Truyen2U.Net quay lại rồi đây! Các bạn truy cập Truyen2U.Com. Mong các bạn tiếp tục ủng hộ truy cập tên miền mới này nhé! Mãi yêu... ♥

chuong7

Chương VII

Một số vấn đề về vận dụng và phát triển

tư tưởng Hồ Chí Minh trong công cuộc đổi mới

I. Bối cảnh thế giới và trong nước

Đảng ta xác định: lấy chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng

tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động. Việc vận dụng và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh phải được đặt vào trong một bối cảnh nhất định, nhất là thời kỳ hiện nay, thời kỳ đang có sự biến đổi nhanh chóng và phức tạp, bao gồm cả những thách thức và cơ hội cho cách mạng nước ta.

1. Đặc điểm của tình hình thế giới

a) Cuộc cách mạng khoa học và công nghệ tiếp tục phát triển mạnh mẽ

Thế giới đã trải qua nhiều giai đoạn phát triển của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ. Giai đoạn phát triển hiện nay của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ biểu hiện trên những nét chủ yếu sau đây:

- Thực tế cuộc cách mạng này càng khẳng định tính đúng đắn của C.Mác trong việc dự báo rằng, đến lúc nào đó khoa học sẽ trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp.

- Cuộc cách mạng khoa học và công nghệ trong giai đoạn hiện nay có những bước tiến nhảy vọt trong nhiều lĩnh vực, đặc biệt là trong lĩnh vực công nghệ thông tin. Điều

đó đang hướng nhân loại bước vào nền văn minh trí tuệ với hai đặc trưng cơ bản là "xã hội thông tin" và "kinh tế tri thức". Với xã hội thông tin và kinh tế tri thức, thế mạnh tương đối về nguồn lao động giản đơn hoặc tay nghề thấp đã mất ý nghĩa, lợi thế thuộc

về những quốc gia có lực lượng lao động được đào tạo đáp ứng được sự đòi hỏi của khoa học và công nghệ; sản phẩm được tạo ra ngày càng phản ánh sự kết tinh từ "chất xám", từ trí tuệ chứ không phải chủ yếu từ cơ bắp.

- Giai đoạn phát triển hiện nay của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ tạo ra

cơ sở cũng như thúc đẩy nhanh hơn, tạo lực mạnh hơn cho quá trình toàn cầu hóa kinh

tế - vốn là một xu thế khách quan trên thế giới. Toàn cầu hóa hiện nay có hai mặt, vừa

tích cực, vừa tiêu cực. Mặt tích cực thể hiện chủ yếu là tạo ra cơ hội (tất nhiên là không như nhau) cho tất cả các nước tiến nhanh hơn trên con đường phát triển của mình nếu biết tận dụng thời cơ trong giao lưu, hợp tác quốc tế, đi tắt, đón đầu, phát huy được sức mạnh tổng hợp của dân tộc và của thời đại. Mặt tiêu cực thể hiện chủ yếu ở chỗ, hiện nay toàn cầu hóa đang bị các nước tư bản chủ nghĩa phát triển, các tập đoàn tư bản tài chính cũng như các tập đoàn kinh tế xuyên quốc gia thao túng. Chính vì vậy, nhiều người cho rằng, hiện nay toàn cầu hóa mang tính chất tư bản chủ nghĩa.

- Trên con đường phát triển của các quốc gia - dân tộc, cuộc cách mạng khoa học

và công nghệ đã và đang tạo ra sự liên kết, hợp tác giữa các nước trên nhiều lĩnh vực, ở nhiều cấp độ (khu vực, toàn cầu, song phương, đa phương, đa dạng). Quá trình liên kết, hợp tác này thực chất là một cuộc cạnh tranh để tồn tại và phát triển, cho nên đó cũng là quá trình vừa hợp tác, vừa đấu tranh.

b) Tình hình chính trị trên thế giới có sự thay đổi lớn

Từ sau Cách mạng Tháng Mười Nga, nhất là sau chiến tranh thế giới thứ hai hệ thống xã hội chủ nghĩa hình thành trở thành một nhân tố ảnh hưởng lớn nhất cho sự phát triển của thế giới. Hiện nay, tình hình chính trị thế giới có nhiều thay đổi:

- Hệ thống xã hội chủ nghĩa không còn, phong trào cộng sản và công nhân quốc tế gặp khó khăn lớn. Đây không phải bắt nguồn từ học thuyết Mác - Lênin mà là từ nhiều nguyên nhân, trong đó có sai lầm trong việc vận dụng học thuyết đó. Cục diện chính trị

thế giới có nhiều biến động lớn, nhất là từ cuối những năm 80 đầu những năm 90 của thế kỷ XX.

- Cuộc "chiến tranh lạnh" đã kết thúc nhưng nền hòa bình thế giới lại đứng trước thách thức lớn. Đó là những cuộc chiến tranh cục bộ, những cuộc xung đột sắc tộc, tôn giáo, các thế lực khủng bố quốc tế gây ra những cuộc khủng bố đẫm máu. Đó là những

âm mưu và hành động của các thế lực phản động can thiệp thô bạo đối với độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của nhiều nước trên thế giới bất chấp các chế định hành xử của luật pháp quốc tế cũng như các nguyên tắc của Liên hợp quốc.

- Chủ nghĩa tư bản tiếp tục có sự điều chỉnh để phát triển. Trong tình hình hiện nay, các nước tư bản sử dụng được ngày càng tốt hơn, nhanh hơn các thành tựu của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ. Đồng thời với quá trình đó, chủ nghĩa tư bản vẫn tiếp tục có những khó khăn do không thể khắc phục được những mâu thuẫn vốn có trước

đây.

- Các nước trong khu vực Đông Nam á cũng như khu vực châu á - Thái Bình Dương

là những khu vực phát triển năng động của thế giới song đang tiềm ẩn những biến cố khó lường, những yếu tố gây mất ổn định. Việt Nam nằm trong những khu vực này cho nên không thể không chịu sự tác động đó.

- Thế giới hiện nay đang diễn ra cả hai tình hình tưởng như mâu thuẫn nhau nhưng nó lại thống nhất trong một chỉnh thể. Đó là đấu tranh dân tộc và đấu tranh giai cấp diễn ra gay gắt và phức tạp với nhiều hình thức, đồng thời thế giới cũng đang diễn

ra một quá trình hợp tác trong xu thế toàn cầu hóa. Vừa hợp tác vừa đấu tranh, luôn luôn phải cạnh tranh để tồn tại và phát triển trong xu thế toàn cầu hóa, khu vực hóa là

nét chủ đạo của tình hình thế giới hiện nay.

2. Bối cảnh trong nước

Đại hội VI của Đảng (năm 1986) đã đề ra đường lối đổi mới toàn diện đất nước. Việt Nam chính thức bước vào thời kỳ đổi mới. Việt Nam kiên trì chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, tiếp tục đi theo con đường mà Hồ Chí Minh đã lựa chọn. Thực hiện đường lối đổi mới đất nước ở Việt Nam có những đặc điểm chủ yếu sau đây:

Một là: đất nước đã thu được những thành tựu cơ bản.

Đất nước trải qua hàng chục năm chiến tranh khốc liệt để lại hậu quả nặng nề; các

thế lực phản động chống phá quyết liệt nhằm phủ nhận thành quả cách mạng Việt Nam khiến đất nước lâm vào cuộc khủng hoảng kinh tế-xã hội. Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, đất nước ta đã vượt qua được những thử thách đó, đã thoát ra khỏi cuộc khủng hoảng kinh tế-xã hội, bước vào thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại

hóa.

Hiện nay, Việt Nam đang xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ

nghĩa, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân dưới sự

lãnh đạo của Đảng. Việt Nam đang chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, mở cửa, sẵn sàng

là bạn, là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế, phấn đấu vì hòa bình,

độc lập và phát triển.

Trong những năm đổi mới, nền kinh tế của đất nước tiếp tục phát triển với nhịp độ cao so với các nước khác trong khu vực. Tình hình chính trị của đất nước luôn luôn giữ được ổn định. Tình hình xã hội có tiến bộ. Đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân không ngừng được cải thiện. Vị thế của đất nước không ngừng được nâng cao trên trường quốc tế. Thế và lực của đất nước ta mạnh lên rất nhiều so với những năm trước đổi mới cho phép nước ta tiếp tục phát huy nội lực kết hợp với tranh thủ ngoại lực để phát triển nhanh và bền vững, trước mắt phấn đấu đến năm 2020 về cơ bản làm cho Việt Nam trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại; nguồn lực con người, năng lực khoa học và công nghệ, kết cấu hạ tầng, tiềm lực kinh tế, quốc phòng, an ninh được tăng cường; thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa được hình thành về

cơ bản; vị thế của nước ta trên trường quốc tế tiếp tục được nâng cao.

Hai là: Việt Nam đang đứng trước cơ hội lớn và thách thức lớn đan xen nhau.

Sự nghiệp đổi mới của nước ta trong những năm tới, có cơ hội lớn để phát triển của đất nước. Đó là lợi thế so sánh để phát triển do nhiều yếu tố, trong đó yếu tố nội lực

là hết sức quan trọng. Những cơ hội tạo cho đất nước ta có thể đi tắt, đón đầu, tiếp thu

nhanh những thành tựu của cách mạng khoa học và công nghệ trên thế giới. Thực hiện đường lối ngoại giao Hồ Chí Minh, quan hệ đối ngoại rộng mở và tăng cường hợp tác quốc tế theo phương châm độc lập tự chủ, đa phương hóa, đa dạng hóa, hợp tác các bên đều có lợi trên cơ sở tôn trọng các quyền dân tộc cơ bản của mỗi quốc gia-dân tộc là độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ. Mặt khác, chúng ta rút ra được nhiều bài học từ cả những thành công và yếu kém của gần hai chục năm tiến hành sự nghiệp đổi mới để đẩy mạnh sự nghiệp cách mạng, nhất là trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Những thành tựu và thời cơ đã cho phép nước ta tiếp tục đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ, đưa Việt Nam trở thành một nước công nghiệp, tiếp tục ưu tiên phát triển lực lượng sản xuất, đồng thời xây dựng quan hệ sản xuất phù hợp theo định hướng xã hội chủ nghĩa, phát huy hơn nữa nội lực. Đồng thời Đảng và Nhà nước ta tranh thủ nguồn lực bên ngoài và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế để phát triển nhanh, có hiệu quả và bền vững; tăng trưởng kinh tế đi liền với phát triển văn hóa, từng bước cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ và cải thiện môi trường; kết hợp phát triển kinh tế-xã hội với tăng cường an ninh quốc phòng.

Tuy vậy, chúng ta cũng đang đứng trước những thách thức, nguy cơ hay những khó khăn lớn trên con đường phát triển của đất nước. Bốn nguy cơ mà Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ Đại hội VII của Đảng đã chỉ ra vẫn còn tồn tại. Các nguy cơ

đó diễn biến phức tạp, đan xen và tác động lẫn nhau, chúng ta không thể xem nhẹ nguy

cơ nào. Trong tình hình thế giới hiện nay, phát triển nhanh và bền vững là một thách thức lớn. Nếu nước ta không tận dụng cơ hội hiện nay để phát triển nhanh, thoát khỏi nghèo nàn và lạc hậu thì cơ hội sẽ bị bỏ lỡ. Nguy cơ chệch hướng xã hội chủ nghĩa phải được đề phòng không những ở việc xây dựng và thông qua cương lĩnh, đường lối, chủ trương, nghị quyết, pháp luật của Đảng và Nhà nước mà còn ở trong quá trình thực hiện các nhiệm vụ kinh tế-xã hội. Nạn tham nhũng, tệ quan liêu cũng như sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên đã và đang cản trở việc thực hiện có hiệu quả đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, gây bất bình và làm giảm niềm tin trong nhân dân. Các thế lực phản động không ngừng tìm mọi cách thực hiện âm mưu "diễn biến hòa bình", chống phá sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo.

II. Quan điểm cơ bản có ý nghĩa phương pháp luận

đối với việc vận dụng và phát triển tư tưởng

Hồ Chí Minh

Để vận dụng có kết quả và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh, chúng ta cần nắm vững một số quan điểm cơ bản sau đây:

1. Lý luận gắn liền với thực tiễn

Hồ Chí Minh là người rất chú trọng gắn lý luận với thực tiễn. Người cho rằng: "Lý luận không phải là một cái gì cứng nhắc, nó đầy tính chất sáng tạo; lý luận luôn luôn cần được bổ sung bằng những kết luận mới rút ra từ trong thực tiễn sinh động"1.

Hồ Chí Minh nhắc nhở: "Chúng ta phải nâng cao sự tu dưỡng về chủ nghĩa Mác - Lênin

để dùng lập trường, quan điểm, phương pháp chủ nghĩa Mác - Lênin mà tổng kết những kinh nghiệm của Đảng ta, phân tích một cách đúng đắn những đặc điểm của nước ta. Có như thế, chúng ta mới có thể dần dần hiểu được quy luật phát triển của cách mạng Việt Nam, định ra được những đường lối, phương châm, bước đi cụ thể của cách mạng xã

hội chủ nghĩa thích hợp với tình hình nước ta"2. Những điều mà Hồ Chí Minh vận dụng

lý luận Mác - Lênin kết hợp với thực tiễn cách mạng Việt Nam trở thành mẫu mực để chúng ta vận dụng tư tưởng của Người vào tình hình thực tế của nước ta cho phù hợp với từng giai đoạn, từng thời kỳ.

Tư tưởng Hồ Chí Minh là kết quả của quá trình kết hợp chặt chẽ, nhuần nhuyễn giữa chủ nghĩa Mác - Lênin và thực tiễn cách mạng của từng thời kỳ. Hồ Chí Minh nêu lên quan điểm rằng, lý luận không được áp dụng vào thực tiễn là lý luận suông, đồng thời thực tiễn không có lý luận soi sáng là thực tiễn mù quáng. Do đó, trong hoạt động, chúng ta phải luôn luôn gắn chặt lý luận với thực tiễn.

Thấu suốt quan điểm này trong việc vận dụng và phát triển tư tưởng Hồ Chí

Minh, chúng ta cần chú ý những nội dung cơ bản sau đây:

Một là: Luôn luôn đem những vấn đề lý luận đối chiếu với thực tiễn. Làm như vậy

là để tránh căn bệnh kinh nghiệm chủ nghĩa, tránh cho lý luận xa rời thực tế.

Hai là: Trong quá trình hoạt động thực tiễn, phải chú ý tổng kết nâng lên thành những vấn đề lý luận. Bản thân lý luận được đúc kết từ thực tiễn, nhưng nó phải luôn luôn được bổ sung bằng những vấn đề mới bởi cuộc sống phong phú luôn luôn sống động, vận động không ngừng. Đây là một quá trình phát triển biện chứng, làm cho lý luận ngày càng được sinh động và đúng đắn hơn, đồng thời làm cho thực tiễn phát triển đúng hướng hơn, phù hợp với quy luật phát triển của xã hội.

Ba là: Thông qua thực tiễn để kiểm nghiệm lý luận. Bản thân tư tưởng Hồ Chí Minh là những quan điểm toàn diện, sống động và nó luôn luôn là những vấn đề "mở", nghĩa là nó cần phải được kiểm nghiệm trong từng lĩnh vực, từng giai đoạn, bởi vì, thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lý. Trong bản chất của tư tưởng Hồ Chí Minh, không thể phân biệt rạch ròi đâu là vấn đề lý luận và đâu là vấn đề thực tiễn mà chúng quyện chặt với nhau. Thực tiễn kiểm nghiệm lý luận cũng là một quá trình tự điều chỉnh cả về lý

luận và cả về thực tiễn để nắm bắt quy luật vận động của thế giới khách quan được tốt

1. Sđd, t.8, tr. 496.

2. Sđd, t.8, tr. 494.

hơn.

2. Quan điểm lịch sử - cụ thể

Tư tưởng Hồ Chí Minh là hệ thống các quan điểm rất biện chứng. Quá trình vận dụng và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh đòi hỏi chúng ta phải:

- Đặt những quan điểm, luận điểm của Hồ Chí Minh vào một hoàn cảnh lịch sử cụ

thể nhất định. Chẳng hạn, luận điểm của Hồ Chí Minh được Người viết, nói trong hoàn cảnh nào? lúc nào? với mục đích gì? v.v.. Điều này giúp cho chúng ta tránh được một số

sai lầm hay mắc phải trong quá trình nhận thức và vận dụng những quan điểm của Hồ

Chí Minh.

- Xem xét những quan điểm của Hồ Chí Minh trong mối quan hệ biện chứng với thực tiễn cuộc sống, nghĩa là những quan điểm đó được đặt trong một quá trình vận động và phát triển không ngừng, trong một quá trình tương tác với hoàn cảnh, điều kiện nhất định. Mỗi luận điểm được Hồ Chí Minh nêu ra đều mang ý nghĩa lý luận và thực tiễn rất sâu sắc nhưng ngôn ngữ rất dễ hiểu, dễ nhớ dù vấn đề đó hết sức mang tính tư biện. Đó là phong cách riêng của Hồ Chí Minh.

- ở Hồ Chí Minh sự thống nhất giữa nói và làm luôn được coi trọng, có khi làm nhiều hơn nói. Tư tưởng của Người được biểu đạt không chỉ qua những bài nói, bài viết hiện nay đã tập hợp trong bộ sách Hồ Chí Minh Toàn tập mà còn qua hành động hằng ngày của Người. Cả cuộc đời của Hồ Chí Minh là một pho sách lớn cần được chúng ta nghiên cứu, học tập. Do đó, những quan điểm của Hồ Chí Minh còn phải được tìm trong cuộc sống, trong những việc làm cụ thể của Người mà những việc làm đó diễn ra trong một không gian và thời gian nhất định. Dù những quan điểm, luận điểm của Hồ Chí Minh có ý nghĩa rất lớn, vượt phạm vi không gian và thời gian nhưng nếu chúng ta thoát

ly khỏi hoàn cảnh lịch sử cụ thể thì chúng ta không thể vận dụng và phát triển tư tưởng

Hồ Chí Minh một cách đúng đắn và có hiệu quả.

- Tư tưởng Hồ Chí Minh là sản phẩm của một thời kỳ lịch sử cụ thể, nó phản ánh hiện thực lịch sử và do đó chịu sự chi phối, tác động của chính bản thân điều kiện lịch

sử. Cũng như bất kỳ một tư tưởng, quan điểm nào khác, kể cả những tư tưởng, quan điểm của bậc vĩ nhân, tư tưởng Hồ Chí Minh có lúc cũng bị hạn chế do không thể vượt qua được những chế định của điều kiện lịch sử. Chính vì thế, cũng giống như chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh cần được phát triển trong những điều kiện mới, cần được đặt vào trong một điều kiện mới để vận dụng và phát triển như Hồ Chí Minh đã vận dụng và phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin.

3. Quan điểm toàn diện và hệ thống

Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống các quan điểm toàn diện và sâu sắc về

những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam. Xem xét vấn đề một cách toàn diện và

có hệ thống là một phương pháp rất quan trọng và là một phong cách của Hồ Chí Minh.

Thấu suốt quan điểm này trong quá trình vận dụng và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh trong sự nghiệp cách mạng hiện nay, chúng ta lưu ý một số điểm sau đây:

- Phải nhìn nhận sự vật và hiện tượng một cách toàn diện, bao quát. Hồ Chí Minh

đã tự sự trong bài thơ Học đánh cờ (Trong tập thơ Nhật ký trong tù năm 1942 - 1943)

rằng: "Phải nhìn cho rộng, suy cho kỹ". Chính nhờ nhìn xa trông rộng mà Hồ Chí Minh

đã giải quyết thành công nhiều nhiệm vụ rất khó khăn mà bình thường khó có thể vượt qua. Càng trong khó khăn, kể cả trong những tình huống "nghìn cân treo sợi tóc", nhưng nếu xem xét vấn đề một cách toàn diện, thấu đáo, cộng với tổ chức giỏi, quyết tâm cao

thì nhất định vấn đề được giải quyết thành công. Chính điểm này hoàn toàn đối lập với cách nhìn thiển cận của một số cán bộ, mà trong tác phẩm Sửa đổi lối làm việc viết năm

1947 Hồ Chí Minh gọi là "bệnh cận thị".

- Với quan điểm toàn diện và hệ thống, cần tránh tình trạng bỏ sót việc lớn, bỏ qua những việc cơ bản, có ảnh hưởng đến đại cục; tránh tình trạng chỉ biết những việc vụn vặt, phải nắm lấy những việc chủ yếu, trọng tâm, những việc có tác động chung đến toàn hệ thống. Hồ Chí Minh nhiều lần nhắc nhở, phê bình những người "không trông xa thấy rộng, những vấn đề to tát thì không nghĩ đến mà chỉ chăm chú những việc tỉ mỉ".

- Mỗi một vấn đề đều có quá trình phát sinh, hình thành, tồn tại, vận động, do đó, khi nghiên cứu, xem xét, giải quyết, phải đặt vấn đề đó vào trong một tổng thể, tìm ra bản chất vấn đề trong toàn bộ trạng thái vận động của nó. Hồ Chí Minh thường đặt các vấn đề trong các cặp, hoặc đặt trong các mối quan hệ biện chứng của cả một hệ thống (chẳng hạn như: đức - tài; tự phê bình - phê bình; lý luận - thực tiễn, v.v.), qua đó chỉ

ra những vấn đề chủ yếu, những vấn đề "gốc" để nhìn nhận cho đúng và giải quyết cho đúng. Chính vì vậy, Hồ Chí Minh luôn luôn có phong thái ung dung, tự tại, tự tin, chủ động trong mọi công việc, kể cả những việc, những lúc có tính chất dồn dập, khẩn trương. Người đã biết tìm trong vô vàn công việc phức tạp chọn ra những công việc phải làm ngay, việc nào là việc chính nhất rồi đề ra kế hoạch tỉ mỉ, chắc chắn, chính xác sau đó quyết tâm thực hiện cho bằng được kế hoạch đó.

- Những quan điểm của Hồ Chí Minh đều có tính nhất quán trong một hệ thống chặt chẽ. Do vậy, học tập, nghiên cứu để vận dụng vào sự nghiệp cách mạng hiện nay không nên biệt lập từng quan điểm của Người, cắt khúc các quan điểm đó một cách siêu hình mà cần đặt tư tưởng Hồ Chí Minh vào trong hệ thống lý luận Mác - Lênin.

4. Quan điểm kế thừa và phát triển

Quan điểm này cho chúng ta thấy rằng:

- Cuộc sống vận động không ngừng, có lúc tiệm tiến, có lúc nhảy vọt và có khi "một ngày bằng hai mươi năm", đặc biệt là tình hình thế giới hiện nay đang ẩn chứa nhiều yếu tố khó lường. Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh vào trong điều kiện mới đặt ra yêu cầu chủ thể phải hiểu đúng những quan điểm cơ bản tư tưởng Hồ Chí Minh, nắm

bắt đúng tình hình thực tế trong nước và ở trên thế giới. Điều kiện hiện nay có nhiều điều thay đổi, khác với trước kia, vì thế, những quan điểm của Hồ Chí Minh phải được vận dụng sáng tạo cho sát hợp với hoàn cảnh của từng giai đoạn, từng thời kỳ. V.I. Lênin đã vận dụng và phát triển chủ nghĩa Mác với tinh thần đó. Hồ Chí Minh cũng đã vận dụng và phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin với tinh thần đó.

- Theo tinh thần của Hồ Chí Minh "dĩ bất biến ứng vạn biến", trong kế thừa và phát triển, phải giữ đúng nguyên tắc, giữ đúng mục đích, giữ vững mục tiêu chiến lược

thể hiện qua toàn bộ tư tưởng của Người. Những vấn đề sách lược có thể và cần thiết phải thay đổi cho phù hợp với từng lúc và từng nơi trên cơ sở hướng tới mục tiêu chiến lược đã lựa chọn. Sự kế thừa tư tưởng Hồ Chí Minh ở đây không có nghĩa là tầm chương trích cú, bám giữ từng câu từng chữ trước tác của Người vào trong tình hình thực tế. Hồ Chí Minh là con người của đổi mới, hết sức tránh giáo điều, tránh rập khuôn, máy móc.

- Trong quá trình vận dụng và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh theo quan điểm kế thừa và phát triển, chúng ta lưu ý đến việc vận dụng tinh thần và phương pháp của Người để tiếp tục nhận thức và hành động đúng quy luật, giải quyết những vấn đề mới

do cuộc sống đặt ra. Cũng như tinh thần coi chủ nghĩa Mác - Lênin là một "học thuyết mở", chúng ta coi tư tưởng Hồ Chí Minh là những vấn đề mở, nghĩa là cần được vận dụng một cách sống động và bổ sung, phát triển trong sự nghiệp đổi mới ở nước ta.

III. Phương hướng và một số nội dung vận dụng, phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh trong sự nghiệp đổi mới

1. Phương hướng

Phương hướng vận dụng và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh trong sự nghiệp đổi mới là nắm vững quan điểm thực tiễn, vận dụng và phát triển sáng tạo tư tưởng của Người để giải quyết đúng những vấn đề do thực tiễn đặt ra.

Thực tế luôn luôn vận động và phát triển. Tư tưởng Hồ Chí Minh cũng phải được

đặt trong quá trình vận động và phát triển của cuộc sống. Phải nắm chắc bản chất của từng vấn đề đặt ra trong tư tưởng Hồ Chí Minh để vận dụng một cách đúng đắn vào sự nghiệp cách mạng nước ta.

2. Một số nội dung chủ yếu vận dụng và phát triển tư tưởng Hồ Chí

Minh hiện nay

a) Kiên định con đường mà Hồ Chí Minh đã lựa chọn

Con đường mà Hồ Chí Minh đã lựa chọn cho sự phát triển của dân tộc ta là con

đường độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Con đường này Hồ Chí Minh đã tìm thấy năm 1920 và được xác định một cách đúng đắn trong Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng khi Đảng mới thành lập vào đầu năm 1930. Hồ Chí Minh từ người tìm đường trở thành người mở đường và người dẫn đường cho dân tộc Việt Nam. Thực tế của đất nước ta trong cuộc đấu tranh giành độc lập, bảo vệ Tổ quốc, xây dựng đất nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội đã hoàn toàn chứng minh cho sự đúng đắn của con đường

mà Hồ Chí Minh đã lựa chọn.

Hiện nay, hệ thống xã hội chủ nghĩa không còn, nhưng không có nghĩa là con đường độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội ở nước ta không còn phù hợp nữa, trái lại, qua công cuộc đổi mới, sự nghiệp cách mạng nước ta càng phát triển, con đường

xã hội chủ nghĩa ngày càng được sáng tỏ hơn. Chủ nghĩa cộng sản vẫn là sự phát triển

tất yếu của xã hội loài người cho dù con đường này không phải là con đường bằng phẳng.

Chúng ta kiên định con đường mà Hồ Chí Minh đã lựa chọn, bởi vì, con đường này là duy nhất đúng ở Việt Nam. Chúng ta không đồng tình với ý kiến cho rằng, Hồ Chí Minh chỉ có công lao lớn trong cuộc đấu tranh giành độc lập cho dân tộc, sẽ là sai lầm khi vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh khi xây dựng chủ nghĩa xã hội. Như vậy có nghĩa là họ phủ nhận mục tiêu đi theo con đường xã hội chủ nghĩa. Chúng ta khẳng định rằng, sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam là sự tiếp tục con đường của Hồ Chí Minh đã lựa chọn, nó như là một quá trình tất yếu vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Chính trong quá trình đổi mới vì những mục tiêu của chủ nghĩa xã hội, Việt Nam đã đạt được những thành tựu quan trọng, không những đứng vững trước muôn vàn thử thách nghiệt ngã mà còn phát triển vượt bậc.

Trong điều kiện mới, chúng ta càng khẳng định và kiên trì đi theo con đường mà

Hồ Chí Minh đã lựa chọn. Khát khao cháy bỏng của Hồ Chí Minh là độc lập cho dân tộc, nhưng Người cũng cho rằng, độc lập phải gắn với tự do, phải làm cho nhân dân sống một cuộc sống ấm no, hạnh phúc. Điều mong muốn cuối cùng của Hồ Chí Minh trước khi qua đời thể hiện trong bản Di chúc là: "Toàn Đảng, toàn dân ta đoàn kết phấn đấu, xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh,

và góp phần xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng thế giới". Kiên định con đường mà Hồ Chí Minh đã lựa chọn, hiện nay chúng ta tiếp tục thực hiện sáu đặc trưng cơ bản của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam được nêu trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội:

- Chủ nghĩa xã hội ở nước ta là xã hội do nhân dân lao động làm chủ;

- Xã hội có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế

độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu;

- Xã hội có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc;

- Con người được giải phóng khỏi áp bức, bóc lột, bất công, làm theo năng lực,

hưởng theo lao động, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện cá nhân;

- Các dân tộc trong nước bình đẳng, đoàn kết và giúp đỡ lẫn nhau cùng tiến bộ;

- Có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân tất cả các nước trên thế giới.

Sáu đặc trưng cơ bản về chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam trên đây được Đại hội VII

của Đảng ta nêu lên năm 1991. Sang những năm đầu của thế kỷ XXI, tình hình đất nước

ta cũng như trên thế giới tiếp tục có những biến chuyển lớn. Đất nước đang xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa trong xu thế toàn cầu hóa kinh tế. Những đặc trưng nêu lên trên đây vẫn đúng, tuy nhiên cần được bổ sung, phát triển, cụ

thể hóa. Đó cũng là kết quả của việc tổng kết bước đầu qua những năm đổi mới ở nước

ta, và đó cũng là quá trình tiếp tục vận dụng và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh trong

điều kiện mới.

Kiên định đi theo con đường mà Hồ Chí Minh đã lựa chọn là tiêu chí đánh giá sự vững vàng về chính trị, tư tưởng, lập trường, lý tưởng xã hội chủ nghĩa của mỗi một công dân Việt Nam yêu nước, trong đó có thế hệ trẻ hiện nay. Trong điều kiện hội nhập, mở cửa, quan hệ đối ngoại rộng mở, thanh niên Việt Nam, nhất là học sinh, sinh viên có nhiều điều kiện thuận lợi để tiếp nhận nhiều tri thức đa dạng, phong phú thuộc nhiều luồng quan điểm, chính kiến khác nhau, có điều kiện thuận lợi để giao lưu, trực tiếp chứng kiến cuộc sống của nhiều nước trên thế giới. Mọi người, trong đó có thanh niên, học sinh, sinh viên có quyền so sánh, đối chiếu giữa con đường này hay con đường khác của sự phát triển của mỗi dân tộc-quốc gia, có quyền so sánh giữa chế độ chính trị này với chế độ chính trị khác. Nhưng, hễ là người Việt Nam yêu nước, hễ là người nghiên cứu, học tập một cách nghiêm túc, đúng đắn tư tưởng Hồ Chí Minh thì chắc chắn sẽ tin rằng con đường độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội mà Hồ Chí Minh đã chỉ ra

và đã hướng dân tộc Việt Nam đi lên bao nhiêu năm nay là con đường phù hợp với quy luật, là con đường phát triển tất yếu.

b) Dựa vào sức mạnh của toàn dân

Dân là gốc của nước. Hồ Chí Minh đã phát triển quan điểm đó từ trong kho tàng

tư tưởng và kinh nghiệm truyền thống của dân tộc ta cũng như của các bậc hiền triết, anh minh trong lịch sử dân tộc Việt Nam và thế giới hàng nghìn năm. Vận dụng và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh, chúng ta coi đại đoàn kết toàn dân trên cơ sở liên minh giữa công nhân với nông dân và trí thức do Đảng lãnh đạo là động lực chủ yếu để phát triển đất nước.

Muốn củng cố và phát huy sức mạnh của toàn dân làm nên thắng lợi của sự

nghiệp đổi mới, cần phải chú ý những vấn đề sau đây:

Một là: Thường xuyên chăm lo xây dựng và phát triển nguồn lực con người.

Trong thời đại ngày nay, khi nhân loại đang dần bước vào kinh tế tri thức, lợi thế nhân

lực của một quốc gia không phải chỉ là số lượng đông mà quan trọng hơn cả là ở chất lượng dân số. ở Việt Nam, trong thời đại ngày nay, cần xây dựng và phát triển nguồn nhân lực trên cơ sở:

- Bồi dưỡng tư tưởng yêu nước kết hợp với tinh thần quốc tế chân chính. Đó là những người sống có lý tưởng, có hoài bão được cống hiến cho đất nước vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.

- Có đạo đức, lối sống cách mạng trong sáng, cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, không tham nhũng và mắc các tiêu cực khác.

- Đội ngũ nhân lực có trình độ cao. Trong đội ngũ này, có một đội ngũ cán bộ chiến lược giỏi, vững vàng; một đội ngũ cán bộ quản lý với đầy đủ đức và tài; một đội ngũ cán bộ khoa học và công nghệ đáp ứng tốt mọi yêu cầu của công cuộc xây dựng đất nước trong thời kỳ hội nhập, cạnh tranh gay gắt; một đội ngũ những người lao động nói chung có chất lượng cao.

Hai là: tiếp tục xây dựng và củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Hồ Chí Minh là người sáng lập ra Mặt trận dân tộc thống nhất, là hiện thân của tình đoàn kết keo sơn gắn bó giữa các cộng đồng người trên lãnh thổ Việt Nam. Đoàn kết tạo thành sức mạnh vô biên. Trong cuộc chiến lâu dài không kém phần oanh liệt chống lại những cái hư hỏng, lạc hậu để xây dựng xã hội mới tốt đẹp càng cần tới sự đồng tâm hiệp lực của khối đại đoàn kết toàn dân. Lịch sử nước nhà và lịch sử thế giới cho thấy rằng, thời kỳ nào dân tộc không đoàn kết thì thời kỳ đó dân tộc không phát triển lên được, thậm chí sẽ bị mất nước, bởi các thế lực ngoại bang xâm chiếm.

Ba là: Tôn trọng quyền làm chủ của dân. Xã hội càng phát triển thì trình độ dân chủ của một xã hội càng cao. Dân phải được tôn trọng, phải phát huy được tính tích cực của mình trong các lĩnh vực của đời sống xã hội. Kinh tế thị trường đã và đang tạo ra những mặt tích cực đáng kể cho sự phát triển kinh tế - xã hội nhưng đồng thời cũng có những mặt trái, làm trầm trọng thêm một số tiêu cực đã có trước đây và nảy sinh một số tiêu cực mới. Chẳng hạn: chạy theo đồng tiền; cá nhân chủ nghĩa nặng nề; thoái hóa về đạo đức, lối sống; tham nhũng; lãng phí; quan liêu; cửa quyền; nhất là vi phạm trắng trợn quyền làm chủ của nhân dân, có nơi, có lúc rất nghiêm trọng dẫn đến lòng dân không yên. Hàng bao đời nay, dù trải qua nhiều biến đổi, cộng đồng dân cư trên đất nước Việt Nam đã chung lưng đấu cật dựng nước và giữ nước. Mọi âm mưu và hành động, dù là nhỏ, làm tổn hại đến khối đại đoàn kết toàn dân tộc đều là có tội đối với đất nước, cần được lên án.

Bốn là: Dựa vào sức mạnh của dân, xây dựng và củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc, dựa trên cơ sở giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp của dân tộc, lấy chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng; thực hiện tốt Cương lĩnh, đường lối, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam, Hiến pháp, pháp luật của Nhà nước. Sức quy

tụ của nhân dân chỉ có hiệu quả khi được dựa trên tất cả cơ sở đó. Vấn đề này phải được

nhận thức sâu sắc đối với từng cá nhân và đối với cả các tổ chức trong hệ thống chính trị. Quyền tự do cá nhân cần được đặt trong khuôn khổ của ý thức, lợi ích cộng đồng, trong khuôn khổ chế định của luật pháp. Đó cũng là sự bảo đảm cho quyền con người trong

xã hội ngày nay.

Năm là: Tạo điều kiện cho nhân dân làm tròn nghĩa vụ công dân. Quyền của dân

chỉ thật sự được bảo đảm khi người dân làm tốt nghĩa vụ công dân của mình đối với đất nước. Đây thuộc về trách nhiệm trước hết của mỗi công dân, đồng thời là trách nhiệm của các tổ chức chính trị - xã hội.

c) Xây dựng, kiện toàn hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh

Một là, xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam vững mạnh.

Đảng là một thành viên của hệ thống chính trị đồng thời có trách nhiệm lãnh đạo

hệ thống chính trị và toàn xã hội, Đảng là hạt nhân của hệ thống chính trị nên muốn đưa cách mạng tiến lên phải chăm lo xây dựng Đảng mạnh cả về chính trị, tư tưởng, tổ chức.

Sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố có tính chất quyết định tới thắng lợi của sự nghiệp cách mạng. Sự nghiệp đổi mới đất nước vì những mục tiêu của chủ nghĩa

xã hội, do đó, phụ thuộc trước hết vào chất lượng của Đảng cầm quyền. Với ý nghĩa đó, chúng ta có thể nói rằng, sự nghiệp đổi mới hãy bắt đầu từ bản thân Đảng. Với ý thức trách nhiệm đó, trong những năm 80 của thế kỷ XX, Đảng Cộng sản Việt Nam đã nghiên cứu, tổng kết từ những sáng kiến của cơ sở để khởi xướng công cuộc đổi mới.

Sự nghiệp đổi mới đất nước chính thức bắt đầu từ cuối năm 1986 xuất phát từ chính yêu cầu của cuộc sống mà Đảng Cộng sản Việt Nam đã nắm bắt được chứ không phải từ ảnh hưởng của bên ngoài.

Đứng trước thời cơ và thách thức mới, trách nhiệm của Đảng Cộng sản Việt Nam cầm quyền trong sự nghiệp đổi mới hiện nay càng nặng nề hơn. Đảng phải vươn lên về mọi mặt trong điều kiện mới. Ngoài những thuận lợi rất

cơ bản, Đảng duy nhất cầm quyền đứng trước một số nguy cơ, khó khăn: những thử thách, cám dỗ của lợi ích vật chất; hoàn cảnh mới dễ dàng mắc phải căn bệnh phát triển như cửa quyền, quan liêu, mất dân chủ, lãnh đạo nặng về áp đặt theo lối mệnh lệnh, v.v.. Sự nghiệp đổi mới càng đi vào chiều sâu thì càng đặt ra cho Đảng nhiều vấn đề mới cả về mặt lý luận lẫn thực tiễn cần có lời giải đáp. Đặc biệt, điều đáng lo ngại là một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên bị suy thoái về tư tưởng chính trị, suy thoái

về đạo đức, lối sống. Đảng phải mạnh cả về chính trị; về tư tưởng; về tổ chức; về cán bộ, đảng viên; về phẩm chất, đạo đức của toàn Đảng; về phương thức lãnh đạo của Đảng trong tình hình mới...

Đảng Cộng sản Việt Nam có trách nhiệm lãnh đạo cả hệ thống chính trị. Do đó, ngoài việc phải thường xuyên tự chỉnh đốn bản thân mình, Đảng phải có trách nhiệm tăng cường sự lãnh đạo của mình đối với Nhà nước trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân. Đảng lãnh đạo Nhà nước không phải làm thay chức năng quản lý của Nhà nước mà lãnh đạo bằng phương thức thích hợp để phát huy vai trò của Nhà nước trong sự nghiệp đổi mới. Đảng cũng chú ý lãnh đạo Mặt trận và các đoàn thể nhân dân để các tổ chức đó bảo đảm và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, bảo đảm cho các tổ chức đó thực hiện tốt vai trò là cơ sở vững chắc của chính quyền.

Hồ Chí Minh là người sáng lập, rèn luyện và lãnh đạo Đảng Cộng sản Việt Nam. Người là một chiến sĩ cộng sản quốc tế kiên cường trong phong trào cộng sản và công nhân quốc tế đồng thời là một chiến sĩ hòa bình luôn luôn đấu tranh cho sự hiểu biết lẫn nhau giữa các dân tộc, cho sự tiến bộ xã hội. Đấy là con người của thời đại. Mọi âm mưu xuyên tạc, hạ thấp hoặc xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, của chủ nghĩa xã hội, đều đi ngược lại với sự thật hiện hữu trong đời sống xã hội Việt Nam, đều mang dụng ý không trong sáng. Mặc dù Đảng ta mắc phải một số khuyết điểm, hạn chế, có một số bất cập, nhưng không vì thế mà cho rằng, trong sự nghiệp đổi mới hiện nay khi chúng ta đang xây dựng nhà nước pháp quyền thì không cần sự lãnh đạo của Đảng. Thực tế cho thấy rằng, Đảng có vai trò, trách nhiệm mà không một tổ chức chính

trị nào khác có thể thay thế đối với toàn bộ hệ thống chính trị.

Hai là, xây dựng Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong sạch, vững mạnh, thể hiện quyền làm chủ của nhân dân.

Hồ Chí Minh đã phát triển lý luận về nhà nước của chủ nghĩa Mác - Lênin bằng việc xây dựng Nhà nước mới ở Việt Nam - Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (nay

là Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam). Đây là một tổ chức quan trọng trong hệ thống chính trị, ngày càng có vị trí, vai trò to lớn trong quá trình đổi mới. Nhà nước trong sạch, vững mạnh thì góp phần to lớn làm cho cả hệ thống chính trị vững mạnh. Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, Nhà nước ta là nơi thể hiện rõ nhất quyền và nghĩa vụ của nhân dân. Trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân,

vì dân dưới sự lãnh đạo của Đảng, cần chú trọng xây dựng pháp luật, quản lý xã hội bằng Hiến pháp và pháp luật, đưa pháp luật vào trong cuộc sống một cách có hiệu quả.

Bảo đảm cho Nhà nước trong sạch là một nội dung rất quan trọng hiện nay trong việc vận dụng và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh. Những căn bệnh thường thấy đối với

sự hoạt động của Nhà nước mà Hồ Chí Minh đã chỉ ra trước đây khi Người còn sống vẫn còn có ý nghĩa thời sự đòi hỏi mỗi người và tất cả các tổ chức trong hệ thống chính

trị đồng tâm hiệp lực chú ý khắc phục. Phải đẩy mạnh việc chống tham nhũng, quan liêu

và các tiêu cực khác trong bộ máy nhà nước, làm cho Nhà nước thật sự là Nhà nước của dân, do dân, vì dân. Đẩy mạnh cải cách hành chính để nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước, đó là ý thức, trách nhiệm của toàn dân và của các tổ chức trong hệ thống chính trị, nhất là các cấp chính quyền trong bộ máy nhà nước.

Vận dụng và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Nhà nước ta tức là phải xây dựng và kiện toàn bộ máy nhà nước sao cho hợp lý, hoạt động có hiệu quả. Bộ

máy đó được xác lập trên cơ sở có căn cứ khoa học, phù hợp với tình hình thực tế của từng thời kỳ, nói chung là tinh gọn, chức năng, nhiệm vụ rõ ràng không chồng chéo. Bộ máy đó phải được thống nhất từ Trung ương đến cơ sở, bảo đảm cho quyền lực tập trung, thống nhất theo nguyên tắc tất cả mọi quyền lực đều thuộc về nhân dân. Chỉ có trên cơ sở một bộ máy được tổ chức hợp lý, trong sạch thì sức mạnh của Nhà nước và của cả hệ thống chính trị mới được bảo đảm.

Xây dựng Nhà nước mạnh hiện nay, quan trọng là phải chú ý tới việc xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức có đủ đức và tài, tận tâm, tận lực phụng sự nhân dân, phụng sự Tổ quốc.

Ba là, luôn luôn chăm lo xây dựng Mặt trận và các đoàn thể nhân dân.

Là một bộ phận rất quan trọng của hệ thống chính trị, Mặt trận và các đoàn thể nhân dân trong sự nghiệp đổi mới không những không giảm sút vai trò của mình mà ngày càng phải thể hiện rõ hơn trách nhiệm tập hợp, đoàn kết các giai cấp, tầng lớp nhân dân xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

Không có phong trào cách mạng của quần chúng thì sự nghiệp đổi mới không thể

thành công. Không có các tổ chức Mặt trận và các đoàn thể nhân dân thì không thể có

cơ sở vững chắc cho tổ chức Đảng Cộng sản Việt Nam cầm quyền, không thể có cơ sở, nền tảng của chính quyền các cấp. Các tổ chức này trong hệ thống chính trị là nơi tập hợp, đoàn kết rộng rãi các tầng lớp nhân dân, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại thực hiện nhiệm vụ chung của toàn hệ thống chính trị, đưa đất nước tiến nhanh, mạnh, vững chắc đạt mục tiêu của chủ nghĩa xã hội, trước mắt làm cho Việt Nam thoát ra khỏi tình trạng nghèo nàn, lạc hậu, phấn đấu về cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020.

Ngay từ năm 1951, khi hợp nhất hai tổ chức Việt Minh - Liên Việt thành Mặt trận Liên Việt, Hồ Chí Minh đã bày tỏ "một sự sung sướng không thể tả" vì Người đã trông thấy rừng cây đại đoàn kết ấy đã nở hoa kết quả và gốc rễ nó đang ăn sâu lan rộng khắp toàn dân, và nó có một cái tương lai "trường xuân bất lão". Người tin tưởng rằng, "mối đoàn kết thân ái sẽ phát triển và củng cố khắp toàn dân. Với lực lượng đoàn kết ấy, chúng ta sẽ vượt qua hết thảy mọi khó khăn, gian khổ, chúng ta sẽ đánh tan tất cả mọi

kẻ thù đế quốc thực dân"1. Sau Đại hội đó, khối đoàn kết toàn dân luôn luôn được Hồ

Chí Minh chăm lo vun đắp và trở thành nhân tố cực kỳ quan trọng góp phần làm nên thắng lợi của hai cuộc kháng chiến cũng như xây dựng miền Bắc. Ngày nay, đưa tư tưởng đại đoàn kết của Người vào cuộc sống, nâng khối đại đoàn kết toàn dân tộc lên một tầm cao mới và đi vào chiều sâu, làm cho tất cả mọi người Việt Nam, dù ở cương vị nào, dù ở trong nước hay ngoài nước, dẹp bỏ mọi thành kiến, gác lại quá khứ nhìn về tương lai vì một nước Việt Nam dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn

minh.

1. Sđd, t. 6, tr. 182.

Các tổ chức đoàn thể khác, trong đó có tổ chức thanh niên mà tiêu biểu là Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh, phải luôn luôn đi đầu trong các lĩnh vực, tích cực học tập, rèn luyện để luôn luôn trở thành những người có ích cho Tổ quốc. Tương lai phát triển của đất nước phụ thuộc một phần rất lớn vào sự đóng góp của lực lượng thế hệ trẻ. Trong xã hội ngày nay, học tập và rèn luyện tốt càng trở thành một nhiệm vụ quan trọng

và vinh quang hơn bao giờ hết. Vì thế, học tập, vận dụng, phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh trong đội ngũ học sinh, sinh viên trước hết và cơ bản nhất là hãy học tập tốt, rèn luyện đạo đức cách mạng tốt.

Mục tiêu xây dựng hệ thống chính trị hiện nay là xây dựng một nền dân chủ xã hội chủ nghĩa. Do đó, cần hoàn thiện cơ chế Đảng lãnh đạo, nhân dân làm chủ, Nhà nước quản lý.

Tư tưởng Hồ Chí Minh đã và đang soi đường cho sự nghiệp cách mạng ở nước ta

và cùng với chủ nghĩa Mác - Lênin là tài sản tinh thần rất quan trọng, to lớn của Đảng

và dân tộc ta. Nhân dân ta nguyện quyết tâm xây dựng đất nước ta theo con đường xã hội chủ nghĩa trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Com

Tags: #tthcm