Truyen2U.Net quay lại rồi đây! Các bạn truy cập Truyen2U.Com. Mong các bạn tiếp tục ủng hộ truy cập tên miền mới này nhé! Mãi yêu... ♥

III.3. PHẦN ĐỜI

III. QUÊ CŨ, BUỒM CĂNG MUỐN TRẨY.
Ở, ĐI! ƠI HỠI LÒNG TA!

3. Phần đời

Tận khi sang thu tin đồn ấy vẫn chưa thành sự thật. Tôi còn ở hoài trong Nội thị sảnh, ty Thái chúc cũng không bổ nhiệm thêm ai. Chúng thị tì, nội thị than phiền bất công vì làm việc ở cả sảnh lẫn ty mà bổng lộc không tăng được trinh nào. Phận thấp cổ bé họng, chúng tôi không thể làm gì khác ngoài cam chịu. Ai cũng thầm mong năm mới chóng đến để được bề trên phát thêm dăm quan, cũng có người trông ngóng năm sau vì đến hạn mười năm, sẽ được thôi việc về quê. Chắc tôi cũng chỉ mong vậy, không hơn. Tôi vẫn đang cố đợi đến năm Hưng Long thứ tám, nghĩa là ba năm nữa, để về lại Trường Yên. Dường như tôi chỉ hợp sống ở những nơi không có gì đáng lưu luyến.

Từ cuối tháng tám, thay vì sang ty Thái chúc tôi lại được đưa sang vườn Ngự để chăm vườn. Tháng chín năm nào Quan gia và tần phi, tần ngự cũng ra vườn ngắm hoa cúc, uống rượu ăn bánh, nên kẻ dưới phải dọn dẹp sẵn, bày trí lại cho gọn gàng. Năm nay không biết nội thị đi đâu mất cả, chỉ để lại bọn thị nữ chúng tôi khiêng hết món này đến món khác. Dời bàn ghế đá, di dịch chậu cảnh, treo lồng chim trên cao... Rồi thì gánh nước tưới, rồi thì vác phân cho quản vườn bón theo mùa. Ngày qua ngày, hầu như không khi nào tôi được nghỉ tay chốc lát.

Nhiều hôm liền quanh quẩn như thế khiến tôi phát ốm, toàn thân rã rời. Bởi vậy lúc bề trên thưởng cảnh tôi không tài nào hầu được, phải dán lưng trên chiếu từ trưa đến chiều muộn. Có khi chập chờn thiếp đi cũng có khi tỉnh ráo, nhưng không khi nào tôi không nghĩ đến Thánh Tư. Ngót một năm tôi không thấy nàng rồi, nếu hôm nay không thể gặp, hẳn phải đợi đến cuối năm.

Không biết Thánh Tư dạo này thế nào? Hỏi là vậy, kì thực tôi biết sau chuyện mất con hồi đầu năm nàng khó mà vui vẻ lên được. Độ trước nàng còn được gặp Thăng Phủ, được nghe khuyên lơn, giờ đây chỉ biết lùi lũi chốn cung cấm. Lời đồn bên ngoài mỗi lúc một nhiều, rằng đường con cháu của Quan gia vắn, hoặc vì Thánh Tư là em ngài nên hai người khó có được một đứa con khoẻ mạnh. Năm nay Quan gia đã hai mươi hai, người hối hả tìm trữ quân chắc chắn không chỉ mình ngài. Ngài vốn không thích chi Vạn Kiếp, việc Thánh Tư không giữ được con nghiễm nhiên trở thành cái cớ để ngài lập con trai của cung phi khác làm hoàng thái tử, để từ rày về sau ngài không phải hoài nghi chi họ ấy nữa...

Suy tưởng đó khiến tôi đang thiêm thiếp cũng phải bật dậy, người co ro, ngón tay ngón chân quắp chặt lại vì ớn lạnh. Thực ra, có đôi lúc không được hầu hạ nàng không phải là bất hạnh, mà trông thấy nàng đau khổ mới thật là bất hạnh của tôi. Tôi là kẻ yếu đuối, không đành tâm buộc mình đau khổ. Chỉ mới tưởng tượng ra những mưu ma chước quỷ đó tôi đã toan trốn tránh, thà là mình không gặp Thánh Tư để không biết nàng buồn vui ra sao. Tôi bây giờ đã muốn làm ngơ nỗi đau của nàng ngay khi nghĩ đến, khác hẳn tôi của trước kia, dễ dàng nấc nghẹn mỗi lần nhớ đến nàng, Quan gia và cả Thăng Phủ. Phải chăng càng có tuổi con người càng ích kỷ? Ai nói người đa đoan rồi sẽ thấu suốt, và người thấu suốt rồi sẽ bao dung, trắc ẩn?

Giữa buổi chiều lê thê trôi đi, chỉ mình tôi lùi lũi trong phòng. Tôi từng thử vùi đầu vào gối chăn để nấc, thế nhưng hốc mắt vẫn ráo hoảnh. Cổ họng còn hoài nghèn nghẹn. Tay chân còn hoài run rẩy. Gian phòng thênh thang thoắt cái trở nên ngột ngạt, buộc tôi phải khoác áo ra ngoài.

Tôi ngồi trên bậu cửa, rõ ràng ngẫm nghĩ nhưng không biết mình đang ngẫm gì. Chắc là, tôi nghĩ về trời thu hôm nay không xanh trong, về đoá mẫu đơn đỏ không rực rỡ như mọi lần, về sân đất còn chưa ráo mưa sao mà hầm hập nóng. Này trời, này hoa, trông từa tựa nhà tôi ở Trường Yên mà lại khác một trời một vực.

Qua lúc lâu thẫn thờ, tôi hồi thần vì ánh vàng cam dìu dịu toả từ mái hiên. Trời không biết đã sập tối từ bao giờ, và một thị nữ trạc tuổi tôi vừa đi thắp hết đèn xung quanh lên. Gió lay đèn chao, ánh sáng khi rạng khi mờ khiến tôi không nhìn rõ mặt thị, phải đến khi thị ngồi xuống bên cạnh tôi mới nhận ra đấy là người ngủ cùng gian nhà với mình. Tôi quen thị đã lâu, vậy mà không ấn tượng gì dầu chỉ là vóc người thị. Không phải do thị nhạt nhoà mà do tôi vô ý quá!

Thị huých tay tôi, nhí nhảnh:

- Ban nãy đi hầu em được ban cốm non chị ạ. Thơm lắm! Còn có cả hồng nữa. Em để cho chị một phần ở chái bếp, lát nữa chị ăn đi nhé.

- Thôi, cô có lòng thì chị mừng vậy, nhưng đang ốm cô ạ. - tôi cười thừa nhận - Đau rát cả họng thế này, nói còn chẳng ra hơi! Cô cứ giữ ăn đi. Nhất là món cốm, hiếm đấy nhé!

Nghe tôi bảo vậy, thị vươn tay sờ trán tôi, than "ôi":

- Phải rồi, ốm thật rồi. Sao chị không chịu vào trong ngồi, nóng hầm hập lại còn ra gió gió, để người chỗ nóng chỗ buốt thế này.

Tôi cười trừ, để mặc thị dìu mình vào trong. Thế rồi vừa dìu thị vừa tíu tít chuyện nọ chuyện kia. Hôm nay hoa cúc trong vườn Ngự nở rộ, vàng rực một góc, Quan gia thích lắm. Người mặc đẹp nhất trong buổi thưởng hoa là ngự nữ Nguyễn Mai. Nàng ấy mặc áo cổ tròn nhạt màu, đứa giữa vườn hoa vàng nom như cánh hoa mơ điểm xuyết giữa chân trời cỏ. Nhưng nhan nói về sắc mặn mà thì phải kể đến Đệ nhị cung phi. Tuổi của bà ấy lớn hơn hầu hết các cung phi, vậy mà càng lâu càng thắm, mắt môi không hằn chút dấu vết gì của thời gian.

Tuy vậy, cái thắm của bà chẳng bõ bèn gì với Quan gia. Quan gia nôn nóng tìm trữ quân, năm nào cũng tuyên thêm khuê nữ vào cung, hoặc lúc vi hành, tình cờ ưng ý một ai lại ngỏ lời vời người ấy đến bầu bạn. Người gần nhất là Đệ tam phi Nguyễn Thị Nguyệt Ảnh, một người con gái phường buôn muối, gặp Quan gia lúc neo thuyền buôn ở bờ. Bổn cũ soạn lại, vị ấy lại vào cung, được thịnh sủng và chờ ngày bị bỏ quên ở một toà nội tẩm năm gian cô độc.

Vòng lẩn quẩn ở hậu cung vô tình biết mấy! Với những người cận kề bên Quan gia thuở tiềm để hoặc từ hồi ngài mới kế vị, họ hiểu thấu hai tiếng "vô tình" hơn bất cứ ai. Mà hiểu lắm chỉ đau lòng lắm. Chung chồng với một người đã oán, chung chồng với mươi người thì oán thêm gấp bội. Mà việc buồn nhất là ngoài oán ra, cung phi chẳng còn biết làm gì.

Suy nghĩ ấy khiến tôi nửa xót nửa buồn cười. Lúc tôi không kìm được ngoác mồm thành tiếng, người con gái đương chăm tôi thảng thốt, huơ huơ tay trước mắt hòng gọi thần hồn tôi trở về. Tôi chộp lấy tay thị, lắc đầu, cố nhịn cười hỏi:

- Em có thấy Thánh Tư phu nhân đâu không?

- Hình như... không. - thị dài giọng - Vừa nãy Vương tần có bảo "Năm nay hoa đẹp mà bà Thánh Tư phải dưỡng thai, không đến xem được, uổng phí quá!"

Vừa cười đó mà tôi sượng người, ngay đơ ra, tựa hồ không tin vào tai mình nữa. Thị nói Thánh Tư lại có thai ư? Nàng còn đau yếu sau kì vượt cạn, mới đó mà có thêm đứa con thứ ba. Quan trọng hơn cả là, tôi e nàng lại sinh ra một hoàng tử vắn số.

Hoàng tử thứ ba của Thánh Tư và Quan gia ra đời vào mùa hạ năm Hưng Long thứ sáu, khi Cấm thành chưa kịp ăn Tết Đoan Ngọ. Ngày Đoan Ngọ vì thế ngay tức khắc được bài bố cẩn thận hòng trừ tà ma, ngăn không để chúng làm hại đứa bé. Cũng trong hai ngày sau khi hoàng tử chào đời, Quan gia vời hết người của Thái sử cục vào xem tinh tượng, tìm xem cung, điện hay thổ nhưỡng ở đâu hợp để nuôi trẻ con. Người ở Nội thị sảnh có cơ may trông thấy Quan gia giữa độ bận rộn ấy, thuật lại với kẻ trong sảnh rằng Quan gia luống cuống lắm. Đêm, ngài và Thánh Tư thay nhau túc trực bên nôi hoàng tử. Ngày, hễ rảnh rỗi là ngài lại xem trát tấu, xem nhanh xem chóng để có thì giờ ghé thăm con trai.

Nghe vậy, khúc mắc trong lòng tôi vơi bớt, cũng nhận ra mình vốn đâu có quyền thắc mắc việc làm của bề trên. Người ta làm thế nào, tôi biết và vâng lời vậy. Hoặc giả không so đo thứ bậc, tôi vẫn là người ngoài cuộc đời Thánh Tư và Quan gia. Tôi có thể vui vì nàng, buồn cùng nàng, âu lo cho nàng nhưng tôi chưa bao giờ là nàng cả. Tôi không hiểu được nàng và những người xung quanh nàng, cớ gì phải cố chấp cho rằng Quan gia yêu nàng, nàng yêu Thăng Phủ, rằng Quan gia bội bạc hay nàng dằn vặt và không muốn có con.

Nếu niềm vui của nàng là một phần niềm vui của tôi, tôi nên để nàng sống cuộc đời nàng muốn và nên tự sống tốt phần mình.

...

Phần sống của tôi, cội nguồn của tôi, Trường Yên của tôi. Kể từ ngày lờ mờ hiểu ra thế nào là "phần đời", chí hồi hương của tôi dâng như sóng cả. Mùa xuân năm Hưng Long thứ bảy là mùa xuân đầu tiên mà tôi không vội về kinh, dù biết chắc dềnh dàng mãi bổng lộc sẽ bị khấu trừ. Mẹ tôi làm tì hai năm, cộng thêm món chắt chiu của tôi nên bấy giờ đã trả được già nửa phần nợ. Vừa hay lão phú làng ấy đổ bệnh, nghe thầy bói bảo gặp hạn tam tai, phải làm việc thiện, giữ mình giữ đức nên tha hết cho người mắc nợ nhà lão. Mẹ tôi nằm trong số ấy, được tha bổng khỏi kiếp trâu ngựa. Món nợ cũng vì thế mà được tạm hoãn lại để chúng tôi sẽ trả dần về sau.

Tết năm nay nhờ mẹ chăm chút mà nhà cửa nom khác hẳn. Sân trước quang quẽ, vườn sau thoáng đãng, nông cụ gọn gàng xếp ở một góc. Tôi lên huyện mua vài cành đào và hoa gói về bày trên bàn thờ, lại lên núi đào hoa cúc về trồng quanh nhà. Đêm ba mươi, nhà tôi cũng chong đèn luộc bánh như bao nhà khác. Mẹ ngồi canh bếp, tôi trải chiếu, cuộn chăn nằm ổ, rồi câu được câu chăng trò chuyện với nhau.

Mẹ kể nhiều về thầy tôi, về giấc mơ đỗ đạt của thầy thuở trẻ và mộng tưởng giàu có trong nháy mắt lúc thầy bỏ đèn sách lên rừng tìm gỗ quý. Rõ ràng đó là một cuộc đời, một sinh mệnh, một ngọn nến từng rực cháy ngay trước mặt tôi. Thế nhưng qua lời kể từ tốn, đôi khi ngắt quãng của mẹ, thầy tôi đột nhiên trở nên xa lạ. Tôi không chắc ngày thơ bé của mình có những ký ức và hình bóng đó. Dường như qua năm qua tháng, tôi lãng quên đi nhiều. Mà thực ra tôi có còn trẻ trung gì đâu!

Như đọc được suy nghĩ của tôi, mẹ thôi kể về thầy, nhìn tôi hỏi nhỏ:

- Đã ưng được ai chưa?

- Con bao tuổi rồi mà còn cái quyền ưng hở mẹ? - tôi cười trừ bảo mẹ, đoạn trù tính - Con gom đủ tiền rồi, thêm một năm nữa sẽ xin quan trên về đây luôn. Mẹ con ta làm ngày nào hay ngày đấy, không nợ cũng chẳng lụy phiền gì ai.

- Thế rồi chuyện chồng con? - mẹ tôi ngạc nhiên - Hai mươi mốt vẫn là con gái. Ngoài kia người ta lấy chồng một chồng hai ra rả, khéo ngoài ba mươi còn thêm ông thứ ba. Cô nhà vừa thắm lại tháo vát thế này, ai dám chê cô!

Tôi lăn sang gối đầu lên đùi mẹ, vùi mặt vào áo vải sờn phai thơm mùi nắng và mùi khói bếp. Tôi biết chứ, hai nhăm tuổi vẫn là đàn bà con gái chứ có biến thành đàn ông bao giờ, nhưng ai sẽ chịu thú tôi về làm vợ lẽ nàng hầu? Hay rồi tôi phải lấy một người kém duyên như tôi, hai người cao tuổi mới sinh con, để con tôi sống đời thiếu thốn chơ vơ như tôi vậy? Nếu có con, tôi không mong con phải ngả đầu vào chiếc áo sờn chỉ và ám mùi lam lũ, cũng không muốn nó vì túng thiếu mà phải làm nô bộc, phải thích chữ lên trán như tôi.

Có lẽ tôi trái ngược với người đời. Thuở sống cạnh quý nhân tôi chỉ biết đau thay cái đau của người ta. Tôi thấy trên đời không ai đáng thương như Thánh Tư, như Quan gia, như Thăng Phủ. Tôi thấy cảnh khó xử của nhà vua chúa khi anh em lấy nhau theo di huấn, con cái đoản mệnh khiến thầy mẹ đau khổ. Tôi muốn thoát khỏi phận tôi đòi để bảo bọc lấy người con gái thương mến ấy, muốn rời khỏi chức trách hầu hạ để bầu bạn với người tôi ngưỡng vọng, nhưng tôi không nghĩ đến lòng mong mỏi của người khác. Người ta có từng mang một niềm mong chờ nào can hệ đến tôi đâu. Làm gì có ai ưa phường không biết thân biết phận, huống hồ, thân phận và phần đời của tôi đáng lo hơn họ nữa kìa.

Chao ôi, dở khóc dở cười! Vì sao tôi trắc ẩn với thế nhân, trừ mình, mà vẫn vắng duyên với Bụt nhỉ? Đáng nhẽ tôi nên rời trần tục mà sống đời thanh tu đi.

Tôi giếm hết những suy nghĩ ấy trong lòng, mặc mình thiêm thiếp trên đùi mẹ. Mẹ thoạt đầu còn vuốt tóc, vỗ về và hát ru tôi như hồi bé, càng về sau tiếng hát càng nhỏ dần, chỉ còn tiếng lửa nổ lép bép trong đêm.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Com