Truyen2U.Net quay lại rồi đây! Các bạn truy cập Truyen2U.Com. Mong các bạn tiếp tục ủng hộ truy cập tên miền mới này nhé! Mãi yêu... ♥

III.1. CHUYỂN DỜI

III. QUÊ CŨ, BUỒM CĂNG MUỐN TRẨY.
Ở, ĐI!ƠI HỠI LÒNG TA! (*)

(*) Nguyên văn là "Dục hoán biển chu quy khứ, Thử sinh vị bốc hành tàng." trích từ bài thơ Nhàn cư đề thủy mặc trướng tiểu cảnh (Nhàn rỗi đề thơ bức tranh nhỏ trên tấm trướng thủy mặc) của Phạm Tông Mại thời Trần. Bản dịch thơ của Nguyễn Tấn Hưng. (nguồn: thivien.net)

1. Chuyển dời

Thuở còn tỉnh táo, tu chí học hành, thầy tôi thường đọc sách, kể chuyện cho tôi nghe. Có một lần thầy kể về mùa thu, bảo văn nhân thường thích "đăng cao", uống rượu thưởng hoa, nhâm nhi bánh quả. Mùa thu năm Hưng Long thứ tư, tuy không phải người hay Nho tôi vẫn lên núi, xung quanh có hoa có rượu, bánh quả đủ cả. Mẹ tôi cũng đi cùng, trên lưng là gùi đựng ít hương để thắp. Chúng tôi đến để giỗ thầy tôi.

Không rõ vì sao mẹ không bày giỗ một năm ở nhà mà muốn trèo tận đỉnh núi thế này. Chắc vì năm ngoái, thay vì chôn cất thầy mẹ và tôi đã chọn hỏa táng rồi rải tro cốt trên cao. Cũng có thể mẹ muốn bày giỗ trên núi vì nhà tôi không còn nơi nào để giỗ nữa. Thầy không thể ở nhà. Thực ra thầy luôn muốn đi xa để lập công danh, cũng là để xa mẹ con tôi. Giờ thầy khuất núi, mẹ con tôi giúp thầy toại nguyện, cả an táng và giỗ nãi đều làm ở nơi gần trời, nhiều gió, để thầy đi thong thả hơn.

Sau khi nhận mặt người tự vẫn, phát tang và làm ma chay, chuyện trộm rượu và món tiền nợ vì mấy giò lan vẫn được giải quyết như Thăng Phủ bày sẵn. Hôm ma chay, Thăng Phủ và xã quan có đến viếng. Thăng Phủ không nói gì, song tôi thấy chàng đang giấu khúc mắc trong mắt. Còn xã quan thì chần chừ mãi, cuối cùng vẫn hỏi tôi vì sao thầy tự vẫn. Tôi trả lời vô ý, "Làm sao con biết được hở quan". Ngoài mặt là vậy, trong lòng tôi lại rối bời. Đằng sau cái chết của thầy không chỉ có một nguyên do. Mà nguyên do lớn nhất trong số đó có lẽ là sự tồn tại của tôi. Làm sao tôi có thể phanh phui với người đời rằng mình từ lâu đã bị ruồng rẫy?

Thầy mẹ tôi giống nhau, đều là lưu dân mất cả song thân phụ mẫu. Có một dạo hồi mới lấy nhau, thầy tôi lên kinh thi trượt, nghe lời dụ dỗ nên không về Trường Yên mà lên rừng ở đất tây nam tìm cây quý. Sau rốt cây quý không thấy đâu, chỉ thấy thầy tôi tàn tạ trở về, nửa mê nửa tỉnh. Dạo thầy mới đi thi mẹ tôi đã có mang nhưng không biết, bấy giờ thầy về tôi đã ngót nghét một tuổi rồi. Thầy ngờ rằng tôi không phải con thầy, song lúc tỉnh táo vẫn chăm tôi như bao người cha khác, chỉ khi say rượu mới buông lời nhiếc móc.

Số lần thầy tôi chè rượu ngày càng nhiều, cảnh chửi rủa cũng diễn ra liên miên, dần dần thành đánh đập. Năm tôi mười lăm tuổi, triều đình có lệnh tuyển con gái các vùng vào cung làm tì, trước khi đi còn được cấp mươi quan tiền. Mẹ tôi giục tôi đi phần vì nợ nần chồng chất, mươi quan ấy là món tiền cứu cánh. Một phần mẹ sợ tôi bị đánh mãi, phần lại e gia cảnh thế này khó có ai ưng tôi về làm vợ. Thật ra tôi còn biết mẹ đang nhen nhóm thứ gì trong bụng. Mẹ nghĩ nếu tôi khuất mắt thầy, thầy sẽ tỉnh lại trong nay mai.

Ngờ đâu hôm nay, thầy không bao giờ tỉnh lại nữa.

Núi cao, gió lộng. Chuyện cũ sượt qua trước mặt tôi, bất chợt nhẹ tênh như mây. Tôi trốn chạy đến Thăng Long, những tưởng về sau không cần đối mặt với thầy mẹ nữa, nhưng rồi vẫn về và cáng đáng một phần nhà cửa. Những ngày thầy mất, quá khứ ngủ yên dậy thành sóng, tôi lại tưởng mình không thể bình thản như lúc ở Thăng Long. Lúc này hoặc lúc khác, mỗi lần gặp chuyện tôi lại cho rằng không thể vượt qua, hoá ra việc không việc gì khó như tôi nghĩ.

Còn nhớ ngày hỏa thiêu thầy, mẹ là người rấm rứt khóc suốt lại khuyên tôi đừng để việc nhà làm lơ đễnh, chểnh mảng việc hầu hạ trong cung. Lời của mẹ tựa như sấm truyền, khi về cung tôi quả nhiên rước vạ. Số là độ tôi đi, Thánh Tư và Vương thị được chẩn có thai cùng lúc. Một ngày hai người đi dạo ở vườn Ngự, Vương thị trượt ngã nên động thai. Tôi vừa về Thăng Long, chỉ nghe tóm tắt việc ấy, được Thánh Tư sai sang Tuế Hàn đường biếu thuốc bổ thì đi ngay. Tôi nào hay mớ thuốc ấy khiến Vương thị từ động thai thành sảy thai, liên lụy nhiều người phải chịu tù chịu tội.

Tôi và ngự nữ Nguyễn Mai cùng sống trong Tuế Hàn đường với Vương thị bị nghi ngờ trước hết, thứ đến là Thánh Tư. Trước đó thái y chẩn được Vương thị mang hoàng tử, Thánh Tư mang công chúa, vậy nên có kẻ vin vào đó mà đặt điều. Án tra mất bao nhiêu ngày thì tôi sống trong lao ngục đến bấy nhiêu. Ngồi trong lao, tôi đinh ninh là mình sẽ chết. Hậu cung họ Trần tuy ít chiêu trò, nhưng thật khó lường nếu có kẻ cao tay. Cũng may áng chừng mười ngày sau, người ta tra được đầu sỏ là một tần ngự họ Đỗ. Tôi tuy thoát chết vẫn bị buộc tội thất trách, bị phạt gậy và đuổi khỏi Song Hương đường, phải đến dọn dẹp ở Nội thị sảnh.

Tôi không kể, mẹ không hay việc tôi bị trách phạt ở Cấm cung. So với những việc xảy ra ở Trường Yên, chuyện phạt đày chẳng bõ bèn gì cả. Tôi không muốn mẹ phải vừa phục dịch người khác vừa nhọc lòng vì mình. Dẫu rằng thầy mẹ không quá thương tôi, tôi cũng không muốn làm con bất hiếu.

"Còn Thánh Tư...", tôi dợm nghĩ. Trước ngút ngàn mây nước như kia, bóng hình Thánh Tư hoá thành một sợi mảnh trong muôn vàn khói ráng, lặng lẽ lên trời. Nàng có phận tiên nhân và sầu khổ của nàng, tôi có kiếp chuột chù ở đáy vực của tôi. Không thần tiên nào mang chuột theo, quá lắm thì như con chuột ngậm bạc vàng của Đa Văn thiên vương. Việc của thầy và việc bị điều đến Nội thị sảnh khiến tôi nhận ra, mình với nàng và cả những người xung quanh nàng khác nhau quá đỗi. Nếu trước kia tôi còn trốn tránh bên Thánh Tư những mong quên chuyện thời thơ ấu, thì bây giờ tất cả lụi tắt. Tôi không nằm mơ giữa ban ngày nữa. Trần đời làm gì có ai phải cáng đáng dĩ vãng của người khác.

Huống hồ, Thánh Tư còn nhiều đau khổ phải mang. Tháng ba năm kế đến, tôi ở Nội thị sảnh nghe người ta đồn nàng lại hạ sinh một hoàng tử yểu mệnh. Đứa bé chào đời được nửa canh giờ thì tắt thở, không chờ Quan gia kịp hạ triều đến thăm hay ban tên.

Buổi sáng nọ có lẽ là buổi sáng khó quên nhất của Quan gia và quần thần, vì chỉ nửa canh giờ đã nhận được cả tin giáng lẫn hoăng của một hoàng tử, của con cháu mình. Tuy ác tâm nhưng tôi thực lòng muốn mục sở thị vẻ mặt của Quan gia lúc trên chính điện. Chắc ngài sẽ đau đớn lắm! Phải! Ngài nên đau đớn đến chết lặng. Ngài nên bàng hoàng và khổ não vì đứa con trai ngài không mong nhất đã chết rồi.

Chỉ cần tinh mắt, người trong Cấm thành không ai không biết lòng của Quan gia. Ngài sẽ không hơi đâu mong đàn bà Vạn Kiếp lên ngai hậu, mong con cháu người Vạn Kiếp kế vị. Nếu ngài có chút quyết tuyệt giữa trong cả tình yêu lẫn tình thân dành cho Thánh Tư, những chuyện trong quá khứ đã không xảy ra. Mà một khi xảy ra, vết đau xưa khó lòng liền sẹo.

...

So với hầu hạ ở Song Hương đường, công việc quét tước dọn dẹp ở Nội thị sảnh chẳng cực nhọc hơn là bao. Cùng là phận đầy tớ với nhau, tôi lại chăm chỉ, kiệm lời nên các quan trong sảnh không khắt khe với tôi lắm. Có người còn bảo tôi may phước Song Hương đường chỉ là làm việc ở hậu cung, sang đến Nội thị sảnh lại gần điện tiền thêm một bước, tuy bổng lộc hiện tại thấp hơn trước kia nhưng thăng giáng khó nói.

Tôi toan đáp mình không cần phẩm trật, chỉ cần bổng lộc cao, tại chức đến mãn hạn thì xin về quê ngay. Nghĩ sao, tôi lại thôi. Tôi với người ta không cùng chí hướng, khó bề giải thích. Vả lại chính tôi còn chưa rõ sau này ra sao. Biết đâu hôm nay hô hào cáo quan ngày mai đã bỏ mạng trong cung, hoặc cả đời bị giam trong trùng vi thành quách. Thế chẳng phải "nói trước bước không qua"?

Thảng hoặc tôi lại thấy Tùng ghé ngang, mà mỗi lần như thế quan trên lại đối đãi ân cần với tôi đôi chút. Có lẽ y vâng mệnh Thánh Tư, đến đây để trông nom tôi, lại biết tính tôi không thích gửi gắm nhờ vả nên không nán lại chào hỏi gì. Gặp tôi, y sượng sùng đi thẳng. Có bận tôi định hỏi thăm về Thánh Tư mà y cứ đi miết, tôi bám riết đến gần hậu cung, giật mình nhận ra rồi tất tả quay về, sợ lại lỡ việc.

Ngày kế đó, một nội thị nhỏ tuổi đến Nội thị sảnh chuyển lời, rằng có quý nhân đang chờ gặp tôi ở trước cửa. Tôi ngờ thế nào cũng không ngờ được "quý nhân" trong lời cu cậu là Tùng. Chẳng những thế, cậu nhóc còn là cháu của y. Nghe y kể chuyện ở Song Hương đường một lúc lâu tôi mới chú ý tới cháu trai của y, bèn thắc mắc:

- Trước kia anh bảo anh là con một, bây giờ tìm đâu ra đứa cháu lớn thế này?

- Con của chị họ anh, tên Nguyễn Chế nhà ở tít châu Diễn. - Tùng than thở - Cuối năm rồi thầy mẹ nó đi buôn, định ăn Tết lớn, ai ngờ gặp mưa bão đắm tàu, mất cả rồi. Họ nhà nó ở châu Diễn lại đang tranh nhau mẩu đất cày, đuổi nó đi còn không kịp, anh phải trông hộ vậy.

Tôi nhìn đôi mắt sáng nom hao hao Tùng của Nguyễn Chế, lại nhìn bào phục trơn của tụng quan cậu đang mặc, lắc đầu:

- Đưa vào cung thế này lại mất giống mất nòi nhà người ta.

Tùng cũng tỏ vẻ bất đắc dĩ, bảo muốn đưa Nguyễn Chế vào cung trông nom thì chỉ còn cách để cậu học việc ở phủ Nội vụ. Y cũng đã dặn cậu nên tự thu vén, đừng để ai tuyển đi đâu hầu hạ, thêm ít năm mới rời cung sung quân. Dù gì đến độ đại hoàng nam cậu cũng phải gia nhập Lộ quân. Tính toán là thế nhưng chuyện đời khó nói. Tôi chỉ mong cậu nhóc không phải giống bọn tôi, bị thích cái danh nô hầu lên mặt suốt đời.

Hàn huyên hơn hai khắc, Tùng tần ngần nhắc tôi về hội thề Đồng Cổ sắp tới. Tôi thân ở Nội thị sảnh, hôm ấy may mắn thì được ở lại cung làm việc vặt, tuy bận rộn nhưng không cần tham gia hội. Cầm bằng được chọn theo giúp đỡ các quan, việc hội hè e là khó tránh. Y biết tôi đang có hiếu sự, dặn tôi gặp bề gì khó xử thì bẩm lên quan trên để xin miễn chước. Nghe vậy, tôi lặng người đáp:

- Anh bảo lệnh bà đừng nhọc lòng vì em nữa, khéo lại rước lời không hay vào thân.

Tùng cúi mặt, không nói gì. Tận lúc sắp về y mới nói với tôi:

- Em yên tâm. Lệnh bà sẽ không làm thế đâu.

Câu nói của y khiến tôi thẫn thờ mãi.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Com