Chương II TỔ CHỨC BẢO HIỂM XÃ HỘI
Chương II TỔ CHỨC BẢO HIỂM XÃ HỘI
I. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ TỔ CHỨC BẢO HIỂM XÃ HỘI
1. Khái niệm
1.1. Khái niệm về tổ chức và những đặc tính cơ bản của tổ chức
a. Khái niệm về tổ chức
Thông thường tổ chức được hiểu theo 2 nghĩa: một là theo nghĩa quá trình thì tổ chức là một đơn vị được hình thành với những hoạt động của nó (ở đây đề cập đến hình thức tổ chức hoạt động theo phương pháp và kỹ thuật của tổ chức); và nghĩa khác là kết quả của việc hình thành hay cơ cấu của tổ chức.
Tổ chức với quan điểm chung nhất được xem với tính cách là một thực thể xác định, nó được coi là sự tập hợp, liên kết các yếu tố, các bộ phận có mối quan hệ bản chất với nhau để hợp thành theo những tiêu chí nhất định nhằm thực hiện các chức năng, nhiệm vụ, mục tiêu chung của tổ chức.
Quan điểm về tổ chức ở đây chủ yếu theo nghĩa tổ chức bộ máy để thực hiện chức năng, nhiệm vụ nhất định do thực tế đòi hỏi. Tổ chức bộ máy sẽ hình thành và xuất hiện gắn liền với một chức năng nhiệm vụ cụ thể và đương nhiên sẽ không tồn tại khi không còn chức năng nhiệm vụ đó nữa. Do vậy nó khác biệt với nghiệp vụ công tác tổ chức của mỗi cơ quan của tổ chức đó.
Từ đó có thể định nghĩa: “ Tổ chức là sự tập hợp có cấu trúc của mỗi bộ phận cấu thành và các hoạt động điều phối một cách có ý thức nhằm thực hiện được mục tiêu chung của tổ chức”.
Một tổ chức với tính cách là một pháp nhân có những đặc trưng cơ bản sau:
- Được thành lập để thực hiện chức năng nhiệm vụ nhất định do thực tế đặt ra nhằm đạt được mục tiêu thành lập của tổ chức.
- Tổ chức ra đời sẽ hoạt động thường xuyên, liên tục để khẳng định được vai trò và tác dụng của tổ chức cũng như đảm bảo sự tồn tại của chính nó. Trong quá trình vận động, tổ chức vừa đảm bảo tính ổn định lại vừa phải vận động nhằm thích ứng với yêu cầu mới.
- Mỗi tổ chức đều được tạo lập trong một hệ thống nhất định, một mặt vừa phải chịu sự chỉ đạo điều hành của một cơ quan cấp trên nhằm đảm bảo tính chấp hành chung theo một thứ bậc hành chính, một mặt phải chỉ đạo tổ chức điều hành thống nhất trong nội bộ của tổ chức.
Đối với các cơ quan thuộc hệ thống hành chính Nhà nước thì thẩm quyền được xác định và giới hạn trong các quy định của pháp luật theo vị trí, chức năng, nhiệm vụ của tổ chức đó và sự phân cấp, phân quyền của cơ quan cấp trên.
b. Những đặc tính cơ bản (hay những yêu cầu cơ bản) của một tổ chức:
- Tính mục tiêu và hiệu quả của tổ chức:
Bản thân của tổ chức không có mục tiêu tự thân mà việc lập ra tổ chức là xuất phát từ mục tiêu công việc đòi hỏi. Điều đó có nghĩa là mục tiêu lập ra tổ chức phải rõ ràng, xác đáng để khi tổ chức ra đời thì bản thân nó chỉ là công cụ để thực hiện mục tiêu. Việc xác định mục tiêu càng rõ ràng, khách quan thì việc xác định chức năng, nhiệm vụ của tổ chức càng cụ thể, thiết thực. Từ đó làm cơ sở khoa học cho việc thiết kế tổ chức bộ máy tương ứng, đảm bảo cho hoạt động của tổ chức nhịp nhàng, thông suốt, đồng bộ, tinh gọn và hiệu quả.
Tính mục tiêu và hiệu quả của tổ chức được coi như yếu tố hàng đầu để quyết định việc thành lập hay giải thể tổ chức. Điều này hết sức quan trọng vì trong thực tế để đánh gia đầy đủ về tổ chức cũng như hiệu quả hoạt động của nó, người ta phải cần đến một thời gian hoạt động nhất định để kiểm chứng, đó là chưa kể đến những chi phí về người và vật chất cho việc lập ra một tổ chức không hiệu quả và không hiệu lực.
- Tính hệ thống của tổ chức:
Tổ chức bao giờ cũng mang tính hệ thống và được đặt vào một hệ thống nhất định. Hệ thống là một tổng thể các yếu tố hợp thành có tính thống nhất chặt chẽ, các yếu tố đó có mối quan hệ tác động qua lại và phụ thuộc lẫn nhau. Một khi tính hệ thống bị phá vỡ thì sức mạnh và hiệu lực tác động của tổ chức cũng không còn hoặc rất hạn chế và tổ chức chứa đứng hệ thống có nguy cơ giải thể. Sức mạnh của hệ thống tuỳ thuộc vào sự xác định các yếu tố hợp thành và sự liên kết giữa các yếu tố của tổ chức.
Hệ thống của tổ chức được xem xét bản thân nó với tư cách bao gồm các yếu tố hay bộ phận cấu thành cũng như bản thân nó là một bộ phận của tổ chức lớn hơn. Như vậy mỗi tổ chức là một hệ thống, nhưng lại là hệ thống nhỏ nằm trong hệ thống lớn nên quan hệ này cho phép xem xét tổ chức về chức năng, nhiệm vụ và vị trí của nó trong hệ thống tổ chức mở để thiết lập mối quan hệ và cơ chế vận hành giữa các tổ chức trong sự phân công, phối hợp dọc-ngang; trên-dưới.
Tính hệ thống đòi hỏi xác định rõ thẩm quyền, trách nhiệm và mối quan hệ của các tổ chức cùng cấp và giữa cấp trên – cấp dưới trong hệ thống một cách rõ ràng, đầy đủ.
Các tổ chức cùng cấp tạo nên cơ cấu hệ thống ngang. Sự phân công và mối quan hệ phối hợp theo chức năng, quyền hạn , trách nhiệm của các tổ chức cùng cấp trong hệ thống sẽ tạo nên sự hoạt động nhịp nhàng của tổ chức, không chế được sự trùng lắp, chồng chéo, gây lãng phí và làm giảm sức mạnh của tổ chức.
Giữa cấp trên và cấp dưới cũng cần quy định rõ chức năng, thẩm quyền, trách nhiệm và có sự phân cấp, phân quyền quyết định cho từng cấp để chủ động, sáng tạo, xử lý công việc nhanh, nhay, kịp thời, sát thực tế cũng như đảm bảo sự chỉ đạo, chấp hành theo thứ bậc hành chính một cách thông suốt.
- Tính cấu trúc đồng nhất và đặc thù của tổ chức
Sự kết nối giữa các yếu tố trong một tổ chức cũng như giữa các tổ chức với nhau trong cùng một hệ thống đòi hỏi các tổ chức hợp thành phải có cấu trúc đồng nhất theo những tiêu chí chung nhất định. Sự đồng nhất cấu trúc là điều kiện hình thành hệ thống. Tuy nhiên cùng với tính đồng nhất còn có tính cấu trúc đặc thù của tổ chức do những yếu tố khách quan quy định và tính cấu trúc đặc thù này không mâu thuẫn với tính đồng nhất mà vẫn có thể cùng tồn tại trong cùng một tổ chức.
- Tính phù hợp giữa chủ thể quản lý và đối tượng quản lý của tổ chức
Việc thành lập, vận động phát triển và tồn tại của một tổ chức với tính cách là chủ thể quản lý phải xuất phát từ nội dung công việc của tổ chức đó với đối tượng quản lý. Tính chất và nội dung của đối tượng quản lý đến đâu thì thiết lập tổ chức tương ứng đến đó, như vậy thì việc thiết kế tổ chức mới khoa học, hợp lý và có hiệu quả.
- Tính vận động không ngừng và vận hành theo quy trình của tổ chức nhằm điều chỉnh và hoàn thiện tổ chức
Mỗi tổ chức vận động thực hiện mục tiêu, nhiệm vụ của mình đều trong môi trường( hoàn cảnh, điều kiện) cụ thể. Môi trường luôn thay đổi cho nên bản thân tổ chức cũng phải vận động, điều chỉnh, hoàn thiện để thích ứng và phát triển.
Những đặc tính nêu trên nhằm giúp các nhà quản lý chủ động trong việc thiết kế, xây dựng một tổ chức mới với cơ cấu vận hành luôn có sự điều chỉnh thích ứng nhằm thực hiện được mục tiêu của tổ chức đề ra.
1.2. Khái niệm về tổ chức BHXH và những đặc tính cơ bản của tổ chức BHXH
a. Khái niệm Tổ chức BHXH
Tổ chức BHXH là tổ chức sự nghiệp, do cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định thành lập, có chức năng thực hiện chế độ, chính sách BHXH, quản lý và sử dụng các quỹ BHXH theo quy định của Luật BHXH.
Cơ cấu tổ chức, nhiệm vụ của tổ chức BHXH do Chính phủ quy định.
b. Những yêu cầu cơ bản
Là một tổ chức, trước hết tổ chức BHXH phải bảo đảm những đặc tính chung của tổ chức, mặt khác tổ chức BHXH phải thể hiện những đặc trưng riêng mang tính đặc thù về lĩnh vực hoạt động của BHXH.
- Tính mục tiêu và hiệu quả của tổ chức BHXH:
Việc lập ra tổ chức BHXH là xuất phát từ mục tiêu công việc của quản trị BHXH đòi hỏi. Nghĩa là, việc lập ra tổ chức BHXH để giúp Chính phủ đưa chính sách, pháp luật BHXH được thực thi trong đời sống xã hội theo các mục tiêu đã đề ra. Hay nói cách khác, là giúp Chính phủ thực hiện chế độ, chính sách BHXH; quản lý và sử dụng cac quỹ BHXH theo quy định của Luật BHXH đã được nhà nước ban hành.
- Tính hệ thống của tổ chức:
Tổ chức bao giờ cũng mang tính hệ thống và được đặt vào một hệ thống nhất định. Hệ thống là một tổng thể các yếu tố hợp thành có tính thống nhất chặt chẽ, các yếu tố đó có mối quan hệ tác động qua lại và phụ thuộc lẫn nhau. Một khi tính hệ thống bị phá vỡ thì sức mạnh và hiệu lực tác động của tổ chức cũng không còn hoặc rất hạn chế và tổ chức chứa đứng hệ thống có nguy cơ giải thể. Sức mạnh của hệ thống tuỳ thuộc vào sự xác định các yếu tố hợp thành và sự liên kết giữa các yếu tố của tổ chức.
Hệ thống của tổ chức được xem xét bản thân nó với tư cách bao gồm các yếu tố hay bộ phận cấu thành cũng như bản thân nó là một bộ phận của tổ chức lớn hơn. Như vậy mỗi tổ chức là một hệ thống, nhưng lại là hệ thống nhỏ nằm trong hệ thống lớn nên quan hệ này cho phép xem xét tổ chức về chức năng, nhiệm vụ và vị trí của nó trong hệ thống tổ chức mở để thiết lập mối quan hệ và cơ chế vận hành giữa các tổ chức trong sự phân công, phối hợp dọc-ngang; trên-dưới.
Tính hệ thống đòi hỏi xác định rõ thẩm quyền, trách nhiệm và mối quan hệ của các tổ chức cùng cấp và giữa cấp trên – cấp dưới trong hệ thống một cách rõ ràng, đầy đủ.
Các tổ chức cùng cấp tạo nên cơ cấu hệ thống ngang. Sự phân công và mối quan hệ phối hợp theo chức năng, quyền hạn , trách nhiệm của các tổ chức cùng cấp trong hệ thống sẽ tạo nên sự hoạt động nhịp nhàng của tổ chức, không chế được sự trùng lắp, chồng chéo, gây lãng phí và làm giảm sức mạnh của tổ chức.
Giữa cấp trên và cấp dưới cũng cần quy định rõ chức năng, thẩm quyền, trách nhiệm và có sự phân cấp, phân quyền quyết định cho từng cấp để chủ động, sáng tạo, xử lý công việc nhanh, nhay, kịp thời, sát thực tế cũng như đảm bảo sự chỉ đạo, chấp hành theo thứ bậc hành chính một cách thông suốt.
- Tính cấu trúc đồng nhất và đặc thù của tổ chức
Sự kết nối giữa các yếu tố trong một tổ chức cũng như giữa các tổ chức với nhau trong cùng một hệ thống đòi hỏi các tổ chức hợp thành phải có cấu trúc đồng nhất theo những tiêu chí chung nhất định. Sự đồng nhất cấu trúc là điều kiện hình thành hệ thống. Tuy nhiên cùng với tính đồng nhất còn có tính cấu trúc đặc thù của tổ chức do những yếu tố khách quan quy định và tính cấu trúc đặc thù này không mâu thuẫn với tính đồng nhất mà vẫn có thể cùng tồn tại trong cùng một tổ chức.
- Tính phù hợp giữa chủ thể quản lý và đối tượng quản lý của tổ chức
Việc thành lập, vận động phát triển và tồn tại của một tổ chức với tính cách là chủ thể quản lý phải xuất phát từ nội dung công việc của tổ chức đó với đối tượng quản lý. Tính chất và nội dung của đối tượng quản lý đến đâu thì thiết lập tổ chức tương ứng đến đó, như vậy thì việc thiết kế tổ chức mới khoa học, hợp lý và có hiệu quả.
- Tính vận động không ngừng và vận hành theo quy trình của tổ chức nhằm điều chỉnh và hoàn thiện tổ chức
Mỗi tổ chức vận động thực hiện mục tiêu, nhiệm vụ của mình đều trong môi trường( hoàn cảnh, điều kiện) cụ thể. Môi trường luôn thay đổi cho nên bản thân tổ chức cũng phải vận động, điều chỉnh, hoàn thiện để thích ứng và phát triển.
Những đặc tính nêu trên nhằm giúp các nhà quản lý chủ động trong việc thiết kế, xây dựng một tổ chức mới với cơ cấu vận hành luôn có sự điều chỉnh thích ứng nhằm thực hiện được mục tiêu của tổ chức đề ra.
3. Nội dung hoạt động sự nghiệp BHXH
Tổ chức sự nghiệp BHXH ra đời nhằm mục đích tổ chức thực hiện các chính sách, chế độ BHXH, BHYT và quản lý, sử dụng quỹ BHXH, quỹ BHYT. Vì vậy những nội dung chính của hoạt động sự nghiệp BHXH bao gồm:
3.1.Quản lý thu BHXH, BHYT; Quản lý đối tượng tham gia BHXH, BHYT:
- Thu BHXH, BHYT
- Cấp, quản lý và sử dụng sổ BHXH
- Cấp, quản lý thẻ BHYT
3.2.Quản lý chi BHXH, BHYT; Quản lý đối tượng thụ hưởng các chế độ trợ cấp BHXH, BHYT:
- Chi trả lương hưu, trợ cấp BHXH hàng tháng
- Chi trả các chế độ trợ cấp 1 lần
- Chi trả trợ cấp ốm đau, thai sản và nghỉ dưỡng sức
- Giám định chi phí khám chữa bệnh BHYT
3.3. Quản lý chế độ chính sách BHXH, BHYT:
- Kiểm tra, xét duyệt hồ sơ, thẩm định việc thực hiện các chế độ chính sách BHXH.
- Lưu trữ hồ sơ hưởng các chế độ BHXH
- Giải quyết khiếu nại, tố cáo của các tổ chức và cá nhân về việc thực hiện chính sách, chế độ BHXH, BHYT.
3.4. Quản lý quỹ BHXH, BHYT và đầu tư tăng trưởng quỹ BHXH dài hạn:
- Quản lý tài chính, cân đối quỹ BHXH, BHYT
- Chế độ hạch toán kế toán
- Quản lý chi hoạt động bộ máy
- Quản lý đầu tư xây dựng cơ bản
- Quản lý hoạt động đầu tư tăng trưởng quỹ BHXH
3.5 Quản lý hệ thống tổ chức và quản lý nguồn nhân lực ngành BHXH Việt Nam :
- Quản lý cán bộ, lao động và tiền lương
- Tổ chức bộ máy, quy hoạch, phân công và bố trí cán bộ
- Đào tao, bồi dưỡng nâng cao nghiệp vụ chuyên môn
Trên đây là những nội dung hoạt động sự nghiệp của ngành BHXH, còn những chuyên môn sâu của từng nội dung hoạt động sự nghiệp vẫn phải tuân thủ theo các pháp luật hiện hành như: Pháp luật về tài chính, kế toán; Pháp luật về thống kê; Pháp luật về công chức viên chức Nhà nước; Pháp luật về khiếu nại, tố cáo…
4. VAI TRÒ VÀ HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG CỦA TỔ CHỨC HỆ THỐNG BỘ MÁY HOẠT ĐỘNG SỰ NGHIỆP BHXH.
Việc cải cách chế độ BHXH và hình thành hệ thống tổ chức BHXH tập trung là hoàn toàn phù hợp với cơ chế chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hoá hành chính tập trung sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta, thích ứng với yêu cầu của quản lý hệ thống an sinh xã hội và từng bước hoà nhập vào hệ thống an sinh xã hội thế giới.
4.1.Tổ chức hệ thống bộ máy hoạt động sự nghiệp BHXH chuyên đảm nhiệm việc tổ chức thực hiện các chính sách BHXH, BHYT; tách riêng chức năng quản lý Nhà nước ra khỏi chức năng hoạt động sự nghiệp BHXH; tạo điều kiện cho tổ chức BHXH chủ động, chuyên sâu trong các nghiệp vụ sự nghiệp BHXH trong tất cả các khâu: từ khâu thu, quản lý đối tượng tham gia đến khâu chi trả,quản lý quản lý quỹ….
4.2.Tổ chức hệ thống bộ máy hoạt động sự nghiệp BHXH tập trung thống nhất từ trung ương đến địa phương đã đáp ứng được yêu cầu quản lý tập trung thống nhất và hiệu quả quỹ BHXH, quỹ BHYT; cải tiến quy trình thủ tục xét duyệt hồ sơ hưởng BHXH trong cả nước được thống nhất, kịp thời, công bằng và hiệu quả cũng như thực hiện thống nhất các chế độ BHXH, BHYT trong phạm vi cả nước.
4.3.Tổ chức hệ thống bộ máy hoạt động sự nghiệp BHXH tập trung thống nhất từ trung ương đến địa phương đã tạo điều kiện cho việc chỉ đạo kịp thời các nghiệp vụ BHXH trong toàn ngành cũng như việc ứng dụng khoa học kỹ thuật quản lý tiên tiếp và công nghệ thông tin trong toàn ngành.
4.4. Tổ chức hệ thống bộ máy hoạt động sự nghiệp BHXH tập trung thống nhất từ trung ương đến địa phương đã tạo điều kiện cho việc triển khai thực hiện Chương trình tổng thể cải cách hành chính Nhà nước của Thủ tướng Chính phủ giai đoạn 2001-2010 với mục tiêu” Xây dựng một nền hành chính dân chủ, trong sạch, vững mạnh, chuyên nghiệp, hiện đại hoá, hoạt động có hiệu lực, hiệu quả ,theo nguyên tắc Nhà nước pháp quyền XHCN dưới sự lãnh đạo của đảng; xây dựng đội ngũ cán bộ công chức có phẩm chất và năng lực đáp ứng yêu cầu của công cuộc xây dựng và phát triển đất nước”.
4.5.Tổ chức hệ thống bộ máy hoạt động sự nghiệp BHXH tập trung thống nhất từ trung ương đến địa phương đã tạo điều kiện cho việc xây dựng nguồn nhân lực chuyên ngành BHXH hiểu biết đầy đủ về các chế độ chính sách BHXH, BHYT, thông thạo về các nghiệp vụ chuyên môn và tận tâm chu đáo với người tham gia và thụ hưởng các chế độ BHXH, BHYT.
4.6. Quỹ BHXH đã trở thành nguồn quỹ dự phòng rất quan trọng giúp Nhà nước đầu tư phát triển kinh tế – xã hội, tạo thêm nhiều chỗ làm việc mới cho người lao động và thực hiện điều tiết xã hội trong lĩnh vực BHXH và đặc biệt là đảm bảo nguồn chi lương hưu luôn kịp thời, không còn để tình trạng nợ đong lương hưu như thời kỳ bao cấp trước đây.
4.7. Những kết quả đạt được của Tổ chức BHXH 10 năm qua:
Vào đầu năm 1995, khi thực hiện cải cách BHXH, nước ta có 2,85 triệu người từ chính sách bao cấp chuyển sang thì đến cuối năm 2006 số người tham gia BHXH là 6,7 triệu (không kể đã giải quyết hơn 1,5 triệu người nghỉ việc hưởng lương hưu, hưởng trợ cấp một lần), riêng số tiền thu BHXH năm 2006 đạt khoảng 22.000 tỷ đồng. Tổng số tiền sinh lợi của quỹ BHXH qua 10 năm (1997-2006) là khoảng 16.000 tỷ đồng, riêng tiền lãi năm 2006 ước tính đạt 3.800 tỷ đồng. Bình quân mỗi năm tăng thêm 47 vạn người mới tham gia BHXH. Năm 1993 mới có 3,7 triệu người tham gia BHYT thì đến năm 2006 tăng lên khoảng 36 triệu người, chiếm khoảng 40% dân số cả nước, trong đó có 9,6 triệu người tham gia BHYT tự nguyện. Tổng số thu BHYT năm 2006 là khoảng 4 300 tỷ đồng.
Chi trả trợ cấp hàng tháng của các chế độ: hưu trí, tử tuất, mất sức lao động cho hơn 2 triệu người với số tiền chi hàng tháng là hơn 2 000 tỷ đồng (2006), đảm bảo đúng đối tượng, đủ số lượng, kịp thời và giao tận tay từng người.
Hàng năm có hàng triệu lượt người được nhận các khoản trợ cấp khi bản thân bị ốm đau hay con cái ốm đau, khi sinh đẻ, khi bị tai nạn lao động hoặc bệnh nghề nghiệp. Người bệnh ngày càng được tiếp cận các dịch vụ y tế với trình độ khoa học tiên tiến và hiện đại.
5. NGUYÊN TẮC TỔ CHỨC HỆ THỐNG BỘ MÁY HOẠT ĐỘNG SỰ NGHIỆP BHXH.
Bên cạnh những nguyên tắc cơ bản của bất cứ một tổ chức thông thường nào khi ra đời, hoạt động và phát triển thì đối với hệ thống bộ máy hoạt động sự nghiệp BHXH cần nhấn mạnh những có những nguyên tắc đặc thù sau:
1. Nguyên tắc tập trung thống nhất theo hệ thống ngành dọc từ trung ương đến địa phương nhằm chỉ đạo tập trung thống nhất các nghiệp vụ quản lý từ Trung ương xuống các cấp thi hành được thông suốt, kịp thời và ngược lại các thông tin phản hồi từ địa phương sẽ nhanh chóng chuyển tới trung ương để nắm bắt được tiến độ thực hiện và có giải pháp chỉ đạo kịp thời chung trong phạm vi toàn quốc.
- Nguyên tắc này xuất phát từ sự đòi hỏi quản lý tập trung các quỹ BHXH, BHYT. Theo đó, mọi khoản đóng góp của một thành viên nào đó khi tham gia BHXH, BHYT, không kể ở bất cứ địa phương nào, doanh nghiệp nào đều thuộc về khoản thu của Quỹ và tương tự như vậy bất cứ một khoản chi nào cho một đối tượng hưởng thụ ở bất cứ địa phương nào cũng thuộc về khoản chi từ nguồn quỹ BHXH, BHYT tập trung. Chính cơ chế quản lý quỹ BHXH tập trung đã xác lập nên mô hình tổ chức tập trung theo hệ thống ngành dọc và khẳng định sự phù hợp của mô hình tổ chức đó với cơ chế vận hành.
- Nguyên tắc này cũng xuất phát từ yêu cầu của việc tổ chức thực hiện thống nhất các chế độ, chính sách BHXH, BHYT trong phạm vi cả nước, đảm bảo cho việc điều hành hoạt động từ khâu thu BHXH, BHYT, cấp phát sổ BHXH, thẻ BHYT, đến khâu giải quyết chế độ cho từng đối tượng cụ thể được thống nhất về các thủ tục hồ sơ, giấy tờ cũng như chế độ hưởng thụ.
2. Nguyên tăc phân cấp và phân công chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể cho từng cấp hành chínhmột mặt nhằm phát huy tính chủ động sáng tạo của từng cấp trong việc hoàn thành nhiệm vụ của cấp mình quản lý , mặt khác nhằm đảm bảo thực hiện sự phân công và phối hợp công tác giữa các cấp hành chính và các bộ phân trong hệ thống để hoàn thành tốt nhiệm vụ chung.
Theo mô hình tổ chức bộ máy điều hành BHXH trực tuyến và trực thuộc ở mỗi cấp quản lý cho nên việc phân công, phân cấp và phân quyền rõ ràng nhằm đảm bảo tính độc lập của mỗi cấp quản lý. Song hoạt động độc lập đó phải tuân thủ theo nguyên tắc trực thuộc, cấp dưới phục tùng cấp trên và chịu sự chỉ đạo của cấp quản lý hành chính trực tiếp. Nguyên tắc này chống lại sự bao cấp, làm thay của cấp trên cũng như chống sự ỷ lại, lệ thuộc của cấp dưới trong quá trình vận hành
3. Nguyên tắc hệ thống tổ chức phải gọn nhẹ và hoạt động có hiệu quả.
Theo nguyên tắc này đòi hỏi phải thường xuyên tiến hành rà soát lại từ chức năng nhiệm vụ của BHXH Việt Nam trong hệ thống bộ máy Nhà nước, về chức năng, nhiệm vụ của các cấp hành chính, các đơn vị nghiệp vụ, các phòng ban trong cùng hệ thống nhằm loại bỏ những chức năng, nhiệm vụ còn chồng chéo. Sau đó tiến hành kiện toàn tổ chức bộ máy cho phù hợp với tình hình mới sau khi đã rà soát, điều chỉnh chức năng nhiệm vụ và phân cấp.
Mặt khác một bộ máy tổ chức BHXH gọn nhẹ và hoạt động có hiệu quả cũng là xuất phát từ đòi hỏi khách quan của việc làm giảm nguồn chí phí quản lý hành chính bộ máy từ Quỹ BHXH.
4. Nguyên tắc không ngừng hoàn thiện cơ cấu tổ chức bộ máy BHXH Việt Nam từ Trung ương đến địa phương để đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ phát triển trong thời kỳ mới.
Chính sách BHXH của nước ta được tiến hành cải cách từ năm 1995 đến nay( chính sách BHYT được cải cách từ năm 1992) đã khẳng định tính đúng đắn của nó trong hệ thống chính sách xã hội, đáp ứng yêu cầu chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hoá hành chính tập trung sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có sự điều tiết củaNhà nước. Đi cùng với quá trình chuyển đổi mạnh mẽ của đất nước, chính sách BHXH, BHYT cũng không ngừng được hoàn thiện với mục tiêu thực hiện BHXH cho mọi người lao động và thực hiện BHYT toàn dân cũng như mở rộng thêm các hình thức BHXH như: BHXH tự nguyện ( thực hiện từ 1/1/2008 cho những người không thuộc diện tham gia BHXH bắt buộc) thực hiện đầy đủ các chế độ BHXH theo công ước thế giới như thực hiện chế độ bảo hiểm thất nghiệp từ 1/1/2009... Như vậy nhu cầu mở rộng đối tượng tham gia BHXH tăng nhanh trong những năm tới đây: đảm bảo cho hơn 40 triệu người lao động tham gia BHXH, hơn 80 triệu người tham gia BHYT... là một trong những nhiệm vụ trọng tâm và mang tính chiến lược của Đảng và Nhà nước ta nhằm đảm bảo sự ổn định xã hội một cách bền vững, tạo ra nền tảng vững chắc cho sự phát triển kinh tế và xã hội, góp phần vào công cuộc xây dựng một xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Như vậy trong giai đoạn trước mắt cũng như lâu dài đòi hỏi phải triển khai một khối lương lớn những công việc trong các hoạt động sự nghiệp BHXH đã đặt ra yêu cầu khách quan cho việc không ngừng hoàn thiện hệ thống tổ chức hoạt động sự nghiệp BHXH nhằm đảm bảo thực hiện nhiệm vụ kể trên.
Việc không ngừng hoàn thiện hệ thống tổ chức bộ máy BHXH cũng cần phải đặt trong hệ thống hoàn thiện đồng bộ giữa tổ chức - con người và công nghệ. Trình độ nghiệp vụ chuyên môn của con người cũng như việc ứng dụng những công nghệ hiện đại trong giai đoạn hiện nay cũng là một trong những yếu tố góp phần quan trọng vào sự hoàn thiện hệ thống tổ chức.
6. MÔ HÌNH TỔ CHỨC BỘ MÁY HOẠT ĐỘNG SỰ NGHIỆP BHXH
BHXH Việt Nam là cơ quan trực thuộc Chính phủ, giúp Thủ tướng quản lý quỹ BHXH, BHYT và thực hiện các chế độ, chính sách BHXH,BHYT theo quy định của pháp luật.
Tổ chức bộ máy hoạt động sự nghiệp BHXH bao gồm Bộ máy quản lý và Bộ máy điều hành;
Bộ máy quản lý là Hội đồng quản lý BHXH Việt nam được xác định là cơ quan quản lý cao nhất của BHXH Việt Nam. Hội đồng quản lý BHXH do Chính phủ thành lập, có trách nhiệm chỉ đạo và giám sát hoạt động của tổ chức BHXH. Hội đồng quản lý BHXH bao gồm đại diện Bộ Lao động-thương binh và xã hội, Bộ tài chính, Tổng liên đoàn lao động Việt nam, Phòng thương mại và công nghiệp Việt nam, Liên minh hợp tác xã Việt nam, tổ chức BHXH và một số thành viên khác do Chính phủ bổ nhiệm, miễn nhiệm và cách chức. Hội đồng quản lý BHXH có Chủ tich, các Phó chủ tịch và các Uỷ viên do Thủ tướng Chính phủ bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức.
Bộ máy điều hành là hệ thống tổ chức BHXH Việt Nam
Mô hình tổ chức của hệ thống BHXH Việt Nam được thiết lập theo hệ thống ngành dọc từ Trung ương xuống địa phương theo cơ cấu 3 cấp như sau:
ở Trung ương là BHXH Việt Nam;
ở các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương là các Tổ chức BHXH tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương(gọi chung là BHXH tỉnh).
ở các quận, huyện, thị xã, thành phố trực thuộc tỉnh là các Tổ chức BHXH quận, huyện, thị xã, thành phố trực thuộc tỉnh (gọi chung là BHXH huyện).
Mô hình tổ chức hệ thống BHXH Việt Nam theo hệ thống ngành dọc có 3 cấp, mỗi cấp có các tổ chức BHXH tương ứng và có tư cách pháp nhân đầy đủ. Mỗi cấp BHXH cấp tỉnh và cấp huyện đều hoạt động với tư cách là một cấp trực thuộc được phân định chức trách thẩm quyền rõ ràng trong quản lý điều hành và xử lý công việc ở cấp mình đảm nhiệm nhưng đều tuân thủ theo sự chỉ đạo, điều hành chung trong toàn hệ thống của Hội đồng quản lý BHXH và Tổng giám đốc BHXH Việt nam. Các tổ chức BHXH cấp tỉnh, cấp huyện được đặt ở địa phương để làm nhiệm vụ của ngành dọc chứ không thuộc tổ chức, bộ máy chính quyền địa phương. Các tổ chức BHXH cấp tỉnh, cấp huyện đều chịu sự quản lý tập trung của toàn ngành trong phạm vi cả nước trong đó bao gồm cả quản lý tập chung về biên chế, nhân sự và quỹ lương toàn ngành.
Cơ chế vận hành của bộ máy hoạt động theo trực tuyến và trực thuộc ở mỗi cấp quản lý, cụ thể là:
BHXH Việt Nam trực thuộc Chính phủ- là một đầu mối tổ chức trực thuộc Chính phủ.
BHXH các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương sẽ trực thuộc BHXH Việt Nam.
BHXH các quận, huyện, thị xã, thành phố trực thuộc tỉnh sẽ trực thuộc BHXH các tỉnh thành phố trực thuộc trung ương theo địa danh hành chính.
Mỗi cấp BHXH thuộc hệ thống tổ chức của BHXH Việt nam đều được quy định chức năng, nhiệm vụ,trách nhiệm, quyền hạn rõ ràng trong việc tổ chức thực hiện để cùng nhằm thực hiện chức năng, nhiệm vụ chung của BHXH Việt Nam do Chính phủ giao. Đó cũng là yêu cầu có tính nguyên tắc đối với mô hình tổ chức theo hệ thống dọc để đảm bảo sự chỉ đạo, quản lý, điều hành tập trung, thống nhất toàn ngành.
Tổng Giám đốc, các Phó Tổng giám đốc và các đơn vị chuyên môn của BHXH Việt Nam là cơ quan điều hành trực tiếp của Hệ thống BHXH Việt Nam từ trung ương đến địa phương.
II. HỆ THỐNG TỔ CHỨC HOẠT ĐỘNG SỰ NGHIỆP BHXH
Ở VIỆT NAM
1. Lịch sử hình thành và phát triển của tổ chức BHXH Việt Nam
Hoạt động BHXH ở nước ta được hình thành và phát triển ngay từ khi thành lập Nhà nước Cộng hoà XHCN Việt nam những năm 1945 –1946. Định hình rõ nét nhất về các chế độ BHXH được ban hành và thực hiện theo Điều lệ tạm thời về BHXH đối với Công nhân viên chức nhà nước ban hành tại Nghị định 218/CP ngày 27/12/1961 của Chính phủ quy định 6 chế độ trợ cấp bao gồm: ốm đau, thai sản, tai nạn lao động hoặc bệnh nghề nghiệp, mất sức lao động, hưu trí và tử tuất. Quỹ BHXH để thực hiện các chế độ trợ cấp do các cơ quan xí nghiệp Nhà nước đóng góp với tỷ lệ 4,7% so với tổng quỹ tiền lương và Nhà nước sẽ cấp bù phần thiếu hụt. Tổ chức BHXH được phân thành 2 nhóm riêng biệt và giao cho 2 cơ quan thực hiện:
Các chế độ BHXH ngắn hạn như: ốm đau, tai nạn lao động hoặc bệnh nghề nghiệp và thai sản giao cho Tổng công đoàn (nay là Tổng liên đoàn lao động Việt nam) quản lý phần quỹ và thực hiện chi trả trợ cấp.
Cácchế độ BHXH dài hạn như hưu trí, mất sức lao động và tử tuất giao cho Bộ nội vụ (nay là Bộ lao động-Thương binh và xã hội) quản lý phần quỹ và thực hiện chi trả trợ cấp.
Ngày 30/10/1964 Chính phủ ban hành Nghị định số 161/CP kèm theo Điều lệ ưu đãi tạm thời đối với quân nhân và cũng giao cho 2 cơ quan nêu trên quản lý và thực hiện chi trả trợ cấp.
Tháng 6/1989, Chính phủ giao cho Bộ tài chính nhiệm vụ thu BHXH mức 5% trên tổng quỹ lương theo Thông tư 22/TT-LB nhưng việc chi trả các chế độ BHXH vẫn do Tổng liên đoàn Lao động Việt Nam và Bộ lao động – Thương binh xã hội tiếp tục thực hiện. Sau đó, kể cả theo Nghị định số 43/CP ngày 23/6/1993 của Chính phủ quy định tạm thời về BHXH cũng đã có nhiều thay đổi đáng kể như mở rộng đối tượng tham gia BHXH ra các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh… nhưng hoạt động BHXH vẫn phân tán ở Tổng liên đoàn lao động và Bộ lao động-Thương binh và xã hội.
Đến khi Bộ Luật lao động có hiệu lực thi hành từ ngày 1/1/1995 thì Tổ chức BHXH thống nhất mới được ra đời theo quy định tại Nghị định số 19/CP ngày 16/02/1995 của Chính phủ trên cơ sở thống nhất các tổ chức BHXH ở trung ương và địa phương thuộc Bộ lao động - thương binh và xã hội và Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam. Tiếp đến ngày 26/9/1995 Thủ tướng Chính phủ đã ra quyết định số 606/TTg ban hành quy chế tổ chức và hoạt động của BHXH Việt Nam. Từ đó, lần đầu tiên ở nước ta, một Tổ chức BHXH độc lập được hình thành theo hệ thống ngành dọc từ Trung ương đến địa phương cho phù hợp với cơ chế quản lý quỹ BHXH tập trung và đảm bảo thực hiện thống nhất các chính sách chế độ BHXH trong phạm vi toàn quốc.
Sau đó, ngày 24/1/2002 Thủ tướng chính phủ đã có quyết định số 20/2002/QĐ-TTg chuyển giao BHYT Việt Nam sang BHXH Việt Nam. Từ đó Tổ chức BHXH Việt Nam đảm nhiệm thêm việc thực hiện chính sách BHYT trong phạm vi toàn quốc.
Hệ thống Bảo hiểm xã hội Việt Nam tập trung thống nhất từ Trung ương đến địa phương đã chuyên môn hoá việc tổ chức thực hiện tốt các chính sách, chế độ BHXH. Do đã tách hoạt động của sự nghiệp thu – chi – quản lý quỹ BHXH ra khỏi chức năng quản lý Nhà nước về BHXH, hệ thống BHXH Việt nam có điều kiện để thực hiện cải cách hành chính, tổ chức thực hiện tốt thu – chi BHXH, từng bước hiện đại hoá công tác thu- chi bằng công nghệ thông tin, cải tiến quy trình thủ tục xét duyệt hồ sơ hưởng BHXH trong cả nước được thống nhất, kịp thời, công bằng và hiệu quả.
Quỹ BHXH độc lập với ngân sách Nhà nước và được hình thành do các bên tham gia quan hệ BHXH lập nên ( Nhà nước, chủ sử dụng lao động và người lao động trong đó Nhà nước giữ vai trò hỗ trợ và bảo hộ) vì vậy nó thuộc đồng sở hữu của các bên tham gia đóng góp. Trên cơ sở đó các bên sở hữu quỹ BHXH sẽ cử các đại diện của mình tham gia vào Hội đồng quản lý BHXH.
2. Hệ thống tổ chức BHXH Việt Nam hiện nay
2.1.Vị trí và chức năng của BHXH Việt Nam
Luật BHXH được Chủ tịch nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam công bố ngày 12/7/2006 đã quy định rõ: Tổ chức BHXH là tổ chức sự nghiệp, có chức năng thực hiện chế độ, chính sách BHXH, quản lý và sử dụng các quỹ BHXH theo quy định của Luật BHXH ( Điều 106 điểm 1)
2.2. Nhiệm vụ của Hội đồng quản lý BHXH Việt Nam( Luật BHXH Điều 108)
Hội đồng quản lý BHXH Việt nam (sau đây gọi tắt là Hội đồng quản lý) giúp Thủ tướng Chính phủ thực hiện các nhiệm vụ sau:
1. Thẩm định kế hoạch hoạt động hằng năm, giám sát, kiểm tra việc thực hiện kế hoạch của tổ chức BHXH.
2. Quyết định hình thức đầu tư quỹ BHXH theo đề nghị của tổ chức BHXH.
3. Kiến nghị với cơ quan Nhà nước có thẩm quyền xây dựng, sửa đổi, bổ sung chế độ, chính sách, pháp luật về BHXH, chiến lược phát triển của ngành, kiện toàn hệ thống tổ chức của tổ chức BHXH, cơ chế quản lý và sử dụng quỹ BHXH.
4. Đề nghị Thủ tướng Chính phủ bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức các chức danh lãnh đạo của tổ chức BHXH.
2.3. Nhiệm vụ và quyền hạn của BHXH Việt Nam
(Nghị định số 100/2002/NĐ-CP ngày 06/12/2002 của Chính phủ quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của BHXH Việt Nam)
1. Xây dựng, trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt:
a. Chiến lược phát triển ngành BHXH Việt Nam và kế hoạch dài hạn, năm năm về thực hiện chính sách, chế độ BHXH;
b. Đề án bảo tồn giá trị và tăng trưởng quỹ BHXH;
2. Chỉ đạo và tổ chức thực hiện chính sách chế độ BHXH, thu các khoản đóng góp BHXH bắt buộc và tự nguyện, chi các khoản trợ cấp về BHXH cho đối tượng tham gia BHXH đầy đủ, thuận tiện, đúng thời hạn theo quy định của pháp luật;
3. Cấp các loại sổ, thẻ BHXH;
4. Quản lý quỹ BHXH theo nguyên tắc tập trung thống nhất theo chế độ tài chính của Nhà nước, hạch toán độc lập và được Nhà nước bảo hộ;
5. Kiến nghị với Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ và các cơ quan Nhà nước có liên quan về việc sửa đổi, bổ sung chính sách, chế độ về BHXH; cơ chế quản lý quỹ, cơ chế quản lý tài chính (kể cả chi phí quản lý bộ máy của BHXH Việt nam) và tổ chức thực hiện sau khi được phê duyệt;
6. Ban hành các văn bản hướng dẫn thực hiện việc giải quyết các chế độ BHXH và nghiệp vụ thu, chi BHXH theo thẩm quyền; quản lý nội bộ ngành BHXH Việt Nam;
7. Tổ chức hợp đồng với các cơ sở khám, chữa bệnh hợp pháp để phục vụ người có thẻ bảo hiểm theo quy định của pháp luật;
8. Kiểm tra việc ký hợp đồng và việc thu, chi BHXH đối với cơ quan, đơn vị, tổ chức sử dụng lao động, cá nhân, cơ sở khám, chữa bệnh; kiến nghị với cơ quan Nhà nước có thẩm quyền và cơ quan cấp trên của đơn vị sử dụng lao động, cơ sở khám chữa bệnh để xử lý những hành vi vi phạm pháp luật về BHXH;
9. Từ chối việc chi các chế độ BHXH khi đối tượng tham gia bảo hiểm không đủ điều kiện hưởng bảo hiểm theo quy định của pháp luật hoặc khi có căn cứ pháp lý về các hành vi giả mạo khai man hồ sơ để hưởng bảo hiểm;
10. Bồi thường mọi khoản thu, chi sai quy định của pháp luật về chế độ BHXH cho đối tượng tham gia BHXH;
11. Giải quyết khiếu nại, tố cáo của các tổ chức và cá nhân về việc thực hiện chính sách, chế độ theo quy định của pháp luật;
12. Lưu trữ hồ sơ của đối tượng tham gia và hưởng chế độ BHXH theo quy định của pháp luật;
13. Tổ chức nghiên cứu, ứng dụng khoa học; ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý, điều hành hoạt động BHXH;
14. Tổ chức đào tạo và bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ BHXH;
15. Tổ chức công tác thông tin, tuyên truyền, phổ biến chính sách, chế độ BHXH;
16. Thực hiện hợp tác quốc tế về BHXH theo quy định của pháp luật;
17. Chủ trì, phối hợp với các cơ quan Nhà nước, các tổ chức chính trị-xã hội, tổ chức xã hội ở trung ương và địa phương, với các bên tham gia BHXH để giải quyết các vấn đề có liên quan đến việc thực hiện chính sách, chế độ BHXH theo quy định của pháp luật;
18. Quản lý tổ chức, cán bộ, công chức, viên chức Nhà nước; tài chính và tài sản của BHXH Việt Nam theo quy định của pháp luật;
19. Thực hiện chế độ báo cáo với Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ và các cơ quan có thẩm quyền theo quy định của pháp luật.
2.4. Cơ cấu tổ chức:
Tổ chức bộ máy điều hành của hệ thống BHXH Việt Nam trong giai đoạn hiện nay như sau:
2.4.1. Cơ quan BHXH Việt nam ở Trung ương bao gồm:
Ban Tổng giám đốc: Tổng giám đốc kiêm phó Chủ tịch Hội đồng quản lý BHXH Việt Nam và 3 Phó tổng giám đốc.
20 đơn vị trực thuộc tham mưu giúp việc Tổng Giám đốc , bao gồm:
1. Ban chế độ, chính sách BHXH (trong đó có 2 Phòng chuyên môn nghiệp vụ là: Phòng Chế độ, chính sách, Phòng Tổng hợp).
2. Ban kế hoạch tài chính (trong đó có 5 Phòng chuyên môn nghiệp vụ là: Phòng Kế hoach- Tổng hợp, Phòng Quản lý tài chính, Phòng kế toán, Phòng Quản lý đầu tư xây dựng cơ bản, Phòng đầu tư quỹ).
3. Ban thu BHXH (trong đó có 3 phòng chuyên môn nghiệp vụ là: Phòng kế hoạch – Tổng hợp thu; Phòng quản lý thu; Phòng quản lý sổ, thẻ bảo hiểm).
4. Ban chi BHXH (trong đó có 2 phòng chuyên môn nghiệp vụ là: Phòng Kế hoạch – Tổng hợp; Phòng nghiệp vụ chi).
5. Ban BHXH tự nguyện (trong đó có 3 phòng chuyên môn nghiệp vụ là: Phòng chế độ, Phòng khai thác, Phòng kế hoạch tổng hợp).
6. Ban Giám định y tế (trong đó có 2 phòng chuyên môn nghiệp vụ là: Phòng nghiệp vụ, Phòng tổng hợp).
7. Ban tuyên truyền BHXH (trong đó có 2 phòng chuyên môn nghiệp vụ là: Phòng Kế hoạch – Tổng hợp; Phòng nghiệp vụ tuyên truyền).
8. Ban Hợp tác quốc tế.
9. Ban Tổ chức cán bộ
10. Ban kiểm tra (trong đó có 2 phòng chuyên môn nghiệp vụ là: Phòng giải quyết khiếu tố, Phòng nghiệp vụ kiểm tra).
11. Văn phòng (trong đó có 5 Phòng chuyên môn nghiệp vụ là : Phòng văn thư; Phòng pháp chế – tổng hợp, Phòng tài vụ, Phòng quản trị, Phòng tin học- thống kê).
12. Trung tâm nghiên cứu khoa học BHXH (trong đó có 2 Phòng chuyên môn nghiệp vụ là: Phòng quản lý và nghiên cứu khoa học, Phòng hành chính – tổng hợp)
13. Trung tâm công nghệ thông tin (trong đó có 3 Phòng chuyên môn nghiệp vụ là: Phòng hành chính- tổng hợp, Phòng lập trình, Phòng xử lý số liệu).
14. Trung tâm đào tạo và bồi dưỡng nghiệp vụ BHXH (trong đó có 2 Phòng chuyên môn nghiệp vụ là : Phòng đào tạo, Phòng hành chính -tổng hợp ).
15. Trung tâm lưu trữ (trong đó có 2 Phòng chuyên môn nghiệp vụ là: Phòng hồ sơ đối tượng, Phòng hồ sơ tổng hợp)
16. Báo BHXH (trong đó có 4 Phòng chuyên môn nghiệp vụ là: Phòng biên tập- phóng viên, Phòng hành chính – trị sự, Phòng thư ký toà soạn, Văn phòng đại diện báo BHXH tại thành phố Hồ Chí Minh).
17. Tạp chí BHXH (trong đó có 2 Phòng chuyên môn nghiệp vụ là: Phòng biên tập, Phòng hành chính – trị sự)
18. Đại diện BHXH Việt nam tại thành phố Hồ chí Minh.
19. Ban thi đua – Khen thưởng.
20. Ban quản lý các dự án đầu tư và xây dựng.
2.4.2. BHXH tỉnh thành phố trực thuộc trung ương bao gồm :
Ban giám đốc có 1 Giám đốc và 3 Phó gíam đốc; có 8 phòng chuyên môn nghiệp vụ trực thuộc tham mưu giúp việc Giám đốc BHXH cấp tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương bao gồm:
1. Phòng chế độ chính sách;
2. Phòng kế hoạch – tài chính;
3. Phòng thu;
4. Phòng giám định chi;
5. Phòng bảo hiểm tự nguyện;
6. Phòng công nghệ thông tin;
7. Phòng tổ chức - hành chính;
8. Phòng kiểm tra.
Tuy nhiên, BHXH ở một số thành phố lớn như Hà nội, Thành phố Hồ Chí Minh do số lượng tham gia BHXH nhiều nên có thêm các phòng chuyên môn nghiệp vụ trưc thuộc là: Phòng quản lý hồ sơ, Phòng cấp sổ, thẻ và Phòng Hành chính - tổng hợp.
Trong giai đoạn hiện nay, để tích cực thực hiện cải cách thủ tục hành chính, BHXH tỉnh Hà Tĩnh đã tổ chức thí điểm cơ chế “một cửa”từ1/1/2007. Sau một năm hoạt động, mô hình này sẽ được tổng kết, đánh giá và điều chỉnh trước khi triển khai mở rộng trong phạm vi toàn quốc.
2.4.3. BHXH huyện, quận, thị xã thành phố trực thuộc tỉnh
Ở cấp này không có cơ cấu phòng tham mưu giúp việc mà là Ban Giám đốc BHXH cùng cấp chỉ đạo trực tiếp các công chức, viên chức trong đơn vị. Đơn vị BHXH cấp huyện được chia ra các bộ phận như sau: Bộ phận kế toán; Thủ quỹ kiêm văn thư; Bộ phận giải quyết chính sách, chế độ BHXH; Bộ phận thu BHXH, BHYT; Bộ phận giám định BHYT.
Ngoài ra để tổ chức thực hiện chế độ chính sách BHXH, các quận huyện, thị xã , thành phố trực thuộc tỉnh còn có hệ thống các đại lý BHXH ở xã, phường thị trấn.
Đến nay, hệ thống tổ chức bộ máy của BHXH ViệtNamđã đi vào hoạt động hơn 10 năm và đáp ứng được nhiệm vụ được giao. Mặc dù trong 10 năm qua, cơ cấu tổ chức có nhiều thay đổi cho thích ứng với tình hình thực tế nhưng cho đến thời điểm này có thể thấy được tổ chức bộ máy điều hành tạm ổn định, đảm bảo gánh vác được nhiệm vụ được giao. Bộ máy điều hành tương đối gọn nhẹ, đồng bộ, tăng cường tính chuyên nghiệp, đã bám sát được thực tiễn yêu cầu nhiệm vụ, tạo ra sự năng động, chủ động khi thực hiện nhiệm vụ chuyên môn, đảm bảo nguyên tắc từ yêu cầu nhiệm vụ mới sinh ra tổ chức. Đặc biệt, việc thực hiện Chương trình tổng thể cải cách hành chính Nhà nước giai đoạn 2001-2010 đã thúc đẩy mạnh mẽ việc hoàn thiện hệ thống tổ chức bộ máy điều hành BHXH ViệtNam. Việc quy định rõ ràng về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của các đơn vị trực thuộc trung ương và ở địa phương đã khắc phục tình trạng mâu thuẫn, chồng chéo về chức năng, nhiệm vụ, giảm bớt những khâu trung gian, đảm bảo sự chỉ đạo trực tuyến từ trên xuống được nhanh chóng cũng như tiếp nhận thông tin phản hồi từ thực tế các địa phương lên trung ương được kịp thời. Việc phân cấp cho BHXH cấp tỉnh thực hiện một số nhiệm vụ như: phân cấp công việc gắn với phân cấp về tài chính, về tổ chức cán bộ, cũng như những loại công việc mà địa phương được phép toàn quyền quyết định… đã phát huy tính chủ động và đề cao trách nhiệm quản lý của BHXH cấp tỉnh, đồng thời giảm bớt các thủ tục hành chính, tạo điều kiện cho BHXH cấp trung ương tập trung vào quản lý vĩ mô trong phạm vi toàn ngành và kịp thời chỉ đạo, điều hành và kiểm tra việc thực hiện của cấp dưới.
SƠ ĐỒ CƠ CẤU HỆ THỐNG TỔ CHỨC HOẠT ĐỘNG SỰ NGHIỆP BHXH VIỆTNAM
Phòng
chức năng 8
Phòng
chức năng 1
III. TỔ CHỨC HOẠT ĐỘNG SỰ NGHIỆP BHXH Ở MỘT SỐ NƯỚC TRÊN THẾ GIỚI
Mỗi nước trên thế giới đều căn cứ vào điều kiện phát triển kinh tế xã, phong tục, tập quán mà tổ chức thực hiện các chế độ, chính sách BHXH theo những phạm vi về nội dung và mức độ quyền lợi khác nhau. Tương tự như vậy về mô hình tổ chức BHXH của mỗi nước cũng mang nhiều đặc trưng đa dạng khác biệt nhau. Ngay trong cùng một nước cũng tuỳ từng thời kỳ nhất định mà có những chuyển đổi về hệ thống tổ chức khác nhau. Vì vậy chúng ta tham khảo một số hệ thống tổ chức hoạt động của một số nước đại diện cho các nhóm nước dưới đây:
1. CÁC NƯỚC PHÁT TRIỂN:
CHLB Đức và là nước đại diện cho các nước châu Âu.
Sự hình thành và phát triển của BHXH ở nước Đức có thể coi là sớm nhất trên thế giới. Luật BHYT cho công nhân được ban hành ngày 15/6/1883, Luật bảo hiểm tai nạn ban hành ngày 6/7/1884, Luật về bảo hiểm hưu trí và tàn tật ban hành ngày 22/6/1889, Luật về giới thiệu việu việc làm và bảo hiểm thất nghiệp ban hành ngày 16/7/1927 và gần đây nhất là Luật bảo hiểm chăm sóc người già ban hành ngày 26/5/1994 và có hiệu lực thi hành từ 1/1/1995. Từ đó đến nay, các bộ luật này cũng không ngừng được sửa đổi và hoàn chỉnh. Đồng thời bộ máy tổ chức thực hiện các chính sách BHXH cũng không ngừng được điều chỉnh cho thích ứng. Đến nay, hệ thống BHXH của CHLB Đức chia ra thành 5 trụ cột chính.( Chú ý: việc giới thiệu hệ thống tổ chức bảo hiểm dưới đây là hệ thống bảo hiểm thực hiện Luật xã hội, nó khác biệt với các hệ thống bảo hiểm tư nhân - hoạt động mang tính thương mại - cũng được phát triển mạnh ở Đức ).
Hệ thống bảo hiểm thất nghiệp: Hệ thống này do Cơ quan lao động liên bang đảm trách. Cơ quan lao động liên bang là một tổ chức hoạt động theo luật hành chính công với Tổ chức tự quản. Cơ quan tự quản bao gồm: Hội đồng quản lý và các Ban quản lý thuộc Cơ quan lao động các bang và Cơ quan lao động địa phương ( đến cấp quận huyện). Thành phần đại diện của Tổ chức tự quản sẽ bao gồm số lượng thành viên bằng nhau của đại diện người lao động,đại diện người sử dụng lao động và đại diện của chính phủ. Thành viên của Hội đồng quản lý không phải do bầu cử mà do Bộ lao động và xã hội Liên bang quyết định dựa trên danh sách đề cử đối với người lao động là do công đoàn và các hiệp hội công đoàn của họ giới thiệu ; đối với nhóm chủ sử dụng lao động do các hiệp hội doanh nghiệp và các tổ chức của họ giới thiệu. Lãnh đạo cơ quan lao động liên bang do Chủ tich và 2 phó chủ tich được Tổng thống Liên bang bổ nhiệm theo đề nghị của Chính phủ Liên bang. Như vậy bên cạnh Bộ máy quản lý luôn có Bộ máy điều hành cùng cấp và hoạt động thống nhất trong toàn liên bang.
Hệ thống bảo hiểm y tế: Hệ thống BHYT này lại do nhiều cơ quan quản lý quỹ BHYT khác nhau cùng tổ chức thực hiện Luật BHYT. Mỗi cơ quan này cũng là một tổ chức tự quản và hoạt động theo Luật hành chính công.Các loại cơ quan quản ly quỹ BHYT là:
Cơ quan BHYT vùng
Cơ quan BHYT doanh nghiệp
Cơ quan bảo hiểm y tế các nghiệp đoàn
Cơ quan BHYT bổ sung
Cơ quan BHYT biển
Cơ quan BHYT nông nghiệp
Cơ quan BHYT nghiệp đoàn thợ mỏ
Mỗi cơ quan BHYT đều có bộ máy quản lý và bộ máy điều hành theo mô hình tự quản được tổ chức tương tự như cơ quan lao động.
Hệ thống bảo hiểm tai nạn cũng được phân chia cho nhiều cơ quan khác nhau đảm nhiệm như: Hợp tác xã nghề nghiệp, Hợp tác xã nông nghiệp, cơ quan quỹ tai nạn và hiệp hội bảo hiểm cá xã phường … đảm nhiệm.
Hệ thống bảo hiểm hưu trí: trước năm 2006 hệ thống này được chia ra là Bảo hiểm hưu trí cho công nhân( người lao động chân tay) do Cơ quan bảo hiểm hưu trí từng bang quản lý và Bảo hiểm hưu trí cho viên chức (người lao động trí óc) do Cơ quan bảo hiểm hưu trí liên bang quản lý và các cơ quan này hoạt động theo luật hành chính công.Sau năm 2006 cả hai hệ thống này được thống nhất thành một hệ thống lấy tên là Cơ quan bảo hiểm hưu trí liên bang và chịu trách nhiệm về việc thực hiện toàn bộ luật pháp bảo hiểm hưu trí của Đức. Công chức Nhà nước không tham gia bảo hiểm hưu trí mà được hưởng theo chế độ cung cấp. Cơ quan tự quản về bảo hiểm hưu trí lại bao gồm một nửa số thành viên là các công dân đáng kính trọng đại diên cho người tham gia Bảo hiểm hưu trí và một nửa số thành viên còn lại là đại diện của người sử dụng lao động.
Hệ thống tổ chức bảo hiểm chăm sóc người già được gắn liền với hệ thống tổ chức BHYT nhưng cũng được hoạt động độc lập theo hình thức là một cơ quan hoạt động theo luật hành chính công và theo hình thức tự quản.
2. CÁC NƯỚC CÓ NỀN KINH TẾ CHUYỂN ĐỔI:
Hungary:
Hệ thống bảo hiểm hưu trí do Cơ quan bảo hiểm hưu trí quốc gia thống nhất chịu trách nhiệm thực hiện các chính sách bảo hiểm hưu trí thông qua mạng lưới chi nhánh tại các khu vực, địa phương.
Hệ thống bảo hiểm ốm đau và tai nạn lao động do Quỹ BHYT quốc gia chịu trách nhiệm thực hiện các chính sách trợ cấp ốm đau, thai sản. Quỹ BHYT quốc gia bao gồm các chi nhánh BHYT địa phương trực tiếp thực hiện việc chi trả các chế độ BHYT và tai nạn lao động.Việc thu từ đóng góp tham gia BHYT lại do cơ quan thuế Hungari thực hiện và sau đó chuyển cho Quỹ BHYT quốc gia.
Cộng hoà Séc
Hệ thống bảo hiểm hưu trí do Bộ lao động và các vấn đề xã hội là cơ quan giám sát chung. Cơ quan bảo đảm xã hội Séc chịu trách nhiệm thực hiện chính sách bảo hiểm hưu trí và có bộ máy điều hành theo ngành dọc với các chi nhánh BHXH tại các địa phương.
Hệ thống bảo hiểm y tế lại rất phân tán. Bên cạnh các chi nhánh BHXH các cấp quận huyện và khu vực quản lý các chế độ trợ cấp BHXH nói chung (kể cả bảo hiểm thất nghiệp) thì các doanh nghiệp lớn cũng giữ vai trò trong việc chi trả trực tiếp các chế độ BHYT, chế độ tai nạn lao động.
Liên bang Nga:
Hệ thống bảo hiểm hưu trí do Quỹ hưu trí liên bang Nga chịu trách nhiệm tổ chức thực hiện. Quỹ hưu trí Liên bang tổ chức theo hệ thống ngành dọc và các chi nhánh đặt tại các địa phương sẽ thu đóng góp và thực hiện chi trả trợ cấp.
Hệ thống bảo hiểm thất nghiệp do Cơ quan dịch vụ việc làm Liên bang Nga chịu trách nhiệm giám sát chung và các cơ quan dịch vụ việc làm khu vực chịu trách nhiệm thực hiện chính sách.
Hệ thống bảo hiểm y tế và bảo hiểm tai nạn do Quỹ BHXH của liên bang chị trách nhiệm tổ chức thực hiện . Quỹ BHXH các địa phương thực hiện chi trả trợ cấp ốm đau, thai sản bằng tiền. Các Ban trợ cấp xã hội địa phương chịu trách nhiệm chi trả trợ cấp thai sản cho người thất nghiệp và những công dân khác không làm việc. Các đơn vị sử dụng lao động chi trả trợ cấp trực tiếp cho người lao đọng thuộc đơn vị mình quản lý.
3. CÁC NƯỚC KHU VỰC ĐÔNG NAM CHÂU Á
Malaysia
Hệ thống bảo hiểm hưu trí và tàn tật, hệ thống BHYT do Quỹ dự phòng chịu trách nhiệm thực hiện các chế độ này. Quỹ dự phòng do Hội đồng quản lý quỹ điều hành và cũng bao gồm đại diện của 3 bên: Nhà nước, chủ sử dụng lao động và người lao động. Riêng hệ thống bảo hiểm tai nạn do Cơ quan bảo đảm xã hội quốc gia đảm nhiệm. Cơ quan này cũng do Hội đồng quản lý với đại diện của 3 bên tham gia điều hành.
Sinhgapore
Hệ thống bảo hiểm hưu trí và bảo hiểm y tế do Quỹ dự phòng Trung ương quản lý và điều hành. Điều hành quỹ dự phòng do Hội đồng quản lý với sự tham dự của các thành phần thuộc 3 bên: Nhà nước, chủ sử dụng lao động và người lao động.
Hệ thống bảo hiểm tai nạn lao động sẽ do Uỷ ban Lao động đảm trách, Uỷ ban này có trách nhiệm phê chuẩn ký kết giữa Chủ sử dụng lao động với người lao động các quy định theo luật pháp về tai nạn lao động, thu đóng góp từ chủ sử dụng lao động và chi trả trợ cấp.
Inđônêsia
Bộ nhân lực chịu trách nhiệm quản lý chung về chế đô, chính sách BHXH còn việc tổ chức thực hiện do Hội đồng Nhà nước về vấn đề đảm bảo xã hội cho người lao động chịu trách nhiệm tổ chức thực hiện. Riêng hệ thống bảo hiểm tai nạn lao động còn một phần trách nhiệm thuộc về chương trình trợ cấp của các doanh nghiệp. Khi đó người sử dụng lao động sẽ chi trả trực tiếp các chế độ cho người lao động bao gồm cả các chế độ chăm sóc y tế.
Thái land
Bộ lao động và phúc lợi chịu trách nhiệm giám sát chung, còn công việc tổ chức thực hiện do Cơ quan bảo hiểm xã hội đảm nhận. Cơ quan BHXH sẽ tổ chức thực hiện các chế độ BHXH như: chế độ hưu trí, chế độ tai nạn lao động, chế độ trợ cấp thất nghiệp, chế độ trợ cấp ốm đau và thai sản.
Người Biên soạn: TS. Phạm Đình Thành
Trưởng phòng quản lý khoa học
TRUNG TÂM NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
BẢO HIỂM XÃ HỘI VIỆT NAM
Tài liệu tham khảo
1.Gabler Wirtschaftslexikon 12. Auflage 1988 Gabler Verlag
2. Unsere Sozialversicherung Bundesversicherungsanstalt fur Angestellte
30. uberarbeitete Auflage – Mai 2002
3. Hệ thống BHXH của 138 nước trên thế giới. Tài liệu dịch của Trung tâm nghiên cứu khoa học BHXH năm 2005
4. Đổi mới tổ chức – cán bộ của BHXH Việt Nam theo cơ chế quản lý mới – Nguyễn Kim Thái - Đề tài nghiên cứu khoa học năm 1997 đã được nghiệm thu
5.Nghiên cứu hoàn thiện mô hình bộ máy, quy hoạch và đào tạo cán bộ của hệ thống BHXH Việt Nam
Nguyễn Kim Thái - Đề tài nghiên cứu khoa học năm 1999 đã được nghiệm thu
6.Hoàn thiện mô hình tổ chức bộ máy, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn hệ thống BHXH Việt Nam
Nguyễn Kim Thái – Tiểu đề án nghiên cứu khoa học năm 2006 đã được nghiệm thu
7.Hoàn thiện quy chế xét duyệt, thẩm định và quản lý hồ sơ hưởng các chế độ BHXH
Hà văn Chi - Tiểu đề án nghiên cứu khoa học năm 2006 đã được nghiệm thu
8. Hoàn thiện quy chế quản lý tài chính và chế độ kế toán BHXH
Nguyễn Phước Tường - Tiểu đề án nghiên cứu khoa học năm 2006 đã được nghiệm thu
9. Hoàn thiện quy trình chi BHXH
Trần Đức Nghiêu - Tiểu đề án nghiên cứu khoa học năm 2006 đã được nghiệm thu
10.Hoàn thiện quy chế thu BHXH
Nguyễn Tiến Quyết - Tiểu đề án nghiên cứu khoa học năm 2006 đã được nghiệm thu
Mục lục:
Chương II. Hệ thống tổ chức hoạt động sự nghiệp BHXH
I. Khái quát chung về hệ thống tổ chức hoạt động sự nghiệp BHXH
1. Khái niệm
1.1. Khái niệm về tổ chức
1.2. Những đặc tính cơ bản (hay những yếu cầu cơ bản) của một tổ chức
2. Lịch sử hình thành và phát triển của tổ chức BHXH ViệtNam
3. Nội dung hoạt động sự nghiệp BHXH
4. Vai trò và hiệu quả hoạt động của tổ chức hệ thống bộ máy hoạt động sự nghiệp BHXH
5. Nguyên tắc tổ chức hệ thống bộ máy hoạt động sự nghiệp BHXH
6. Mô hình tổ chức bộ máy hoạt động sự nghiệp BHXH
II. Hệ thống tổ chức hoạt động sự nghiệp BHXH ở Việt Nam
1. Vị trí, chức năng của BHXH ViệtNam
2. Nhiệm vụ của Hội đồng quản lý BHXH ViệtNam
3. Nhiệm vụ và quyền hạn của BHXH ViệtNam
4. Cơ cấu tổ chức
III. Hệ thống tổ chức hoạt động sự nghiệp BHXH ở một số nước trên thế giới
1. Các nước phát triển
2. Các nước có nền kinh tế chuyển đổi
3. Các nước khu vực Đông Nam Châu Á
Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Com