Truyen2U.Net quay lại rồi đây! Các bạn truy cập Truyen2U.Com. Mong các bạn tiếp tục ủng hộ truy cập tên miền mới này nhé! Mãi yêu... ♥

III.2. HỘI THỀ

III. QUÊ CŨ, BUỒM CĂNG MUỐN TRẨY.
Ở,ĐI! ƠI HỠI LÒNG TA!

2. Hội thề

Quả như Tùng đoán, tôi và vài thị tì nữa được chọn đi theo đoàn tế lễ. Tôi còn nghe nói một trong sáu cục Cận thị Chi hậu đang thiếu thị nữ, nếu hội thề lần này chúng tôi được việc, phán thủ sẽ cất nhắc chúng tôi vào cục ấy. Chúng chị em xung quanh xúm xít bàn tán, bảo nhau phải làm gì và không được làm gì. Tôi yên lặng lắng nghe, tuy vậy không tham gì chuyện được vào Chi hậu cục, chỉ mong hội thề qua mau để mình đỡ khó xử.

Mồng bốn tháng tư, triều đình mở hội thề ở ngoại thành. Tờ mờ, bách quan vào làm lễ lạy với Quan gia đang ngự ở cửa Hữu Lang, điện Đại Minh rồi sau đoàn nghi trượng của vua, rời khỏi cửa tây. Cấm quân dẫn đầu rầm rập bước, cờ xí rợp trời, giáo gươm sáng chói. Nhạc réo rắt, vút cao vang vọng giữa buổi lê minh. Lác đác ở cuối đoàn là vài vị tụng quan mặc áo bào tía trơn, đội mũ Dương Đường đính ít hoa bướm, người cầm cờ, kẻ cầm lọng. Theo sau nữa là khoảng mươi người của bộ Lễ khuân mang đồ tế lễ.

Một đội người dài dằng dặc nối đuôi nhau từ cửa khuyết đến đền Đồng Cổ. Đền nằm ở làng Đông Xã, bên bờ sông Tô Lịch, cổng tam quan nghênh mở, sân trước không quá rộng nhưng thoáng đãng, sạch sẽ. Nhạc lễ nhỏ dần, nhường chỗ cho tiếng trống đồng trầm hùng vang vọng. Trước đền bấy giờ dựng một đàn cao. Đến nơi, Cấm quân tản ra đứng quanh đàn và quan giám thị, cờ gươm trong tay. Gió lên, cờ phất, quốc kỳ Đại Việt vươn cao đón ánh nắng đầu tiên của ngày. Trăm quan nối bước Quan gia, theo cửa đông đi vào đền, quỳ lạy thần vị thần Đồng Cổ trên đàn, rồi vua tôi nhất tề đọc lời minh thệ.

Thề xong, ai nấy chăm chú dõi mắt lên đàn nghi ngút khói hương và phẩm vật. Một tụng quan bưng khay đặt con gà trống tế đến, cụp mắt nghe nó vươn cổ gáy lần cuối trước khi được hóa kiếp. Ánh dao sáng lóe, con gà cao giọng rồi rũ mình, máu rỏ vào phần rượu để sẵn. Vương hầu tôn thất và quan phẩm trật cao được ban rượu máu để cùng nhau uống, ấy là xong phần lễ thề.

Kế đến, số ít kẻ hầu được giữ lại, còn chúng tôi được cho lui ra ngoài trước khi đền đóng cửa. Ngài tể tướng bên trong đang đọc tên kiểm kê người dự lễ, ai vắng thì chịu phạt năm quan tiền. Tôi vừa đi vừa bất giác nghĩ tới Thăng Phủ, lén lút đảo mắt nhìn rồi thở dài. Tội tình gì tôi phải như thế?

Hội thề đông đúc, nam nữ chen chân vây kín ngoài đền, thỉnh thoảng xô phải hàng cung nhân và Cấm quân túc trực. Tôi chỉ chăm chú nhìn chân mình, lắng nghe nhịp thở dồn dập theo tiếng trống đồng, vốn không để ý dân chúng xung quanh. Đến khi vạt áo phía sau bị giật nhẹ tôi mới hồi thần, nghe người phía sau khe khẽ kêu:

- Cô Cúc!

Quay đầu, liếc mắt. Là Nguyễn Chế, cháu của Tùng.

...

Chiều ấy cung tì và nội thị được cho lui sớm, số ít còn được ra thành xem hội. Không biết từ đâu mà Tùng xin được thủ dụ xuất cung, lại còn đưa cả tôi và Nguyễn Chế theo. Vì lấy danh nghĩa làm việc công, chúng tôi chỉ có hơn một canh giờ để đi dạo. Bảo là dạo chơi, kỳ thực bọn tôi chỉ loanh quanh vô định. Tùng vẫn nhớ tôi đang cư tang, tránh hết các nẻo hội hè. Y dẫn chúng tôi vào chợ hoặc đi dọc bờ sông, xem người ta thả đèn, đốt đèn trời khấn nguyện.

Đêm nay rực rỡ là thế nhưng chẳng bằng một góc đêm hội đèn Quảng Chiếu hồi tháng giêng. Lúc còn hầu Thánh Tư, có lần tôi được theo nàng xuất cung ngay đêm ấy. Ngót trăm chiếc đèn lớn nhỏ bay là đà từ mạn thấp đến tầng cao; ven sông Tô, sông Cái lại có trò thả đèn theo nước. Và đêm nay cũng khác trước đây ở chỗ, tôi hòa vào dòng người nhưng không cách nào hòa vào niềm vui chung. Tôi tựa như người mới tu còn chưa trút hết lòng trần, nhẩn nha loanh quanh, sau rốt nhận ra mình vốn không thuộc về cõi ấy. Tôi không thể nhìn người ta nhấn phím đàn mà tò mò vỗ tay, cũng không thể tranh cãi với lũ choai choai xem đèn trời của ai bay cao, bay xa nhất như trước.

Thế nên tôi vội cho rằng kinh thành rạng rỡ chỉ là bức họa nhiều màu sắc. Nếu ngày kia có ai đốt tranh mất, chắc tôi cũng chẳng thấy tiếc chi. Tới khi nhác thấy bóng người phía xa tôi mới nhủ thầm, hóa ra không phải vậy. Thăng Long luôn luôn đẹp, chỉ là tùy khi, tựa như tôi luôn hoài vọng Trường Yên, nhưng phải tùy lúc.

Đằng xa kia, là Thăng Phủ.

Tùng và Nguyễn Chế đi trước một quãng mà tôi còn nán chân ở đó mãi. Tôi không muốn đi, muốn đến vái chào Thăng Phủ như thể chúng tôi là bạn hữu lâu ngày gặp lại. Có điều nếu chào thật tôi phải chào bằng lễ tôi tớ. Tôi đã nhủ lòng rồi, tội tình gì phải như thế? Đã không kỳ vọng được Thánh Tư che chở, nhẽ nào tôi lại kỳ vọng Thăng Phủ giúp đỡ mình.

Nghĩ bụng như vậy, tôi toan đi, thế nào lại bị Thăng Phủ cùng lúc trông thấy. Chàng huơ tay, vẫy vẫy gọi. Sợ mình sượng mặt giữa chừng, tôi kéo thêm Tùng và Nguyễn Chế sánh bước. Khi đến gần, khom lưng cúi chào tôi mới hay chàng dẫn theo một bé gái tầm bảy, tám tuổi nữa, vẻ như là con gái của chàng. Con bé lễ phép chào chúng tôi, còn chúng tôi rối rít thưa không dám nhận. Chàng khoát tay:

- Cô cậu lớn tuổi hơn con bé, nó chào vậy cũng chẳng việc gì.

Rồi chàng nhìn bàn tay tôi đang nắm tay Nguyễn Chế, cười hỏi:

- Con trai cô Cúc đấy phỏng?

- Nó là cháu họ của anh Tùng. - tôi ngó sang Tùng, lắc đầu - Ví con có chồng thì con trai cũng chẳng đến từng này tuổi.

Biết Nguyễn Chế đang học việc ở phủ Nội Vụ lại có chút chữ nghĩa, chàng bảo:

- Chờ thêm ít năm khéo chừng được cất nhắc. Nhưng đừng tham quái gì Chi hậu cục, cứ đến viện ty bên ngoài, có chữ có tài thì đâu đâu chẳng dùng được.

Ba người lớn vừa đi vừa nói, câu được câu chăng, để hai đứa trẻ chạy hết hàng này đến quầy nọ phía trước. Đi chưa được bao xa, chúng tôi chạm mặt một người thanh niên ăn vận nền nã nhưng mặt mũi không quá ưa nhìn. Thăng Phủ gọi anh ta là Tiết Phu, tiếng chú tiếng bác rất phải phép. Tuy vậy, tôi lờ mờ nhận ra chàng không muốn tiếp chuyện anh ta, tựa hồ còn xa cách hơn khi bảo ban chúng tôi vừa nãy.

Cái tên Tiết Phu nghe rất quen, hình như tôi từng nghe ai đó ở Nội thị sảnh nhắc đến. Kẻ đó nói Tiết Phu là người có tiếng hay Nho trong kinh, nếu anh ta thi Cống sĩ thì tệ lắm cũng đỗ thám hoa. Thăng Phủ là người trọng tài, lại hòa nhã không phân thứ bậc, việc chàng xa cách với Tiết Phu khiến không chỉ mình tôi mà cả Tùng cũng nghi hoặc. Tuy vậy, ngay trước khi y mở miệng tôi đã kịp ghìm y lại, lắc đầu. Dẫu sao đây cũng không phải chuyện liên quan đến bọn tôi.

Thế mà Tùng - người vốn đã mím môi không nói nữa - lại bất ngờ lên tiếng khi Thăng Phủ cáo biệt Tiết Phu, về lại bên này. Y hỏi, có phải tôi mến mộ chàng không.

Cái gật đầu thẳng thắn của tôi khiến y thoáng ngạc nhiên, tranh thủ lí nhí:

- Vì sao thế?

- Vì em thích lệnh bà. - tôi thở dài - Đừng nói với ai nhé.

Hậu quả của việc xuất cung không đúng chức trách, dù đã có người xin giúp, là tôi phải thức trắng đêm làm nốt số công việc bỏ dở từ chiều và những thứ mới được giao phó. Trong cái rủi lại có cái may, vì dư âm hội thề còn dài nên hôm nay không ai gắt gỏng, dễ nổi cáu khi bắt gặp người dưới lơ là. Tôi vì thế mà vừa làm vừa ngáp vắn ngáp dài, vừa nhủ lòng sau này có ai thuê cũng không thèm đi hội chiều tối. Buồn cười là tôi lấy đâu lắm dịp đi như thế? Giả mà có thật, tôi sẽ tranh thủ làm việc cho chóng hết năm, để năm qua năm rồi đến tuổi về quê, cho dẫu về quê chẳng để làm gì.

Mơ màng quét dọn, tôi không nhịn được mà mưu tính tương lai về sau. Tôi muốn lấy chồng, muốn sinh con và nuôi dạy con khôn lớn. Tôi sẽ làm việc quần quật để con tôi được đọc nhiều sách rồi lên kinh làm quan, phẩm thấp cũng chẳng nề hà gì. Hoặc chỉ để con ở lại Trường Yên dạy học, bốc thuốc chữa bệnh tôi cũng lấy làm mừng. Thế nhưng tôi sẽ lấy ai và được ai cưới? Thợ kèn? Hay là một viên nội thị nào đó muốn thoát kiếp quạnh hiu?

Thực ra những gì tôi muốn chỉ giống Thăng Phủ tối qua mà thôi. Ngày làm việc, đêm đưa con dạo khắp phố phường, gặp bè bạn thì dừng lại hàn huyên đôi câu. Bình thường nhường bao, an nhàn nhường bao. Vậy mà với phường làm nông làm nô, việc ấy khó còn hơn lên trời.

Giữa hạ tuần tháng tư, viên phán thủ báo với chúng tôi những người được bổ sung vào chỗ khuyết trong Chi hậu cục. Có tất cả năm thị nữ được điều đi, nhóm người ở lại nhận tin xong vẫn phải làm công việc thường ngày.

Tuy chúng tôi hầu hạ, chạy vặt ở Nội thị sảnh nhưng xét ra không có mấy việc nhọc. Vậy nên thỉnh thoảng khi thiếu người phụ giúp, các ty, viện hoặc cục thường nhờ chúng tôi sang giúp một tay. Giờ đã là cuối tháng tư, sắp tới Tết Đoan Ngọ vào mồng năm tháng năm, đến phiên cánh Ngự thiện bận rộn vì phải gói bánh tro và chuẩn bị cỗ cúng. Ngay hôm ấy mười người được gửi sang giúp đỡ. Cả bọn phải ra cửa Quảng Phúc kiểm kê số dền gai, rơm nếp và bưởi lấy vỏ nấu nước tro. Ít ngày nữa khi gạo nếp nhung đến chúng tôi phải đi thêm một chuyến, sau đó còn nhận thêm măng vòi và các thứ lá gói, tất cả đều chuyển đến phòng bếp.

Không có phán thủ theo sát, chúng thị tì nhẹ nhõm, thoải mái chuyện trò hơn hẳn. Trong khi tôi bận nghe một đồng bạn than thở về việc phải làm sắp tới, chị em xung quanh lại mải nói về tin thăng chức vừa rồi. Dần dà cả hai bị cuốn theo, tôi cũng vờ ra chiều muốn vào Chi hậu cục để khỏi lạc lõng. Bọn chúng tôi cứ thế vừa đi vừa líu ríu nhỏ giọng, mắt thấy sắp đến cửa thành mới dừng lại.

Duyên sai thế nào, tôi gặp lại Thăng Phủ - cũng đang xem xét hàng chuyển vào cung - ở cửa tây. Chàng mặc bào phục màu tím trơn, đội mũ Đinh Tự, trông giống thường phục của các quan phẩm thấp khác. Hễ nghĩ lâu hơn về việc ấy tôi lại tiếc nuối. Chàng tài giỏi lại được hoàng thất họ Trần có uy cất nhắc, vậy mà tận năm nay vẫn chưa được nhập lưu. Nếu là chàng phỏng tôi đã tức mình cáo quan về Trường Yên. Chẳng phải chàng đã nói "có chữ có tài thì đâu đâu chẳng dùng được" sao?

Lo nghĩ làm tôi mất tập trung, vô thức dừng bước nhìn chằm chằm vạt áo của chàng. Chàng đằng ấy cũng đã nhận ra tôi, chờ tôi hồi thần đến gần mới chào hỏi. Đang ở Hoàng thành nên tôi cố sức giữ phép, chỉ cúi đầu vừa giúp việc bên này vừa nhỏ giọng đáp lời chàng bên kia. Bất thình lình, chàng hỏi tôi:

- Cô Cúc muốn vào Chi hậu cục à?

Tôi ngạc nhiên:

- Nào đâu ạ!

- Vừa nãy Phủ nghe cô nói thế nên tò mò. Phủ thấy cô xưa nay không giống phường thích chức tước cao. Nói đúng hơn... - chàng thấp giọng vừa đủ để tôi nghe - Cô Cúc sợ...

Rồi chẳng hiểu sao mà chàng tự ngắt lời mình, trầm ngâm bảo "thôi vậy".

Đại Việt quanh năm nhiều hội hè lễ Tết, lúc không có dịp đặc biệt lại bày thêm trò như xem chèo, nghe hát giải khuây. Thỉnh thoảng người trong cung mời đoàn chèo vào, thỉnh thoảng bề trên lại tự soạn vở, phân cho kẻ dưới diễn rồi xem với nhau. Ty Thái chúc vì thế mà bận bịu, đôi khi còn cần phủ Nội vụ điều thêm người từ Nội thị sảnh sang giúp.

Có mấy bận tôi được vời sang ty ấy, mỗi đợt ở lại khoảng ba bốn ngày. Ba bốn ngày kia hầu như ngày nào tôi cũng gặp Thăng Phủ. Không biết có phải vì quen biết trước, chàng làm việc với tôi ăn ý hơn khi làm việc với những người còn lại. Về sau ty Thái chúc biết cung cách của từng lại viên, xin phủ Nội Vụ điều đúng người đúng việc. Thậm chí đâu đó còn có phong thanh, rằng trưởng ty đã xin được sung thêm số nội thị, cung tì ấy để giải quyết công vụ nhanh và chu toàn hơn.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Com