exulansis. (!)
Couple: Đồng Tiên
( Đồng Ánh Quỳnh x Tóc Tiên)
Exulansis: xu hướng từ bỏ việc chia sẻ về một trải nghiệm của bạn vì bạn nghĩ mọi người không thể hiểu nó.
(!): 6.000 từ. Không quá lan man, vừa đủ cho bài "Ta yêu nhau như yêu đất nước" - Khắc Việt và Dương Hoàng Yến.
_______________________________________
Hà Nội tiễn tôi đi bằng một sáng sương mỏng. Ga Hàng Cỏ đông nghịt người, nhưng chẳng ai nói to. Không biết có phải vì xúc động, hay vì người Hà Nội vốn nói khẽ.
Cũng có thể vì chúng tôi - những người lên đường - chẳng ai muốn mang theo tiếng ồn ào vào miền lửa đạn.
Chúng tôi chỉ mang những thứ nhẹ nhàng thôi: lý tưởng, niềm tin, và một ít ảnh thẻ của người thân phòng khi hy sinh.
Tôi là Đồng Ánh Quỳnh - nữ chiến sĩ tình nguyện, quê ở phố Bát Sứ. Tôi không đẹp. Mẹ tôi nói tôi giống bố, trán cao, mắt sáng, nhưng cứng đầu. Từ bé đã thích trèo cây hơn thêu thùa.
Năm 22 tuổi, tôi viết đơn xin gia nhập đội thanh niên xung phong đi B. Không ai bảo tôi làm vậy. Chỉ là tôi đã nghe nhiều bản tin thời sự đến mức không thể ngồi yên.
Chuyến tàu từ ga Hàng Cỏ vào Vinh kéo dài qua một đêm. Gió thốc qua cửa sổ tàu như ai thổi vào gáy tôi một lời nhắc: “Từ nay không được phép yếu lòng nữa, Quỳnh ơi.”
Tôi siết balô chặt hơn, bên trong có một lá thư mẹ viết, dặn dò ba điều: “Ăn kỹ. Ngủ sâu. Và nếu con yêu ai thì hãy yêu người biết đặt tổ quốc lên trước.”
Đến Vinh, chúng tôi hành quân tiếp vào Quảng Trị. Rồi từ đó men theo tuyến đường mòn Hồ Chí Minh mà đi.
Tôi chưa từng nghĩ đôi chân mình có thể bước qua bao nhiêu bom cày, đạn xới. Có lần đi qua một khu rừng vừa bị máy bay rải thảm, tôi bỗng nhớ mùi cốm làng Vòng đến cồn cào, trong khi dưới chân mình là lá cây còn dính máu khô của đồng đội.
Chúng tôi cắm trại ở Trường Sơn gần một tuần. Mưa dầm. Đêm nào cũng nghe tiếng thú hoang và tiếng ho khù khụ từ lán bên cạnh. Ấy vậy mà không ai bỏ cuộc. Có người mất cả gia đình ngoài Bắc. Có người để vợ mới cưới lại sau lưng. Nhưng ai cũng đi, vì một miền Nam chưa thấy mặt mà đã gọi bằng hai chữ “quê hương”.
Tôi nhớ rất rõ ngày đầu tiên mình đặt chân tới một cơ sở y tế dã chiến gần biên giới Quảng Đức. Người ta giao tôi nhiệm vụ tiếp lương, khiêng thương binh và viết nhật ký giao ban. Tôi không giỏi y tế, nhưng biết đọc, biết viết, nên được phân công hỗ trợ trạm xá.
Tôi không biết, chính nơi ấy, tôi sẽ gặp người mà cả phần đời sau này, tôi không thể nào quên.
Nắng miền Nam lạ lắm. Không gay gắt như tôi nghĩ. Nhưng cứ âm ỉ cháy trên cổ áo, trên đôi bàn tay gầy, và cả nơi lòng ngực trái - nơi tôi giấu lá thư của mẹ, dặn rằng nếu có về muộn, thì cứ viết rằng: "Con gái mẹ vẫn an toàn ở chiến trường."
Tôi đặt chân tới trạm xá vào một buổi trưa oi ả đầu tháng Ba. Chuyến xe chở tôi cùng vài ba chiến sĩ khác dừng lại bên bìa rừng. Từ xa, Sài Gòn như một bức tranh loang màu khói. Không hẳn là thành phố. Không hẳn là làng.
Một vùng chập chờn giữa âm thanh của súng đạn và hơi thở nén lại của những người chờ tự do.
Khi tôi bước xuống xe, người đầu tiên tôi gặp là chị. Chị đứng ngay bên mái tôn gỉ của trạm y tế tạm, áo blouse nhăn nhúm, quần ka-ki dính bùn, tay đang buộc lại mớ bông gạc vừa giặt. Tóc chị buộc vội thành búi, vài sợi bung ra dưới vành nón mềm, ướt mồ hôi.
Một đồng chí chạy lại giới thiệu ngắn gọn.
"Đây là bác sĩ Nguyễn Khoa Tóc Tiên. Còn đây là Đồng Ánh Quỳnh, chi viện từ Bắc vào, phân công về tuyến này.”
Chị ngẩng lên, nhìn tôi. Tôi không biết diễn tả sao ánh mắt ấy. Nó vừa mỏi, vừa dịu, lại như có điều gì đã mất mát rất lâu rồi.
Chị đưa tay ra bắt. Bàn tay chị mảnh nhưng cứng rắn.
“Chào em.”
Chị nói, giọng khản nhẹ như thể vừa qua đêm không ngủ.
“Mừng là em tới kịp. Chúng tôi cần thêm người biết phân loại thuốc. Em học y à?”
“Dạ không, em học văn. Nhưng từng theo đội cứu thương ở Bắc Giang.”
Tôi đáp, cố giữ bình tĩnh khi tim đập mạnh vì một lý do nào đó không tên.
“Văn cũng tốt. Ở đây nhiều người mất máu, nhưng thiếu nhất là người biết nói những lời không đau.”
“Theo chị. Mình có ca mới sáng nay.”
Rồi chị quay đi, bước vào trong lán.
Và thế là tôi đi theo chị. Cứ như thế, không cần nhiều lý do hơn.
Chị không nhìn lại. Nhưng tôi thì nhìn - cả bóng lưng, cả bước chân lẫn cái cách chị xốc lại vai khi đi qua bãi đất toàn ổ gà. Có thứ gì đó trong tôi vừa thắt lại, mà tôi không gọi được tên.
Chỉ biết, tôi đã đến Sài Gòn.
Và gặp chị Tiên.
_______________________________________
Có những con người, khi vừa gặp, lòng mình đã biết: nếu một ngày phải mất đi, chắc chắn sẽ đau đến chết.
Tôi thấy chị là người như thế.
Tôi không biết rõ chị bao nhiêu tuổi, chỉ nghe người trong trạm hay gọi là “bác sĩ Tiên”, có người thì thân mật hơn một chút gọi “chị Ba” - theo kiểu miền Nam.
Tôi không dám gọi gì cả. Chỉ dám gọi là "chị". Gọn. Mà gần. Dù cái gần đó, thật ra rất xa.
Có lần tôi hỏi một đồng đội trong cùng đơn vị.
“Sao chị ấy không đi theo tuyến viện lớn mà ở đây?”
“Nghe đâu nhà giàu lắm, có thân thế. Nhưng hồi đi học y, chị ấy tự chọn đăng ký tuyến ẩn. Nói là: chỗ nào cần nhất, tôi đi.”
Người kia nhún vai và đáp như thế.
Tôi không bất ngờ.
Ngay cả khi chị ngủ gục bên bàn kê thuốc, tóc rối bời và áo vẫn dính vết máu khô, chị vẫn đẹp. Không phải cái đẹp của người chải chuốt, mà là thứ đẹp khiến người ta ngừng nói năng.
Đẹp vì sự gồng gánh lặng lẽ.
Đẹp vì chẳng cần ai khen cũng đã khiến mình muốn làm điều gì đó cho chị.
Một ngày nọ trong căn cứ dã chiến, tôi nhận nhiệm vụ chuyển thuốc và bông băng từ hậu cứ lên một trạm y tế tạm đặt trong xóm đạo gần Chợ Lớn. Đi theo tôi là chị - bác sĩ Nguyễn Khoa Tóc Tiên, người được các anh lớn nhắc đến như ánh sáng trong lòng địch.
Trên xe thồ, tiếng xích xe cọt kẹt như hơi thở của một thành phố kiệt sức. Chúng tôi đi sát mép rạch Bến Nghé, dưới ánh nắng đầu hạ. Chị đi bên tôi, tay cầm chặt quai túi vải, mắt nhìn thẳng. Đôi khi tôi liếc sang, ngỡ như nhìn thấy một người con gái nào đó của Sài Gòn xưa: áo dài trắng, tóc đen, tay ôm tập vở.. Nếu không phải vì vết bẩn trên tay áo và mùi thuốc sát trùng cứ phảng phất quanh chị.
“Tóc Tiên là tên thật hả chị?”
Tôi hỏi, như thể hỏi để phá tan khoảng lặng giữa hai người lính cùng đi một hướng.
“Má tôi đặt. Nói là mong tôi sống đẹp như những lọn tóc mềm.”
Chị cười nhẹ, cái cười thoáng qua như gió lướt mặt nước.
Tôi quay đi, sợ mình đỏ mặt. Không biết vì câu nói dịu dàng đó, hay vì ánh nhìn chị dành cho trời chiều lúc ấy.
Sài Gòn bấy giờ im lặng đến lạ. Tiếng còi xe thưa thớt, tiếng người cũng ít. Chỉ có tiếng lá me đuổi nhau trong gió và tiếng lòng tôi lỡ chệch một nhịp.
Đến trạm y tế, tôi phụ chị kê lại giường gấp, trải drap vải. Một chiến sĩ trẻ bị thương ở vai đang thở khó. Chị Tiên cúi xuống, khẽ nói vào tai cậu ấy:
“Ráng lên. Sắp tới ngày rồi. Cố giữ một phần máu lại để mà chứng kiến nó chảy đỏ trên lá cờ giải phóng.”
Tôi cũng thấy chị nắn lại cánh tay cho một chiến sĩ bị trật khớp mà không hề nhăn mặt. Ngón tay chị vừa mạnh vừa khéo.
Tôi thấy chị dỗ một cô gái bị bom làm bỏng mất nửa má, rằng:
“Rồi em sẽ về, trồng hoa. Người thương em sẽ không nhìn em bằng đôi mắt tội nghiệp, mà bằng sự kính phục.”
Tôi không biết chị Tiên từng mất gì. Nhưng tôi chắc, chị không còn sợ mất nữa.
Lúc ấy, tôi chỉ nghĩ: Chị không phải là một bác sĩ. Chị là một người mang hy vọng đi rải khắp các con phố đã lãng quên niềm tin.
Buổi tối, tôi xin phép ghé qua nhà dân để mượn cây kim may vá. Áo tôi rách vai. Chị đi cùng, nói là “Sợ em đi một mình lạc, lỡ chạm phải lính cảnh sát ngụy thì phiền.”
“Tôi mang súng mà.”
Tôi cười và trả lời như thế.
“Súng không làm người ta bớt cô đơn.”
Tôi nhìn chị. Lần đầu tiên thấy được trong mắt chị có một nỗi buồn rất sâu. Như thể chị đã chứng kiến quá nhiều người đi rồi không trở lại
Như thể, chị cũng đã từng đợi một ai đó, nhưng không còn ai để đợi nữa.
Đêm đó, tôi không ngủ được. Chị Tiên nằm bên kia mùng, cách tôi một lớp vải mỏng. Nhưng giọng nói của chị thì vọng lại rất gần.
“Quỳnh nè..”
“Vâng?”
“Nếu sau này..sau ngày toàn thắng và chị vẫn còn sống, Quỳnh có cho chị ra Hà Nội ăn cốm không?”
Tôi cười, nhưng thấy nước mắt rơi xuống gối. Đôi khi, lời hẹn đẹp nhất là lời hẹn được nói ra trong khi người ta chưa chắc chắn có thể sống để thực hiện nó.
Sài Gòn lúc đó không còn là thành phố.
Nó là một vùng nửa sống nửa chết, treo lơ lửng giữa khói lửa và hy vọng.
Đêm ở trạm, tiếng trực thăng lúc xa lúc gần, rì rì trên đầu như tiếng gọi của địa ngục. Chúng tôi ngủ luân phiên, ai cũng mệt, ai cũng sợ. Nhưng không ai dám nói điều đó ra.
Chị Tiên vẫn vậy. Vẫn làm việc như thể không có khái niệm về thời gian.
Có đêm tôi thức giấc, thấy chị ngồi bên bếp than đã tắt, tay vẫn cầm bút viết báo cáo. Gương mặt chị khi ấy không cứng rắn, không kiên cường. Chỉ là mệt. Mệt đến không có sức mà buồn.
Tôi lặng lẽ bước lại, đặt miếng bánh khô lên bàn, rồi quay đi.
“Em không ăn à?”
Chị hỏi, giọng khản nhưng vẫn nhẹ.
“Em không đói. Để phần chị.”
Tôi không quay lại nhưng vẫn đáp lời chị.
Một lát sau, tôi nghe tiếng giấy sột soạt. Rồi tiếng chị rất khẽ, như nói với chính mình.
“Có người để dành cho mình..cũng là một điều xa xỉ.”
Có một lần, tôi đã từng hỏi chị trong lúc gói thuốc, rằng có "Chị có ai đợi không?"
“Chắc là không. Còn em?”
Chị cười, giọng nhỏ đến mức tôi tưởng tiếng mưa bên mái rơi vào câu trả lời.
Tôi cũng cười. Nhưng không trả lời.
Vì từ lúc gặp chị, tôi mới thấy.. Có những điều mình muốn đợi hơn cả chính mình.
Đêm Sài Gòn tháng Ba, tiếng đạn pháo đã gần hơn. Nhưng trái tim của tôi - Đồng Ánh Quỳnh, một cô gái Hà Nội vào Nam - lại chưa từng loạn nhịp đến thế.
Tất cả là vì có một người con gái tên Tóc Tiên, mang ánh sáng của Sài Gòn vào cả những ngày đen tối nhất.
Tôi học cách làm việc cạnh chị Tiên - không hỏi nhiều, không ngập ngừng. Chị không thích ai nói quá nhiều. Nhưng có một điều tôi sớm nhận ra: chị không bao giờ để một vết thương lặng lẽ rỉ máu.
Mỗi lần có thương binh vào, chị luôn nhìn họ rất lâu, như để đoán xem họ đã trải qua gì trước khi gãy một xương, trước khi mất một phần thân thể.
Tôi từng chứng kiến chị quỳ xuống, cúi đầu bên một người lính miền Bắc vừa trút hơi thở cuối cùng. Rồi chị đứng dậy, lau tay và tiếp tục cứu người kế tiếp.
Tôi thấy mình nhỏ lại trong bóng của chị. Nhưng kỳ lạ, càng nhỏ, tôi càng muốn lớn lên.
Để cho xứng với đôi mắt đó.
Có một buổi chiều trời mưa như xé. Một cậu bé tầm chín, mười tuổi, bị mảnh pháo cứa trúng ngực, được đồng đội cõng vào. Cậu bé khóc không ra tiếng. Người ướt như cái áo cũ ai quên ngoài trời.
Chị cúi xuống, xé áo cậu bé ra, tay ấn chặt lên miệng vết thương.
“Đưa dao mổ.”
Chị nói với tôi.
Tôi đưa. Nhưng tay run.
“Em sợ à?”
Tôi gật đầu.
Chị không nhìn tôi. Chị chỉ nói:
“Không sao. Cứ run. Miễn đừng buông tay.”
Chúng tôi cùng giữ vết thương đó - một mạng sống nhỏ xíu giữa tiếng mưa và mùi máu. Và khi tim đứa bé đập lại, tôi thấy chị nghiêng đầu, cười rất nhẹ.
Nhẹ đến mức nếu tôi không dán mắt vào chị, chắc sẽ tưởng mình mơ.
Kể từ hôm đó, tôi biết, nếu có một điều khiến người như chị vẫn còn cười, thì tôi cũng muốn giữ điều đó cho chị.
Dù bằng bất cứ giá nào.
Và đó là lúc, tình cảm bắt đầu chảy ngược vào tôi - như dòng máu từ một vết thương sâu, không đau lúc đầu, nhưng càng về sau, càng không cầm nổi nữa.
_______________________________________
Gần cuối tháng Tư. Mùa mưa đến sớm.
Sài Gòn trĩu xuống bằng không khí như đặc quánh lại, cứ như cả thành phố đang nín thở.
Tin thắng trận dồn dập từ Tây Nguyên, rồi miền Trung. Đồn đoán về ngày giải phóng lan nhanh như lửa cháy đồng. Ai cũng bận. Mắt người lính nào cũng căng máu, tay bác sĩ nào cũng không ngơi nghỉ.
Và rồi, lệnh đến.
Chị Tiên bước ra, lặng lẽ ngồi xuống bên cạnh.
Chúng tôi ngồi bên nhau như thế, rất lâu, giữa tiếng mưa rơi và mùi đất nồng nặc. Không ai nói gì. Chỉ có tiếng nước nhỏ giọt từ mái tôn xuống vũng đất lầy.
“Chị đi thật sao?”
Tôi hỏi, giọng mình nghèn nghẹn.
“Ừ. Đợt này vào sâu hơn, tuyến B nhiều thương binh lắm. Họ cần người có kinh nghiệm.”
“Em thì phải về lại Hà Nội, mang công văn và báo cáo quân lương.”
Tôi quay sang nhìn chị. Dưới ánh đèn dầu lờ mờ, khuôn mặt chị trắng bệch đi vì thiếu ngủ, nhưng ánh mắt vẫn sáng và tĩnh như mọi lần.
Tôi ghét cái ánh mắt đó. Nó quá bình thản cho một cuộc chia ly.
“Chị có thể từ chối.”
“Em cũng vậy.”
Chị mỉm cười, một nụ cười nhói như kim găm dưới lồng ngực.
“Nhưng nếu cả hai cùng từ chối thì ai giữ đất nước cho tụi nhỏ mai sau đây Quỳnh?”
Tôi cúi đầu. Mưa vẫn rơi.
Chị siết tay tôi - bàn tay lạnh như nước nhưng lại làm tôi run vì lửa.
“Quỳnh.”
Chị gọi tên tôi, chỉ vậy thôi.
Tôi biết. Không cần ai nói, tôi biết.
Là lần cuối cùng.
Tôi kéo chị vào phòng, căn phòng nhỏ sau trạm y tế, nơi góc có cây đàn harmonica cũ chưa kịp sửa.
Mùi đất ẩm, mùi tóc chị, mùi của nỗi sợ, của lời thề chưa kịp nói thành tên.
Tôi đặt chị xuống giường, chậm rãi cởi từng lớp áo trận đầy bụi đỏ như cởi bỏ những lần mạnh mẽ đã gồng gánh.
Chị nhìn tôi. Đôi mắt ấy vừa run rẩy vừa tin tưởng.
“Chị nguyện vì đất nước mà hy sinh. Nhưng cũng vì em..chị sẽ sống sót trở về.”
“Chị hứa?”
“Chị hứa.”
Tôi cười. Cười như sắp khóc.
“Vậy em hứa, khi về tới Hà Nội, em sẽ nói kĩ hơn với bố mẹ. Em sẽ đợi ngày giải phóng để quay lại đây, cùng với ba mẹ. Em sẽ quay lại đây để hỏi cưới chị đàng hoàng.”
Chị nhìn tôi rất lâu. Lần đầu tiên trong suốt những tháng bên nhau, ánh mắt ấy không còn là của một người bác sĩ.
Mà là của một người phụ nữ yêu và đang được yêu.
“Vậy đêm nay để chị làm vợ Quỳnh trước khi chị làm chiến sĩ.”
Nụ hôn của chúng tôi không vội vã.
Nó nặng như câu thề khắc dưới đạn bom.
Nó mềm như tay ai vuốt lên mái tóc đã từng cạo đi vì chấy, vì chiến tranh.
Nó sâu như lòng mẹ chờ con ngoài bến nước.
Cơ thể chị nằm dưới tôi, như một bông sen nở muộn giữa vùng đầm lầy chiến sự.
Chúng tôi thuộc về nhau trong lặng thinh.
Trong tiếng mưa.
Trong hơi thở gấp gáp của hai người trẻ đang sống như thể sẽ không bao giờ còn ngày mai.
Khi tất cả qua đi, chị Tiên gối đầu lên ngực tôi, tay đan chặt lấy tay. Tôi cảm nhận được nhịp tim chị - vẫn vững vàng như những nhịp đập đã chữa lành bao nhiêu sinh mạng.
Chị hôn nhẹ vào ngực tôi, nơi trái tim đang vỡ vụn vì thương.
“Đây là em. Đồng Ánh Quỳnh của chị. Người chị thương cuối cùng.”
Chúng tôi lại lần nữa yêu nhau như thể không có sáng mai. Như thể đêm ấy là cả đời.
Sau tất cả, chị dựa đầu vào ngực tôi, giọng nhỏ như một câu ca dao đã mất, trước khi chị chìm vào giấc ngủ vì mệt nhoài.
“Sau này nếu chúng ta có con, chị muốn con sẽ mang họ em. Dù là con trai hay gái, đều sẽ biết, mẹ nó từng hôn ai giữa lòng Tổ quốc.”
Tôi chỉ ôm chị chặt hơn. Bởi không có lời nào đủ, cho một đêm cuối.
Chỉ có trái tim vỗ vào nhau như sóng vỗ bờ, như đang khẩn cầu: Đừng quên. Đừng quên. Đừng quên.
Sáng hôm sau, trời hửng nắng.
Chị đi về hướng Tây Nam, tôi về hướng Bắc.
Chúng tôi không quay đầu. Vì quay đầu sẽ khóc.
Mà lính thì không khóc.
Chỉ có hai trái tim biết - đêm qua, có hai người phụ nữ đã cưới nhau bằng tất cả những gì họ có thể tin tưởng giữa chiến tranh.
Trái tim của tôi, tôi trao cho chị, trao cho một phần của Tổ quốc thân thương này.
_______________________________________
Tôi ngồi bên cửa sổ toa tàu, dựa đầu vào lớp kính đã mờ hơi nước.
Sáng nay trời vẫn còn ẩm lạnh. Mưa chưa dứt hẳn, cứ như đất trời không nỡ tiễn người.
Tàu rời ga Sài Gòn lúc 6 giờ sáng, lặng lẽ trôi qua những dãy nhà thấp lụp xụp, qua những con đường từng đêm tôi và chị Tiên đi tuần nhau giữa trạm xá và tiền trạm.
Nắng buổi sáng rọi vào mi mắt tôi, nhưng lòng tôi lại tối như đêm hôm qua.
Tôi không mang gì nhiều, ngoài tấm hình chụp vội hôm lễ mừng chiến thắng Đồng Xoài, có chị Tiên đứng nghiêm, tay còn cầm ống nghe tim. Ánh mắt chị trong ảnh không nhìn vào ống kính, mà đang quay sang một góc xa xôi.
Chắc là về phía tôi, khi ấy đang ngồi giấu mình giữa đám lính cười đùa.
Tôi đưa tay lần nhẹ lên gương mặt chị trong ảnh. Chị vẫn thế, vẫn là người phụ nữ tôi muốn đưa về nhà, cài trâm cho và gọi một tiếng “vợ”.
Nhưng giờ thì tôi chỉ có thể đi về phía Bắc, một mình.
Tàu đi qua mỗi vùng đất, mỗi ga xép, tôi lại thấy tim mình co thắt.
Đi qua Nha Trang - nơi lần đầu tôi thấy chị ngồi thâu đêm bó bột cho một chiến sĩ bị cụt chân.
Đi qua Đà Nẵng - nơi chị kể rằng đã từng mất một đồng đội thân nhất chỉ vì thiếu một viên kháng sinh.
Đi qua Huế - nơi lần đầu chị cầm tay tôi khi tôi sốt rét run cả người.
Tôi đi ngang qua tất cả.
Và bỏ chị lại sau lưng, giữa một Sài Gòn mưa rả rích.
Đêm xuống, toa tàu lạnh. Tôi ngồi thu mình vào ghế, quấn chiếc áo khoác quân phục cũ của chị, mùi hăng hắc của iodine và thuốc sát trùng vẫn còn vương lại. Mỗi lần ngửi thấy, tôi lại hình dung chị đang đứng gần, tay đặt lên trán tôi, hỏi một câu quen thuộc:
“Hôm nay ăn cơm chưa?”
Không ai hỏi nữa. Tôi cũng không trả lời nữa.
Người ta nói: “Người đi xa nhất không phải là người rời bỏ, mà là người còn sống.”
Tôi sống. Nhưng tôi không biết làm sao để tiếp tục đi mà không có chị.
Tôi hy vọng, tôi mong cầu, và tôi tin là chị cũng đang sống.
Tôi về đến Hà Nội đúng sáng mùng 2 tháng 4. Trời Hà Nội không mưa, nhưng gió rét cuối mùa lại quất từng cơn vào mặt như muốn tát tỉnh.
Tôi giao công văn xong, không ở lại Bộ Tư lệnh. Tôi về nhà với bố mẹ.
“Lần này tưởng con ở trong ấy luôn.”
Ba tôi thấy tôi liền nói, giọng đã khàn theo năm tháng.
“Con có hứa với người ta đâu mà không về.”
Mẹ tôi thì không hỏi thêm. Nhưng đêm đó, bà lặng lẽ vào phòng tôi, thấy tôi đang gấp một bộ đồ dài trắng, đặt cạnh một nắm trầu cau đã chọn.
“Con thương ai rồi phải không?”
“Mẹ.. Con thương một người. Người ta đặt Tổ quốc lên trước cả bản thân mình. Nhưng chị là phụ nữ, có được không mẹ?"
Bà không nói gì thêm. Chỉ ngồi xuống bên giường, nắm tay tôi.
"Nếu nó thương con thiệt, mẹ sẽ theo con vào. Nếu nó mất rồi..mẹ cũng đi với con, để con có người đứng sau lưng khi quỳ trước bàn thờ.”
Tôi khóc. Khóc như chưa từng khóc.
Mẹ tôi không lau nước mắt. Bà chỉ vuốt tóc tôi như ngày tôi còn nằm nôi, hay thò tay vào túi mẹ lấy hạt dẻ rang.
Tôi bắt đầu viết thư cho chị Tiên. Không gửi được. Nhưng vẫn viết.
Viết mỗi ngày một trang, kể đủ mọi thứ: trời Hà Nội hôm nay ra sao, mẹ có mua hoa huệ cắm bàn thờ, còn tôi thì vẫn giữ nguyên chiếc khăn tay dính máu chị từng đưa cho.
Mỗi lần nghe tiếng còi tàu từ ga Hàng Cỏ vọng về, tim tôi lại giật thót.
Tôi sợ..
Sợ một ngày, người ta mang tin về.
Hoặc tệ hơn, không ai mang gì cả.
Để tôi sống với một khoảng lặng suốt đời.
_______________________________________
Sáng ngày 30 tháng Tư năm 1975, Hà Nội đổ nắng.
Từ đầu hôm, người người trong phố đã rạo rực. Có điều gì đó lan trong không khí - như tiếng ve đầu hè, như khói bếp của mẹ dậy sớm thổi cơm cúng ông bà.
Tôi không rõ. Tôi chỉ nghe lòng mình cồn cào một cách vô cớ.
Chừng đến giữa buổi, tiếng loa truyền thanh vang khắp dãy phố:
“Mời các bạn nghe tin chiến thắng chúng tôi mới nhận. Đúng 11 giờ 30 phít, quân ta tiến vào Sài Gòn, đánh chiếm Dinh Độc Lập. Bộ Tổng tham mưu ngụy - Dương Văn Minh đầu hàng vô điều kiện. Cờ đỏ sao vàng phấp phới tung bay trên nóc Dinh Độc Lập. Chiến dịch Hồ Chí Minh toàn thắng!"
Cả phố bùng lên.
Người ta ôm nhau khóc, trẻ con chạy nhảy như trẩy hội. Mấy bà má xóm trên ôm mặt, gào “Hoà bình rồi!” như đứa con đi xa vừa trở về.
Cờ đỏ sao vàng rợp cả bầu trời.
Tôi đứng lặng trong sân, tay vẫn cầm chặt nắm trầu cau tôi định sẽ mang vào lại miền Nam. Chiếc khăn tay trắng thêu chữ “NKTT” nằm trong túi ngực, ướt mồ hôi.
“Chị à..Hòa bình rồi đó. Em đến bên chị ngay đây Tiên ơi.”
Tôi lặng lẽ bước ra khỏi nhà, đi qua phố Phan Đình Phùng, qua hồ Trúc Bạch, đến trước cổng Bưu điện Bờ Hồ.
Chẳng vì lý do gì. Chỉ là tôi đã từng nói với chị:
"Nếu Hà Nội hôm nào mát, em sẽ ra Bờ Hồ viết thư cho chị.”
Hôm nay trời mát. Nhưng tôi không viết. Tôi chỉ ngồi.
Chừng quá trưa, khi người người vẫn còn reo hò ngoài đường, thì tôi nhận được thư.
Một người đàn ông mặc áo lính trông khá quen mắt bước lại, hỏi đúng tên tôi. Tay ông run khi chìa ra phong bì đóng dấu đỏ.
Tôi không mở vội. Nhưng cũng không dám đợi lâu.
Ngay khi đọc dòng đầu tiên, tay tôi buông rơi nắm trầu cau.
“Đồng chí Nguyễn Khoa Tóc Tiên đã anh dũng hy sinh trong khi làm nhiệm vụ tại tuyến Trảng Bàng, cách Sài Gòn 40km về phía Tây Bắc, vào ngày 27 tháng 4..”
Ngày 27 tháng 4.
Cách ngày tôi rời trạm y tế đúng một tuần.
Cách ngày chiến tranh kết thúc chỉ ba ngày.
Cách ngày tôi dự định quay vào Sài Gòn để xin cưới chị chỉ năm ngày.
Tôi cười, cổ họng khô khốc chẳng phát ra được thứ âm thanh gì.
Tôi cười trong khi mắt không rơi nổi một giọt lệ nào.
“Chị Tiên.. Hòa bình về rồi này..Chị ở đâu rồi, Nguyễn Khoa Tóc Tiên?”
Đêm đó, Hà Nội vẫn tưng bừng ánh đèn. Pháo hoa không có, nhưng ánh sáng từ đài phát thanh, từ từng căn gác nhỏ chiếu xuống mặt đường như sao rơi giữa lòng người.
Tôi ngồi một mình trong phòng, bên tai là niềm vui chiến thắng, trong lòng ôm di vật: một sợi dây chuyền bạc lấm máu, một trang nhật ký gấp đôi, vài dòng cuối viết vội bằng nét chữ chị:
“Nếu tôi có nằm lại nơi đây, xin hãy đưa tin về cho Đồng Ánh Quỳnh. Quỳnh ở Bát Sứ, từng làm việc ở cơ sở dã chiến gần biến giới Quảng Đức. Em ấy là người tôi đợi, em là người đợi tôi.”
Tôi xin phép bố mẹ. Họ không nói gì. Tôi mặc quân phục của mình, khoác bên ngoài là áo khoác quân phục cũ của chị Tiên, cầm theo hộp lễ đã chuẩn bị sẵn từ trước.
Chiều ngày 4 tháng Năm, tôi đáp chuyến tàu chiều ngược Nam.
Không còn pháo kích, không còn còi báo động.
Chỉ có tôi, và một lời hứa không kịp thực hiện.
Tàu đi chậm hơn lần trước. Hoặc có lẽ tôi muốn nó chậm.
Tôi nhìn từng vệt nắng phai trên đường ray, mà tưởng như thời gian đang chảy ngược lại, về những đêm hai người nằm nghiêng nhìn nhau trong lều vải.
Chị Tiên cầm tay tôi, nói nhỏ: “Khi hết chiến tranh, chị sẽ theo em về Hà Nội. Đừng để chị đi một mình.”
Giờ đây, tôi là người đi một mình.
Tôi mang chị về. Nhưng không phải là chị nữa.
Chỉ còn mấy dòng thư và một nỗi đau sẽ âm ỉ suốt đời.
_______________________________________
Ngày mùng Sáu tháng Năm năm 1975, tôi đặt chân xuống Sài Gòn lần thứ hai.
Không còi báo động. Không tiếng bom rơi. Không tiếng người rên đau giữa rừng hoang khét lửa.
Chỉ có nắng. Và người.
Sài Gòn mừng chiến thắng như chưa từng trải qua đau thương.
Cờ bay khắp phố. Hoa nở khắp ngõ. Đứa trẻ nào cũng được bồng lên cao, người lớn thì reo vang lời "giải phóng", “độc lập”, "hòa bình” như một phép màu vừa giáng xuống đất này.
Còn tôi, từng bước như đeo chì. Chân không muốn nhấc nổi khỏi mặt đất.
Tôi mặc áo dài trắng, vạt áo bay nhẹ giữa cơn gió tháng Năm đầy bụi nắng.
Tay tôi bưng tráp lễ - trầu cau, bánh phu thê, trái cây, rượu, vài đồng tiền lẻ đỏ như máu.
Mọi thứ tôi đã chuẩn bị từ trước Tết.
Tôi đã từng nghĩ, chỉ cần mình về lại Hà Nội một chuyến, dặn với bố mẹ, rồi ngày mai tôi sẽ quay lại đây. Sẽ hỏi cưới Tóc Tiên, trước sự chứng giám của hai gia đình, giữa tiếng trống, tiếng pháo mừng.
Ai ngờ. Người tôi yêu lại rơi xuống ngay khi hòa bình sắp kề tay.
Ngõ nhà chị nhỏ. Một ngôi nhà ba gian nằm giữa lòng Chợ Lớn. Cửa không khóa.
Má chị ngồi sụp xuống hiên nhà từ bao giờ. Ba chị thì như kẻ hóa đá bên bàn thờ nhỏ, hai tay siết chặt tấm khăn trắng.
Tôi bước vào, không ai cản. Nhưng ai cũng nhìn.
Di ảnh chị đặt giữa bàn thờ, cạnh một bình hoa hồng nhạt đã héo.
Tóc chị vẫn búi gọn, áo blouse trắng trên vai. Gương mặt chị nhìn tôi dịu dàng. Vẫn là ánh mắt ấy, ánh mắt nhìn tôi khi chị cúi xuống lau vết máu cho thương binh hôm nào, hay ánh mắt sau nụ hôn dưới cơn mưa năm ấy.
Tôi quỳ xuống.
Tôi đặt tráp lễ lên chiếu. Lấy ra từng món một - làm lễ theo đúng phong tục. Không một chi tiết sai. Không một lời run.
Bố tôi bật khóc đầu tiên. Rồi đến mẹ tôi.
Ba chị gục vào cột nhà, má chị kêu “con ơi!” như muốn ngất.
Chỉ có tôi là không khóc. Tôi mỉm cười. Nhẹ và chậm. Tôi ngước lên nhìn chị.
"Con tên là Đồng Ánh Quỳnh. Con đến để xin phép hai bác cho con xin được cưới chị Nguyễn Khoa Tóc Tiên. Dẫu chị có ở đâu, xin cho con được giữ đúng lời mình đã hứa.”
Mọi người im lặng. Chỉ còn tiếng quạt gió cọt kẹt và tiếng nhang cháy khẽ.
Tôi cúi người, áp môi mình lên môi chị, trên tấm kính phủ ảnh.
Lạnh.
Nhưng tôi tưởng như cảm được hơi thở của chị đâu đây, ngay bên cạnh.
“Chị, em đến rồi. Mình cưới nhau được không, Tóc Tiên?”
Tôi giữ nguyên dáng ấy rất lâu.
Cho đến khi má chị khụy người xuống sau lưng tôi, ôm lấy tôi mà khóc như con ruột.
“Má có thêm một đứa con..Nhưng mất một đứa con gái..”
Tôi không đáp. Tôi chỉ ôm chặt tấm ảnh.
Và cười.
Trong nước mắt.
Trong hoa cưới.
Giữa mùa hòa bình.
Tôi cưới chị.
Cưới một người đã nằm lại dưới Trảng Bàng nắng cháy, vì đất nước này.. và vì tôi.
_______________________________________
Chiều cuối tháng Tư, trời thành phố Hồ Chí Minh rực nắng.
Những dãy cờ đỏ sao vàng nối đuôi nhau bay phấp phới, như thể chính gió cũng vui mừng. Tiếng loa phát thanh vẫn còn vang vọng từ đầu ngõ. Nắng đổ dài xuống con hẻm nhỏ, nơi từng viên gạch xám cũng ánh lên sắc vàng của ngày đất nước tròn một cột mốc lớn.
Thằng Bơ - tám tuổi, tóc xoăn tít, người nhỏ thó, ôm trong tay bó hoa cúc trắng mà nó được phát ở buổi lễ.
Hôm nay là lần đầu tiên nó được đi lễ kỷ niệm, đứng giữa hàng người lớn mà không bị mẹ nhéo tai kéo về vì “làm phiền người ta”.
Nó bước vào nhà. Thấy ba đang đứng ở hiên, tay khoanh trước ngực. Mẹ thì trong bếp, tiếng xoong nồi va nhau chan chát. Không khí dường như đang giòn vỡ ra vì những tiếng thở dài chẳng chịu bật thành lời.
“Anh lúc nào cũng chỉ biết công việc!”
“Còn em thì không hiểu cho anh. Ngày nào cũng than phiền.”
Tiếng mẹ, tiếng ba va vào nhau như hai đầu của cây kéo cùn.
Bữa cơm chiều nguội lạnh.
Thằng Bơ đứng khựng lại, rồi không nói gì. Nó bước chầm chậm tới gần, tay níu áo mẹ, kéo áo ba. Bó hoa cúc trắng trong tay nó rơi xuống nền gạch.
“Ba mẹ đừng giận nhau nữa mà.. Hôm nay con gặp một bà cụ. Bà kể chuyện hay lắm!!”
Mẹ cuối cùng cũng nhìn Bơ, ánh mắt dịu lại. Ba nhíu mày, nhưng im lặng lắng nghe. Ba mẹ nó nhìn nhau, rồi cúi xuống nhìn nó.
Và Bơ - với giọng trẻ con chưa rành hết dấu câu, hít một hơi sâu như sắp kể bí mật lớn nhất đời.
“Bà tên là Đồng Ánh Quỳnh. Mà bà lại có vợ. Vợ của bà tên là Nguyễn Khoa Tóc Tiên.”
Không gian chững lại một nhịp.
"Bà kể cho con nghe chuyện ngày xưa, lúc đất nước còn chia hai. Bà là bộ đội ngoài Bắc, đi vô Sài Gòn của mình. Đi bộ đó ba mẹ, đi nhiều ngày lắm, để vào chiến trường."
"Trong đó, bà gặp một bác sĩ. Bác ấy là người miền Nam, ở Sài Gòn luôn. Bác hay chăm lính bị thương. Và bà yêu người bác sĩ đó.”
Bơ cười khúc khích, như thể đang kể chuyện bí mật về một người bạn cùng lớp.
“Bà nói bác sĩ tên là Tóc Tiên. Bác sĩ ấy đẹp lắm. Tóc dài, da trắng, hay đội mũ vải mềm mềm. Lúc trời mưa, bác sĩ che cho bà. Khi có lính bị thương, bác khóc lén. Bà nói còn nói là, bác sĩ Tiên là ánh sáng nhỏ xíu giữa chiến tranh, như đốm lửa trong tay bà vậy.”
Ba mẹ vẫn không nói gì. Mắt mẹ dần đỏ hoe. Ba nuốt khan.
“Rồi chiến tranh sắp kết thúc, bác sĩ thì ra tiền tuyến, còn bà bị gọi về Bắc. Bà kể, đêm trước khi chia tay, bác sĩ và bà nắm tay nhau, không nói được gì hết. Nhưng hai người hứa sẽ chờ nhau."
"Bà bảo, bác sĩ Tóc Tiên ấy là vợ của bà.”
"Mà rồi..chiến tranh á, vợ của bà mất, ngay trước ngày giải phóng.."
Giọng Bơ chùng xuống. Nó ngẩng lên nhìn ba mẹ.
“Con hỏi bà, sao bà không lấy ai khác. Bà cười, nói: ‘Vì bà đã kết hôn rồi. Với một phần của phía Nam Tổ quốc. Với người con gái tên Tiên.’ "
"Bà kể, ngày đất nước thống nhất, bà mặc áo dài trắng, mang lễ vật vô tới nhà vợ, đứng trước di ảnh và hỏi cưới bác sĩ Tiên.”
Mắt thằng Bơ sáng long lanh. Nó kể bằng một giọng đầy nghiêm túc, như thể đó là câu chuyện quan trọng nhất mà nó từng nghe.
Và Bơ ngừng lại một lúc. Ba mẹ cũng ngừng thở một nhịp.
Mẹ nó ngồi xuống từ lúc nào, nước mắt long lanh. Ba thì im lặng, cúi mặt. Thằng Bơ vẫn nhìn cả hai, tay bé tí níu chặt áo ba mẹ như sợ họ lại rời ra.
“Mẹ ơi, ba ơi..con nghĩ, nếu bà Quỳnh thương một người cả đời như vậy.. Thế ba mẹ, chắc là thương nhau dữ lắm mới cưới nhau đúng không?"
"Vậy thì hai người đừng bỏ nhau vì mấy chuyện cãi nhau này nha.."”
Gió cuối chiều mát lạ.
Ngoài kia, một cơn gió xoáy nhẹ cuốn cánh hoa cúc rơi xoay xoay như chào ngày xưa cũ.
Trên bàn, bữa cơm nguội được hâm lại. Ba mẹ ngồi gần nhau hơn. Và thằng Bơ nhỏ xíu, vẫn còn ôm chặt bó hoa trong tay.
Như ôm giúp một tình yêu chẳng bao giờ tàn.
Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Com