng một lúc để tôi kịp hiểu, chàng dặm thêm - Thực ra phép vua thua lệ làng, nếu thành thật nhận tội trộm rượu, lại vay trả rõ ràng, ổn thỏa, dân trong làng sẽ khoan thứ, không chặt tay chân gì thầy cô đâu. Cùng lắm thì chặt một ngón răn đe, thế vẫn hơn chịu cảnh cụt què.
Giữa khi thân mang đầy tội mà vẫn được người khác giúp đỡ, hơn nữa người ấy còn là bậc uyên thâm trọng vọng như Thăng Phủ, tôi cảm kích đến cuống quýt. Giữa chừng không biết nên cảm tạ thế nào cho phải, tôi sực nhớ ra một việc quên kể, bèn dè dặt nói với chàng:
- Ông Thăng Phủ... Thầy con biệt tích, con chưa tìm được ông ấy về.
...
Sau hồi lâu giãi bày, Thăng Phủ vừa giúp tôi giải thích lại với xã quan, vừa kiến nghị cách của mình với y. Xã quan liếc sang phần má gần tóc mai của tôi, lầm bầm điều gì với Thăng Phủ rồi "ồ" lên, còn hứa sẽ giúp tôi.
Tuy vậy như được định trước, khi việc trộm rượu đã xong đâu vào đấy, chỉ cần chờ thầy về đối chất trước đình làng với nhà bán rượu thì tôi lại tìm không thấy thầy. Tận ngày mười ba tháng bảy thầy tôi vẫn chưa về. Tôi chỉ còn năm ngày để giải quyết gia sự ở Trường Yên rồi quay về Thăng Long, mà chẳng có cách nào cam đoan tôi sẽ tìm gặp thầy, hoặc thầy về bất thần vào một trong năm ngày đó. Hốt nhiên, mọi việc bấy chày tôi làm hoá ra công cốc. Tôi ngồi trong gian nhà trống trải suốt cả buổi tối chỉ để tin một điều rằng, thầy tôi chưa bao giờ thay đổi, sẵn sàng bỏ mẹ con tôi vào lúc nguy khó, hệt như trước kia.
Tóc trên đầu bị vò nhàu quá nửa, gãy rụng trên nền đất lạnh. Trong bóng tối của buổi lê minh, tôi đón kín cửa nhà, nằm co ro chắn ngay lối vào, chờ bình minh đến. Hoặc giả tôi đang chờ cao xanh phán quyết. Một là thầy tôi sẽ về để chịu tội như những gì được sắp xếp, hai là thầy ruồng rẫy cả tôi lẫn những tội nghiệt của mình, như thể tôi cũng là một phần tội nghiệt. Tôi sẽ không được quay về Thăng Long mà tìm gặp Thánh Tư nữa. Tôi sẽ chôn chân ở Trường Yên cả đời, chấp nhận mình là con hoang, là kẻ có tội, là vũng lầy dưới vực thẳm. Số phận tôi rẽ đi hướng nào, phải cậy vào thầy cả. Mà vẻ như thầy tôi không hay biết, đành lòng để tôi ngã xuống vực lần thứ hai.
Người lạnh buốt, rã rời, không còn sức co người lại thêm hay tìm một manh chiếu quấn tạm. Bên ngoài từ lộng gió đến có sét, đến mưa như trút suốt mấy canh liền. Giông gió tru tréo mãi không ngừng, không để tôi bình tĩnh, cũng không khiến tôi chết lặng, bàng quan tất cả. Cuối cùng giông cũng ngừng, vừa hay tôi gượng dậy được từ nền đất lạnh và vừa hay có người đến gõ cửa. Là người con gái của hàng rượu, vì tôi đôi ba phen đến nhờ giúp đỡ mà quen biết nhau. Mặt chị lúc này trắng bệch, tay siết chặt đôi tay lạnh ngắt của tôi, lạc giọng hô:
- Cúc! Có người thấy thầy em dưới suối.
- Thầy em? - tôi nhanh như cắt lặp lại.
- Ừ... - chị "ừ"nhưng lắc đầu - Một xác người trông như thầy em... Hình như cụ ấy gieo mình từ đỉnh núi.
Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Com