IV.2. LẶNG GIÓ
IV. NGỦ DẬY NGỎ SONG MÂY,
XUÂN VỀ VẪN CHỬA HAY
2. Lặng gió
Tuy đã nhìn nhận khác về thế nhân và chính mình, tôi vẫn không tài nào lạc quan thêm. Hoặc chính ra tôi đang lạc quan trong vô thức, và sự lạc quan quá mức ấy sinh ra bình thản. Cuối hạ, tôi bất thình lình được điều về Song Hương đường hầu hạ Thánh Tư phu nhân. Chúng bạn xung quanh bảo tôi thăng chức vì Thánh Tư sinh được hoàng tử rồi, nay mai sẽ trở thành hoàng hậu. Từ nô tì làm việc nặng, việc vặt mà được hầu bên chân hoàng hậu, ôi oai phong biết bao!
Tôi nghe mà cười thầm trong lòng. Rõ là khi trước họ rỉ tai nhau, tôi chuyển từ hậu cung đến Nội thị sảnh nghĩa là thăng chức, chưa chi đã bảo ngược lại rồi. Vả lại, nhẽ nào người ta không thấy Quan gia vẫn chưa phong Đông cung?! Bằng thái độ gấp gáp tìm trữ quân trước nay của vua tôi, không có chiếu chỉ sắc phong đã đành, nay một lời tuyên cáo cũng chẳng có. Tôi đoán là Quan gia đang sợ, còn sợ đứa trẻ yểu mệnh hay sợ chi Vạn Kiếp kéo thêm vây cánh thì tôi không biết. Nếu suy xét thật kỹ, hẳn là ngài sợ việc thứ nhất hơn; vì sau khi hoàng tử thứ ba sống sót phe phái triều đình đã chuyển dời nhiều, khó lòng áp chế tất thảy.
Thực ra tôi cũng chẳng cao siêu đến độ ngờ được những việc ấy. Chẳng là vào buổi chiều cuối cùng trước khi dời đi, tôi đến phủ Nội vụ nhận đồ, tình cờ gặp Thăng Phủ ở hành lang sau. Thường ngày chàng ra về rất sớm, đường từ ty Thái chúc đến đây lại xa lắc, không thể nào tình cờ đi qua. Quả nhiên, chàng đến vì công vụ. Tôi cúi người như chào hỏi rồi toan đi thẳng, nào ngờ được chàng nhỏ giọng gọi lại:
- Nghe nói cô Cúc sắp về hầu lệnh bà?
- Vâng, ngày mai ông ạ.
- Siêu còn đang định hỏi cô có muốn học chữ không, thế mà cô phải đi rồi.
Trong ánh chiều đang loang lổ hơi đêm, tôi không thể nhìn rõ nét mặt, chỉ mơ hồ thấy chàng vừa nhoẻn môi. Giọng chàng có gì đó như là thở than tiếc nuối, nhưng những thanh âm cuối cứ nhỏ dần, khiến tôi không nghe được gì nữa. Rồi chàng điềm nhiên trở lại:
- Cô chờ tôi một lát nhé.
Áng chừng một khắc sau, chàng quay lại với túi vải trên tay, đánh mắt bảo tôi đi theo chàng. Vừa dẫn bước chàng vừa hỏi tôi đôi ba việc ngoài lề, thỉnh thoảng cảm thán hoặc vô ý nhắc vài câu về chính sự hiện tại. Nhờ vậy mà tôi biết hậu cung có những ai mưu toan bắt tay với lại viên ở điện tiền, cũng bắt đầu đoán được ý tứ bề trên về chuyện sắc phong trữ quân.
Ở đoạn cuối đường về, chàng bắt đầu thả chậm bước, nhẹ giọng kể với tôi về chính chàng và giấc mộng ngao du xa xăm. Tôi hỏi chàng về ngón gảy đàn bà lỗ của Chiêm Thành chàng học được từ ty Thái chúc, về sườn núi trồng đầy hoa kim cúc, về gia quyến của chàng, về những gì tôi vừa nghĩ ra được. Thăng Phủ trả lời từng câu một, cũng kiên nhẫn và từ tốn tựa như hồi Tết. Hoặc giả hôm nay cũng là hôm ấy, chúng tôi cũng là chúng tôi ấy, có điều đoạn kết sẽ khác đi.
Trước kia tôi và chàng chia tay nhau ở đầu ngõ vào nhà, hôm nay chúng tôi cách biệt nhau nơi cửa cung, sau tường son và lầu vàng gác ngọc. Cũ mới đan xen khiến tôi khó nén thở dài. Chàng hiểu ý tôi, cũng cười cười thở dài y vậy.
Nhưng Thăng Phủ, chàng hiểu gì? Và chàng hiểu bao nhiêu?
Cuối cùng, tôi lấy hết dũng cảm hỏi chàng:
- Ông... có muốn nhắn gửi gì... cho lệnh bà không?
Chàng thoáng ngơ ngẩn, kế đến nhíu mày nghiêm giọng:
- Sao lại hỏi vậy?
Tôi không biết tỏ ý thế nào, cứ ấp úng mãi. Thăng Phủ lắc đầu, kể như bỏ qua việc ấy. Đoạn chàng rút từ trong tay áo một quyển sổ con trang bìa sờn cũ, vừa trao cho tôi vừa dặn:
- Lúc chưa rành mặt chữ Siêu thường chép từ, vẽ tranh vào quyển này để tự mày mò. Cô Cúc có ít chữ rồi, đọc kỹ là hiểu ngay.
Tôi mím môi, nhận sổ và nhận lời, không hề thắc mắc.
...
Ngoài dự kiến của tôi, số tiền chắt chiu bấy lâu vẫn không đủ để trả nợ thay thầy. Thế không có nghĩa mẹ và tôi không đủ sức kiếm dăm đồng mà vì món nợ thầy để lại đột ngột tăng lên. Một ngày, một người đàn ông đến từ châu Khoái tự xưng là chủ nợ mang theo giấy đất đến đòi thầy tôi. Tôi đột nhiên nhớ lại, chắc mười mươi việc thầy mang hoa lan lên bán ở châu Khoái năm nào có liên quan đến ông ta. Hỏi lại, hóa ra là như vậy thật, song hoa lan ấy không phải bán mà là mang đến gán nợ...
Ngay hôm đó, mẹ đổ bệnh. Có lẽ cả mẹ và tôi đều tưởng người chết là hết, đớn đau đeo đẳng biết bao năm cuối cùng cũng hết, vậy mà, không.
Ngoài thở dài và tiếp tục cố gắng tôi không còn biết làm gì hơn. Tôi cũng không dám để mẹ làm thuê hay làm việc gì nặng, dặn mẹ bòn vườn bán qua ngày rồi lấy số lẻ tiền trả nợ dùng dần, việc chuộc lại mảnh đất hãy để tôi. Mẹ lượng sức, ừ hử, đành vậy.
Và thế là tôi ở lại kinh thành thêm dăm năm. Dăm năm ấy không biết dài bao nhiêu nên tôi không hứa hẹn, chỉ bảo với mẹ khi nào đủ tiền sẽ về. Thực ra không về ngay cũng tốt. Từ Trường Yên, tôi ôm mộng đổi vận lên kinh làm tì, thế nên một ngày còn lưu lại Thăng Long là một ngày giấc mơ nọ chưa tan nát. Cầm bằng về quê, có lẽ tôi phải thừa nhận mình vô dụng như lời mẹ từng nói, sống lận đận, gượng gạo cho đến cuối đời.
Thật ra nói cho cùng vì Trường Yên không có gì níu được tôi hoặc khiến tôi thoả mãn suốt đời, nên thà rằng trốn tránh không về. Còn Thăng Long? Tôi từng cho rằng mình thoả mãn với phù hoa kinh kỳ, sau rốt mới nhận ra không phải vậy. Thứ đong đầy lòng tôi hôm nay chỉ đơn giản là mùa thu ở Song Hương đường, là vạt nắng mềm rơi trên mái ngói lưu ly, là cơn gió se thơm ổi thơm quýt, là sương chùng chình trong vườn chuối xanh um.
Đó là khi cây bưởi sân trước sân sai quả, từng quả một vàng ươm lủng lẳng trên cành cao chờ Tùng hái xuống. Đó là khi mưa giông nhiều sét, hoàng tử oe oe khóc, khóc mệt rồi lại thiếp đi trong vòng tay mẹ. Đó là khi Thánh Tư gác hết việc hằng ngày lại, ngồi ở cửa sau nghe tiếng mưa rơi trên tàu lá chuối, đôi mắt thẫn thờ như hồi tưởng điều gì. Đó là khi lũ hầu bế hoàng tử ra sân sưởi nắng, để Thánh Tư đọc sách cho cậu nghe, dù cậu chẳng hiểu gì và cứ cười toe vơ vẩn.
Mùa thu, không ngày nào Song Hương đường thiếu những cuộc chè nước. Đôi lúc Thánh Tư và cung phi hội họp nhau ở chiếu tam cúc hoặc ngắm hoa cúc, kể chuyện nhàn. Cách dăm ngày thị tì cung này lại mang bánh quả sang biếu điện kia, để điện kia đáp lễ bằng một gói hoa có đủ các thứ mộc, chi tử, điểm xuyết là vài cánh lá và sắc đỏ của loài mẫu đơn.
Thỉnh thoảng Quan gia lại ghé ngang, vừa hay Thánh Tư đang đun dở nồi nước gội. Ngài sẽ xăm xắn vào quạt lò và giúp nàng pha nước, xối tóc. Ngài sẽ bế con khi nàng ngồi trước gương chải đầu. Rồi tựa như những gia đình đến độ nông nhàn, chồng đàn, vợ hát, con trẻ vọc con ngựa gỗ bên chõng tre. Đêm trăng thanh, Quan gia nổi hứng ngâm nga đôi câu, Thánh Tư hí hoáy chép lại. Nàng nói sau này sẽ mang thơ của ngài chép thành một tập, để hậu thế in ra, lưu truyền.
Quý thu năm Hưng Long thứ bảy này nàng cũng nhận được vài bức thư từ quê. Có khi người ở Vạn Kiếp gửi tin rằng Hưng Đạo đại vương ốm, nàng lại cuống quít không biết phải làm thế nào. Vừa đó lại có thêm thư bảo ông đã khỏi rồi, dặn nàng đừng bận lòng quá. Thánh Tư không yên tâm, thỉnh ý Quan gia để cuối năm nay xuôi Vạn Kiếp thăm ông. Có điều cuối năm chưa đến nàng đã phải hoãn chuyến đi lại vì con trai đổ bệnh.
Tất cả chúng tôi, kể cả Quan gia và nàng đều chẳng ngờ được ấy là lần sinh bệnh cuối cùng của đứa trẻ. Bởi tháng mười một cùng năm ấy, hoàng tử qua đời.
Dường như đó là vận mệnh của Thánh Tư, thứ mệnh đời mà cả chồng nàng là con trời cũng chẳng thể giúp nàng chống lại. Nếu cuộc đời là một chiếu bạc, người thiếu phụ ấy hồ như thua sạch. Nàng mang hết niên hoa và hạnh phúc của mình cược vào những sinh mệnh vắn số, cuối cùng, tất cả đều hóa thành hư vô. Những tưởng đến thế là thôi, nào ngờ trời vẫn ác ý trêu ngươi. Cùng lúc với tang sự của hoàng tử, Thánh Tư biết tin mình có mang đã hai tháng. Nhưng lần này nàng không còn hơi sức để chăm chút bản thân hay con trẻ. Gương mặt trái xoan gầy quắt, ánh mắt ngập ngụa tuyệt vọng. Nàng ngăn thái y bẩm với Quan gia, lại còn bình tĩnh hỏi Ngàn, "Ta phải làm sao với nó đây?".
Chúng tôi không biết nói gì ngoài quỳ sụp xuống, van lạy nàng an lòng dưỡng sức chờ ngày sinh con. Thế nhưng phải an bằng cách nào? Người ngoài như chúng tôi còn khó cầm lòng tuyệt vọng, huống hồ là Thánh Tư. Nàng có được rồi lại mất đi, lại có được và lại đánh mất lần nữa, lần kế nữa. Ai cam đoan lần sinh nở thứ tư này sẽ suôn sẻ, để con nàng được sống và trưởng thành chứ không phải về trời sau một canh, một ngày, một tuần, một tháng hay một năm.
Không. Không một ai cam đoan cả!
Người phàm trần ai rồi cũng bị bóng ma đeo bám. Với Thánh Tư, bóng ma ấy là sự ra đi của ba đứa con trai của nàng.
Thánh Tư là người hiền huệ nhất tôi từng gặp, hơn cả người mẹ một lòng thờ chồng của tôi. Giữa chốn lạnh bạc lắm điều phù dù này, nàng là người đầu tiên trân trọng tôi mặc kệ thân phận tôi thấp kém, cũng là người đầu tiên không nề hà thứ bậc mà che chở cho tôi khi tôi nhỡ sai quấy. Mấy năm xa cách không làm lòng kính ngưỡng, thương mến của tôi dành cho nàng vơi bớt, có chăng chỉ làm dày thêm. Thế nên sau những chuyện xảy đến với nàng, tôi xin không về quê ăn Tết. Tôi biết nhìn người mình quý mến khổ đau và tuyệt vọng khiến mình bất lực, đau đáu lắm chứ, nhưng vẫn mong được bầu bạn với nàng. Cho dù tôi chỉ được kề cạnh nàng sau cánh cửa gỗ chạm trổ rườm rà. Cho dù nàng không cần kẻ hầu, chị em tần phi tần ngự hay Quan gia. Cho dù với nàng bây giờ, mọi niềm luyến thương đều có thể biến thành điều gì đó hãi hùng trong thoáng chốc.
Cho dù gắng giấu giếm đến đâu, việc Quan gia biết Thánh Tư hoài long thai là điều khó tránh. Tôi còn nhớ hôm ấy trời đỏ quạch, âm u mà không mưa. Mây nặng nề đè từ mái ngói xuống sát lưng người, nén không khí trong phổi thành thứ gì sền sệt khó bề thông thoáng. Khi kẻ dưới người bận nấu thuốc cho Thánh Tư, kẻ mang y phục đã khô vào kịp thời mưa đổ, Quan gia thình lình xuất hiện, long nhan lạnh lùng, bước chân như nện. Ngài xăm xăm băng vào chính tẩm nơi Thánh Tư đang ngồi xe sợi, nội thị theo hầu khom lưng khép cửa, lấm lét bảo chúng tôi đừng lắm lời.
Chúng tôi vâng dạ, không dám bỏ dở việc đang làm, lại lo Thánh Tư xảy ra sự không hay. Thành thử cả bọn làm hết sức qua loa, tai lúc nào cũng dỏng lên lắng nghe lời người bên trong. Ngặt nỗi sân trước cách chính tẩm không gần, gió trời lại lồng lộng ù vang bên tai, chẳng ai trong đám hầu biết chủ mình đang nói những gì. Trừ phi Thánh Tư kêu gào hoặc Quan gia cáu giận quát mắng, mà hai điều ấy xem như bất khả thi. Cả nàng và ngài đều quá sáng suốt, đến độ biết chốn cùng đường sẽ có hố lửa hai người vẫn bình thản mà đi.
Mà thực ra có khi cái sáng suốt ấy chỉ là vẻ ngoài. Phàm nhân là người trong cuộc cờ của con tạo. Vì không một ai là người ngoài nên không một ai hoàn toàn tỉnh táo.
Ngàn là đứa hầu duy nhất có cơ hội nghe lỏm vì bấy giờ đương ở vườn sau, không ai quản thúc. Sau buổi ấy, chúng tôi nghe kể rằng Quan gia và Thánh Tư chẳng hỏi han hằn học gì nhau, chỉ sững người nhìn nhau như thế. Hương tàn lò lạnh, ngài đột ngột sải bước đến ôm chầm lấy nàng. Ngài tuyệt không hé nửa lời về đứa con đang tượng hình trong bụng nàng, mà chính nàng mới là người lên tiếng trước:
"Em sẽ không yêu nó đâu. Hễ em yêu thương một ai thì người ấy mất cả. Em không muốn tuyệt vọng nữa."
Ngài vỗ nhẹ lên lưng nàng, ừ hử. Qua giọng kể đều đều của Ngàn, tôi như thấy đôi mắt Quan gia khép hờ và cánh môi Thánh Tư đang tái đi, run rẩy. Nàng đã khóc trong hơi ấm xa xỉ ấy. Vừa khóc nàng vừa nhỏ nhẻ hỏi:
"Quan gia à, có phải nếu không hi vọng người đời sẽ không tuyệt vọng không?"
- Rồi Quan gia đáp thế nào? - tôi không cầm được lòng hỏi.
Ngàn thở dài sụp vai, mặt buồn xo, đoạn tươi tỉnh lên đôi chút, bảo với chúng tôi:
- Quan gia trông như thế đấy. Ngài còn nói "Con trẻ không có lỗi, nếu đổ hết lên đầu nó nó sẽ u uất sinh bệnh. Chẳng nhẽ em muốn con giống hai chúng ta?"
Nghe vậy, người xung quanh Ngàn cả kinh hít một hơi sâu, riêng tôi lại thẫn thờ lo nghĩ. Tôi như thấy đâu đó hình bóng mẹ mình trong Thánh Tư, còn tôi là đứa con sắp chào đời của nàng. Khi thương yêu của mình chỉ chuốc lấy sầu đau cho người ta, Thánh Tư thậm chí muốn bỏ mặc con nàng, để nó hạnh phúc. Lẽ nào mẹ với tôi cũng thế? Không phải mẹ không cần, không thương tôi mà do bà giếm tình thương đó đi. Nguồn cơn cơ sự ấy là gì? Là việc thầy bỏ mẹ con tôi lên rừng hay vì như mẹ thường kể, ông bà ngoại mất, họ hàng nhà ngoại mất, những người xung quanh mẹ không một ai có chút phúc phần?
Suy tưởng ấy làm tôi thoắt buồn thoắt vui. Hoá ra bấy lâu mẹ vẫn yêu tôi trong khi tôi một lòng gieo tiếng oán. Tôi yêu mẹ, kính mẹ vì đạo hiếu của một đứa con hơn là vì tôi muốn thế. Từ bé đến lớn, vì dỗi mẹ, cứ mỗi lần mẹ mang quà bánh về cho tôi tôi lại vờ ngó lơ. Lâu dần thành quen, mẹ lạnh lùng với tôi mà tôi cũng ngang ngạnh chẳng kém. Dù sau việc thầy nhảy núi hai bên có hoà hoãn đôi chút, song chẳng thấm thía. Tôi vẫn thấy gường gượng mỗi khi mẹ đả động đến những việc tôi cho là riêng tư. Không ít lần mẹ gửi thư lên, bảo nhà nọ nhà kia có ý dạm ngõ tôi đều gạt phăng đi, với ý nghĩ rằng mẹ muốn gả tôi ngay cho rảnh nợ, nào có thương yêu lo lắng gì.
Thì ra là vậy. Tôi mười lăm tuổi và tôi hai mươi ba vẫn chẳng khác gì nhau.
Tôi đã sống nửa đời người, có khi lạc giữa xô bồ cũng có khi tìm về yên ả. Ở Hoàng thành tôi quen đủ loại người, từ đáng kính đến đáng khinh, từ quân tử đến bọn đớn hèn ưa bợ đỡ, thích làm cao. Những tưởng đã đủ sức nhìn thấu người xung quanh, thế nên tôi tin chắc mẹ tôi là người ích kỷ. Tôi đối xử với bà bằng trách nhiệm và sự hằn học, ngượng nghịu suốt hai mươi mấy năm mà bà chẳng có lần oán thán. Bấy giờ ngoảnh lại, tôi mới hay mình khờ dại và cố chấp biết bao.
Đêm ấy đến phiên tôi gác phòng. Không rõ có phải phiên của Tùng không mà y đứng cạnh tôi, hệt như cái hồi chúng tôi mới đến Song Hương đường. Nhớ ngày nào tôi buột miệng cảm thán với y "thời gian trôi nhanh quá", vậy mà thấm thoắt đã sáu năm qua. Tôi cố hồi tưởng ký ức của mình và quê nhà Trường Yên trong sáu năm ròng kia, nhưng tuyệt không có gì. Nếu có, đó chỉ là cảnh thầy tôi nằm gục ven suối, máu nhuộm hồng con nước. Một hồi ức khác đẹp đẽ hơn lại chẳng liên quan gì đến mẹ, thể như suốt sáu năm đấy tôi đã cố lờ đi sự tồn tại của thân sinh mình.
Gió mùa đông rét mướt tràn đến, đèn lồng mờ trên cao chao đảo, lập loè. Tôi co gối, vùi đầu vào hai cánh tay, vừa suy nghĩ vừa run rẩy. Thình lình một tấm áo rơi lên vai, trượt hờ rồi nằm im đó. Áo không quá dày, còn vương hơi ấm và thoảng mùi hoa bưởi dịu êm. Tôi ngẩng đầu, bắt gặp ánh mắt chăm chú lo lắng của Tùng, đành cười cười tỏ vẻ không sao. Thật ra tôi cũng đâu có sao, nhỉ?
Tùng ngồi xuống cạnh bên, sóng vai tôi nhìn ra màn đêm giăng mù sân trước. Nơi trời thấp loé lên một ánh chớp, rọi sáng cả sân. Nếu lát nữa có mưa chúng tôi sẽ được về ngủ, nhưng không rõ vì sao tôi ước trời cứ buốt giá và âm u thế này mãi. Tốt nhất, trời đừng bao giờ đến sáng ngày. Tôi muốn ngồi ở đây lâu thêm.
Hiềm nỗi không phải bao giờ cũng "cầu được ước thấy". Tôi vừa nhen nhóm nghĩ vậy trên cao đã bắt đầu rắc mưa. Lúc mưa to hơn, thấy tôi vẫn ngồi trơ như phỗng Tùng choàng tay kéo chiếc áo trên người tôi sít lại, rồi chính y cũng ngồi sít vào tôi.
- Lạnh không? - y hỏi.
Tôi lắc đầu, đáp lời y bằng câu hỏi không liên quan:
- Quê anh tận châu Diễn nhỉ? Mùa này ở đó ra sao?
- Không rét như ngoài này nhưng cũng một chín một mười đấy. Nhiều mưa và nhiều sương lắm.
- Sao năm nay anh không về quê?
Chắc y không ngờ tôi hỏi vậy, ngập ngừng nói:
- Thong thả cũng được. Dù gì quê anh cũng chẳng còn ai.
- Thế còn Nguyễn Chế? Cu cậu cũng không về như anh sao?
Tùng nghĩ ngợi, lắc đầu. Y buông tiếng thở dài rất nhạt, nhỏ nhẹ:
- Nó xem anh là thầy, anh xem nó là con. Thầy đâu con đấy, quê nhà cũng ở đấy. Đi làm chi cho nhọc. Nó cũng chẳng thiết tha châu Diễn nữa rồi.
Thế rồi cả hai nhất tề im lặng, nép vào nhau nghe mưa bay ngoài hiên. Đêm nay rất yên, tiếng trời buông mưa phùn khẽ vậy mà tôi nghe rõ mồn một bên tai. Tôi tưởng như mình đang đứng dưới mưa chứ không ở dưới mái che, cả người ướt sũng, lạnh buốt và không lối về. Nếu cơn mưa này đổ ở Trường Yên, mẹ có thấy giá lạnh và chơ vơ như tôi?
Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Com