IV. 3. TẠ TỪ
IV. NGỦ DẬY NGỎ SONG MÂY,
XUÂN VỀ VẪN CHỬA HAY
3. Tạ từ
Tôi cứ tưởng mình không nhớ nhà cực đỗi, nhưng vẻ như đã lầm. Sự nhớ hôm nay không đơn thuần là vì xa quê mà còn vì tôi băn khoăn về mẹ. Thực tình dù đã nghĩ ngợi sắp hết mùa xuân tôi vẫn chưa hiểu được lòng bà. Việc bà có thương yêu tôi không còn là câu hỏi đang để ngỏ. Biết rằng sắp tới về quê sẽ có dịp để hỏi, nhưng thực tâm tôi không cho là vậy. Tôi ngại nhận được lời xác thực từ mẹ, tức nghĩa ngại nhận phần lỗi về mình. Xem ra gió bụi tha phương không giúp tôi gột bớt cái tính ương bướng ấy.
Trong những ngày xuân nhàm chán và hoang hoải này, điều duy nhất bầu bạn với tôi không phải một ai trong Song Hương đường, mà bất ngờ là quyển sổ con của Thăng Phủ. Tôi đọc chậm rãi, vừa đọc vừa mân mê từng mép giấy, tưởng như được lướt tay qua những năm tháng mình chưa quen biết chàng.
Nét bút trong sổ càng lúc càng cứng cáp, số chữ của tôi cũng nhiều dần. Thời gian thoi đưa, thế thái tót vời mỗi lúc một rệu rã, chỉ có tôi và chàng tựa hồi khởi điểm. Có lẽ chúng tôi đã đắm cùng một luồng hơi xuân, say mê cùng một bầu trời, nghe cùng nhau những yêu oán trong Hoàng thành, nhưng không bao giờ có điều gì chung ngoài những thứ ấy. Điểm chung nọ bao gồm cả việc gặp lại nhau.
Hoàng thành vẫn ngày ngày chộn rộn, không vì điều này cũng vì lời kia. Quan gia đi vi hành đêm, bị vô lại ném trúng đầu. Hoạn lộ của trung tán Đoàn Nhữ Hài sau việc thay Quan gia dâng biểu tạ tội với Thượng hoàng ngày càng phất lên như diều gặp gió. Thăng Phủ được bổ nhiệm lại vào Hàn lâm viện. Thánh Tư phu nhân sinh. Hoàng phi Huy Tư sinh. Và Hưng Đạo Đại vương khuất.
Chừng ấy đã là tháng tám năm Hưng Long thứ tám. Ngọn núi sừng sững của lớp tông thất họ Trần đầu tiên sụp đổ, đất trời tuy không chao đảo nhưng cũng u ám mất mấy tháng lẻ. Đại Việt chìm trong nước mắt của cao xanh, sơn hà đẫm trong u uẩn nơi thế thái. Vậy mà ngoài ý muốn của tôi, Thánh Tư chỉ về Vạn Kiếp dăm hôm, không nán lại buồn thương quá lâu. Ngàn lí nhí, lệnh bà sợ rồi. Lệnh bà bảo hễ bà thương ai thì người đó biệt dạng. Nếu bà lạnh lùng với người ta, có lẽ kiếp này và cả kiếp sau, người ta sẽ có phúc.
Tôi bấy giờ không theo đến Vạn Kiếp, chỉ biết mường tượng tất thảy theo cảm tính. Sẽ có ai ở buổi phát tang? Người ta sẽ hát khúc gì tiễn đưa linh cữu ngài Hưng Đạo? Còn ngài Hưng Đạo bên trong áo quan đó, sau khi kết thúc một đời kiến nghiệp của mình, ngài sẽ là ai? Hoặc chăng chỉ là một nhúm tro tàn còn lại, một danh xưng giữa thế nhân, một điểm chói giữa muôn vàn đau đớn của triều đại Đông A.
Năm tháng qua đi, vĩ nhân qua đi, thời đại qua đi, kiếp người vốn chẳng là gì so với thời gian. Ngoảnh đi ngoảnh lại đã già, tóc xanh pha sương chờ ngày rơi rụng. Có phải bất cứ việc gì con người làm đều nực cười và không lượng sức? Người ta muốn thay đổi thời đại nhưng chỉ có thể chờ, và thời đại mới là thứ buộc người ta xoay vần theo nó.
Tôi đột nhiên hiểu ra nỗi lòng của mẹ và Thánh Tư. Có lẽ chúng tôi đều như nhau, quá tuyệt vọng khi đối mặt với sự khổng lồ của vận mệnh. Nếu việc làm nào cũng vô nghĩa, nếu yêu thương luôn là lời rủa, nếu chờ đợi luôn đổi lại bội phản và xa cách, chi bằng người ta mặc kệ đi?!
Khi tôi hồi thần từ mông muội, mực trong quyển sổ con của Thăng Phủ đã nhoè.
Dường như không cách nào cứu vãn.
Tôi hay tin mẹ ốm vào một chiều thu muộn, khi đã về thăm mẹ hai lần và sắp sửa đến lần thứ ba. Sự đời trớ trêu, mẹ đau nặng rồi không qua khỏi lúc tôi còn đương trên kinh bận bịu. Hẳn tôi là đứa con duy nhất về nhìn mẹ mình lần cuối khi mẹ đã vào quan, trong khi dưới gối bà chỉ có mình tôi là con, quanh bà cũng chẳng còn ai thân thích. Bảo không tự trách là giả, nhưng rằng tự trách lại khiên cưỡng quá. Tôi không hiểu được lòng mình bấy giờ bởi chính ra trong đấy chẳng còn gì để hiểu. Ruột gan lòng mề đã quẳng ở xó xỉnh nào đấy, chỉ còn tôi như cái xác không hồn.
Không có hồn thì tự trách thế nào đây!
Sau tang mẹ tôi còn nhiều việc phải làm lắm, ví như trả nợ cho lão phú, ví như chuộc lại căn nhà đã bị thầy mang đi vay tiền. Nhưng ngay cả khi đã táng mẹ ở vườn sau rồi tôi vẫn chẳng thiết tha gì được. Nếu lúc thầy mất tôi chấn chỉnh để đỡ đần mẹ, thì giờ chẳng còn ai để tôi đỡ đần. Thầy mẹ mất cả, tôi thân đơn bóng chiếc, cố gắng trả nợ cũng chẳng thêm được gì. Thế rồi cũng về trời một mình. Thế rồi dứt nợ thế nhân nhưng còn nguyên nợ hiếu chưa trả.
Thầy mất còn mẹ, mẹ mất còn tôi. Chỉ cần trên đời còn một ai thuộc dòng dõi nhà này thì sau khi tôi đi, tất thảy tiếng thơm lẫn danh xấu, của cải lẫn nợ nần đều để lại cho người ấy. May mắn thay, ngoài tôi ra không còn ai nữa. Và may mắn, tôi vốn không phải người thích gánh trách nhiệm với người ngoài. Những ý nghĩ đó như mồi lửa quẳng vào đồng cỏ khô, hừng hực trong đầu. Trái với cõi lòng, khắp người tôi lạnh lẽo khôn cùng, nhờ vậy mà càng điềm tĩnh. Kể từ ngày mẹ mất, đây mới thực là lần đầu tiên tôi tỉnh táo xét đoán rồi làm một việc.
Quý Mão, mùa đông năm Hưng Long thứ mười một, tôi xin Thánh Tư được về Trường Yên canh mộ mẹ. Đương hát ru cho công chúa đã lên ba, nàng thảng thốt nhìn tôi, đoạn thở dài ra chiều buồn bã. Nàng bảo, nếu muốn về quê, chờ thêm hai năm rồi lấy chồng để kịp thời xuân sắc thì nàng ưng thuận. Cầm bằng tôi chỉ về quê để ở vậy, nàng nhất quyết không cho. Nàng nói ở trong cung tôi sẽ có bạn, có người chăm sóc, còn về Trường Yên chỉ có cô độc. Chưa kể tôi với nàng thâm giao hay cùng là phận đàn bà, chỉ riêng việc tôi dành xuân thì để bầu bạn và hầu hạ nàng, trông nàng từ bến khổ đau lên bờ yên ổn đã đủ khiến nàng không nỡ nhìn tôi lay lắt.
Tôi đành bịa mình có ý gầy dựng gia đình thật, có vậy nàng mới yên tâm. Trước ngày đi, tôi cố tìm đủ đồng bạn ở Song Hương đường lẫn phủ Nội vụ, Nội thị sảnh để bái biệt. Chưa chuyến đi nào mà tôi dứt khoát như chuyến lần này. Kể cả quyển sổ của Thăng Phủ kia... tôi cũng chỉ lướt nhẹ tay qua rồi tiếp tục thu vén. Nước và bèo lại hoàn bèo nước thôi.
Người cuối cùng tôi gặp ở Thăng Long này là Thăng Phủ. Chàng bấy giờ vẫn mặc áo bào tím nhưng không còn là người vuốt ve đàn sáo, tùy thời soạn nhạc mà đã về với chốn văn chương Nho học của chàng. Bào phục chàng khoác như có phong vị gì khác xưa, hẳn là đĩnh đạc hơn và thong dong hơn. Sau rốt tôi cũng tìm được điểm chung của cả hai, đó là không bị điều tiếng và danh lợi trần gian ràng buộc.
Chỉ là cách chúng tôi làm lơ, phủi bỏ không giống nhau.
Tôi gửi quyển sổ lại cho chàng và nói lời tạ từ rất chóng. Chàng hỏi tôi học được bao nhiêu chữ rồi, tôi cười cười:
- Vẫn chưa đủ để làm bạn với ông ạ.
- Thế thì làm học trò. Tôi không mở trường nhưng có nhận môn đệ, cô Cúc có muốn học không?
Trước câu trêu của chàng tôi chỉ biết thu khóe môi lại, cúi đầu:
- Ông cứ đùa... Thực tình không kịp đâu ạ.
- Đời người còn dài mà, Cúc.
Chàng rũ mắt, mím môi như đang cân nhắc. Tôi nhớ được một việc, bèn gợi lại cho chàng:
- Còn giấc mộng du hồ của ông? Nguyên Tương, Vũ huyệt. Tam Ngô, Bách Việt. Giang hồ mênh mông chờ người vùng vẫy. Trần gian trăm điều chờ người thấu triệt. Ông phải đi xa, đi nhiều mới có điều kể với cháu con, cầm bằng ở lại dạy học cho con thì lấy đâu ra tích tuồng nữa ạ.
Còn nhiều câu nữa mà tôi không nói với chàng, chỉ nhủ thầm trong lòng khi đã xoay gót ra đi. Tôi muốn bầu bạn với chàng trên từng dặm trường ngao du, muốn trông thấy chàng cả khi phóng khoáng, ung dung lẫn hồi lạnh lùng, đạo mạo. Tôi muốn bên cạnh chàng, dõi theo chàng đi tu công kiến nghiệp. Vậy nên, xin chàng được tạ từ ở đây.
Cũng như mẹ tôi và Thánh Tư khi hoài thai công chúa, tôi tin lòng yêu thương thực sự được đổi bằng xa cách. Chỉ khi xa cách mới có vẹn toàn.
Tôi lên Thăng Long năm mười lăm tuổi, đến nay hai mươi bảy, ngụ chốn kinh thành đã được mười hai năm. Sống đã không gần nhà, chết không thể xa quê. Tôi muốn về bầu bạn với mẹ tôi ở vườn sau, bầu bạn với núi trời Trường Yên, với khóm hoa kim cúc tôi trồng trước nhà. Hồi ức buồn vui về Thăng Long, những đêm hội chỉ thuộc về dương gian phồn hoa rồi sẽ được gói lại thành một vốc nước trong tay. Còn tôi, tôi là người buông tay trả nước về với sông, với biển.
Tôi tưởng như mình là người học thiền, ngồi tĩnh tại ở chính gian trống hoác, khoanh chân đặt tay ngay ngắn. Cơn mưa sau cùng của trần thế không dập tắt được ngọn lửa đang bùng lên từ mái tranh. Xác xơ, điêu tàn đến đâu, vào thời khắc tôi ngã xuống, khép mắt cũng hóa thành đèn trời rực rỡ.
Nếu nhà tôi là một ngọn đèn đêm Trung Nguyên năm sau, tôi sẽ gửi gắm vào đấy ước nguyện cuối cùng, để nó bay thật xa.
Làm cây trong rừng, làm đá trong khe, làm phù vân vắt ngang núi nhỏ.
HẾT
_______________
Ta đa *tung bông* (ノ◕ヮ◕)ノ*.✧
Cuối cùng cũng viết được một truyện dài tầm 25 nghìn chữ hê hê. Yêu bản thân quá!!!
Thực ra dự định ban đầu của mình là kết thúc khác, không phải trò tự thiêu, nhưng tự dưng đi hết mạch truyện lại cảm thấy dư thừa. Có lẽ mọi người đọc đến đây sẽ có cảm giác kết vội, riêng mình cũng thấy vội :)))
Nói đùa chứ, mình thì không, vì mình còn định viết ngoại truyện mà. Mình kết ở đây phần vì thoả mãn bản thân, phần vì cảm thấy hợp lý, phần vì không rành viết chuyện tình yêu sến lụa hihi. Ngoại truyện tất nhiên sẽ toàn là yêu đương sến lụa nhưng kết cục có khi không khá hơn :)) Chắc tui có thù với tình yêu hay gì á!
Mà trước hết phải tự chúc mừng bản thân đã. Mình đào biết bao nhiêu hố, cuối cùng cũng có một hố hoàn như dự kiến, trong số chương dự kiến nè!!!
Yêu thương mọi người vì đã đọc ủng hộ, và yêu thương tui nữa =v=
Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Com