Truyen2U.Net quay lại rồi đây! Các bạn truy cập Truyen2U.Com. Mong các bạn tiếp tục ủng hộ truy cập tên miền mới này nhé! Mãi yêu... ♥

Phần 4 (151-200)

151. (KTNN 137, ngày 01-5-1994)

ĐỘC GIẢ: Có phải "Phù Nam" là hai chữ Hán dùng để phiên âm tiếng Campuchia "phnom" có nghĩa là núi hay không? Tại sao lại lấy tiếng "núi" để gọi tên một nước?

AN CHI: Năm 1911, L. Finot đã đề xướng cách giải thích cho rằng Phù Nam là hình thức phiên âm bằng tiếng Hán của tiếng Khmer phnom, có nghĩa là núi. Ý kiến này sau đó đã được nhiều người tán thưởng, mà người đã góp phần truyền bá nó một cách rộng rãi có lẽ là G. Coedès khi học giả này khẳng định như sau: "Những ông vua của xứ sở này (tức Phù Nam - AC) có tước hiệu (diễn đạt bằng) một nhóm từ có nghĩa là vua núi, tiếng Sanskrit là parvatabhũpăla hoặc çailaràja, tiếng Khmer là Kurung bnam" (Histoire ancienne des états hindouisés d'Extrême-Orient, Hanoi, 1944, p.44). Bnam nay là phnom và Kurung bnam, theo Coedès là vua núi. Với cách giải thích trên đây, người ta đã mặc nhiên đồng ý với nhau rằng Phù Nam là tên gọi cổ xưa của nước Campuchia. Trong nhiều thập kỷ qua, ý kiến này đã từng được xem như một giáo điều không có gì cần phải bàn cãi.

Nhưng Claude Jacques đã nhận xét một cách chí lý rằng khi nói về Campuchia tiền Angkor, các tác giả thường thích dùng cái tên Phù Nam vốn là cách gọi của người Trung Hoa hơn là dùng chính cái tên "Campuchia" hoặc một trong những tên bản xứ của nó, nói cho đúng ra là những cái tên bằng tiếng Sanskrit đã trở thành tên bản xứ, mặc dù một số tên chẳng hạn như Bhavapura, đã được biết rõ từ lâu. Claude Jacques nhấn mạnh rằng cách giải thích đang lưu hành về danh xưng Phù Nam, tuy có vẻ ổn thỏa về phương diện ngữ âm nhưng lại không chắc chắn. Cách gọi tên như thế cho thấy rõ rằng lịch sử của nước Campuchia tiền Angkor đã được dựng lại bằng cách dựa vào những nguồn ký tải của Trung Hoa nhiều hơn là vào các văn bia tìm thấy được tại chính Campuchia. Đã thế, về sau các học giả lại còn cố lấp những lỗ hổng của cái sườn tổng quát, mà họ đă dựa vào những cứ liệu của Trung Hoa để cấu thành, bằng những dữ kiện do văn bia Campuchia cung cấp; những văn bia này được phát hiện càng ngày càng nhiều. Lẽ ra phải đặt vấn đề hoài nghi những điều ghi chép của Trung Hoa, họ lại điều chỉnh những sự kiện mới phát hiện được qua văn bia theo cái sườn tổng quát kia. Bằng cách đó - Claude Jacques khẳng định dứt khoát - người ta đã phạm những sai sót rất căn bản về lịch sử, những sai sót ngày nay càng trở nên đặc biệt nghiêm trọng bởi chúng đã được in ấn trong từng quyển sách yếu lược (X. "Funan" "Zhenia": The Reality Concealed by these Chinese Views of Indochina, in Early South East Asia: Essays in Archaeology, History and Historical Geography, New York - Kuala Lumpur, 1979, p.371).

Đúng như lời cảnh báo trên đây của Claude Jacques, cho đến năm 1978, tại Việt Nam, người ta vẫn còn đọc được, chẳng hạn như sau: "Vương tước của Phù Nam là Xai-la-ra-gia (Sailarặịa), hay Pác-va-ta-bu-pa-la (Parvatabhũpãla), theo chữ Phạn, hay Cu-rung bơ-nam (Kurung Bnam), theo tiếng Môn-Khơme, có nghĩa là Vua Núi" (Võ Sĩ Khải, "Khảo cổ học và văn minh Phù Nam",

Khảo cổ học, sô" 1,1978, tr.75). Rõ ràng là giáo điều của G. Coedès đã có ảnh hưởng đến nhiều người mặc dù nó thực sự không có căn cứ. Claude Jacques đã vạch rõ rằng cụm từ "Kurung bnam" không hề xuất hiện trên một văn bia nào của Campuchia, còn từ Sanskrit "parvatabhũpãla" thực chất cũng chỉ xuất hiện có một lần trên một văn khắc nơi trụ cửa. Từ này được dùng ở số nhiều để chỉ những ông vua đã bị vua Bhavavarman (đệ nhất hoặc đệ nhị) đánh bại. Vậy parvatabhũpãla không chỉ vào vua của Phù Nam, mà nhiều ông vua đồng thời với nhau, còn địa điểm những vương quốc của họ thì văn bia tuyệt nhiên không hề nói đến (Bđd, tr.375). Tóm lại, đó cũng chẳng phải là tước hiệu của các ông vua Phù Nam như G. Coedès đã suy diễn và khẳng định một cách hoàn toàn võ đoán.

Với sự phát giác trên đây của Claude Jacques, ta có thể thấy rõ ràng rằng cơ sở của luận điểm do Finot và Coedès đưa ra rất là bấp bênh, mặc dù uy tín của họ thì quá lớn. Chúng tôi hoàn toàn nhất trí với Claude Jacques khi tác giả này viết: "Sẽ là không tôn trọng các học giả lỗi lạc lão thành nếu chúng ta chỉ đơn thuần chấp nhận giả thuyết của họ mà không thảo luận gì. Chắc hẳn là họ sẽ từ bỏ một số trong những giả thuyết đó nếu có người trình bày cho họ những lý lẽ đủ sức thuyết phục" (Bđd, tr.378).

Lạ một điều là người ta không tự hỏi xem tại sao người Trung Hoa lại lấy núi làm đặc trưng của nước mà họ gọi là Phù Nam, trong khi chính nước của họ mới trùng trùng điệp điệp những sùng sơn tuấn lĩnh. Thấy rõ điều dị kỳ này, một tác giả Việt Nam là Lương Ninh đã bắt đầu điều chỉnh lý thuyết của Coedès mà viết như sau:

"Chủ nhân của nừớc Phù Nam hẳn là một bộ lạc Môn cổ - một bộ lạc Pnong. Tên gọi Phù Nam có lẽ đã được phiên âm từ tên tộc người đó. Hơn nữa, từ Phnom (Núi) trong từ vựng Khmer sau này cũng có thể chỉ là sự tiếp nhận và chuyển hóa từ Môn cổ Pnong với ngữ nghĩa gần giông nhau. Pnong là phiên âm ngày nay; giữa thế kỉ XIX, P.C.E. Bouillevaux phiên âm là Penong, Bunong, ngày nay có bộ phận còn được gọi là Bnơm. Trong từ vựng Khmer, phnom (Núi) được phát âm là vnam hay bnam từ thế kỉ VII. Như thế vào đầu Công nguyên, bnam hay vnam vừa có nghĩa là Núi, vừa có nghĩa là "dân miền Núi", nhưng chủ yếu là để gọi tên tộc một bộ phận Môn cổ. Hiểu như thế, hi vọng có thể gỡ được mối băn khoăn của một số nhà nghiên cứu về việc tại sao các thư tịch Trung Hoa lại gọi tên một nước ngoài bằng cách phiên âm một từ xem ra có vẻ "vớ vẩn": Nui"

(Óc Eo và Phù Nam, Khảo cổ học, số 1, 1987, tr.55).

Tuy Lương Ninh đã có ý điều chỉnh cách giải thích của Coedès, chúng tôi vẫn không cho rằng cách điều chỉnh này có nhiều sức thuyết phục hơn là cách giải thích của chính Coedès. Chỉ riêng về mặt ngữ học, nó đã vấp phải ba điều sau đây. Thứ nhất, ai cũng thừa nhận rằng tiếng Khmer và tiếng Môn là cùng một gốc. Vậy nói rằng phnom của tiếng Khmer cùng một gốc với pnong của tiếng Môn sẽ thuận lý hơn là nói rằng phnom của tiếng Khmer lại là "tiếp nhận và chuyển hóa từ Môn cổ Pnong". Thứ hai, theo hiểu biết thông thường về việc chuyển nghĩa và việc tạo từ phái sinh, có hình thái hoặc phi hình thái, thì từ có nghĩa là "người núi" phải bắt nguồn ở từ có nghĩa là "núi" chứ không pỉíải là ngược lại như Lương Ninh đã nói (tên tộc "người núi" trong tiếng Môn là Pnong đã đưa đến sự phát sinh của danh từ Khmer phnom có nghĩa là "núi"). Vậy lẽ ra phải nói danh từ tiếng Môn Pnong là một ethnonyme, tức một nom ethnique (= tên dân tộc phái sinh từ tên một địa phương), phái sinh từ danh từ phnom (= núi) của tiếng Khmer. Thứ ba, nếu quả thật người Trung Hoa đã phiên âm tên tộc người Pnong sang tiếng của họ như Lương Ninh đã nói thì đó sẽ là *Phù nang chứ không phải "Phù Nam". Khó có thể viện lý rằng vì người Trung Hoa, nhất là người Trung Hoa phương Bắc, hay nhầm lẫn các phụ âm cuối nên -nong vẫn có thể được họ phiên âm thành nam. Không, tiếng Bắc Kinh trước đây chỉ nhầm lẫn m với n ở vị trí cuối âm tiết đưa đến sự đồng hóa của m vào n còn ng [r]] ở vị trí cuốĩ âm tiết thì xưa nay vẫn là một âm vị riêng biệt trong phương ngữ trên đây của tiếng Hán. Nó không hề bị lẫn lộn.

Tóm lại cách hiểu hai tiếng Phù Nam như là một hình thức phiên âm hình như đã tỏ ra bế tắc. Chúng tôi cho rằng hợp lý nhất là nên sử dụng một trong những cái tên do chính văn bia của Campuchia cung cấp như Claude Jacques đã gợi ý. Còn việc lựa chọn tên nào cho đúng thì lại là công việc của các nhà chuyên môn.

152. (KTNN 138, ngày 01-5-1994)

ĐỘC GIẢ: Kiến thức ngày nay 111, Chuyện Đông chuyện Tây có nói về voi ở lưu vực sông Hoàng Hà (Trung Hoa). Tôi tin ở quý báo nhưng muốn được biết thêm bằng chứng vì số 111 đã nói quá vắn tắt.

AN CHI: Chúng tôi xin trình bày hầu ông thêm một bằng chứng về nghề chạm khắc ngà voi ở Trung Hoa cổ đại như sau:

Nơi mục Ivory carving, bộ Encyclopaedia Britannica đã viết:

"Chạm khắc bằng ngà là một trong những nghệ thuật lâu đời nhất của Trung Hoa. Những mẫu mực về ngà chạm khắc tuyệt xảo, cùng với những cổ vật tinh tế bằng đồng vào loại xưa nhất, nhờ đó mà Trung Hoa nổi tiếng, đã được tìm thấy trong mộ táng của các vua nhà Thương ở An Dương (Bắc Hà Nam). Những đồ chạm khắc của nhà Thương đã được tạo dáng một cách khéo léo và đã được hoàn tất một cách chu đáo đến độ chúng bắt phải liên tưởng đến một quá trình phát triển lâu dài từ trước, hẳn là phải đi ngược lên đến tận thời tiền sử.

Vào thời nhà Thương, voi hãy còn sống lang thang trong những khu rừng thuộc miền Hoàng Hà đến độ nguồn cung cấp ngà rất dồi dào như đã được biết qua những cử liệu ngôn ngữ, lịch sử và khảo cổ (Chúng tôi nhấn mạnh - AC). Phần lớn những đồ ngà tìm thấy được gồm có những thẻ bài nhỏ, những chiếc cặp tóc (có tác dụng) trang sức hoặc những mẩu chạm còn lại từ các đồ dùng trong những mộ táng. Nhưng Kinh Thi gồm một số bài tụng ca cũng còn nói đến những đầu mũi tên bằng ngà, và ông vua cuối cùng của nhà Thương (tức vua Trụ - AC) tương truyền là đã chế ra đũa ngà (biểu hiện của) một trong những thói xa hoa sành sỏi của ông ta. Ngay cả ở giai đoạn tảo kỳ đó (của lịch sử Trung Hoa - AC) ngà cũng đã được quý chuộng ngang hàng với vàng và ngọc".

Không thể hình dung được rằng nghề chạm khắc ngà voi của Trung Hoa cổ đại phát triển đến như thế chỉ nhờ ở những con voi hoặc những chiếc ngà voi do các nước khác tiến cống. Huống chi những cứ liệu ngôn ngữ, lịch sử và khảo cổ mà Encyclopaedia Britannica đã khẳng định còn là những bằng chứng rất hùng hồn.

153. (KTNN 138, ngày 01-5-1994)

ĐỘC GIẢ: Trong Kiến thức ngày nay số 127, trang 67, ông Huệ Thiên có khẳng định rằng cụ Trương Vĩnh Ký đã phiên âm sai ít nhất là 41 chỗ và đã chú giải sai ít nhất là 32 chỗ trong Truyện Kiều. Nhưng ông lại nói rằng đó là do ông Nguyễn Quảng Tuân chỉ ra. Vậy phải chăng ông Nguyễn Quảng Tuân chủ quan cho là sai trong khi cụ Trương vẫn đúng?

AN CHI: Chúng tôi vẫn khẳng định rằng tác giả Nguyễn Quảng Tuân đúng. Để làm bằng, xin chép hiến ông lời nhận xét sau đây của Nguyễn Quảng Tuân về một trường hợp mà học giả Trương Vĩnh Ký giảng sai:

"Câu 2494:

Đống xương Vô định đã cao bằng đầu.

Trương Vĩnh Ký dã giảng câu ấy như sau: "Làm cớ cho người ta chết, không biết tông tích nó ở dâu". Chú thích như vậy chứng tỏ Trương Vĩnh Ký đã không nghĩ đến điển tích của câu thơ qua bài Lũng tây hành của Trần Đào.

Thệ tảo Hung Nô bất cô" thân,

Ngũ thiên diêu cẩm táng Hồ trần.

Khả liên Vô Định hà biên cốt,

Do thị xuân khuê mộng lý nhân.

(Lúc ra đi, thề quét sạch rợ Hung nô, không tiếc đến thân mình,

Năm nghìn người chiến sĩ mặc áo bào làm bằng da con điêu chôn xác ở nơi cát bụi đất Hồ.

Thương thay! Nắm xương bên sông Vô Định tàn rụng đã lâu rồi mà vẫn còn là người trong mộng của những thiếu phụ chốn phòng khuê).

Nguyễn Du đã dùng chữ vỏ Định trong bài thơ trên để tả những cảnh người chết vì chiến tranh, xương chất đầy dông bên sông.

Sông Vô Định là con sông ở tỉnh Thiểm Tây và tỉnh Tuy Viễn, Trung Quốc.

Trương Vĩnh Ký không nghĩ đến bài thơ trên nên giảng "vô định" là "không biết tông tích" thì không đúng.

Chúng tôi, qua ba phần kể trên, chỉ nêu ra một số thí dụ về các chữ và các câu đã bị Trương Vĩnh Ký viết sai, phiên âm sai và chú thích sai. Theo nhận xét của chúng tôi thì Trương Vĩnh Ký đã để khá nhiều lỗi khi phiên âm và chú thích quyển Truyện Kiều. Có nhiều chữ rất phổ thông mà ông cũng giảng không đúng. Điều này làm cho chúng ta phải thắc mắc vì từ xưa đến nay Trương Vĩnh Ký vẫn nổi tiếng là một học giả uyên bác.

(...) Sự phiên âm sai lầm của Trương Vĩnh Ký đã làm cho Abel des Michels lầm lẫn theo và dịch quyển Kim Vân Kiều sang tiếng Pháp với nhiều sai lầm không thể chấp nhận được.

Một nhà soạn từ điển, giáo sĩ J.F.M. Génibrel đã phạm rất nhiều sai lầm khi dịch một số câu trong Truyện Kiều sang tiếng Pháp. Chắc ông cũng đã dựa theo bản Kim Vân Kiều do Trương Vĩnh Ký phiên âm" (Chữ nghĩa Truyện Kiều, Hà Nội, 1990, tr.61-63).

Trở lên là lời của Nguyễn Quảng Tuân, xin chép ra làm bằng để tiện nhận xét.

",к 154. (KTNN 139, ngày 15-5-1994)

ĐỘC GIẢ: Kiến thức ngày nay 130, Chuyện Đông chuyện Tây, trang 57 có trả lời về việc chữ "t" của từ "thành phố'' trong địa danh Hồ Chí Minh nên viết như thế nào. Xin trao đổi với An Chi như sau: Việc nhân danh Hồ Chí Minh được đặt tên cho một thành phô' tuy là một tiền lệ trong tiếng Việt nhưng trên thế giới người ta đã làm từ rất lâu: nhân danh Whashington (sic) đã được dùng đặt tên cho thủ đô Hoa Kỳ, nhân danh Lê-nin đã được dùng đặt tên cho một thành phố của Liên Xô, thành phô" Lê-nin,

V.V..

Vì được dùng đặt tên cho một thành phố nên Hồ Chí Minh đã trở thành địa danh chứ không còn là nhân danh nữa. Vì vậy, người ta vẫn có thể nói "đi từ Hồ Chí Minh đến cần Thơ" nhưng người ta không nói không phải là không nói được mà vì những lý do sau: 1. để phân biệt giữa nhân danh Hồ Chí Minh và địa danh Hồ Chí Minh (bởi trước đó người ta chỉ quen với Hồ Chí Minh là nhân danh). Sự phân biệt này chỉ tồn tại một thời gian nhất định. Ngày nay, người ta không cần phải nói "đi thủ đô Whaốhington (sic)" mà chỉ cần nói "đi Whashington (sic)" bởi ai cũng biết Whashington (sic) là thủ đô của nước Mỹ rồi. 2. để cụ thể hóa địa danh Hồ Chí Minh là gì (tỉnh, thành phố, quận, huyện, hay là một cơ quan, một con đường...).

Vậy cụm từ "thành phô" Hồ Chí Minh" vẫn bao gồm hai thành phần riêng lẻ: từ "thành phô" (danh từ chung chỉ đơn vị hành chính) và từ "Hồ Chí Minh" (nhân danh đã trở thành địa danh). Do đó, thiển nghĩ chữ "t" của từ thành phố Hồ Chí Minh nên viết thường là hay hơn.

AN CHI: Trong phần trả lời trên KTNN 130, chúng tôi chỉ hạn chế vấn đề trong phạm vi của tiếng Việt và chữ Việt. Nay bạn đã dẫn đến chuyện thế giới thì xin hầu chuyện thế giới với bạn.

Bạn đã khẳng định rằng "ai cũng biết Washington (Chúng tôi lạm phép bỏ chữ h của bạn sau chữ w - AC) là thủ đô của nước Mỹ". Vậy nếu có người nói rằng Washington là một tiểu bang ở Tây Bắc của nước Mỹ, trên bờ Thái Bình Dương, mà thủ phủ là Olympia thì bạn sẽ trả lời thế nào? Bạn viết: "Người ta không cần nói: đi thủ đô Washington mà chỉ cần nói: đi

Washington". Nhưng vì ở Mỹ có một tiểu bang cũng mang tên Washington nên về nguyên tắc thì danh từ "thủ đô" vẫn là cần thiết vì nó giúp cho người ta phân biệt Washington thủ đô với Washington tiểu bang. Còn trong thực tế thì người Mỹ đã có cách riêng của họ: khi cần phân biệt với tiểu bang Washington, họ nói Washington D.c. để chỉ thủ đô của nưởc mình (Về hai chữ D.C., xin xem Kiến thức ngày nay 102, Chuyện Đông chuyện Tây, tr. 81, cột 1).

Bạn lại nhắc đến thành phố mang tên Lê-nin, ngụ ý rằng nhân danh Lê-nin đã trở thành địa danh Lê-nin. Nhưng trong tiếng Nga, Lenin chưa bao giờ là địa danh dùng để chỉ thành phố mà trước kia là Saint- Petersbourg. Thành phô' Lê-nin mà bạn nói, tiếng Nga là Leningrad. Đây mới đích thực là một địa danh. Nó gồm có hai thành tố: nhân danh Lenin + danh từ chung grad (một từ cổ tương ứng với danh từ gorođ trong tiếng Nga hiện đại), có nghĩa là thành phô. Cả cái khôi ngữ âm - từ vựng Leningrad chặt chẽ đó mới là địa danh. Từ địa danh này, người ta mới cấu tạo nên những từ phái sinh như Leningradets (người Leningrad) và leningradskiy (thuộc về Leningrad). Trong những từ phái sinh này, danh từ -grad- (= thành phố) đã nằm lọt tõm vào giữa nhân danh Lenin và hậu tô' -ets hoặc -sk(iy). Đây là một bằng chứng về sự phụ thuộc của grad vào địa danh Leningrad: nó không phải là một "thành phần riêng lẻ". Và trong ba từ Leningrad, Leningradets, leningradskiy, thành tố Lenỉn vẫn cứ luôn luôn là một nhân danh. Vậy không thể nói "đi Lenin" mà phải nói "đi Leningrad". Nếu lý thuyết của bạn đúng (Lenin là địa danh) thì người ta đã nói Leninets để chỉ người Leningrad và leninskiy để diễn đạt cái nghĩa "thuộc về Leningrad" rồi. Nhưng Leninets lại là người theo chủ nghĩa Lê-nin còn leninskiy lại là "của Lê-nin".

Trở lên là tiếng Nga. Bây giờ xin sang tiếng Anh. Trong ngôn ngữ này, chúng tôi muôn giới thiệu hai địa danh: Georgetown, hải cảng và thủ đô của Guyana và George Town, hải cảng của Malaysia. Nếu muốn đến một trong hai nơi đó thì phải nói "đi Georgetown (hoặc George Town)" chứ không ai nói "đi George" theo lý thuyết của bạn được. Sở dĩ không nói như thế được là vì George trước sau vẫn chỉ là một nhân danh. Chỉ có Georgetown và George Town mới là địa danh và hai địa danh này đều bao gồm hai thành tố: nhân danh George + danh từ chung town (thành phố).

Cuối cùng xin nói sang tiếng Pháp với hai địa danh đáng chú ý là Brazzaville và Leopoldville. Brazzaville là thành phố mang tên của Pierre Savorgnan de Brazza, nhà thám hiểm người Pháp gốc Ý đã tìm ra miền đất về sau là Congo thuộc Pháp; còn Leopoldville, nay là Kinshasa, lằ thành phô" mang tên một vị quốc vương của nước Bỉ là Léopold đệ nhị. Hai địa danh trên đều bao gồm mỗi từ một nhân danh (Brazza hoặc Leopold) và danh từ chung ville (thành phố). Hai nhân danh Brazza và Leopold tự chúng chưa bao giờ trở thành địa danh. Chỉ khi được ghép với ville, chúng mới góp phần tạo ra hai địa danh Brazzaville và Leopoldville mà thôi.

Trong tiếng Nga, tiếng Anh, tiếng Pháp, các danh từ chung grad, town, ưille đều được viết liền với nhân danh đứng trước chúng. Điều này chứng tỏ rằng chúng đã trở nên những thành tố của địa danh chứ không còn phải là "thành phần riêng lẻ" như bạn đã khẳng định trong lý thuyết của mình. Nêu người ta không viết liền thì người ta lại viết hoa chữ cái đầu tiên của từ có nghĩa là thành phố, chẳng hạn George Town (với chữ t hoa = T). Cùng một nguyên tắc này, người Pháp đã dịch địa danh Thành phố Hồ Chí Minh thành Hô Chi Minh - Ville (X., chẳng hạn Petit Larousse Illustré 1992) và viết Ville với chữ V hoa. Danh từ chung Ville trong trường hợp này rõ ràng đã trở nên một thành tố của địa danh mà sự viết hoa chữ cái đầu tiên của nó là một dấu hiệu không thể nào chối cãi được. Gạch nối giữa Hô Chi Minh và Ville cũng chứng tỏ rằng Ville là một thành tô" của địa danh Hô Chi Minh - Ville. Trong tiếng Pháp lại còn có trường hợp danh từ chung đứng trước chứ không phải sau nhân danh nhưng nguyên tắc chính tả vẫn là một. Thí dụ: Bourg-Léopold là một địa danh tiếng Pháp, dịch từ tiếng Hà Lan Leopoldsburg để chỉ một địa phương của nước Bỉ (bourg là điểm cư dân tập trung nhất của một vùng nông thôn, thường tương đương với một xã). Chữ B của Bourg đã được viết hoa, giữa Bourg và Leopold có gạch nối.

Từ trên đây suy ra, Thành phố Hồ Chí Minh rõ ràng là một địa danh năm âm tiết gồm có hai thành tô: danh từ chung Thành phố (mà chữ t phải được viết hoa) + nhân danh Hồ Chí Minh. Như chúng tôi đã nói kỳ trước, đây là một trường hợp chưa có tiền lệ trong tiếng Việt: lần đầu tiên người ta đã dùng tên người mà đặt tên cho một thành phố. Kỳ này xin nói rõ thêm: đây là cách đặt tên cùng kiểu với các mẫu của tiếng nước ngoài như Brazzaville của tiếng Pháp, Georgetown của tiếng

Anh hoặc Leningrad của tiếng Nga, trong đó có một thành tố là nhân danh còn thành tố kia là một danh từ có nghĩa là thành phố. Cả hai thành tô' đó gắn chặt với nhau mới tạo thành <Jịa danh.

Kiểu cấu tạo địa danh trên đây hoàn toàn khác với kiểu cấu tạo của địa danh Washington. Washington mới đích thực là một địa danh trực tiếp bắt nguồn từ nhân danh. Ở đây người ta đã lấy thẳng nhân danh làm địa danh. Tên của Christophe Colomb cũng đã được dùng theo kiểu này để gọi thủ phủ của bang Ohio (Mỹ). Đó là Columbus (hình thái tiếng Anh của Colomb). Columbus cũng còn là tên của một thành phố khác nữa ở bang Georgia (Mỹ). Đối với các địa danh Washington và Columbus, nếu bạn có muôn thêm "town" vào mà gọi là "Washingtontown" và "Columbustown" thì cũng chẳng ai cho. Nhưng đối với các địa danh Brazzaville, Georgetown và Leningrad, nếu bạn có muôn bỏ ville, town, grad thì cũng chẳng ai chịu. Cũng y hệt như thế đối với địa danh Thành phố Hồ Chí Minh trong đó Thành phố là một thành tố không thể tách rời được.

Vậy vấn đề không phải là ở chỗ người ta đã quen hoặc chưa quen với "địa danh Hồ Chí Minh", như bạn đã nói mà là ở chỗ người ta đã chọn cách đặt địa danh như thế nào: lấy thẳng nhân danh làm địa danh (như Washington, Columbus) hay ghép nhân danh với danh từ chung thành phố (kiểu như Brazzaville, Georgetown, Leningrad). Vấn đề cũng chẳng phải là ở chỗ người ta muôn, "cụ thể hóa địa danh Hồ Chí Minh" (tỉnh, thành phô" hay một con đường v.v.) như bạn đã nói vì ngay cả khi ngôn cảnh hoàn toàn rõ ràng, không cho phép xảy ra một sự hiểu lầm nào, thì người ta vẫn cứ luôn luôn nói Thành phố Hồ Chí Minh mà không bao giờ nói Hồ Chí Minh trông trơn. Bằng chứng là trên tất cả các văn thư của Úy ban nhân dân Thàiih phố' Hồ Chí Minh, khi đề ngày, người ta vẫn ghi đầy đủ 5 âm tiết Thành phố Hồ Chí Minh mặc dù nếu chỉ ghi 3 âm tiết Hồ Chí Minh thì người đọc vẫn có thể biết được rằng những văn thư đó đã được thảo ra tại Thành phô" Hồ Chí Minh chứ không phải tại bất cứ nơi nào khác.

Cuốĩ cùng bạn còn phản bác chúng tôi bằng cách lập luận rằng nếu "Thành phố Hồ Chí Minh là một địa danh năm âm tiết thì chẳng lẽ gọi địa danh Thành phố Hồ Chí Minh là thành phố Thành phố Hồ Chí Minh", "chẳng lẽ người nước ngoài mà cụ thể là người Anh khi gọi địa danh trên cũng phải gọi là Ho Chi Minh City City?" Thưa: về nguyên tắc thì hoàn toàn có thể nói như thế được nhưng trong thực tế thì dù là người Việt hay người Anh, chẳng có ai dại dột mà tạo ra một kiểu redundancy (tạm dịch là lời rườm) ngờ nghệch đến thế. Tuy nhiên, cách nói trùng lặp đó sẽ rất ý nhị nếu nó được dùng đúng chỗ, chẳng hạn như trong trường hợp sau đây:

Ớ Ontario (Canada), có một thành phố tên là Belleville, có nghĩa là thành phố xinh đẹp. Để chơi chữ, người ta hoàn toàn có quyền nói: La ville de Belleville est une belle ville (Thành phố Thành phố Xinh Đẹp là một thành phô" xinh đẹp).


Cấu trúc ville de Belleville (thành phố Thành phố xinh đẹp) không có gì trái ngược với tập quán ngôn ngữ của người Pháp. Nó lại càng không sai ngữ pháp. Và nhất là cũng chẳng vô duyên chút nào!

155. (KTNN 140, ngày 01-6-1994)

ĐỘC GIẢ: Trên Kiến thức ngày nay Xuân Giáp Tuất, tác giả Phan Nghị có ghi lại bài "Đả cẩu thi" của H.G.K, nhái bài "Giang lâu thư hoài" của Triệu Hỗ. Vậy bài "Giang lâu thư hoài" như thế nào, xin giới thiệu cho biết.

AN CHI: Giang lâu thư hoài là một bài thơ thất ngôn tứ tuyệt Đường luật, nguyên văn như sau:

Độc thưởng giang lâu tứ tiễu nhiên Nguyệt quang như thủy, thủy như thiên Đồng lai ngoạn nguyệt nhân hà tại'?

Phong cảnh y hy tự khứ niên.

Nguyễn Quảng Tuân đã dịch nghĩa như sau:

"Lên lầu bên sông tả mối cảm hoài.

Một mình lên lầu ở bên sông yên lặng đứng nghĩ

ngợi.

Trăng sáng như nước, nước sáng trong như trời.

Người đã cùng ta lên đây ngắm trăng nay ở đâu?

Phong cảnh nhìn xem y như xưa vậy".

(Thơ Đường, Tản Đà dịch, Nguyễn Quảng Tuân biên soạn, Thành phố Hồ Chí Minh, 1989, tr.225)

Tản Đà dã dịch thành thơ thất ngôn như sau:

"Lầu bên sông tả hoài

Lên gác bên sông một ngậm ngùi,

Sáng trăng như nước, nước như trời.

Bạn chơi năm ngoái nào dâu tá?

Trăng nước như xưa chín với mười".

Còn Trần Trọng Kim thì dã dịch thành thơ lục bát như sau:

"Ở trên lầu bên bờ sông viết những điều nghĩ trong bụng

Giang lâu thơ-thẩn một mình,

Long-lanh trăng nước, mông-mênh nước trời.

Người cùng thưởng nguyệt đâu rồi,

Phong quang phảng-phất như hồi năm xưa".

{Đường thi, Sài Gòn, 1950, tr.401)

Xin lưu ý về cách phiên âm tên tác giả của bài thơ. Các dịch giả trên dây đã phiên thành Triệu Hỗ. Nhưng chữ ỈS. không có âm hỗ. Tuy Việt-Hán thông thoại tự-vị của Đỗ Văn Đáp, Hán-Việt từ điển của Đào Duy Anh, Hán-Việt tự điển của Thiều Chửu, Hán-Việt tăn từ-điển của Nguyễn Quổc Hùng cũng phiên âm nó thành hỗ nhưng âm chính xác của nó lại là giả (Đỗ Văn Đáp cũng ghi chú: "chính vận là giả") vì thiết âm của nó là "giai ả thiết, âm giả, mã vận" (Từ nguyên, Từ hải). Vậy tên của tác giả bài "Giang lâu thư hoài" là Triệu Giả chứ không phải là "Triệu Hỗ".

156. (KTNN 140, ngày 01-6-1994)

ĐỘC GIẢ: Nói "mút chỉ cà tha" thì ai cũng hiểu. Nhưng "cà tha" là gì và hai tiếng này bắt nguồn từ dâu? Có phải là nói trại âm của hai tiếng "cà sa"?

AN CHI: Hai tiếng cà-tha đã được Lê Ngọc Trụ giảng là "xâu chuỗi hột to, dài, mang ở cổ, có tác dụng là bùa trừ ếm tà ma quỉ-quái". Tác giả đã cho thí dụ: "Thầy pháp đeo dây cà-tha" (Tầm-nguyên tự-điển Việt- Nam, TPHCM, 1993, tr.497). Tuy nhiên dân gian vẫn còn có lốí hiểu bình thường là cái bùa (chứ không nhất thiết là xâu chuỗi). Chẳng hạn, khi nghe nói "vô cà tha rồi đó" thì có thể hiểu là "đã có yểm bùa rồi đó". Dân Nam Bộ đã mượn từ cà-tha ở tiếng Khmer katha mà Dictionnaire cambodgien-français của J.B. Bernard (Hong Kong, 1902) giảng là "amulette" (bùa). Vậy cà tha là bùa.

Còn cà sa, mà dạng đầy đủ là cà sa duệ, là âm Hán-Việt của những chữ Hán mà người Trung Hoa đã dùng để phiên âm tiếng Sanskrit kãsỗya, nghĩa'gốc là vải hoặc y phục nhuộm màu đỏ sẫm. Trong tiếng Pali thì kãsẫya lại có nghĩa là nhuộm màu da cam, là áo màu vàng. Danh từ cà sa đã được Phật học từ điển của Đoàn Trung Còn giảng như sau: "Ây là bộ áo nhà sư đạo Phật, hiệp lại là ba cái: Tăng-già-lẽ, cái áo tràng; uất-đa-la- tăng, cái giữa; an-đà-hội, cái áo trong, áo lót". Nghĩa thông dụng của cà sa hiện nay là "áo mặc ngoài của nhà sư (rất dài và rộng)" (Từ điển tiếng Việt 1992).

157. (KTNN 140, ngày 01-6-1994)

ĐỘC GIẢ: Sau khi đọc bài thơ "Ký ức trắng" của tác giả Phan Hoàng ở trang 79, Kiến thức ngày nay số 132, con gái tôi (10 tuổi) đã hỏi tôi: "Ba ơi, tại sao ở trường, thầy cô dạy con khi làm văn phải viết hoa ở đầu câu và phải dùng các dấu câu mà người ta lại làm thơ và cho in lên sách báo không đúng như con đã học? Và vua Quang Trung có cỡi trâu dánh trận thật không?" Xin giải thích hộ tôi tại sao phải làm như vậy và làm như thế thì nó hay và có lợi ở điểm nào? Có đúng là vua Quang Trung đã cỡi trâu đánh trận thật không?

AN CHI: 1. Không phải riêng Phan Hoàng không dùng dấu câu và không viết hoa chữ đầu của các câu thơ. Ngay ở Kiến thức ngày nay 132, tr.32, trong bài "Tháng giêng", Vũ Ngọc Giao cũng làm như thế; tr.6, trong bài "Trần Thái Tông", Nguyễn Thụy Kha cũng làm gần như thế. Chúng tôi không cho rằng đây là chuyện hay hoặc không hay, lợi hoặc không lợi mà chỉ nghĩ rằng đây là chuyện phong cách và sở thích riêng của từng nhà thơ.

Con gái ông 10 tuổi, chắc bé đang học lớp 5. Đâu có ai dám dạy cho học trò lớp 5 tất cả mọi vấn đề của ba cấp học ở bậc phổ thông hoặc ở bậc cao hơn nữa. Vì vậy bé chỉ mới được dạy phải viết hoa ở đầu câu và phải dùng dấu câu đúng chỗ cần thiết và đúng theo công dụng của từng dấu. Sau này, bé sẽ được biết thêm rằng có những nhà thơ không thích hoặc không chịu chấm câu cũng như không thích hoặc không chịu viết hoa chữ đầu của các câu thơ. Bé đồng thời cũng sẽ được biết rằng chuyện đó là thuộc quyền tự do của nhà thơ. Nếu tất cả các kiến thức đều được dạy tập trung ở lớp 5 thì giáo viên các lớp trên còn gì để dạy. Đó là còn chưa nói đến việc quy định dung lượng kiến thức cho từng lớp phải tùy thuộc vào đặc điểm tâm sinh lý của lứa tuổi. Đó lại còn là chưa nói đến chuyện quản lý và hướng dẫn việc đọc sách của trẻ con trong phạm vi gia đình. Bài "Ký ức trắng" của Phan Hoàng là một bài thơ mà học sinh lớp 5 nói chung chưa có đủ điều kiện để hiểu được một cách thấu đáo. Vậy, theo thiển ý có lẽ ông cũng nên hướng dẫn bé tìm đọc những bài thơ khác thích hợp với lứa tuổi của mình hơn.

2. Chính vì chưa đủ diều kiện để hiểu bài thơ nên bé đã tưởng rằng "Quang Trung cỡi trâu đánh trận" là chuyện không đúng với sự thật lịch sử. Nhưng Phan Hoàng không viết sử mà chỉ làm thơ. Và trong bài thơ của mình, có những chỗ tác giả đã liên tưởng trên cơ sở hồi ức (bài thơ có nhan đề "Ký ức trắng"). Chuyện "Quang Trung cỡi trâu đánh trận" chính là một mẩu hồi ức của Phan Hoàng chứ không phải là một sự kiện liên quan đến lịch sử Việt Nam hồi gần cuối thế kỷ XVIII. Bởi vậy Quang Trung ở đây không phải là Quang Trung Nguyễn Huệ mà là Quang Trung... Phan Hoàng, nghĩa là Phan Hoàng thuở thiếu niên đã từng chơi đánh trận mà trong trò chơi đó thì chính cậu ta đã đóng vai Quang Trung. Và ở cái nơi ngày nay là bãi cỏ lau ( Ta lơ ngơ trong bãi cỏ lau) thì ngày ấy cũng làm gì có voi để cho Phan Hoàng cỡi. Chỉ có trâu của trẻ mục đồng mà thôi. "Quang Trung cỡi trâu đánh trận" là như thế. Vậy ngày nay khi Phan Hoàng muôn "tìm dấu Quang Trung cỡi trâu đánh trận" là tác giả muôn tìm lại tuổi thơ của chính mình đó thôi. Điều này đương nhiên là rất chính đáng.

Xin nói luôn rằng ở trên còn có mấy câu:

Ta chạy lên đồi trăng

Nơi Vân Tiên quẳng sách cứu Nguyệt Nga

thì đây cũng chẳng phải là Vân Tiên họ Lục của Nguyễn Đình Chiểu mà chính là Vân Tiên Phan Hoàng: Còn Nguyệt Nga là ai thì chỉ có Phan Hoàng biết mà thôi vì đây là chuyện "con gái rủ con trai trốn học" của thuở ấy!

Chỉ có chuyện Ngọc Hân đề thơ mới là chuyện thật

- đây là phần liên tưởng - nhưng đó cũng là sự thật nhìn bằng con mắt Phan Hoàng nên mới có những chi tiết "chân dại mắt khờ" và "vịn mây chiều áo vải đề thơ".

iỉ 158. (KTNN 140, ngày 01-6-1994)

ĐỘC GIẢ: Trong "Võ lâm ngũ bá" và "Lục mạch thần kiếm" của Kim Dung có nói đến nước Đại Lý. Có phải đó là nước Nam Hán của Lưu Cung, Lưu An đã sai Hoằng Thao đánh nước ta vào thời Ngô Quyền hay không?

AN CHI: Đó là hai nước khác nhau. Nam Hán là một trong mười nước thời Ngũ đại (907-960). Thủy tổ của nước này là Lưu Ấn, làm tiết độ sứ Thanh Hải đời vua Chiêu Tuyên nhà Đường. Đầu thời Ngũ đại, đươc Thái Tổ nhà Lương phong làm Nam Hải Vương. Lưu An chết, em là Lưu Cung tự lập để nối ngôi rồi xưng đế, đặt quốc hiệu là Việt, sau đổi là Hán, sử gọi là Nam Hán. Ngày xưa Nam Hán bao gồm toàn bộ tỉnh Quảng Đông, miền nam tỉnh Phúc Kiến và miền nam tỉnh Quảng Tây của Trung Quốc hiện nay. Nước Nam Hán truyền đến đời Lưu Sưởng thì mất vì bị nhà Tông diệt.

Còn nước Đại Lý là nước Điền thời Tần, Hán, là nơi sinh sống của các tộc người mà Trung Hoa gọi là Tây Nam Di (rợ Tây Nam). Đời Huyền Tông nhà Đường thì bị Nam Chiếu chiếm và gọi là Đại Mông. Nhiều lần bị xâm chiếm và đổi tên thành Đại Lễ, Đại Trường Hòa, Đại Thiên Hưng, Đại Nghĩa Ninh, Đại Lý, Đại Trung Quốc rồi Phục Lý. Đến đời Hiến Tông nhà Nguyên (1251-1260) thì bị Hốt Tất Liệt tiêu diệt. Nước Đại Lý nằm trên đất tỉnh Vân Nam ngày nay.

159. (KTNN 141, ngày 15-6-1994)

ĐỘC GIẢ: Tại sao người Pháp gọi Đài Loan là Formose và người Anh là Formosa?

AN CHI: Những người châu Âu đầu tiên phát hiện ra đảo Đài Loan là người Bồ Đào Nha. Họ đã gọi nó là hòn đảo xinh đẹp, tiếng Bồ Đào Nha là ilha formosa (ilha: đảo - danh từ giông cái; formosa: xinh đẹp - giông cái của tính từ formoso)\ do đó mà "chết tên". Người Pháp đã theo đó mà gọi là Formose và người Anh là Formosa. Tuy nhiên, ngày nay họ cũng đã theo cách gọi của người Trung Hoa mà gọi nó là Taiivan.

160. (KTNN 141, ngày 15-6-1994)

ĐỘC GIẢ: Xin cho biết chữ Nho và chữ Hán có khác nhau không? Thứ chữ này ra đời và chấm dứt từ lúc nào?

AN CHI: Chữ Hán và chữ Nho là hai tên gọi khác nhau của cùng một thứ chữ. Ngày xưa người ta gọi đó là chữ Nho vì nó được dùng để chuyển tải nội dung của Nho giáo và Nho học. Đó là thứ chữ mà nhà Nho phải nắm vững để có thể thông hiểu sách vở và đạo lý của thánh hiền.

Khi người Việt Nam thoát khỏi ách đô hộ ngàn năm của phong kiến phương Bắc để xây dựng quốc gia độc lập, đặc biệt là từ nhà Lý (1010-1225) trở đi thì Nho giáo và Nho học cũng trở thành chính thông tại quốc gia Đại Việt. Chữ Nho do đó cũng trở thành "quốc gia văn tự" của người Việt Nam. Vì vậy mà người nước ta còn gọi nó là "chữ ta". Thứ chữ này đã tồn tại và đã được sử dụng ở Việt Nam trong vòng 900 năm (nếu chỉ kể từ nhà Lý) cho đến khi nước ta bị Pháp đô hộ và nền Nho học bị bãi bỏ. Còn trên thực tế thì người Việt Nam đã biết đến chữ Nho từ rất sớm, ít nhất cũng là từ đời Sĩ Nhiếp.

Ngày nay người ta không gọi thứ chữ đang xét là chữ Nho nữa mà gọi đó là chữ Hán, vì đó mới là cách gọi chính xác và hợp lý. Đây cũng là cách gọi của chính người Trung Hoa: họ tự nhận là Hán tộc nên chữ của họ là Hán tự (chữ Hán), tiếng của họ là Hán ngữ, và văn của họ là Hán văn.

Theo truyền thuyết thì Thương Hiệt là người đã sáng chế ra chữ Hán nhưng điều này không có căn cứ thực tế. Chữ Hán chắc chắn không do một cá nhân sáng chế ra mà là kết quả của một sự thừa kế có cải tiến của nhiều người, thậm chí của nhiều thế hệ cho đến một thời điểm mà nó được xem là đã định hình. Đó là vào đời nhà Thương và thứ chữ được xem như đã định hình đó là giáp cốt văn (văn ở đây có nghĩa là chữ) tức là thứ chữ khắc trên yếm rùa và xương thú. Thứ chữ này đã được dùng để ghi chép những lời bói toán gọi là bốc từ. Nhờ những lời bốc từ này mà người ta có thể biết rõ xã hội Trung Hoa đời nhà Thương về nhiều phương diện. Đặc biệt bảng đế hệ đời Thương xác lập được qua những lời bốc từ nói chung khá phù hợp với truyền thuyết. Chính vì thế mà người ta mới có căn cứ cụ thể và chắc chắn để khẳng định rằng nhà Thương là một giai đoạn có thật trong lịch sử của Trung Hoa.

Rất nhiều chữ giáp cốt là những chữ tượng hình đích thực, nhưng trải qua nhiều thay đổi, ngày nay mỗi chữ Hán đã trở thành một chữ khối vuông (phương khối tự) riêng biệt cấu tạo bằng một sô' nét (như chấm, phẩy, mác, v.v. ) nhất định.

Tóm lại, thời điểm ra đời của chữ Hán, tức chữ Nho là vào đời nhà Thương, còn thời điểm chấm dứt của nó thì chưa thể biết được vì đến nay nó vẫn còn được dùng tại Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, tại Đài Loan, và trong các cộng đồng người Hoa ở nước ngoài. Chẳng những như thế, chữ Hán ngày nay vẫn còn tiếp tục được nhiều người nước ngoài trau dồi và nghiên cứu.

'k 161. (KTNN 141, ngày 15-6-1994)

ĐỘC GIẢ: Một bài trên Kiến thức ngày nay số 104, trang 47-51, có dùng từ "mặc khải". Từ này không thấy có trong từ điển của cụ Đào Duy Anh và của ông Nguyễn Văn Khôn. Từ "mặc khải" có liên quan gì đến thuyết linh ứng bên đạo Thiên chúa không?

AN CHI: Mặc khải là một từ Hán Việt mà người ta đã dùng để dịch danh từ Révélation của tiếng Pháp (tiếng Anh: Révélation) với tính cách là một thuật ngữ tôn giáo. Danh từ thần học và triết học của Ban giáo sư Đại chủng viện Bùi Chu do Trí-đức-thư-xã (Hà Nội) xuất bản năm 1952 đã ghi như sau:

"Révélation: Mặc khải, Révélation divine: Mặc-khải Thiên-chúa. Révélation formelle: Mặc-khảĩ mô-thức. Révélation primitive: Mặc-khải sơ-khai

Đồng nghĩa với mặc khải là mặc thị mà người Nhật đọc thành mokuji. Họ dùng từ này đệ dịch tên sách Apocalypse (là sách cuối cùng trong Kinh Thánh, phần Tân ước) thành Mokuji roku (Mặc thị lục). Kinh Thánh, bản tiếng Việt của Thánh-Kinh Hội tại Việt Nam, in năm 1975 cũng dùng từ này, chẳng hạn "Sự mặc-thị của Đức Chúa Jêsus-Christ" (Sách khải-huyền, 1:1). Nhưng bản tiếng Việt của Hội Ghi-đê-ôn Quốc-tế năm 1965 thì lại dùng từ khải thị, chẳng hạn "Sự Khải- thị của Jésus-Christ" (Sách Khải-thị của Giăng, 1:1).

Danh từ thần học và triết học đã dịch Révélation thành mặc khải và dịch Apocalypse thành Khải huyền thư. Thực ra, nghĩa của apocalypse cũng là révélation vì đó là dạng tiếng Pháp - và cả tiếng Anh - của tiếng Hy Lạp apokalupsis, có nghĩa là... révélation, tức mặc thị, mặc khải, khải thị hoặc khải huyền. Đây đều là những từ đồng nghĩa.

Từ điển của Đào Duy Anh hoặc của Nguyễn Văn Khôn không ghi nhận từ mặc khải một phần vì đây không phải là một từ thông dụng, một phần vì đó cũng không phải là từ điển cỡ lớn. Đầy đủ hơn nhiều như Từ hải cũng chỉ ghi nhận có khải thị mà không có mặc khải, mặc thị hoặc khải huyền.

Trong bài ông đã nêu, tác giả chỉ dùng từ mặc khải theo nghĩa thông thường là bộc lộ, biểu lộ... mà thôi.

'k 162. (KTNN 141, ngày 15-6-1994)

ĐỘC GIẢ: Tôi hiểu câu "bắt cá hai tay" như sau: vì muốn nắm chắc phần thắng nên đã chơi với cả hai (thường chỉ về chuyện tình cảm). Vậy đúng ra phải nói "bắt cả hai tay" nghĩa là hai tay đều có bắt cả hai bên nhưng do từ "cả" đọc lên quá trầm nên người ta mới đọc thành "cá" cho rõ và có âm điệu hơn, cũng như nói "cảm ơn" thành "cám ơn" vậy. Xin cho biết có đúng như thế không?

AN CHI: Kể chuyện thành ngữ, tục ngữ của Viện ngôn ngữ học do Hoàng Văn Hành chủ biên (Hà Nội, 1994) đã giảng như sau:

"Bắt cá hai tay" tức là dùng cả hai tay để bắt một con cá, như kiểu "cầm hai tay" "đưa hai tay", "bưng hai tay". Song hiểu như thế thì hành động "bắt cá" ở đây sẽ đạt kết quả một cách khá chắc chắn và không có gì đáng chê.

Nhân dân ta đều hiểu thành ngữ này với nghĩa đen là mỗi tay bắt một con cá, và kết quả là tuột mất, chẳng bắt được con nào (...)•

Từ nghĩa đen cụ thể đó, nhân dân ta đã dùng thành ngữ này với nghĩa rộng hơn để chỉ những người có tư tưởng "nước đôi", hoặc tham lam, ôm đồm, muôn có nhiều thứ, muốn làm nhiều việc cùng một lúc, không được việc này thì được việc khác, kết quả hoặc là không được gì, "xôi hỏng, bỏng không" hoặc được chắc một thứ, nhưng thường bị chê trách là tham lam, khôn ranh. (Sđd, tr.76-7).

Cả hai cách hiểu mà Kể chuyện thành ngữ, tục ngữ đã nêu (dùng cả hai tay bắt một con cá hoặc mỗi tay bắt một con cá) đều không đúng vì đây không phải là cá trong cá tôm mà là cá trong cá cuộc. Cá là đánh cuộc và bắt cá là nhận đánh cuộc bằng cách bắt (= chọn) một trong hai đấu thủ (gà chọi, cá chọi, võ sĩ...), một trong hai phe (đội bóng, đội bơi thuyền...) hoặc một trong hai khả năng đối lập nhau (mưa hoặc không mưa trong cá mưa chẳng hạn), V.V.. Nếu bên mình bắt mà thắng thì mình sẽ được cuộc, ngược lại thì sẽ thua cuộc. Việt Nam tự điển của Lê Văn Đức và Lê Ngọc Trụ đã ghi nhận như sau: "Bắt cá (...) nhận đánh cuộc: "Ra trường gà bắt cá; Bắt cá đá banh".

Vậy bắt cá hai tay là nhận đánh cuộc bằng cách bắt cả hai bên đối nghịch nhau. Thông thường người ta chỉ bắt bên mà mình cho là sẽ thắng để được cuộc. Còn bắt cá hai tay là vừa bắt bên này vừa bắt bên kia tùy theo diễn biến của tình thế. Ngày nay, do không còn hiểu đúng nghĩa của từ tổ bắt cá nên người ta mới dùng thành ngữ đang xét theo ý nghĩa và công dụng mà Kể chuyện thành ngữ, tục ngữ đã nêu.


Nhân nói về từ tổ bắt cá, xin nói luôn về một từ tổ hữu quan là thả cá vì có... thả thì mới có bắt. Thả cá đã được Đại Nam quấc âm tự vị của Huình-Tịnh Paulus Của giảng là "đánh chọi" còn Việt Nam tự điển của Lê Văn Đức và Lê Ngọc Trụ thì giảng rõ hơn là "thách cá", nói trong một độ gà chọi hay cá thia thia, sau khi xem xét con vật rồi, những người cầm chắc con của mình chọn sẽ thắng, bèn thách mọi người bắt số tiền cá của mình". Vì tưởng rằng đây là cá trong tôm cá nên Nguyễn Lân đã giảng câu Thứ nhất thả cá, thứ nhì gá bạc như sau: "Việc thả cá có lợi là đúng và cần khuyến khích, còn gá bạc thì ngày nay là một tội phạm, vì đó là một việc làm bất chính" (Từ điển thành ngữ và tục ngữ Việt Nam, Hà Nội, 1989, tr.277). Nhưng, như đã thấy ở trên, việc thả cá cũng chẳng lương thiện gì hơn việc gá bạc cho nên nếu cho rằng đó là việc làm "có lợi" và "cần khuyến khích" thì nguy to vì đã vô tình cổ xúy cho trò đỏ đen.

Tóm lại, cá trong "bắt cá hai tay" là cá cuộc, cá độ chứ không phải cá động vật. Và câu thành ngữ vốn vẫn là bắt cá hai tay chứ cũng không phải "bắt cả hai tay".

163. (KTNN 142, ngày 01-7-1994)

ĐỘC GIẢ: Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam (Nhà xuất bản Khoa học xã hội, 1991) đã nhất loạt ghi các họ Chu và Châu thành Châu, Huỳnh và Hoàng thành Hoàng, Vũ và Võ thành Võ. Xin cho biết làm như thế có đúng không?

AN CHI: Chắc ông cũng sẵn sàng thừa nhận rằng làm như thế là không đúng. Ghi như vậy là nhầm lẫn giữa lịch đại và đồng đại. Xét về lịch đại thì Chu và

Châu, Huỳnh và Hoàng, Vũ và Võ đều cùng gốc với nhau (theo từng cặp). Nhưng xét theo đương đại, đốĩ với cặp Huỳnh-Hoàng chẳng hạn, thì Huỳnh đã tirở thành một họ hoàn toàn riêng biệt từ lâu ở trong Nam. Nhiều chí sĩ, nhân sĩ nổi tiếng ở trong Nam, như Huỳnh Thúc Kháng, Huỳnh Tịnh Của, Huỳnh Khương Ninh, đã bị các soạn giả cải họ mà gọi là Hoàng Thúc Kháng, Hoàng Tịnh Của, Hoàng Khương Ninh. Xin nhấn mạnh rằng họ người là danh từ riêng cho nên không thể thay thế nó bằng biến thể ngữ âm của nó như đối với danh từ chung một cách tùy tiện được. Làm như thế là xúc phạm thô bạo đến cá nhân và dòng họ của người khác. Huống chi Hoàng và Huỳnh đã trở thành hai họ riêng biệt và độc lập với nhau.

Vậy trường hợp tên họ nhân vật lịch sử được ghi bằng chữ Háxi và được đọc không thống nhất, chẳng hạn Ngô Tùng Châu cũng đọc Ngô Tòng Chu thì sao? Xin trả lời rằng đây chỉ là hai cách đọc khác nhau của thời nay do suy luận không nhất trí về âm xưa của các chữ Hán hữu quan. Còn ở thời trước thì tên của nhân vật lịch sử này cũng chỉ có một cách đọc duy nhất mà thôi. Một họ ghi bằng một chữ Hán, ký hiệu là A chẳng hạn, trong lịch sử của nó, có thể đọc theo các âm al, a2, a3, v.v, , nhưng vào một thời điểm X nhất định, nó chỉ có thể được đọc theo một trong các âm a đó mà thôi. Vấn đề là phải căn cứ vào những nguyên tắc ngữ âm học lịch sử chặt chẽ và chính xác để tìm ra cho được cái âm ax của thời điểm đó.

Còn ngày nay thì việc thay tên đổi họ, dù chỉ một chữ cái Iĩrá thôi, cũng có thể gây ra bao nhiêu điều phiền toái và rắc rối về pháp luật và thủ tục hành chính; điều này, thì ai ai cũng biết. Huống chi là đổi từ họ Huỳnh thành họ Hoàng!

164. (KTNN 142, ngày 01-7-1994)

ĐỘC GIẢ: Có phải tiếng Nhật đã mứợn rất nhiều từ của tiếng Anh rồi của cả tiếng Pháp và đã mượn một cách vô tội vạ hay không ì Xin cho một số dẫn chứng.

AN CHI: Chúng tôi không cho rằng người Nhật đã mượn từ ngữ của tiếng Anh hoặc tiếng Pháp một cách vô tội vạ (họ có lý do riêng của ho) nhưng quả thật là họ đã mượn rất nhiều. Hầu như ở trang từ điển tiếng Nhật nào cũng có những từ mượn như thế. Thí dụ:

abangẽru (tiền chiến) < p. avant-guerre; akusesari (phụ tùng) < A. accessory; aramodo (hợp thời trang) < p. à la mode; baiburu (Kinh Thánh) < A. Bible; banpu (phụ nữ quyến rũ) < A. vamp; barẽbõru (bóng chuyền) < A. volley-ball; basuto (vòng ngực) < A. bust; batã (bơ) < A. butter; beddo (giường) < A. bed; beru (chuông) < A. bell; bideotẽpu (băng video) < A. video tape; bifuteki (bít tết) < P. bifteck; burakkurisuto (sổ đen) < A. black list; burandẽ (rượu trắng) < A. brandy; burashi (bàn chải) < A. brush; cherồ (đàn cello) < A. cello; chõku (phấn) < A. chalk; deforume (làm biến dạng) < p. déformer; derikẽto (thanh nhã) < A. delicate; desuku (bàn giấy) < A. desk; eamẽru (thư hoặc bưu phẩm hàng không) < A. air mail;

edipüsukonpurekkusu (mặc cảm Oedipe) < A. Oedipus complex; V.V..

Chúng tôi không thể kéo dài bảng thí dụ trên đây. Chỉ xin mạn phép nói thêm rằng chúng ta không nên chê người Nhật vì họ đã mượn quá nhiều (mà chúng ta thì cũng mượn không ít). Lại xin nhân tiện cải chính cái quan niệm hoàn toàn sai lầm sau đây của nhiều nhà Việt ngữ học người Việt Nam: tiếng Việt đã dân tộc hóa, đã Việt hóa một cách triệt để các yếu tô vay mượn chứ không tự trói buộc vào những đặc điểm cố hữu của các yếu tô' gốc mà nó đi mượn. Đây là điều mà người Việt Nam chúng ta có thể lấy làm tự hào. Nhà Việt ngữ học đã rao giảng như thế cho công chúng còn nhà giáo thì đã dạy như thế cho học sinh trong nhà trường. Thực ra, chẳng có ngôn ngữ nào đi vay mượn mà lại không "dân tộc hóa", lại không "hóa" các yếu tô" vay mượn theo đặc trưng và tập quán ngôn ngữ của chính mình, về vấn đề này, A. Meillet đã nói như sau: "Các từ của tiếng nước ngoài vay mượn bằng con đường khẩu ngữ gần như lập tức bị quy vào cái mẫu chung của ngôn ngữ và không hề khác với những từ cố hữu bởi cái dáng dấp chung của chúng" (Introduction à ưétude comparative des langues indo-européennes, University of Alabama Press, 1969, p.442).

Nếu lấy hiện tượng đang xét ở trên làm căn cứ để tự hào thì Tàu phải tự hào hơn ta nhiều. Tàu mà đã "hóa" của Tây thì độc đáo vô cùng. Sau đây là một thí dụ rất nhỏ: mấy nốt nhạc do ré mi của Tây, ta còn xướng thành dồ rè mi chứ Tàu thì phớt Ảng lê với mấy cái âm [d] và [r] của Tây. Họ xướng thành tồ lè mi, bởi tiếng của họ làm gì có [d] với [r]: họ chỉ có [t] và [1] mà thôi.

Tóm lại, về phương diện đang xét thì bất cứ dân tộc nào cũng có quyền tự hào về ngôn ngữ của mình cả, chẳng cứ gì người Việt đôi với tiếng Việt.

'k 165. (KTNN 142, ngày 01-7-1994)

ĐỘC GIẲ: Kiến thức ngày nay 135, Chuyện Đông chuyện Tây, trang 81, có nói rằng Việt-Hán từ điển tối tân do nhà sách Chin Hoa ở Chợ Lớn xuất bản "chỉ là một bản sao chép không hơn không kém của quyển Từ điển Việt Hán do tập thể tác giả Hà Thành, Trịnh Ngọa Long, Chu Phúc Đan, ... biên soạn, xuất bản tại Bắc Kinh năm 1960". Xin cho biết ông An Chi căn cứ vào đâu để khẳng định như thế.

AN CHI: Chúng tôi căn cứ vào thực tế, nghĩa là vào nội dung của Việt-Hán từ điển tối tân (VHTĐTT) đối chiếu với nội dung của Từ điển Việt-Hán (TĐVH).

1. Trước hết là ở phần "Hướng dẫn cách dùng". Trừ điều 3 (được thêm vào VHTĐTT để giới thiệu sách tham khảo) và điều 11 của sách này (vì phần phụ lục của nó khác với của TĐVH), còn diều 1 điều 2 và các điều từ 4 đến 10 của nó thì chỉ là sao y bổn chánh các điều tương ứng của TĐVH. Nói cho công bằng thì VHTĐTT cũng có thay đổi một số từ ngữ. Chẳng hạn, điều 6 của TĐVH ghi: "Khi dịch nghĩa, trước tiên là nêu ý nghĩa căn bản của từ, sau đó mới đến nghĩa rộng, nghĩa bóng, v.v. " còn điều tương ứng của VHTĐTT (điều 7) thì ghi: "Khi dịch nghĩa, trước hết là nêu ý nghĩa căn bản của từ ấy, sau đó mới tới nghĩa rộng, nghĩa bóng, v.v. ". "Trước tiên" được sửa thành "trước hết", "của từ" được sửa thành "của từ ấy" và "mới đến" được sửa thành "mới tới".

2. Thứ đến và chủ yếu là ở phần chính của từ điển. Trừ những mục từ và những phần trong một số mục từ của TĐVH mà VHTĐTT đã lược bỏ (những trường hợp này không nhiều), còn tên gọi, cách ghi, thứ tự, lời giảng, các thí dụ và lời dịch những thí dụ đó của các mục từ trong VHTĐTT cũng giông hệt như của TĐVH. Xin lấy ba mục từ ăn, đánh và làm - là ba từ rất thông dụng và có nhiều nghĩa - làm dẫn chứng điển hình.

Mục từ ăn của TĐVH có 13 nghĩa được đôi dịch như sau (xin phiên các chữ Hán ra âm Hán Việt cho tiện việc ấn loát): "1. thực, ngật. 2. hưởng thụ. 3. thu nạp, tiếp thụ. 4. diên khánh, ngật tửu. 5. doanh, thắng. 6. mịch thực. 7. hòa hài. 8. xâm nhập, thâm nhập. 9. trang. 10. niêm. 11. hấp thủy. 12. man diên. 13. phụ thuộc".

Cả 13 nghĩa trên đây đã được VHTĐTT chép lại y hệt. Những thí dụ minh họa cho 13 nghĩa đó cũng được VHTĐTT chép lại y hệt, trừ thí dụ ở nghĩa 13 của TĐVH là "Làng này ăn về tỉnh Hà Đông" thì VHTĐTT đã đổi địa danh Hà Đông thành Biên Hòa cho thích hợp với nội dung của một quyển từ điển xuất bản ở miền Nam.

Mục từ đánh của TĐVH có 28 nghĩa thì VHTĐTT cũng chép y hệt 28 nghĩa đó mà không bỏ sót một nghĩa nào. Chẳng hạn nghĩa 1 đã được TĐVH đôi dịch thành: "đả, đả kích, xao kích, xao đả, tiên đả, phách đả, đàn đả (dĩ thủ hoặc vật đả kích)" thì VHTĐTT cũng chép lại y nguyên chẳng bỏ sót một chữ nào. Các thí dụ trong nghĩa 1 là "đánh gẫy xương", "đánh bể hàm", "đánh chiêng, gõ trông" cũng được VHTĐTT chép lại y hệt. Nghĩa 2 trong TĐVH là "công đả, chiến đấu. Đánh giặc: đả thổ phỉ. Đánh chóng ăn mau: tốc chiến tốc thắng" thì VHTĐTT chỉ sửa "đả thổ phỉ" thành "đả trượng". Còn từ nghĩa 3 đến nghĩa 28 thì tiếp tục chép lại y hệt TĐVH, chỉ có đảo nghĩa 20 xuống 21 và 21 lên 20.

Mục từ làm của TĐVH có 7 nghĩa được đối dịch như sau: "1. tô" 2. tạo (chế tạo, kiến tạo, biên tạo, đề tạo, sáng tạo, doanh tạo, hưng tạo) 3. lao tác, doanh sinh. 4. đương, sung dương, sung nhiệm, tác vi. 5. sử, sử đắc, trí sử. 6. trang tác, kiểu sức, giả bán, tạo tác. 7. (tục) tể sát". Cả 7 nghĩa này cũng đã được VHTĐTT chép lại đầy đủ trừ "trí sử" ở nghĩa 5 thì đổi thành "sử trí" và "tạo tác" ở nghĩa 6 thì đổi thành "tố tác". Các thí dụ cũng được chép lại không sót, trừ thí dụ "làm bô'" (nghĩa 4) thì VHTĐTT đổi thành "làm cha", các thí dụ "làm bia đỡ đạn" (nghĩa 4) và "làm cho phong trào quần chúng ngày càng phát triển" (nghĩa 5) thì bị VHTĐTT gạt bỏ vì không thích hợp với sinh hoạt chính trị và ngôn ngữ báo chí của miền Nam trước 1975.

Bất cứ trang nào của TĐVH cũng đã được VHTĐTT sao y bổn chánh một cách không cần giấu giếm. Bị lược bỏ chỉ là những mục từ hoặc những thí dụ trong các mục từ mà "soạn giả" VHTĐTT thấy là không cần thiết, nhất là không thích hợp với tình hình chính trị miền

Nam trước 1975, chẳng hạn các mục: ăn cơm đoàn kết, ban chấp hành đảng bộ, ban chi ủy, giải phóng quân, Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, V. V. hoặc các thí dụ Nhà máy cơ khí Hà Nội (mục cơ khí), phong trào giải phóng dân tộc, giải phóng tư tưởng (mục giải phóng) đường lối chung (mục đường lối).

Tóm lại, chúng tôi không dám nói rằng "soạn giả" của VHTĐTT đã làm công việc đạo văn trắng trợn nhưng sẽ là hoàn toàn chính xác nếu khẳng định rằng VHTĐTT chỉ là một bản sao chép (có rút gọn chút ít) không hơn không kém của TĐVH. Nhớ rằng TĐVH đã được Thương vụ ấn thư quán xuất bản tại Bắc Kinh năm 1960 còn VHTĐTT thì được nhà sách Chin hoa xuất bản tại Chợ Lớn năm 1962. TĐVH ra đời trước, VHTĐTT ra đời sau nên không thể nói rằng TĐVH là một bản sao chép (có mở rộng) của VHTĐTT được. Những điểm khác nhau quan trọng giữa hai quyển là VHTĐTT thì dùng dấu gạch nối một cách phổ biến còn TĐVH thì không và TĐVH thì dùng chữ giản thể còn VHTĐTT thì vẫn dùng nguyên dạng chữ phồn thể theo truyền thống. Điểm khác nhau cuối cùng tưởng cũng không nên bỏ qua là các tác giả của TĐVH nói rằng nó chỉ gồm trên 65.000 mục từ còn "soạn giả" của VHTĐTT lại dám khẳng định rằng nó gồm trên 70.000 mục từ mặc dù nó chỉ là TĐVH rút gọn.

166. (KTNN 143, ngày 15-7-1994)

ĐỘC GIẲ: Hai câu

Nhân sinh tự cổ thùy vô tử Lưu thủ đan tâm chiếu hãn thanh có phải là của Văn Thiên Tường hay không? Văn Thiên Tường là ai, người nước ta hay người Trung Quốc? Có phải đây cũng là tác giả của bài Chí khí ca?

AN CHI: Văn Thiên Tường (1236-1282) là người Trung Hoa. Nguyễn Khắc Phi đã giới thiệu và nhận định về tác giả này trong Từ điển văn học tập II (Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 1984) như sau:

"Chí sĩ và nhà thơ yêu nước Trung Quốc cuối Nam Tông. Tự Lý Thiện, còn có tên là Lý Thụy, hiệu Văn Sơn, người ở Cát-an, tỉnh Giang-tây, 20 tuổi đậu tiến sĩ. Làm quan đến Hữu thừa tướng kiêm Khu mật sứ. Khi quân Nguyên vượt sông tấn công Lâm-an, tức Hàng- châu ngày nay, ông được phái đi xin hòa, bị tướng Nguyên là Bá Nhan giữ lại. Sau trốn về Ôn-châu, thuộc tỉnh Chiết-giang ngày nay, lập Tống Đoan Tông để chông Nguyên. Tháng Mười 1278, bại trận ở Quảng- đông, bị địch bắt. Tháng Ba năm sau, bị giải đi Yên- kinh, tức Bắc-kinh ngày nay. Suốt ba năm tù đày, Nguyên Thế Tổ tìm đủ mọi cách cưỡng bức, dụ dỗ đầu hàng, nhưng vẫn cương quyết cự tuyệt, cuối cùng bị sát hại. Tác phẩm chính có: "Văn Sơn thi tập, Chỉ Nam lục, Chỉ Nam hậu lục, Ngâm Khiếu tập, được tập hợp trong Văn Sơn tiên sinh toàn tập, 20 cuốn, Chỉ Nam là lấy ý từ hai câu kết của bài thơ Dương-tử-giang.

"Thần tâm nhất phiến từ châm thạch,

Bất chỉ Nam phương bất khẳng hưu".

(Lòng tôi như mảnh nam châm; Nếu không chỉ về phương Nam - tượng trưng cho quê hương, Tổ quốc - thì vẫn chưa chịu dừng). Thơ Văn Thiên Tường thời kỳ sáng tác đầu (trước 1276) không có giá trị gì đáng kể. Hầu hết những bài thơ nổi tiếng đều làm ở thời kỳ sau, nhất là lúc bị giải lên phía Bắc và ba năm bị giam cầm. Nhiều bài nói lên nỗi lòng đau xót trước cảnh nước mất nhà tan (vợ, hai người/thiếp, con trai thứ hai và hai con gái của nhà thơ đều bị giặc bắt và giải về Yên Kinh) như Qua sông Hoài, Có nỗi cảm hoài, Phủ An-khánh và nhất là Trạm Kim-lăng với hai câu kết đã từng lay động lòng người bao thế hệ:

"Tòng kim biệt khước Giang-nam lộ,

Hóa tác đề quyên đái huyết quy".

(Từ nay vĩnh biệt đường Giang-nam; Sẽ hóa làm chim đỗ quyên kêu đến rỏ máu mà bay về). Bên những vần thơ thống thiết lâm ly, có những câu khẳng khái, khí tiết. Bài Qua sông Linh-đinh có những câu thơ quằn quại:

"Sơn hà phá toái phong phiêu nhứ,

Thân thế phù trầm vũ đả bình".

(Non sông tan tác như xơ bông bị gió cuốn; Thân thế nổi chìm như cánh bèo bị mưa giập). Nhưng tình điệu vẫn khỏe khoắn nhờ hai câu kết bất hủ:

"Nhân sinh tự cổ thùy vô tử,

Lưu thủ đan tâm chiếu hãn thanh". (Đời người từ xưa ai là không chết; Cốt sao để lại tấm lòng son sáng soi sử sách - Nguyên văn tiếng Hán là do chúng tôi in nghiêng - AC) (Sđd, tr.530).

Về bài Chính khí ca (chính chứ không phải chí) của Văn Thiên Tường, Nguyễn Khắc Phi đã giới thiệu như sau:

"(...) Chính khí ca viết không bao lâu trước lúc bị sát hại. Bài gồm hai phần. Phần thứ nhất 34 câu, nói chung về cái gọi là "chính khí": sự thể hiện của "chính khí" ở trong trời đất, ở con người, trong thời bình cũng như trong thời loạn; ở thời loạn, ấy là "tiết tháo" của những liệt sĩ đã được ghi lại trong sử sách (10 câu); biểu dương hàng chục gương hy sinh dũng cảm của người xưa như ba anh em quan Thái tử nước Tề thời Xuân-thu, như Nghiêm Nhan thời Tam-quốc, như Nhan Kiêu Thanh đời Đường (16 câu); khẳng định "chính khí" là cái gìn giữ sự vững bền của "trụ trời", của "khuôn đất", của "tam cương" là "cội rễ" của "đạo nghĩa" (8 câu). Phần thứ hai 26 câu, tường thuật cuộc sông khổ cực và biểu hiện tinh thần bất khuất ở trong tù. Nhà thơ cho rằng sở dĩ bản thân giữ vững được tinh thần, "dù bị bỏ vào vạc ninh nấu cũng coi ngọt như đường", "bao nhiêu bệnh ác khí độc đều phải kiêng nể"... là nhờ có "chính khí" nâng đỡ, là vì biết noi gương các hiền triết xưa. Mặc dù bài thơ biểu dương một số quan niệm đạo đức phong kiến và một vài "gương" được nhắc đến là sự thể hiện cụ thể của những quan niệm ấy, mặc dù cả cái gọi là "chính khí" cũng là một khái niệm mơ hồ và ít nhiều mang tính chất huyền bí, song cảm hứng chủ đạo của bài thơ vẫn là lòng yêu nước thiết tha, âm điệu chính vẫn là mạnh mẽ, hào hùng". (Sđd, tr.530)

167. (KTNN 143, ngày 15-7-1994)

ĐỘC GIẢ: Trên Thế giới mới số 54, tháng 5/1993, tác giả Trương Chính để lại cho bạn đọc trẻ chúng tôi một nỗi buồn khó tả! Buồn vì tên tuổi của hai nhà thơ quá cố (Chế Lan Viên và Xuân Diệu) đã bị đem ra làm vật mổ xẻ. Liệu chúng tôi có nên bắt chước tác giả bài mổ xẻ ấy để vi phạm ý đẹp của câu nói người xưa rằng "Tử giả bất luận" hay không?

AN CHI: Chúng tôi cho rằng chỉ không nên luận về tử giả một cách bất công, bất chính hoặc bất minh, nhất là khi luận về nhân cách của họ mà thôi. Tử giả vẫn phải vĩnh viễn chịu trách nhiệm về những gì họ đã làm lúc sinh thời. Vì vậy mà cũng chính người xưa lại còn có nói ''cái quan luận định", nghĩa là đậy nắp quan tài rồi mới định công luận tội (người chết). Học giả hoặc nhà văn, dù đã quá cố, vẫn phải vĩnh viễn chịu trách nhiệm về những gì họ đã viết. Có lẽ nào các thế hệ độc giả và học giả hậu sinh lại tuyệt đối không có quyền nhận xét và phê phán những gì mà các tử giả đã viết, nhất là về những gì họ đã viết sai (nếu có)? Vì vậy mà chúng tôi tán thành việc làm của Trương Chính. Chỉ đáng tiếc là có khi chính Trương Chính đã luận sai.

Chẳng hạn Trương Chính đã luận sai như sau:

"(...) Có tình trạng người biết nhiều chữ Hán chưa chắc dùng từ Hán Việt đã không sai. Xin nêu vài ví dụ: "Phạm Duy Tốn viết "bảo thủ tài sản", với nghĩa giữ gìn tài sản, theo nghĩa đen. Tiếng Việt chỉ thừa nhận nghĩa bóng: giữ cái sẵn có, cái cũ, không chịu thay đổi. Trần Trọng Kim viết: "lý thuyết Nho giáo hủ hóa", với nghĩa hư hỏng, không còn tốt đẹp nữa. Tiếng Việt chỉ thừa nhận nghĩa: quan hệ nam nữ bất chính về xác thịt (...) Đào Duy Anh viết: "Bỉ nhân khi mới nghiên cứu quốc văn đã lấy sự không có từ điển làm điều rất khốn nạn khổ sở". Rồi Đặng Thai Mai, Hải Triều viết "nhân vật linh động (sinh động)"; Hoài Thanh viết "Làm thơ là phản động lại, lật lại cái lớp ý sáo, chữ sáo" với nghĩa chống lại. Ngày nay, phản động chỉ dùng với nghĩa chông lại cách mạng, chống lại sự tiến bộ, còn chống lại cái cũ, cái xấu thì không dùng phản động. Nêu những ví dụ ấy ra để nóị muôn dùng từ chính xác, phải dùng với nghĩa hiện đại".

(Từ Hán Việt: Hán mà không Việt, Thế giới mới 54, tr.45).

Trở lên là những lời của Trương Chính luận về cách dùng từ của các tử giả danh tiếng trong học giới và văn giới Việt Nam. Nhưng ông đã luận sai.

Khi Phạm Duy Tốn viết: "bảo thủ tài sản" thì từ bảo thủ chưa được dùng theo nghĩa "giữ cái sẵn có, cái cũ, không chịu thay đổi" như Trương Chính đã đòi hỏi. Nghĩa này chỉ trở nên thông dụng sau khi Phạm Duy Tốn (1881-1924) đã qua đời, đặc biệt là từ 1945 trở đi. Trước đó, nghĩa thông dụng của nó chỉ là "gìn giữ" đúng như Phạm Duy Tốn đã dùng và đúng như cũng đã có được ghi nhận trong Đại Nam quấc âm tự vị của Huình- Tịnh Paulus Của hoặc trong Việt Nam tự điển của Lê Văn Đức và Lê Ngọc Trụ. Phạm Duy Tốn đã hoàn toàn


đúng khi ông chỉ dùng từ bảo thủ theo cái nghĩa mà nó đã có ở thời của ông.

Trần Trọng Kim cũng hoàn toàn đúng khi dùng từ hủ hóa theo nghĩa "hư hỏng, không còn tốt đẹp nữa". Còn cái nghĩa "quan hệ nam nữ bất chính về xác thịt" mà Trương Chính nêu lên thì lại chỉ bắt đầu được dùng trong cuộc kháng chiến chống Pháp (1945-1954) nhưng cũng không phải là rộng rãi trong cả nước mà chỉ ở vùng chiến khu và vùng tự do. Sau 1954, nó mới được dùng rộng rãi trên cả miền Bắc và ở một số vùng căn cứ của miền Nam. Sau 1975, chưa kịp trở nên thông dụng ở những vùng còn lại của miền Nam thì hình như nó đã... chết. Ây là còn chưa nói đến chuyện Trương Chính đã định nghĩa không chính xác vì cứ theo nghĩa mà ông đã nêu thì cưỡng dâm và mãi dâm cũng là hủ hóa (bởi vì chẳng có lẽ cưỡng dâm và mãi dâm lại là quan hệ nam nữ quang minh chính đại về xác thịt) trong khi đây thực sự là ba khái niệm hoàn toàn khác nhau, vẫn biết rằng có thể là Trương Chính đã căn cứ vào từ điển - chẳng hạn Từ điển tiếng Việt 1992 cũng giảng hủ hóa là "có quan hệ nam nữ về xác thịt bất chính" - nhưng người ta chỉ nên theo cái đúng của từ điển chứ không thể theo cái sai của nó được, vì chẳng có ai dám quả quyết rằng đã là từ điển thì không bao giờ sai. Xin nêu thêm một dẫn chứng nóng hổi sau đây. Từ điển Anh-Việt của Viện ngôn ngữ học thuộc Trung tâm khoa học xã hội và nhân văn quốc gia, "phản ánh một cách trung thành những gì đã có trong cuốn Oxford Advanced Learner's Dictionary, 1992" (X. Lời giới thiệu), do Nhà xuất bản Thành phố Hồ Chí Minh mới phát hành, đã giảng danh từ canary


như sau: "chim hót hay, nhỏ, màu vàng, thường nuôi trong lồng làm cảnh". Ai có chơi yến (canary) cũng có thể thấy đây là một định nghĩa không chính xác vì ngoài những con yến màu vàng, còn có những con màu trắng, những con màu saumon, những con màu ardoise, những con màu agate, những con màu isabelle, những con màu vert, những con màu rouge intensif, v.v. ; thậm chí bây giờ người ta còn muốn tạo ra những con yến màu đen! Phó từ thường trong định nghĩa trên đây cũng thừa vì chẳng có con yến nào mà lại không được núôi trong lồng, vì người ta chẳng bao giờ thả yến như thả bồ câu hoặc thắ sáo, thả cưỡng.

Tóm lại, Trần Trọng Kim không hề sai như Trương Chính đã tưởng. Cũng thế đối với Đào Duy Anh, Đặng Thai Mai, Hải Triều và Hoài Thanh vì họ chỉ có thể sử dụng từ ngữ theo những cái nghĩa mà chúng có ở vào thời điểm đang xét chứ không thể theo những cái nghĩa "hiện đại" của ông Trương Chính được.

Vậy, theo chủng tôi, thì vẫn cần luận về những gì mà các tử giả đã viết sai - nhưng không nên nói người ta sai khi người ta không sai - vì đã sai thì luôn luôn có hại. Uy tín của người viết sai càng lớn thì cái hại sẽ càng lớn vì người ta thường dễ tin theo những người đã thành danh.

Trở lên là ý kiến của chúng tôi về quan niệm "tử giả bất luận" mà bạn đã nêu; vậy xin thẳng thắn trình bày như trên.

it 168. (KTNN 144, ngày 01-8-1994)

ĐỘC GIẢ: Xin cho biết vài nét về tiểu sử và văn thơ của hai nữ sĩ Ngô Chi Lan và Nguyễn Hạ Huệ.

AN CHI: Cho đến nay, người ta vẫn xem Ngô Chi Lan và Nguyễn Hạ Huệ chỉ là một người. Trong Từ điển văn học, tập II (Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 1984), Đặng Thị Hảo đã giới thiệu về Ngô Chi Lan như sau:

"Nhà thơ nữ Việt-nam. Còn có tên là Nguyễn Hạ Huệ. Người làng Phù-lỗ, huyện Kim-anh, xứ Phúc-yên, nay thuộc ngoại thành Hà Nội. Chưa rõ năm sinh năm mất. Sông chủ yếu dưới triều Lê Thánh Tông (1470- 1497). Có thuyết nói bà là con nuôi Nguyễn Thị Lộ. Chồng là nhà thơ Phù Thúc Hoành vì tài văn chương nên tuy không đỗ đạt vẫn được giao việc giảng dạy Kinh dịch ở Trường quốc tử giám, sau chuyển sang Viện hàn lâm. Có sách nói ông từng làm quan đến Đông các đại học sĩ. Ông hiện còn hai bài thơ chữ Hán chép trong Trích diễm thi tập. Ngô Chi Lan sinh thời nổi tiếng chăm đọc sách, giỏi thi ca, từ khúc, thường được vua Lê Thánh Tông triệu vào hầu thơ, cho dự nhiều cuộc xướng họa ở cung đình, lại được phong chức Phù gia nữ học sĩ, đảm đương việc dạy đạo đức, nghi lễ, dạy thơ cho các cung nhân trong Vương phủ. Nguyễn Dữ trong một truyện ngắn nhan đề Cuộc nói chuyện thơ ở Kim-hoa trong Truyền kỳ mạn lục đã dựng lên một cuộc bình thơ giữa hai vợ chồng Ngô Chi Lan và nhà thơ Thái Thuận tại tư thất của hai ông bà (...) Nguyễn Dữ đã đánh giá rất cao tài năng của bà (...) Tuy hình thức mang nhiều yếu tố hoang đường, song có lẽ, nội dung câu chuyện đã được Nguyễn Dữ dựa trên một tư liệu thực nào đó về mối liên hệ giữa hai vợ chồng nữ sĩ với một số' nhà thơ đương thời" (Sđd, tr.28)

Còn Lê Quý Đôn thì viết trong Kiến văn tiểu lục như sau:

"Truyền kỳ mạn lục phần nhiều là ngụ ngôn, cho nên ít người tin. Nhưng Kim hoa thi thoại nói là của Phù phu nhân thì có người thật. Cứ xem Trích diễm thi tập có chép thơ của Nguyễn Hạ Huệ và cho rằng: "Nguyễn Hạ Huệ tên tự là Quỳnh-Hương, người xã Lựu- Khê, huyện An-lạc là vợ viên giáo thụ Phù Thúc Hoành. Quỳnh-Hương thông hiểu âm luật, có tập Mai trang lưu hành ở dời (...) Nay ở xã Phù-lỗ huyện Kim-hoa có dền thờ Phù học sĩ" (Bản dịch của Phạm Trọng Điềm, Hà Nội, 1977, tr. 205-6).

Theo chúng tôi, căn cứ vào Trích diễm thi tập mà khẳng dinh rằng vợ của Phù Thúc Hoành là Nguyễn Hạ Huệ thì hợp lý hơn là căn cứ vào Truyền kỳ mạn lục mà khẳng định rằng bà là Ngô Chi Lan. Tác giả của Trích diễm thi tập, Hoàng Đức Lương, là người dồng thời với Phù phu nhân Nguyễn Hạ Huệ; vậy có lẽ nào lại nhầm lẫn mà chép Ngô Chi Lan thành Nguyễn Hạ Huệ. Còn Cuộc nói chuyện thơ ở Kim-hoa trong Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ thì chi là một truyện truyền kỳ cho nên, về nguyên tắc, thì tác giả có quyền hư cấu. Bởi vậy, đã lấy gì làm chắc rằng hiện tượng Ngô Chi Lan lại không phải là chuyện tên giả người thật, hoặc chuyện tên thì giả mà người thì nửa thật nửa giả, thậm chí chuyện tên giả người giả? Chúng tôi cho rằng Nguyễn

Xuân Lan, tác giả của Địa chí tỉnh Vĩnh Phú (Ty văn hóa Vĩnh Phú, 1974), đã có lý hơn khi căn cứ vào Trích diễm thi tập (thông qua Kiến văn tiểu lục của Lê Quý Đôn) mà chép rằng Phù phu nhân là Nguyễn Hạ Huệ (Sđd, tr.149). Chỉ tiếc răng tác giả này đã theo cái sai trong bản dịch Kiến văn tiểu lục mà ghi chú về Nguyễn Hạ Huệ rằng "Truyền kỳ mạn lục chép là Ngô Kim Lan" trong khi chính sách này (Chúng tôi sử dụng bản dịch của Trúc Khê Ngô Văn Triện do Nhà xuất bản Văn nghệ Thành phố Hồ Chí Minh và Hội nghiên cứu và giảng dạy văn học Thành phô" Hồ Chí Minh ấn hành năm 1988) thì lại chép là Ngô Chi Lan. Thế là bản dịch Kiến văn tiểu lục của Phạm Trọng Điềm (tr.205, chth.l) và Địa chí tỉnh Vĩnh Phú còn tạo ra thêm một "dị bản" nữa cho tên của Phù phu nhân là Ngô Kim Lan.

Theo chúng tôi, ta chỉ nên thừa nhận cái tên Nguyễn Hạ Huệ mà chép rằng Nguyễn Hạ Huệ có lẽ đã được tác giả của Truyền kỳ mạn lục hư cấu thêm mà biến thành nhân vật Ngô Chi Lan trong truyện Cuộc nói chuyện thơ Kim Hoa. Chỉ dựa vào một truyện truyền kỳ mà khẳng định rằng Phù phu nhân, vợ ông Phù Thúc Hoành, là Ngô Chi Lan thì không hợp lý và cũng chẳng đáng tin. Người ta có thể phản bác mà nói rằng một tác phẩm khá xưa khác, Lĩnh Nam chích quái, cũng chép íà Ngô Chi Lan. Nhưng đây lại là một tác phẩm mà tác giả và thời điểm ra đời đã chưa được khẳng định một cách hoàn toàn chắc chắn. Đó còn là chưa kể đến chuyện nó có nhiều dị bản. Đó cũng lại còn là chưa nói đến chuyện những dị bản của Lĩnh Nam chích quái có thể đã không được sao chép một cách trung thực. Tóm lại, theo chúng tôi thì, trong điều kiện của những tư liệu được biết cho đến nay, Ngô Chi Lan không chắc đã là tên của một nữ sĩ có thật, cũng không chắc đã là một tên khác nữa của nữ sĩ Nguyễn Hạ Huệ.

Theo Đặng Thị Hảo thì Nguyễn Hạ Huệ có để lại một tập thơ nhan đề Mai trang tập, còn lưu hành vào thời Hoàng Đức Lương, nay dã thất truyền. Hiện chỉ còn hai bài thơ chữ Hán, thể ngũ ngôn, chép trong Trích diễm thi tập và một chùm bôn bài thất ngôn bát cú (cũng chữ Hán), vịnh bốn mùa trong Truyền kỳ mạn lục. Ngòài ra, sách Lĩnh Nam chích quái còn chép một bài thơ đề vịnh núi Vệ Linh, thể thất ngôn tứ tuyệt, chú là thơ của bà (Sđd, tr.28). Nhưng Dương Quảng Hàm, ỗ mục Ngô Chi Lan (mà thực tế là Nguyễn Hạ Huệ) trong Việt Nam thi văn hợp tuyển (Chúng tôi sử dụng bản in lần thứ 5, năm 1958 tại Sài Gòn), còn chép thêm bốn bài thơ Nôm tứ tuyệt vịnh tứ thời của bà nữa. Bài thơ đề vịnh núi Vệ Linh trong Lĩnh Nam chích quái, mà Đặng Thị Hảo nhắc đến, thực tế cũng đã được tác giả của Truyền kỳ mạn lục đưa vào truyện Cuộc nói chuyện thơ ở Kim Hoa. Còn hai bài thơ chữ Hán thể ngũ ngôn mà Đặng Thị Hảo đã nêu ra chính là hai bài có nhan đề chung là Thái liên khúc chép trong Kiến văn tiểu lục của Lê Quý Đôn.

Do khuôn khổ có hạn, chúng tôi không thể chép lại toàn văn bốn bài vịnh bốn mùa. Nhưng chúng tôi nhận thấy ý tứ của các bài thơ Nôm tứ tuyệt thực sự là một với ý tứ của bốn câu đầu trong bốn bài thơ thất ngôn bát cú chữ Hán vịnh bôn mùa được coi là của Ngô Chi Lan trong "Cuộc nói chuyện thơ ở Kim Hoa" của sách Truyền kỳ mạn lục.

Những bài thơ Nôm đó cùng với những câu thơ chữ Hán tương ứng là của một người hay của hai người, chúng tôi không có điều kiện khảo chứng. Vậy xin nêu lên để trông chờ ý kiến của các bậc thức giả.

Còn về bài thơ vịnh núi Vệ Linh thì sách Lĩnh Nam chích quái chép như sau:

"Tới đời vua Thuần Đế nhà Lê (tức Lê Thánh Tông

- AC) ở xã Phù Lỗ có người con gái tên Ngô Chi Lan

chữ rất đẹp, sành văn chương, thơ ca điêu luyện, nhân

đi dạo chơi tới núi này có đề bài thơ rằng:

Vệ Linh xuân thụ bạch vân nhàn,

Vạn tử thiên hồng diễm thế gian,

Thiết mã tại thiên danh tại sử,

Anh hùng lẫm lẫm mãn giang sơn

(...) Dịch ý như sau:

Vệ Linh mây trắng rỡn cây xuân,

Vạn tía muôn hồng đẹp thế gian.

Ngựa sắt lên trời tên chép sử,

Anh hùng sống mãi với giang san.

(Bản do Đinh Gia Khánh chủ biên, Nguyễn Ngọc San biên khảo, giới thiệu, Hà Nội, 1990, tr.44-5).

Về phần mình, chúng tôi cho rằng lấy những câu thơ, bài thơ mà xuất xứ không rõ ràng, lại là những câu

thơ, bài thơ chép trong một truyện truyền kỳ (ở đây là bài Hạ từ và bài Thu từ) để gán cho một nữ sĩ rồi trên cơ sở đó đánh giá thơ văn của nữ sĩ này là đã làm một việc không thận trọng. Cá nhân chúng tôi lại thấy rằng cách cấu tứ của bốn bài thơ vịnh bốn mùa chép trong Truyền kỳ mạn lục hình như là khẩu khí của một đấng mày râu chứ không phải là của một bậc quần thoa.

Tóm lại, theo chúng tôi, chưa có căn cứ hoàn toàn chắc chắn để nói rằng Nguyễn Hạ Huệ và Ngô Chi Lan là hai tên khác nhau của một nữ sĩ, càng chưa có căn cứ để nói rằng Nguyễn Hạ Huệ và Ngô Chi Lan là hai nữ sĩ khác nhau. Nguyễn Hạ Huệ là tên của một nữ sĩ được biết là quê ở làng Phù Lỗ, huyện Kim Anh, xứ Phúc Yên (nay thuộc ngoại thành Hà Nội), sông vào đời Lê Thánh Tông và là vợ của ông Phù Thúc Hoành. Còn Ngô Chi Lan chỉ là tên của một nhân vật thấy được trong Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ mà thôi.

'k 169. (KTNN 144, ngày 01-8-1994)

ĐỘC GIẢ: Xin cho biết tên lục địa và tên hàng hải của nước Trung Hoa trong tiếng La Tinh.

AN CHI: Trong tiếng La Tinh nước Trung Hoa có hai tên gọi là Sẽra và Sina. Vì vậy mà xưa kia các dân tộc sông chung quanh Địa Trung Hải đã lầm tưởng rằng đó là tên gọi của hai nước khác nhau.

Nước Sẽra, theo họ, là nước đã sản xuất ra mặt hàng tơ lụa nổi tiếng (lụa, tiếng La Tinh là sẽricum, phái sinh từ Sẽra) mà các thương nhân châu Âu và Cận Đông đã đem về theo Con đường tơ lụa chạy xuyên suốt vùng Trung Á. Còn nước Sina lại là một nước mà người ta chỉ có thể đặt chân tới sau một hải trình dài ngày và gian khổ trên Ân Độ Dương rồi còn phải vòng lên hướng Bắc nhiều ngày nữa mới đến được, về sau người ta mới biết rằng nước Sina cũng chính là nước Sẽra nhưng lại gọi bằng tên của triều đại do một ông vua khét tiếng là bạo chúa khai sáng. Ông vua đó là Thủy Hoàng đế và triều đại đó là nhà Tần. Thân từ sin trong tiếng La Tinh Sina chính là dạng phiên âm của tiếng Tần trong Hán ngữ cổ đại, mà tiếng Bắc Kinh hiện đại phát âm là qín (ghi theo phương án La Tinh hóa của nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa) trong đó âm - i - cổ đại vẫn còn được bảo lưu.

Sẽra là tên lục địa còn Sina là tên hàng hải của nước Trung Hoa trong tiếng La Tinh vậy. Nhưng hiện nay chỉ có thân từ sin- là thông dụng, thí dụ như sinicus (liên quan đến Trung Hoa), sinensis (gốc ở Trung Hoa). Tuy nhiên vẫn có người dùng thân từ sẽr, thí dụ như Bernhard Karlgren đã đặt tên cho một vựng tập chữ Hán của ông là Grammata Serica, rồi sau đó đã sửa chữa thành Grammata Serica Recensa.

•ử 170. (KTNN 145, ngày 15-8-1994)

ĐỘC GIẲ: Trên Kiến thức ngày nay Xuân Giáp Tuất, trang 31, ông Huệ Thiên có viết như sau: "Cũng là những ngôn ngữ văn minh cổ đại, tiếng La Tinh và tiếng Sanskrit đều phải kết hợp hai từ "thịt" và "chó" lại với nhau để diễn đạt danh từ "nhiên" (nghĩa là thịt chó) của tiếng Hán cổ chứ không có một từ căn duy nhất riêng biệt". Nhưng có người mách cho tôi rằng tiếng La Tinh cũng có một từ duy nhất có nghĩa là thịt chó. Đó là danh từ "canina". Vậy xin cho biết ý kiến về lời khẳng định trên đây của tác giả bài viết.

AN CHI: Đúng như có người đã mách với ông, tiếng La Tinh có một danh từ duy nhất là canina có nghĩa là thịt chó. Nhưng nếu để ý thì sẽ thấy rằng, về hình thức, danh từ đó hoàn toàn trùng với hình thái giống cái của tính từ caninus có nghĩa là "của chó, thuộc về chó". Điều này hoàn toàn không do ngẫu nhiên, vì xét về từ nguyên, thì danh từ canina (thịt chó) là do tính từ canina (của chổ) mà ra. Số là ban đầu, để diễn đạt khái niệm "thịt chó", người ta vẫn phải nói canina caro, nghĩa là vẫn phải dùng một cấu trúc cú pháp tính gồm có hai từ: canina (của chó) + caro (thịt). Chỉ về sau người ta mới tỉnh lược cấu trúc canina caro thành canina. Vì đại diện cho một cấu trúc mà thành tố chính là danh từ nên tính từ canina mới trở thành danh từ. Vậy canina (thịt chó) không phải là một danh từ tự nó, mà là một danh từ do tính từ canina (của chó) chuyển thành. Trong tính từ này, thân từ là canin- có nghĩa là của chó. Còn trong thân từ canin- thì từ căn lại là can-, có nghĩa là chó. Vậy trong danh từ canina (thịt chó) thì từ căn can- chỉ có nghĩa là chó chứ không phải là thịt chó. Chính vì thế mà Huệ Thiên mới viết rằng tiếng La Tinh không có một từ căn duy nhất riêng biệt có nghĩa là "thịt chó".

171. (KTNN 145, ngày 15-8-1994)

ĐỘC GIẢ: Sổ tay văn hóa Việt Nam của Trương Chính và Đặng Đức Siêu (Nxb Văn hóa, Hà Nội, 1978), tr.324, có viết rằng "trong gần 150 năm, các vua nhà Nguyễn chỉ lo tô sửa cho kinh thành Huế, chẳng chú ý gì đến giang sơn tổ quốc". Xin cho biết lời khẳng định trên đây có chính xác và khách quan hay không?

AN CHI: Để trả lời, chúng tôi xin dẫn lại ý kiến sau đây của Chu Quang Trứ tại cuộc hội thảo "Một số vấn đề về triều Nguyễn", tổ chức hồi tháng 10 năm 1989- tại Thành phố Hồ Chí Minh:

"Nhà Nguyễn khi thay thế nhà Tây Sơn xác lập chủ quyền của vương triều trên lãnh thổ, dù dựa vào thế lực nào đi chăng nữa, thì ở địa vị ông chủ của cả nước tất phải yêu nước, quản lý cả một cộng đồng dân tộc cần phải biết lịch sử dân tộc. So với các vương triều trước ở vào thế kỷ XIX, triều Nguyễn đã kiểm kê đất nước và lịch sử để nắm tài sản tinh thần một cách hệ thống và có hiệu quả nhất (...)

Trước hết, chúng tôi muốn nói tới ý thức của nhà nước đối với những di tích và di vật của tiền nhân để lại. Ngày nay trong hầu hết các di tích dù của thời nào thì cũng đều tìm thấy dấu vết sửa chữa hoặc xây dựng thèm ở thời Nguyễn (Chúng tôi nhấn mạnh - AC). Tất nhiên ngày ấy, sửa chữa những phần hư hỏng của một di tích kiến trúc chưa mang theo ý thức phục chế, mà được làm mới theo thẩm mỹ đương thời, vì thế ngày nay chúng ta nhận biết được dễ dàng và có thể bóc tách ra từng lớp niên đại không khó khăn, và phần xây dựng lại các di tích cũ cũng thế, vì vậy có nhiều di tích theo truyền ngôn, và thậm chí cả thư tịch nữa, đều khẳng định có rất sớm, chẳng hạn như đền Hùng (Vĩnh Phú) ít ra có từ thời Lý, nhưng quan sát tại chỗ thì rõ ràng là đã làm lại hoàn toàn vào thời Nguyễn. Còn xây dựng

thêm ở những di tích cũ, cái hay là không lấn át, không làm méo mó những gì đã có, mà bổ sung, tôn lên cái cũ, tạo ra một toàn cảnh đầy đủ hơn và về sau có bỏ đi những phần làm thêm ấy thì cũng chỉ là trả lại bộ mặt trước của di tích. Điều này thấy rõ nhất là ỏr các đình làng ngoài Bắc: hầu hết các nhà tiền tế, phần lớn các hậu cung, toàn bộ các dãy tả vu, hữu vu và các cột gạch cổng đình đều làm thêm vào thời Nguyễn (...).

Đối với các anh hùng dân tộc, dù ở dạng truyền thuyết hay lịch sử, triều Nguyễn đều biểu hiện một sự tự hào và có trách nhiệm, muôn phát huy để khai thác. Vì thế, đền thờ cũ nếu hư thì sửa, nếu hỏng thì làm lại, quy mô khang trang và hàng năm tổ chức lễ hội trang trọng. Đền Hùng (Vĩnh Phú), đền hai Bà Trưng (Hà Nội), đền Bà Triệu (Thanh Hóa)... là những bằng chứng cụ thể.

Đối với lăng mộ các vị vua cũ, loại trừ thái độ quá quắt đôi với nhà Tây Sơn, nhà Nguyễn đã tổ chức điều tra, xác minh và sau đó dựng bia để định vị. Từ thời Trần về trước, ta chưa có lệ dựng bia ở lăng mộ các vua, nếu không có sự định vị bằng bia của triều Nguyễn, ngày nay chúng ta thật khó tìm lại được. Nhưng rất may, từ thủy tổ xa xăm là Kinh Dương Vương đến các anh hùng dân tộc là Phùng Hưng, Ngô Quyền, Đinh Tiên Hoàng, Lê Đại Hành, rồi các vua nhà Lý và các vua nhà Trần đều còn giữ lại được mộ để ngày nay con cháu có thể hành hương đến Hà Bắc, Hà Nội, Hà Nam Ninh, Quảng Ninh để thắp hương tưởng niệm, là nhờ có bia của triều Nguyễn.

Từ thời Lê, các vua khi mất được dựng bia ở mộ, nhưng có khi bị thời gian bào mòn hết chữ, như bia Lê Uy Mục ở Hà Bắc, cũng được triều Nguyễn cho khắc mấy chữ định vị. Đi liền với lăng mộ là đền miếu thờ cũng được triều Nguyễn chăm sóc chu đáo. Chẳng hạn đền Lý Bát Đế ở Đình Bảng, Hà Bắc, ngay năm thứ hai của triều Nguyễn, nhà nước đã lấy dân sở tại đặt làm phu miếu để trông nom, được miễn những lao dịch khác.

Tuy nhiên, lăng mộ và đền miếu các vị đế vương không nhiều. Phổ biến là đình, chùa, đền, miếu ở khắp các làng xã ngoài Bắc, triều Nguyễn cũng có sự quan tâm nhất định, nhiều lần ban sắc phong thần, xác định sự chứng thực và thừa nhận của Nhà nước. Những sắc này ngày nay chúng ta tìm được vô số, từ những làng quê hẻo lánh nhất, và với số lượng vượt xa của các thời trước cộng lại.

Đặc biệt phải kể đến các di tích mới xây dựng trong thời Nguyễn. Số này không nhiều, vì phần lớn các làng xã đã ổn định hệ thống kiến trúc công cộng, chỉ những làng mới hoặc làng cũ còn thiếu di tích loại gì thì giờ mới xây bổ sung. Không ít những công trình ấy có quy mô rất lớn và chạm khắc trang trí tuy không phong phú nhưng khá tinh xảo, chẳng hạn như đình Yên Đông (Quảng Ninh), đình Tam Tảo (Hà Bắc). Đền Quan Thánh làm lại hoàn toàn và đền Ngọc Sơn (Hà Nội) đều đã giỏi chọn địa thế, lợi dụng môi trường, tạo sự hòa hợp đặc biệt với thiên nhiên, lại được tài trang trí của các nhà điêu khắc tôn lên rất nhiều".

("Nhìn lại văn hóa nghệ thuật dưới triều Nguyễn", trong Những vấn để văn hóa xã hội thời Nguyễn, Nxb Khoa học xã hội, 1992, tr. 149-52).

Về các cung điện của vua chúa triều Nguyễn tại Huế, Chu Quang Trứ đã nhận xét như sau:

"Những cung điện ấy, từng kiến trúc riêng không lớn hom mấy so với một đình làng to ngoài Bắc (như đình Đình Bảng, đình Tam Tảo...), và vẫn theo một "thức kiến trúc Việt Nam" từ cách tạo bộ khung gỗ, xử lý mộng mẹo, tỷ lệ các phần (...) Những cung điện ấy có phần cao sang, song với trung gian là nhà giường của quý tộc, nó rất gần với những đình làng quanh Huế, và do đó không chút kiêu sa, không chút lạ lẫm với người dân (Chúng tôi nhấn mạnh - AC). Cho đến nay, du khách vào thăm cung điện và lăng tẩm Huế vẫn thấy có cả sự trang nghiêm và thân thuộc, dễ dàng hòa nhập vóri môi cảnh" (Sđd, tr.153).

Trở lên là ý kiến của Chu Quang Trứ, mà chúng tôi đã dẫn ra để trả lời cho câu hỏi của ông, nghĩa là để trả lời xem có phải trong gần 150 năm, các vua nhà Nguyễn chỉ lo tô sửa cho kinh thành Huế mà chẳng chú ý gì đến giang sơn tổ quôc, như Trương Chính và Đặng Đức Siêu đã khẳng định một cách hoàn toàn vô căn cứ và vô trách nhiệm, hay không. Tuy nhiên việc "chú ý đến giang sơn tổ quốc" không phải chỉ tập trung ở phương diện kiến trúc. Ai ai cũng biết được rằng đó là một công cuộc lớn lao hơn nhiều và bao gồm rất nhiều phương diện. Chúng tôi lại xin dẫn ý kiến của sử gia lão thành

Trần Văn Giàu, cũng phát biểu trong cuộc hội thảo nói trên, như sau:

"(...) khi nói về sự khủng hoảng dưới triều Nguyễn là nói về chính trị chứ về nông nghiệp vẫn phát triển (...) Không thời nào văn hóa phát triển như thời Nguyễn. Tám mươi năm của nhà Nguyễn, sách vở sáng tác gần bằng hoặc bằng, thậm chí còn nhiều hơn mấy trăm năm trước. Những nhà tư tưởng của thời Nguyễn cao hơn những nhà tư tưởng trước, những nhà văn cao hơn những nhà văn trước, những nhà làm sử, cũng giỏi hơn những nhà làm sử trước. Có thể nói sự phát triển văn hóa dưới thời Nguyễn tương đương với sự thông nhất của quốc gia. Sự thông nhất về chính trị thúc đẩy sự phát triển về văn hóa rất nhiều. Đó là thành tích của triều Nguyễn".

("Vài nhận xét về thời nhà Nguyễn", sđd, tr.18).

Tác giả còn nói thêm: "Một phương châm cai trị của các vua nhà Nguyễn là "cần chính", nghĩa là chú tâm lo việc nước (Chúng tôi nhấn mạnh - AC). Buổi lâm triều vua phải có mặt trước từ sớm, khi bãi triều vua phải là người đi ra sau cùng" (Sđd, tr.21).

Để kết luận, xin dẫn ý kiến của học giả Trần Bạch Đằng, cũng phát biểu trong cuộc hội thảo đã nói:

"Chúng ta rất cảm phục phong trào Tây Sơn nhưng không vì vậy mà phủ định toàn bộ các quá trình tiến bộ xã hội mà các vua chúa triều Nguyễn đã thực hiện được có kết quả. Khoa học lịch sử chân chính đòi hỏi nhà nghiên cứu phải có một thái độ rất khoa học và công bằng trong khi phân tích lịch sử".

("Nhận thức lại vấn đề đánh giá triều đại nhà Nguyễn", sđd, tr.24).

(KTNN 146, 8-1994)

ĐỘC GIẢ: Kiến thức ngày nay sô 141, mục Chuyện Đông chuyện Tây, tr. 50-1, có giải thích thành ngữ "bắt cá hai tay". Tôi xin được phép không đồng ý theo cách hiểu của tác giả An Chi vì: - Tôi chưa thây ai bắt cá (đánh cuộc) mà lại vừa bắt bên có khả năng thắng, vừa bắt bên có khả năng thua; - Tôi thường nghe nói "bắt cá (đánh cuộc) một cuộc hai cuộc, một độ hai độ, một trận hai trận...", chứ chưa nghe ai nói "bắt cá (đánh cuộc) một tay hai tay" cả. Nếu phải dịch thành ngữ đang xét sang tiếng nước ngoài, tiếng Pháp chẳng hạn, chắc người ta sẽ dịch là "courir deux lièvres à la fois" và hiểu là "đi nước đôi, tham lam, ôm đồm...", ngoại trừ có câu dịch nào khác đúng hơn. Vậy theo tôi, cách hiểu thứ hai của sách Kể chuyện thành ngữ, tục ngữ về thành ngữ "bắt cá hai tay" (= mỗi tay bắt một con cá) có phần hợp lý hơn.

AN CHI: Chúng tôi sẵn sàng tin rằng ông chưa thấy ai đánh cuộc mà lại vừa bắt bên có khả năng thắng, vừa bắt bên có khả năng thua. Nhưng chắc cũng chưa có người Pháp nào thấy ai cùng một lúc mà lại rượt theo hai con thỏ rừng - trừ phi chúng chạy song song với nhau như hai con ngựa của một cỗ xe song mã - mặc dù tiếng Pháp có thành ngữ courir deux lièvres à la fois, Cũng chẳng có người Pháp nào thấy ai đem sợi tóc chẻ làm tư mặc dù tiếng Pháp có thành ngữ couper un cheveu en quatre. Và chẳng có người Pháp nào thấy ai quăng ngọc trai cho những con heo con mặc dù tiếng Pháp có thành ngữ jeter des perles aux pourceaux. Tương tự, người Trung Hoa cũng chưa bao giờ thấy ai leo cây tìm cá mặc dù họ có thành ngữ duyên mộc cầu ngư. Họ cũng không bao giờ nhai văn cắn chữ mặc dù họ có thành ngữ giảo văn tước tự. Họ cũng không thấy ai nắm cây mạ rút lên cho nó mau lớn mặc dù họ có thành ngữ loát miêu trợ trưởng. Và chẳng lẽ người Việt Nam chúng ta lại thực sự thấy có người ngồi dưới cây sung và há miệng ra mà chờ cho sung rụng để ăn vì tiếng Việt có thành ngữ hả miệng chờ sung. Vậy có những thành ngữ không bao giờ đúng theo nghĩa đen vì chúng chỉ được dùng theo nghĩa bóng mà thôi.

Cùng một cách hiểu với chúng tôi, Tự vị tiếng Việt miền Nam của Vương Hồng sển (Nxb Văn hóa, 1993) đã giảng như sau: "Bắt cá hai tay; ôm đồm, bên nào cũng có đánh (lội qua lội lại) để khi ăn thì ăn được nhiều, khi thua thì thua ít; nghĩa đen (thực ra là nghĩa bóng - AC): bắt cá hai tay là làm chánh trị bắt bồ cả bên phe thuận cũng như phe nghịch: bắt cá hai tay, có ngày bị lộ" (Sđd, tr.62, mục bắt cá). Vậy nếu cần dịch câu bắt cá hai tay sang tiếng Pháp thì có thể dịch bằng thành ngữ miser sur les deux tableaux hoặc jouer sur les deux tableaux (miser = đặt bạc, đặt cuộc - tableau(x) = sòng bài, khay bạc). Vậy người Pháp cũng có lối nói na ná lối nói của người Việt Nam. Cứ theo lời của tác giả Vương Hồng sển, thì chuyện "bắt cá (đánh cuộc) hai tay" hiểu theo nghĩa đen, cũng lại là chuyện có thật. Đó là "bên nào cũng có đánh để khi ăn thì ăn được nhiều, khi thua thì thua ít". Sở dĩ ông, và cả chúng tôi nữa, chưa thấy ai "bắt cá (đánh cuộc) hai tay" chẳng qua vì chúng ta chỉ là những kẻ ngoại đạo về các ngón của "nghề" cá độ mà thôi.

173. (KTNN 146, 8-1994)

ĐỘC GIẢ: "Viên môn" là gì?

AN CHI: Nếu không bị ràng buộc vào mặt chữ - đương nhiên là chữ Hán - thì chúng tôi sẽ sẵn sàng trả lời rằng viên môn là cửa tròn vì viên là tròn còn môn là cửa. Nhưng chắc là bạn muốn hỏi về hai tiếng viên môn liên quan đến hai tiếng cửa viên thấy được ở các câu 2318, 2380 và 2512 trong Truyện Kiều.

Tất nhiên là ở đây thì viên ật. không có nghĩa là tròn. Từ này đã được Đào Duy Anh giảng là cái xe. Ông viết: "Cửa viên: Cửa dinh ông tướng. Ngày xưa chỗ dinh ông tướng thường dựng xe lên làm cửa (viên là xe), cho nên gọi là viên môn" (Từ điển Truyện Kiều, Hà nội, 1974, tr.70). Còn nhóm biên dịch quyển Đại cương lịch sử văn hóa Trung Quốc (Nxb Văn hóa - Thông tin, 1994) do Lương Duy Thứ chủ biên thì dịch viên là tay vịn. Các dịch giả đã viết: "Với tư cách là công cụ giao thông, xe và ngựa tách riêng ra, cùng sử dụng mà không cái nào bị hủy bỏ. Đời Hán loại xe ngựa một tay vịn ít dần đi, loại hai tay vịn (song viên xa) dần tăng lên nhiều" (Sđd, tr.137).

Cả hai cách dịch trên đây đều không chính xác vì viên không phải là xe, cũng chẳng phải tay vịn. Đó là cái bộ phận của xe mà trong Nam gọi là gọng còn ngoài

Bắc thì gọi là càng. Mathews' Chinese-English Dictionary dịch là "the shafts of a cart or carriage" còn Dictionnaire classique de la langue chinoise của F.s. Couvreur thì dịch là "timon, limons d'une voiture". Quyển từ điển này đã dịch viên môn là "porte qui conduisait à la tente ou à la résidence de l'empereur en voyage, et qui était marquée par deux voitures dont les timons étaient dressés en l'air". Nguyễn Thạch Giang đã giảng đúng theo nghĩa này như sau: "Cửa vièn, do chừ viên môn: cửa dựng bằng càng xe. Viên: càng xe. Thời xưa, vua đi tuần thú, săn bắn ở ngoài, dừng lại ở đâu, quây các cỗ xe làm dậu, dựng càng xe làm cửa ra vào gọi là viên môn" (Nguyễn Du, Truyện Kiều, Nguyễn Thạch Giang khảo đính và chú thích, Hà Nội, 1972, tr.458, C.2318).

Hai tiếng viên môn về sau được dùng theo nghĩa rộng để chỉ cả cửa quan, cửa dinh ông tướng (như Đào Duy Anh đã nói). Đây là cái nghĩa mà Mathews' Chinese-English Dictionary dịch là "the gates leading through the palisade before a yamen" còn Dictionnaire classique de la langue chinoise thì dịch là "porte de la résidence d'un officier supérieur ou d'un haut fonctionnaire". Nghĩa của hai tiếng cửa viên trong các câu 2318, 2380 và 2512 của Truyện Kiều chính là nghĩa này.

Vậy viên không có nghĩa là xe đã đành, mà cũng không có nghĩa là tay vịn. Viên là càng xe, gọng xe. Tiếng Hán có thành ngữ viên hạ câu, nghĩa là con ngựa non dưới gọng xe - hiểu là ở dưới ách - tức là bị kiềm chế, bị ràng buộc. Sách Ầu học có câu "Cục súc như viên hạ câu", nghĩa là gò bó, tù túng như con ngựa non ở dưới ách. Nếu viên là tay vịn thì thành ngữ viên hạ câu sẽ chẳng có nghĩa gì. Tiếng Hán lại còn có thành ngữ phan viễn ngọa triệt nghĩa là níu lấy gọng xe và nằm vảo lằn bánh xe (để tỏ lòng lưu luyến khi phải tiễn đưa người ra đi), ý nói mình thật lòng muốn cầm giữ khách. Do đó, câu đang xét trong Đại cương lịch sử văn hóa Trung Quốc phải được hiểu là "Đời Hán loại xe ngựa một gọng dần ít đi, loại hai gọng (song viên xa) dần tăng lên nhiều".

174. (KTNN 146, 8-1994)

ĐỘC GIẢ: Từ xưa "yên sĩ phi lý thuần" nghĩa là gì?

AN CHI: "Yên sĩ phi lý thuần" là âm Hán Việt của năm chữ Hán mà người Trung Hoa đã dùng để ghi hình thức phiên âm danh từ tiếng Anh inspiration, có nghĩa là cảm hứng (nghệ thuật). Đọc theo âm Bắc Kinh thì còn thấy na ná với âm gốc nhưng đọc theo âm Hán Việt thì khoảng cách sẽ trở nên quá xa. Chẳng hạn, khi nghe bốn tiếng Cách lâm uy trị chắc bạn cũng khó luận ra rằng đó là tên của một vùng ngoại ô thành phố Luân Đôn trên bờ sông Thames là Greenwich, nơi mà kinh tuyến chạy qua đã được lấy làm kinh tuyến gốc như ai nấy đều biết. Còn năm tiếng đức mô khắc lạp tây là âm Hán Việt của năm chữ mà người Trung Hoa dùng để ghi hình thức phiên âm danh từ tiếng Anh democracy, có nghĩa là dân chủ. Những thí dụ kiểu này thì nhiều, không thể kể ra cho hết được ở đây.

^ 175. (KTNN 146, 8-1994)

ĐỘC GIẢ: Vì đang học thêm tiếng Pháp nên lúc rảnh tôi thường tranh thủ lật từ điển ra đế học thêm một số từ. Thây Từ điển Pháp-Việt (Agence de Coopération Culturelle et Technique â'n hành, 1981) giảng fourmilion là "kiến sư tử" mà không biết đó là con gì. Xin nhờ tìm hiểu giùm.

AN CHI: Con vật hữu quan thì vẫn có ở Việt Nam nhưng ngữ danh từ "kiến sư tử" thì không hề tồn tại trong tiếng Việt. Ngữ danh từ lạ lẫm này là do Đào Duy Anh đặt ra để dịch fourmi-lion trong Pháp-Việt từ điển của ông. Đào Đăng Vỹ cũng dựa theo từ điển của Đào Duy Anh mà dịch y hệt như thế trong Pháp-Việt từ điển của mình. Bây giờ lại đến lượt Từ điển Pháp-Việt do ông Lê Khả Kế làm tổng biên tập cũng dịch y hệt như thê nhiừig có thêm "sâu bọ cánh gân" trong ngoặc đơn.

Dictionnaire général de la langue française của A.Hatzfeld và A.Darmesteter giảng fourmi-lion như sau: "Insecte analogue à la libellule, dont la larve se tient au fond d'un entonnoir qu'elle creuse dans la terre, et fait sa proie des fourmis ou autres insectes qui y tombent" nghĩa là "côn trùng tương tự con chuồn chuồn mà âu trùng rúc ở đáy một cái phễu do nó- đào trong đất, và (con ấu trùng này) bắt làm mồi ăn những con kiến hoặc sâu bọ khác rơi xuống đó". Con bọ đó là con chuồn chuồn kim (gọi theo phương ngữ Nam Bộ) còn con ấu trùng đó là con cúc, gọi theo ẩn dụ, vì nó cũng giống như một cái cúc áo hình nụ nhỏ bằng hạt đậu xanh. Đại Nam quấc ăm tự vị của Huình-Tịnh Paulus Của viết là cút và giảng như sau: "Loài trùng hay lủi dưới đất bủn, chỗ nó ở có cái lỗ sủng xuông". Con cúc thường làm hang hình phễu nơi đất cát. Ngày trước, trẻ con thường hay thổi lỗ cúc để bắt cúc làm một trò chơi.

176. (KTNN 147, 8-1994)

ĐỘC GIẢ: Trên báo Sài Gòn Giải Phóng ngày 15/3/1994, trong bài "Đào tạo học sinh giỏi - Con đường còn lắm gập ghềnh", tác giả Trúc Quân đã dẫn hai câu ca dao để dạy học trò "tôn sư trọng đạo":

Muốn sang thì bắc cầu kiều

Muốn con hay chữ phải yêu lấy thầy.

Tôi nhớ lúc còn học cours Supérieur, thầy tôi đã dạy:

Muốn sang thì bắc cầu kiều

Muốn cho hay chữ phải yêu mến thầy.

Hai cầu này khác nhau ở chữ "mến" và chữ "lấy". Trong Nam thường không dạy chữ lấy vì nó có nghĩa không mấy thanh. Tôi xin kể một "tự truyện" để minh họa cho việc trong Nam kỵ tiếng lây: Hồi 26 tuổi, tôi và hai bạn gái, cũng có chút nhan sắc, tới xin việc ở một công sở Tây, gặp ông trưởng phòng personnel (nhân sự) lại là người Bắc. Tôi được mời vô trước và được nhận. Hai cô bạn của tôi vào sau. Tôi hãy còn đứng đó. Ông trưởng phòng đế cho một câu để đời. Ông ta trỏ vào tôi và nói với hai cô kia: "Tôi đã lấy cô này rồi, tôi không thể lấy thêm hai cô được". Hai nàng kia phá lên cười còn tôi thì mặt đỏ cứ như dưa hấu chín. Ba đứa tôi chạy ù ra khỏi cổng, không dám nhìn lại bộ mặt ngơ ngác của ông ta. Bạn tôi nhạo tôi: "Bạn có lấy ông đó thì nhào vô. Cái ông ăn nói vô duyên chết mồ!".

Vậy giữa thầy tôi và ông Trúc Quân, ai là người đúng?

AN CHI: Cá nhân chúng tôi cũng là người Nam Bộ và nơi mục Chuyện Đông chuyện Tây chúng tôi vẫn thích dùng từ của phương ngữ Nam Bộ ở một sô" trường hợp mà người khác không dùng. Tuy nhiên, trong trường hợp này thì chúng tôi suy nghĩ hơi khác với bà. Việc kiêng kỵ động từ lấy không phải là đặc điểm riêng của người Nam Bộ vì chúng tôi thấy ở miền Bắc cũng có nhiều người kỵ nó khi đọc đến hai câu ca dao mà bà đã nêu (nên cũng thay nó bằng mến).

Theo chúng tôi, sự kiêng kỵ trong trường hợp này tuy có thể thông cảm được nhưng lại không có cơ sở hợp lý và xác đáng. Trong cấu trúc yêu lấy thầy, lấy là một động từ thuộc loại đặc biệt, làm phần phụ thêm nghĩa cho động từ đứng trước nó để diễn đạt một loại ý nghĩa ngữ pháp mà Từ điển tiếng Việt 1992 ghi là "biểu thị hướng của hành động nhằm mang lại kết quả cho chủ thể". Còn Nguyễn Kim Thản thì gọi lấy là phó động từ chỉ định hướng (X. Động từ trong tiếng Việt, Hà Nội, 1977, tr.247-49). Vậy nó không phải là một động từ có thể hành chức một cách độc lập về mặt cú pháp. Do đó, không thể tách nó và danh từ đứng sau nó ra khỏi cấu trúc yêu lấy thầy thành lấy thầy như có thể tách lấy vợ khỏi cấu trúc muốn lấy vợ, tách lấy vợ đẹp khỏi cấu trúc thích lấy vợ đẹp, tách lấy chồng khỏi cấu trúc không chịu lấy chồng, V.V.. Nói một cách khác, trong cấu trúc yêu lấy thầy thì danh từ thầy không phải là đôi tượng của động từ lấy - động từ này không thể có đôi tượng - mà là của động từ yêu. Do đó, về nguyên tắc, lấy ở đây không thể bị nhầm lẫn với động từ lấy trong lấy vợ, lấy chồng, v.v. được. Chỉ có ngoại động từ lấy mới có thể bị


"nhầm lẫn" như thế, chẳng hạn trong cái câu mà ông trưởng phòng nhân sự kia đã nói với hai người bạn gái của bà mấy chục năm về trước. Trong trường hợp này, chúng tôi sẵn sàng đứng về phía quý bà mà thừa nhận rằng cái ông ấy ăn nói thật là...

Tóm lại, theo chúng tôi, không có lý do ngữ học xác đáng nào để kiêng kỵ động từ lấy trong câu ca dao đang xét mặc dù có một số nhà sư phạm cũng đã làm như thế. Sự kiêng kỵ chỉ có ý nghĩa khi nó được thực hiện đúng lý và đúng chỗ.

177. (KTNN 147, 8-1994)

ĐỘC GIẢ: Xin cho biết tên (Hán Việt) của 18 cảnh đẹp ở Hà Tiên (Hà Tiên thập bát cảnh) do Mạc Thiên Tứ (?) đặt ra.

AN CHI: Theo chúng tôi biết thì ở Hà Tiên chỉ có mười cảnh dẹp (Hà Tiên thập cảnh). Đó là: 1. phá Hà Tiên, 2. biển Nam Phố, 3. rạch Giang Thành, 4. chùa Phù Dung, 5. rạch Vược, 6. mũi Nai, 7. núi Lăng, 8. Thạch dộng, 9. Tô Châu, 10. núi Đá dựng. Mạc Thiên Tứ, tức Mạc Thiên Tích, đã làm mười bài thơ vịnh mười cảnh đẹp đó gọi là Hà Tiên thập vịnh như sau (theo thứ tự các cảnh đã nêu): 1. Đông Hồ ấn nguyệt, 2. Nam Phố trừng ba, 3. Giang Thành dạ cổ, 4. Tiêu tự thần chung, 5. Lư khê ngư bạc, 6. Lộc trĩ thôn cư, 7. Bình sơn điệp túy, 8. Thạch dộng thôn vân, 9. Kim dự lan đào, 10. Châu nham lạc nhạn.

178. (KTNN 147, 8-1994)

ĐỘC GIẢ: Trên Kiến thức ngày nay số 141, ông có giải thích từ "mặc khải" là biểu lộ, bày tỏ. Tôi cảm thấy không ổn vì nếu giải nghĩa như vậy thì câu "Phật Thích Ca không nhận bât cứ sự mặc khải từ đâu đến" phải được hiểu như thế nào? Tôi hiểu "mặc khải" có nghĩa là sự ban phát, sự ban ơn. Xin ông cho ý kiến.

AN CHI: Trên Kiến thức ngày nay 141, Chuyện Đông chuyện Tây, tr.50, chúng tôi có viết: "Trong bài ông đã nêu, tác giả chỉ dùng từ mặc khải theo nghĩa thông thường là bộc lộ, biểu lộ, v.v... mà thôi". Ông ở đây là độc giả Trịnh Thế Tường ở 293 Lê Lợi, thị xã Sơn Tây. Còn bài mà ông Trịnh Thế Tường đã nêu là bài ở tr.47-51 trên Kiến thức ngày nay số 104. Chỉ đối với bài này, chúng tôi mới nói rằng tác giả đã dùng từ mặc khải theo nghĩa thông thường là bộc lộ, biểu lộ, v.v... Còn trong toàn bộ câu trả lời của mình, chúng tôi đã khẳng định và phân tích rằng mặc khải là một thuật ngữ tôn giáo tương ứng với tiếng Pháp révélation và tiếng Anh revelation. Thuật ngữ này có nghĩa là "sự dự báo hoặc sự hiển hiện của điều mầu nhiệm tạo ra bởi quyền năng của Đấng thiêng liêng", cũng tức là cái mà trong câu hỏi của mình, ông Trịnh Thế Tường đã gọi là "linh ứng". Đây cũng là nghĩa của từ mặc khải trong câu "Phật Thích Ca không nhận bất cứ sự mặc khải từ đâu đến" mà ông đã nêu. Mặc khải không phải là ban phát, ban ơn.

179. (KTNN 147, 8-1994)

ĐỘC GIẢ: Trong tên bằng tiếng Anh của quốc gia New Zealand thì new là mới, land là đất, xứ. Nhưng Zea là gì?

AN CHI: Trong tiếng Anh, New Zealand là hình thức vừa dịch nghĩa vừa phiên âm từ tiếng Hà Lan Nieuw Zeeland - mà người Pháp cũng vừa dịch vừa phiên thành Nouvelle Zélande. New là dịch nghĩa của Nieuw, có nghĩa là mới. Còn Zealand là vừa dịch vừa phiên từ Zeeland. Trong tiếng Hà Lan, Zeeland có nghĩa là vùng đất (ven) biển. Đây là tên của một tỉnh duyên hải của Hà Lan. Năm 1642, nhà hàng hải người Hà Lan là Abel Janszoon Tasman đã phát hiện ra vùng đất nay là New Zealand và đã đặt tên cho nó là Nieuw Zeeland để nhắc đến tên tỉnh Zeeland của Hà Lan. Thực ra người Anh vẫn có thể dịch Nieuw Zeeland thành New Sealand vì zee của tiếng Hà Lan cũng cùng gốc với tiếng Đức See và tiếng Anh sea, có nghĩa là biển còn land cũng là một từ cùng gốc của tiếng Hà Lan, tiếng Đức, tiếng Anh, và của cả tiếng Đan Mạch và tiếng Thụy Điển. Nhưng họ đã không làm như thế.

Nhân tiện, xin nói thêm rằng Tasmania, nay là một bang ở Đông Nam của nước Australia, là một hòn đảo mang tên của nhà hàng hải Tasman. Ông cũng đã phát hiện ra nó vào năm 1642.

180. (KTNN 147, 8-1994)

ĐỘC GIẢ: Theo như tục truyền thì chùa Linh Mụ ở Huế còn có tên khác là Thiêng Mụ. Tại sao người ta hay gọi là Thiên Mụ?

AN CHI: Tục vẫn truyền và sách vẫn ghi rằng đó là chùa Thiên Mụ. Từ điển di tích văn hóa Việt Nam của Viện nghiên cứu Hán Nôm do Ngô Đức Thọ chủ biên (Nxb Khoa học xã hội và Nxb Mũi Cà Mau, 1993) đã chép về chùa này như sau:

"Ở xã Hà Khê, huyện Kim Trà, sau đổi là huyện Hương Trà, nay thuộc thành phô Huế, tỉnh Thừa Thiên- Huế. Chùa do Đoan quốc công Nguyễn Hoàng cho xây dựng năm Tân Sửu niên hiệu Hoàng Định thứ 2 (1601). Bấy giờ, sau hơn 6 năm ở kinh đô Thăng Long giữ chức Thái bảo, Nguyễn Hoàng trở về Thuận Hóa xây dựng thê lực để biệt lập với họ Trịnh. Một hôm nhân khi rỗi việc, Nguyễn Hoàng đi thăm các nơi núi sông cảnh đẹp trong bản trấn. Khi đến xã Hà Khê, huyện Kim Trà, thấy giữa chốn đồng bằng đột khởi một đồi cao tựa đầu một con rồng đang nhìn về núi mẹ. Đoan quốc công thầm khen là nơi danh thắng, bèn trèo lên đồi cao ngắm khắp xung quanh. Chợt thấy một đoạn hào cắt ngang dưới chân núi, chưa rõ nguyên do ra sao. Nguyễn Hoàng sai hỏi người địa phương. Các bô lão nói: tương truyền núi này rất linh thiêng. Cao Biền (nhà Đường) sang làm An Nam đô hộ phủ từng đi khắp nơi ở nước ta xem nơi nào có vượng khí thì lập phép trấn yểm. Đêm hôm ấy Biền chiêm bao thấy một bà lão đầu tóc bạc phơ ngồi dưới chân núi này kêu gào than vãn, rồi cất tiếng nói to: "Đời sau nếu có bậc quốc chủ muốn bồi đắp mạch núi này để làm mạnh cho Nam triều thì nên lập chùa thờ Phật, cầu linh khí trở về để giúp nước yên dân, tất không có sự gì đáng phải lo ngại". Nói xong, bà lão biến mất. Dân địa phương từ đó đặt tên núi là Thiên Mụ (bà lão nhà Trời). Nguyễn Hoàng nghe nói cả mừng, bảo rằng: "Ây là bà lão nhà Trời bảo ta mở nền định đất, biến nhà thành nước để gây nghiệp lớn". Nói đoạn sai người cất dựng chùa Phật, tự tay viết biển đề tên chùa là "Thiên Mụ tự" (Sđd, tr.629-30).

Cứ theo sự tích như trên, thì đó phải là chùa Thiên Mụ chứ không phải là "Thiêng Mụ" vì rõ ràng thiên ở đây là trời.

•ử 181. (KTNN 147, 8-1994)

ĐỘC GIẢ: Nghe thấy những chuyện trái ngược, người ta thường hay gọi là mâu thuẫn. Xin cho biết xuất xứ của hai tiếng này.

AN CHI: Sách Hàn Phi tử có chép chuyện một người bán binh khí, vừa bán mâu lại vừa bán thuẫn (mâu dùng để đâm, còn thuẫn dùng để che chắn). Quảng cáo cho loại mâu của mình, anh ta nói: "Mâu này rất sắc nhọn, đâm cái gì cũng thủng". Quảng cáo cho loại thuẫn của mình, anh ta nói: "Thuẫn này rất chắc chắn, không gì đâm thủng nổi". Có người cắc cớ hỏi anh ta: "Vậy nếu lấy mâu của anh đâm vào thuẫn của anh thì sẽ ra sao?". Anh ta đành cứng họng. Từ mâu thuẫn bắt nguồn từ câu chuyện này.

■ử 182. (KTNN 148, 9-1994)

ĐỘC GIẢ: Trên Kiến thức ngày nay số 143, Chuyện Đông chuyện Tây, trang 70, An Chi đã nêu một "dẫn chứng nóng hổi" (ở đây là danh từ canary) để phê bình quyển Từ điển Anh-Việt của Viện ngôn ngữ học thuộc Trung tâm khoa học xã hội và nhân văn quốc gia do Nhà xuất bản Thành phố Hồ Chí Minh mới phát hành. Ông đã khẳng định: "Chẳng có ai dám quả quyết rằng đã là từ điển thì không bao giờ sai". Vậy quyển từ điển trên đây còn có những định nghĩa nào là không chính xác nữa hay không? Hay canary chỉ là một trường hợp mà ông An Chi may mắn nhặt ra được để minh họa cho lời khẳng định trên đây của mình? Mong ông sẵn sàng trả lời một cách "nóng hổi" cho câu hỏi trên đây.

AN CHI: Muốn phê bình một quyển từ điển thì phải có kiến thức sâu rộng về nhiều lĩnh vực. Nhưng điều kiện tiên quyết là phải đọc kỹ nó từ đầu đến cuối. Chúng tôi chưa có đủ thì giờ để làm công việc này đôi với Từ điển Anh-Việt của Viện ngôn ngữ học thuộc Trung tâm khoa học xã hội và nhân văn quốc gia. Và cũng chẳng có ý định phê bình nó.

Nhưng nếu ông cần biết thêm những định nghĩa không chính xác khác trong quyển từ điển đó thì chúng tôi xin tạm nhặt ra hầu ông một số trường hợp nữa như sau:

- "Avocado (...) trái cây nhiệt đới hình quả lê". Cứ theo định nghĩa này thì giống ổi mà người Sài Gòn gọi là ổi xá lị còn giống quả lê hơn nhiều. Nhưng tất nhiên trái ổi xá lị không phải là trái avocado (trái bơ).

- "Bear (...) 1. loại thú to nặng có lông dày". Con ma-mút (mammoth) còn to hơn, nặng hơn và cũng có bộ lông không mỏng. Nhưng tất nhiên con ma-mút không phải là con bear (con gấu).

"Bidet (...) chậu thấp dùng để rửa bộ phận sinh dục và hậu môn". Cứ theo định nghĩa này thì chẳng làm sao

CÓ thể lần ra rằng đó là cái bồn dùng để làm vệ sinh có hình dáng na ná cái bàn ngồi kiểu "xí bệt" (siège à 1'anglaise) trong toa-lét thời hiện đại. Và tuy có thấp nhưng nó cũng phải cao ít nhất là 40cm. Thấp quá thì e rằng nó sẽ thành ra cái chậu... thau. Xin nói thêm rằng "chậu thấp" là cách diễn đạt để phân biệt với "chậu cao" là cái lavabo dùng để rửa... mặt hoặc rửa tay.

"Breadth (...) khoảng cách đo từ mép này đến mép kia; bề rộng". Vậy chẳng có lẽ bề dài (length) lại không là "khoảng cách đo từ mép này đến mép kia"? Còn length thì được giảng là "kích thước hoặc phạm vi từ đầu này đến đầu kia". Vậy chẳng có lẽ breadth (bề rộng) lại không phải là một "kích thước hoặc phạm vi" như thế?

"Cauldron (...) cái bình lớn sâu lòng dùng để đun nấu; cái vạc". Đối với người Việt Nam thì những dụng cụ nấu nướng thuộc loại vạc, chảo, quánh, xanh, v.v..., không bao giờ được xem là có hình dạng của những cái bình.

"Chrysanthemum (...) cây trồng trong vườn có hoa màu sắc rực rỡ". Cây trồng trong vườn có hoa màu sắc rực rỡ thì có biết bao nhiêu thứ, cứ gì chrysanthemum!

Trở lên là năm bảy thí dụ mà chúng tôi đã nhặt thêm từ Từ điển Anh-Việt, "phản ánh một cách trung thành những gì đã có trong cuốn Oxford Advanced Learner's Dictionary, 1992" theo đề nghị của ông. Chúng tôi chưa có thì giờ đọc kỹ quyển từ điển đó từ đầu đến cuô'i nhưng tin rằng còn có thể nhặt ra thêm nhiều định nghĩa không chính xác theo kiểu đó. Chúng tôi có cảm giác rằng hình như đó là những định nghĩa theo xu hướng mà chúng' tôi tạm gọi là... xu hướng Oxford.

(KTNN 148, 9-1994)

ĐỘC GIẢ: Gần đây trên các phương tiện thông tin đại chúng thường thấy xuất hiện các cách gọi Hàn Quốc hoặc Đại Hàn Dân Quốc để chỉ Cộng hòa Triều Tiên (Nam Triều Tiên). Phải chăng quá trình bầu cử tổng thông dân sự ở nước này được đánh dấu bằng việc thay đổi quốc hiệu vì tên cũ không còn phù hợp? Nhưng tại sao tiếng Anh vẫn dùng một từ như cũ là KOREA ? Và Republic of Korea lẽ ra phải được dịch là Cộng hòa Cao Ly. Xin nhờ giải đáp giúp và nhân tiện cũng xin giải thích tên gọi nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Triều Tiên (Bắc Triều Tiên).

AN CHI: Về việc sửa cách gọi tên nước Cộng hòa Triều Tiên (Nam Triều Tiên), công văn số 733/ĐBA-NG ngày 21 tháng 4 năm 1994 của Bộ ngoại giao, do Thứ trưởng Vũ Khoan ký, đã giải thích như sau:

"Đại sứ quán Cộng hòa Triều Tiên, trong công hàm gửi Bộ Ngoại giao số KEV-398 ngày 23/3/1994, đề nghị ta gọi Quốc hiệu của họ là "Đại Hàn Dân Quốc" hoặc gọi tắt là "Hàn Quốc", không gọi là "Cộng hòa Triều Tiên" hoặc "Nam Triều Tiên" vì tên gọi "Triều Tiên" chỉ để dùng cho miền Bắc (CHDCND Triều Tiên).

Năm 1948, ở hai miền Bắc và Nam Triều Tiên thành lập 2 nhà nước với quốc hiệu riêng: Miền Bắc gọi là "Triều Tiên", tên một vương triều thời kỳ 1392-1910. Miền Nam gọi là "Đại Hàn Dân Quốc" gọi tắt là "Hàn Quốc", tên một triều đại cuối thế kỷ 19.

Các nước Trung Quốc, Nhật Bản và cả hai miền Bắc-Nam Triều Tiên trong giao dịch chính thức đều sử dụng các quốc hiệu trên. Ngôn ngữ phương Tây gọi chung hai miền là KOREA, tên của triều đại KORYO (918-1392), ta gọi theo âm Hán Việt là Cao Ly.

Theo đề nghị của phía Cộng hòa Triều Tiên và từ thực tế trên, từ nay ta nên gọi quốc hiệu của Nam Triều Tiên trong giao dịch chính thức với tên đầy đủ là "Đại Hàn Dân Quốc" hoặc gọi tắt là "Hàn Quốc", không gọi là "Cộng hòa Triều Tiên" hoặc "Nam Triều Tiên" nữa".

Trên đây là nội dung công văn của Bộ ngoại giao gởi các cơ quan Bộ, Tổng cục, các cơ quan thông tin, tuyên truyền và Úy ban nhân dân các tỉnh, thành trong cả nước. Công văn đó đã giải đáp đầy đủ và rõ ràng các khía cạnh của câu hỏi đã nêu. Dưới đây chúng tôi chỉ xin nói thêm mấy điểm về từ ngữ.

Đại Hàn Dân Quốc, tiếng Triều Tiên là Tãyhan minkwuk (Chúng tôi ghi theo New Korean-English Dictionary của Samuel E. Martin, Yang Ha Lee và Sung- Un Chang). Đây là một cụm từ Triều Tiên gốc Hán trong đó hai tiếng Tãyhan (Đại Hàn) là địa danh còn hai tiếng minkivuk là một ngữ danh từ chỉ chính thể của nhà nước, mượn từ tiếng Hán dân quốc HỊ, âm Bắc Kinh là mínguó, có nghĩa là nước cộng hòa. Trung Hoa Dân Quốc thành lập năm 1912 sau Cách mạng Tân Hợi (1911), chẳng phải gì khác hơn là nước Cộng hòa Trung Hoa. Trung Hoa Dân Quốc thường nói tắt thành Trung Quốc (X. Từ hải). Cũng thế, Đại Hàn Dân Quốc nói tắt thành Hàn Quốc.

Tuy dân quốc đồng nghĩa với cộng hòa nhưng hai tiếng sau cùng này lại là do người Nhật Bản đặt ra bằng hai hình vị tiếng Nhật gốc Hán, đọc theo âm Hán Hòa là kyõwa. Vậy trong tiếng Việt, tuy dân quốc và cộng hòa đều là những từ Hán Việt nhưng từ trước là do chính người Trung Hoa đặt ra để dịch từ tiếng Anh republic (hoặc tiếng Pháp république) còn từ sau thì lại là sản phẩm của Nhật Bản, cũng đặt ra để dịch tiếng Anh (hoặc tiếng Pháp) nói trên. Các từ điển của Trung Hoa như Từ nguyên, Từ hải đều khẳng định rằng danh từ cộng hòa là "Nhật Bản dịch ngữ".

Vì nghĩa của minkwuk là như thế nên Tãyhan minkwuk mới được dịch sang tiếng Anh thành Republic of Korea. Korea, tiếng Triều Tiên là Kolye (phiên âm theo sách đã dẫn), tiếng Nhật là Koryo, âm Hán Việt là Cao Ly. Tiếng Anh đã gọi chung hai miền và hai nhà nước Nam và Bắc Triều Tiên bằng danh xưng Korea - còn tiếng Pháp là Corée và tiếng Nga là Koreia, v.v. - vì đó là cách gọi truyền thông trước khi Triều Tiên bị chia cắt thành hai miền với hai nhà nước riêng. Trước kia người Việt Nam cũng đã gọi Triều Tiên là Cao ly.

Vậy không biết chính phủ Đại Hàn Dân Quốc có gởi công hàm cho các nước Anh, Pháp, Nga, v.v. , để đề nghị cái việc mà họ đã đề nghị với ta hay không.

(KTNN 149, 9-1994)

ĐỘC GIẢ: Gần đây, một tờ báo có giới thiệu Chùa Vàng của Myanmar và nói rằng chùa xây dựng cách nay đã 2800 năm. Tôi nghĩ Đức Thích Ca thành Phật năm 543 trước Công nguyên thì làm sao ngôi chùa lại được xây dựng sớm thế? Nhân tiện xin cho biết về lịch sử và kiến trúc của ngôi chùa.

AN CHI: Con sô" 2800 thì hơi quá nhưng cứ theo truyền thuyết dân gian Myanmar thì Chùa Vàng, tiếng Myanmar là Suê Đa-gôn, đã được xây dựng cách đây 2500 năm. Sau đây là những điều mà tác giả Ngô Văn Doanh đã viết để giới thiệu về ngôi chùa này:

"Có một truyền thuyết nói về nguyên nhân khiến Suê Đa-gôn được dựng lên cách đây 2500 năm. Chỉ những kết quả nghiên cứu thật cụ thể và chi tiết về khảo cổ học mới cho ta câu trả lời chính xác về niên đại thực của Suê Đa-gôn. Những cứ liệu có thể tin cậy được nói về Suê Đa-gôn chỉ có niên đại thế kỷ XIV. Theo sử liệu Miến Điện (nay gọi là Myanmar - AC), vào năm 1372 nhà vua Pê-gu là Bi-nia u dựng tháp Suê Đa-gôn gần làng chài Đa-gôn (từ đó mới có tên là "Hoàng Kim Đa-gôn" hay "Đa-gôn tuyệt mỹ" - trong tiếng Miến, "Suê" vừa có nghĩa là "vàng", vừa có nghĩa là "tuyệt đẹp"). Ngôi tháp mà sử liệu nói tới cũng cao 20 mét. Từ thời điểm đó trở đi, tài liệu về Suê Đa-gôn cứ nhiều dần. Các sử liệu nói nhiều tới những lần tu sửa Suê Đa-gôn. Chiều cao hiện giờ của tháp là chiều cao được dựng vào thời Kôn-ba-un. Năm 1774, vua A-va đã nâng ngôi tháp lên cao 99 mét so với mặt nền. Không chỉ có tháp chính, nền của cả khu chùa cũng được nâng cao. Nhìn chung, bố cục của Suê Đa-gôn đã ổn định vào cuối thê kỷ XVI, nhưng từng chi tiết vẫn luôn luôn được thay đổi và bổ sung cho đến ngày nay.

Quanh nền tháp chính của Suê Đa-gôn được bao bọc bởi một vòng đai 72 điện thờ nhỏ chứa các hình Phật. Trên bôn điểm trụ, ở ngay chân nền tháp là bốn te-da-un (nhà thờ tự) nhiều lớp mái nhấp nhô uyển chuyển. Tầng nền thứ nhất của tháp cũng được bao quanh bằng 64 ngôi tháp nhỏ cao chừng 3 đến 4 mét. Cũng ở bốn điểm trụ trên tầng nền này, người ta dựng bốn ngôi tháp to hơn so với 64 tháp nhỏ đứng hai bên. Đỉnh của những kiến trúc phụ lô nhô, lấp lánh quanh những tháp khổng lồ ở giữa. Tất cả vừa tạo cho kiến trúc một dáng uy nghi đường bệ, vừa tạo nên cảm giác "hướng về", "quy về" cái hào quang rực rỡ của đức Phật.

Nói đến Suê Đa-gôn, không thể không nói tới đỉnh (hti) của cây tháp chính. Cả bộ phận này được làm theo mô hình cũ vào năm 1871. Hiện giờ đỉnh của Suê Đa- gôn cao 10 mét, gồm 7 vòng đai bằng vàng. Có thể nói, trên thế giới, không có một công trình kiến trúc nào lại sử dụng lượng vàng và đá quý nhiều như Suê Đa-gôn. Ngoài phần thân được phủ ken bằng 9.300 lá vàng (mỗi lá có kích thước 30 X 30cm) với trọng lượng 500 kilôgam, phần trụ của Suê Đa-gôn cũng có trị giá không kém. Cái trụ bằng bạc. Đỉnh chóp là quả cầu vàng (đường kính 25cm). Cái cờ gió cũng bằng vàng. Ba phần này được khảm 5.448 viên kim cương to nhỏ khác nhau và gồm 1.065 chuông vàng, 421 chuông bạc.

Suê Đa-gôn, hay Chùa Vàng, xứng đáng là biểu tượng của đất nước Miến Điện giàu đẹp".

(Nhiều tác giả, Ở xứ Chùa Vàng, Hà Nội, 1988, tr.119-20).

185. (KTNN 149, 9-1994)

ĐỘC GIẢ: Hai câu đối sau đây:

Vũ vô kiềm tỏa năng lưu khách sẩc bất ba đào dị nịch nhân là của một người làm hay của một người ra và một người đối lại? Người (hoặc những người) đó là ai?

AN CHI: Hai câu đôì trên đã được Hoàng Ngọc Phách và Kiều Thu Hoạch ghi lại trong giai thoại sau đây:

"Nguyễn Giản Thanh, người làng Ông-mặc (làng Me) huyện Đông-ngàn (nay là Từ-sơn) Bắc-ninh. Sông vào khoảng đầu thế kỷ XVI, sinh năm 1482, mất năm nào không rõ. Ông lúc nhỏ, học rất thông minh, mới mười sáu tuổi đã thông hiểu rất nhiều sách vỏ, sau đỗ trạng nguyên nên tục gọi là Trạng Me.

Một hôm đang học ở trường, thầy học là thượng thư Đàm Thận Huy vừa giảng bài xong thì trời sập mưa, học trò đều phải ngồi lại. Ông Huy nhân thấy vậy, bèn ra một câu đôi để học trò cùng đốì cho vui:

Vũ vô kiềm tỏa năng lưu khách nghĩa là: Mưa không có then khóa mà giữ được khách.

Nguyễn Giản Thanh đôi ngay rằng:

Sắc bất ba đào dị nịch nhân nghĩa là: Sắc đẹp chẳng phải sóng gió mà làm đắm đuối người ta.

Ông Huy xem xong khen rằng: "Câu này đốỉ hay lắm, giọng văn này có thể đỗ trạng được, nhưng sau tất mê đắm vào vòng sắc dục làm hại lây đến sự nghiệp!".

Tiếp đó, một người học trò tên là Nguyễn Chiểu Huấn lại đối:

Nguyệt hữu loan cung bất xạ nhân

nghĩa là: Mặt trăng giông cái cung mà chẳng bắn ai.

Ông Huy phê: "Câu này kém sắc sảo, không hay bằng câu kia, nhưng tỏ ra khí chất hiền hòa, sau này sẽ làm nên, cuộc sông sẽ chu toàn".

Sau đó, lại có một người học trò khác đôi rằng: Phẩn bất uy quyền dị sử nhân nghĩa là: Phân cứt chẳng uy quyền gì mà dễ sai khiến người.

Ông Huy phê: "Sau này sang nhưng là hạng bỉ

lậu!"

Quả nhiên, mấy năm sau, Nguyễn Giản Thanh đỗ thủ khoa, rồi đỗ trạng nguyên đời vua Lê Uy Mục (1508), làm Lễ bộ thượng thư, nhưng vì say đắm một cô gái đẹp ở Kinh mà đến ô danh bại giá. Còn Chiểu Huấn chỉ đỗ bảng nhãn nhưng làm quan và sông yên ổn không xảy ra chuyện gì cả. Riêng người học trò kia sau cũng vào bậc hào phú trong vùng, nhưng ai cũng chê là hạng thô lỗ, bỉ ổi".

(Giai thoại văn học Việt Nam, Hà Nội, 1988, trang 56-58)

Nhưng Việt-nam tự-điển của Lê Văn Đức và Lê Ngọc Trụ, q.hạ, phần II, tr.301, thì lại chép như sau:

"Thuở nhỏ, Nguyễn Trãi đi học tại nhà một ông đồ. Một bữa tan học mà trời mưa dai, tất cả học trò đều không về được. Thấy thế, thầy bèn ra câu đối để các trò có việc làm mà đợi mưa tạnh:

Vũ vô thiết-tỏa năng lưu khách

Trong tất cả các câu đối lại của học trò, chỉ có câu của Nguyễn Trãi hay nhất:

Sắc bất ba đào dị nịch nhân nên được thầy khen nhưng bảo sau này Nguyễn Trãi sẽ bị hại vì nhan sắc đàn bà".

iĩ 186. (KTNN 149, 9-1994)

ĐỘC GIẢ: Việt Nam hiện nay có bao nhiêu dân tộc?

AN CHI: Ngày 2 tháng 3 năm 1979, Tổng cục trưởng Tổng cục thống kê Hoàng Trình đã ký quyết định ban hành "Danh mục các thành phần dân tộc Việt Nam", nội dung như sau:

"Các dân tộc trong danh mục này là những cộng đồng được xác định dựa trên ba tiêu chuẩn cơ bản: đặc điểm ngôn ngữ, đặc điểm sinh hoạt - văn hóa và ý thức tự giác dân tộc. Tính đến 31/12/1978, số lượng dân tộc trong toàn quốc là 54, sắp xếp theo thứ tự số lượng dân số như sau:

01. Kinh (Việt), -02. Tày, -03. Thái, -04. Hoa (Hán), -05. Khơme, -06. Mường, -07. Nùng, -08.

Hmông (Mèo), -09. Dao, -10. Gia-rai, -11. Ngái, - 12. Ê-đê, -13. Ba-na, -14. Xơ-đăng, -15. Sán Chay (Cao Lan - Sán Chỉ), -16. Cơ-ho, -17. Chãm (Chàm), -18. Sán Dìu, -19. Hrê, -20. Mnông, -21. Ra-glai, -22. Xtiêng, -23. Bru-Vân Kiều, -24. Thổ, -25. Giáy, -26. Cơtu, -27. Gié-Triêng, -28. Mạ, -29. Khơ-mú, -30. Co, - 31. Ta-ôi, -32. Chơ-ro, -33. Kháng, -34. Xinh-mun, -35. Hà Nhì, -36. Chu-ru, -37. Lào, -38. La Chí, -39. La Ha, -40. Phù Lá, -41. La Hủ, -42. Lự, -43. Lô Lô, -44. Chứt, -45. Mảng, -46. Pà Thẻn, -47. Cơ Lao, -48. Cống, -49. Bố Y, -50. Si La, -51. Pu Péo, -52. Brâu, -53. ơ- đu, -54. Rơ-măm".

187. (KTNN 149, 9-1994)

ĐỘC GIẢ: Tôi vẫn nghĩ rằng thông, tùng, liễu, bách là những từ Hán nhưng các chữ tùng liễu $p, bách ịổ thì ai cũng biết mà chữ thông thì không tìm ra. Xin nhờ An Chi tìm giúp.

AN CHI: Đó là chữ nhưng âm Hán-Việt chính thống hiện đại của nó lại là thung vì thiết âm của nó là "thất cung thiết". Trong Quảng vận, thượng bình thanh, quyển đệ nhất, thì nó được xếp vào vận bộ thứ ba tức vận chung (chức dung thiết). Một số chữ thuộc vận này cũng có biến thể ngữ âm là chữ thuộc vận -ông, chẳng hạn: xung trong xung phá cũng đọc thành xông trong xông pha, -lung trong lao lung chính là lồng trong lồng chim, -nùng (hậu) chính là nồng (hậu). Cũng vậy, thung ở đây chính là thông. Chữ đã được Dictionnaire classique de la langue chinoise dịch là "mélèze" còn

Quảng vận thì giảng là "tên cây, lá giông lá tùng, thân như thân bách" (mộc danh tùng diệp, bách thân).

188. (KTNN 150, 9-1994)

ĐỘC GIẢ: Xin giải thích giúp thành ngữ "già kén kẹn hom". "Kẹn hom" đúng hay là "ken hon" mới đúng?

AN CHI: Hình thức đúng là già kén kẹn hom. Câu này vốn là một lối nói bắt nguồn từ nghề nuôi tằm.

Đời sông con tằm đã được Nguyễn Huy Hồng tóm tắt như sau: "Mới nở đến ba ngày là rụng lông, con tằm từ màu đen chuyển dần sang màu trắng, rồi nằm một ngày một đêm không ăn uống gì, lột xác đổi lốt lớn lên gọi là dậy vào ăn mốt, ba ngày lại nằm một ngày dậy vào ăn hai, ba ngày lại nằm một ngày dậy vào ăn ba, ba ngày lại nằm một ngày dậy vào ăn dôi (Từ điển tiếng Việt 1992 cũng như nhiều người thường viết ăn rỗi - AC), bốn ngày thì chín" (...) Tằm chín (là con) tằm đã to lớn hết cỡ (thường bằng ngón tay út), thân mình từ trắng bên ngoài, đen trong ruột chuyển sang toàn thân vàng óng, trông trong trong (vì dâu đã tiêu hết thành chất tơ trong bụng tằm)".

("Bước đầu tìm hiểu nghề hàng ngài ở Hà Sơn Bình xưa", Dán tộc học, số 3, 1979, tr.52).

Tằm chín là những con tằm đã phát triển đến giai đoạn mà người nuôi tằm phải thả chúng trên những cái né để cho chúng kéo kén. "Né là một tấm phên mắt cáo bằng nan tre nan nứa có nẹp buộc chắc chắn, có hai thanh tre cứng buộc chéo ra bốn góc làm chân (cao cách mặt đất khoảng 0,20m), khi dựng dứng có que chắc chống dỡ phía sau, rộng khoảng lm, cao khoảng l,50m. Trên mặt né có dắt các búi rơm sóng hoặc dây củ từ dể cho tằm làm tổ" (Nguyễn Huy Hồng, bđd, tr.52, chth.l). Còn hom thì chính là những cái nan tre, nan nứa dùng dể dan né (Việt Nam tự-điển của Lê Văn Đức và Lê Ngọc Trụ dã ghi nhận và giảng như sau: "Hom: Nan tre dê dan").

Thế là con tằm kéo kén trên cái né dan bằng những cái hom. Nếu người nuôi tằm gỡ kén đúng lúc thì đương nhiên là dễ dàng. Còn nếu để cho kén già, nghĩa là quá hạn, thì kén sẽ khó róc do dính quá chặt vào hom, nghĩa là kén sẽ bị kẹn (Cũng Việt Nam tự-điển của Lê Văn Đức và Lê Ngọc Trụ giảng: "Kẹn: sát quá, không róc"). Vì thế mà những nhà nuôi tằm mới đúc kết thành kinh nghiệm: già kén kẹn hom.

Khi lốì nói trên đây của các nhà nuôi tằm đi vào ngôn ngữ chung của toàn xã hội thì nó dần dần bị người sử dụng ngôn ngữ hiểu sai lệch đi - có phải ai cũng thạo nghề nuôi tằm dâu! - theo kiểu từ nguyên dân gian (cũng gọi là từ nguyên thông tục) mà cho rằng kén là một dộng từ có nghĩa là chọn lựa tỉ mỉ theo tiêu chuẩn hoặc theo sở thích riêng. Và già kén được hiểu là đã chọn lựa tỉ mỉ như thế mà lại còn chọn lựa kéo dài trong một thời gian quá lâu. Vì đã hiểu vế đầu như thế cho nên trong tiếng Việt hiện nay người ta mới hiểu cả câu già kén kẹn hom là "kén chọn kỹ qpá dể đến nỗi tình duyên lỡ làng, cuối cùng có thể gặp cảnh không như ý" (Từ điển tiếng Việt 1992). Người ta đã mặc nhiên cùng nhau hiểu như thê mà không cần biết kẹn hom vốn có nghĩa là gì nữa.

Những lối nói riêng của các nghề khi đi vào vốn ngôn ngữ chung vẫn thường có thể bị hiểu sai lệch đi như thế, chẳng hạn câu Mũi vạy lái phải chịu đòn vốn là một lốì nói của nghề ghe thuyền đã bị hiểu sai thành Mủi dại lái phải chịu đòn (Về câu này, xin xem Kiến thức ngày nay 98, Chuyện Đông chuyện Tây, tr.24-25).

189. (KTNN 150, 9-1994)

ĐỘC GIẢ: Hai tiếng "câu đương" có nghĩa là gì? Có phải đó là một chức sắc hay không?

AN CHI: Nhà dân tộc học Trần Từ đã viết về hai tiếng câu dương như sau:

"Câu dương: Riêng từ này hoàn toàn tối nghĩa, nếu chỉ quy về tiếng Việt hiện đại. Phải chăng đây là một từ cổ (gốc Nam Á hay Nam Đảo?) chỉ còn đọng lại trong trường hợp đang bàn, và một trường hợp khác tương tự trong hội đồng hương chức của làng Việt ở Nam bộ trước năm 1904 (tức trước năm người Pháp tiến hành cuộc "cải lương hương chính" đầu tiên trong miền này), chức câu đương giữ nhiệm vụ giải quyết các trường hợp kiện cáo lặt vặt giữa dân làng với nhau.

"Giáo sư Trần Quốc Vượng còn nhắc chúng tôi rằng, nếu căn cứ vào Đại Việt sử ký toàn thư, bộ sử ra đời hồi thế kỷ XV, dưới triều Lê, thì chức câu dương vẫn còn có mặt trong bộ máy chính quyền ở cơ sở ít nhất cũng cho đến thế kỷ XIII, dưới triều Trần: bấy giờ, thái sư Trần Thủ Độ có lần đi kinh lý các xã đã kiểm tra sổ sách, kiểm tra xong thì cho cử "câu đương", vẫn theo anh Vượng, văn cảnh của đoạn sử ấy không cho phép người đọc ngày nay định rõ chức năng cụ thể đương thời mà chức viên đó đảm nhiệm."

(Cơ cấu tổ chức của làng Việt cổ truyền ở Bắc Bộ, Hà Nội, 1984, tr.142, chth.28).

Có đúng câu đương là một từ cổ có gốc "Nam Á" hoặc "Nam Đảo" như Trần Từ đã giả định hay không? Hoàn toàn không vì đó là một từ Việt gốc Hán mà chữ viết là ể] 'ÿ, đã được Hán-Việt tự điển của Thiều Chửu giảng như sau: "(...) người phải liệu biện một công việc gọi là cấu đương. Ta quen gọi là câu đương". Việt Hán thông-tlioại tự-vị của Đỗ Văn Đáp phiên là câu đương và giảng là "cáng đáng công việc". Hán-Việt tân từ-điển của Nguyễn Quốc Hùng cũng phiên là câu đương và giảng là "sắp xếp giải quyết công việc". Tuy âm chính thức của chữ ể] trong trường hợp này phải là cấu vì thiết âm của nó là "cá hậu thiết" (X. Từ nguyên, Từ hải) nhưng Từ nguyền còn chú rõ là có thể đọc thành câu ("dịch đọc bình thanh"). Vậy cấu đương cũng đọc là câu đương. Từ này có nghĩa là liệu biện, xử lý công việc. Nhưng ngoài nghĩa trên, Từ hải có cho biết thêm rằng câu đương còn là một chức danh đặt ra từ đời Tống nữa. Khi Tống Cao Tông lên ngôi (1127) thì vì kỵ húy của ông vua này (húy của Tông Cao Tông là ịjặ, chữ viết tuy khác nhưng cũng đọc là cấu) nên mới đổi mà gọi cấu (câu) đương thành cán biện (Đây là trường hợp thay thế từ bị kiêng kỵ bằng một từ đồng nghĩa với nó).

Xét về cấu tạo thì câu dương và cán biện đều vổn là những ngữ động từ đẳng lập (gồm hai dộng từ dồng nghĩa hoặc gần nghĩa với nhau) được chuyển loại thành danh từ để chỉ một chức danh. Danh từ này dã dược người Việt Nam mượn dể chỉ một chức dịch ở làng. Chức dịch này đương nhiên có thể không giông với chức viên câu đương của Trung Hoa (Nhiều từ Việt gốc Hán khi đi vào tiếng Việt thì lại có thêm nghĩa khác mà chúng dã không hề có trong tiếng Hán).

Trần Từ đã không đúng khi ông khẳng định rằng cáu dương là một từ "hoàn toàn tối nghĩa nếu chỉ quy về tiếng Việt hiện đại". Thực ra ta không nên vì chính mình không biết được nghĩa của một từ mà bảo rằng nó tối nghĩa hoặc không có nghĩa. (Tiếc rằng hiện tượng này đang là thời thượng trong giới Việt ngữ học). Chỉ có thể nói rằng mình không tìm được hoặc chưa tìm dược nghĩa của nó mà thôi. Vả lại chỉ có cách diễn đạt tối nghĩa, câu văn tối nghĩa chứ không có từ tôi nghĩa. Từ mà tôi nghĩa thì sự giao tiếp sẽ trở nên hỗn loạn.

Tóm lại, cứ theo Trần Quốc Vượng thì câu đương là một chức dịch ở cấp xã còn tồn tại đến thế kỷ XIII, thời nhà Trần. Cứ theo chính Trần Từ thì đó là một chức dịch "giữ nhiệm vụ giải quyết các trường hợp kiện cáo giữa dân làng với nhau" trong hội đồng hương chức ở nông thôn Nam Bộ trước năm 1904. Còn cứ theo Đại- Nam quấc âm tự vị của Huình-Tịnh Paulus Của thì dó là "chức việc làng coi sóc các việc trong làng" (X. chữ câu), là "chức làm lớn trong làng coi lãnh các việc" (X. chữ đương). Cuối cùng, cứ theo Từ điển Việt-Bồ-La của A. de

Rhodes thì câu đang (chữ il" cũng đọc là đang) là "người quản lý công việc" (X. chữ câu), là "người quản lý được trao phó công việc" (X. chữ đang). ít nhất người ta cũng có thể biết được như trên về từ câu đương, xưa còn đọc là câu đang, chứ đây không phải là "một từ gốc Nam Á hay Nam Đảo", càng không phải là một "từ tốì nghĩa".

190. (KTNN 150, 9-1994)

ĐỘC GIẢ: Xin cho biết nguồn gốc và ý nghĩa của từ "đăng

cai".

AN CHI: Đăng cai là một biến thể ngữ âm của đang cai, cũng đọc thành đương cai. Đây là một từ Việt gốc Hán, chữ viết là (chữ có thể đọc là đương

hoặc đang) mà Việt-Hdn thông thoại tự-uị của Đỗ Văn Đáp phiên là đương cai. Việt-Nam tự-điển của Lê Văn Đức và Lê Ngọc Trụ cũng như Tự-điển Việt Nam phổ thông của Đào Văn Tập chỉ ghi nhận có đương cai (mà không có đang cai và đăng cai) còn Từ điển tiếng Việt do Văn Tân chủ biên thì chỉ ghi nhận có đương cai và đăng cai. Riêng Từ điển tiếng Việt 1992 thì ghi nhận đăng cai và đương cai và ghi chú rằng đương cai là từ cũ, ít dùng.

Việt Hán thông-thoại tự vị của Đỗ Văn Đáp giảng đương cai là "người vừa khi chủ biên việc tế tự". Từ điển tiếng Việt 1992 giảng đương cai là "đăng cai" và giảng đăng cai như sau: "1. Chịu trách nhiệm, theo sự phân công lần lượt, tổ chức vật chất một đám hội trong làng xóm ngày trước: Đăng cai việc làng. 2. Đứng ra tổ chức một cuộc gì đó có nhiều người hoặc nhiều tổ chức tham gia: Đăng cai đêm liên hoan văn nghệ. Nước đăng cai tổ chức hội nghị (có nhiều nước tham gia)." Việt-nam tự- điển của Lê Văn Đức và Lê Ngọc Trụ giảng đương cai là "người được làng cắt ra lo việc đình đám". Tự-điển Việt Nam phổ thông của Đào Văn Tập giảng đương cai là "Đứng ra cai quản - Người phải trông nom tiệc lệ đám sá ở thôn quê". Còn Từ điển tiếng Việt do Văn Tân chủ biên thì giảng đang cai là "chịu trách' nhiệm tổ chức một đám, một cuộc vui, một hội nghị". Các định nghĩa trên đây thực ra đều chỉ là đại đồng tiểu dị với nhau vì chúng cùng có chung nét nghĩa sau: chịu trách nhiệm (hoặc người chịu trách nhiệm) tổ chức.

Hình thức gốc của từ đang xét là đương cai hoặc đang cai còn đăng cai chỉ là một lối nói trại của đang cai, mới phát sinh ở miền Bắc từ sau năm 1954 mà thôi. Khi nói đang cai, người ta đã liên tưởng đến yếu tố đăng trong đăng ký, là một từ rất thịnh hành trong sinh hoạt xã hội về mọi mặt ở miền Bắc từ "đăng ký mua hàng", "đăng ký khám bệnh", "đăng ký vé xe" cho đến "đăng ký hộ khẩu", "đăng ký kết hôn", v.v... Do áp lực của đăng trong đăng ký mà đang trong đang cai đã bị phát âm thành đăng vì nghĩa của từ này làm liên tưởng đến nghĩa của từ kia. Bởi không thừa nhận đăng cai là hình thức phát âm chuẩn nên Từ điển tiếng Việt do Văn Tân chủ biên mới không ghi nhận nó (mà chỉ ghi nhận hình thức chuẩn là đang cai). Còn sở dĩ Việt- Nam từ-điển của Lê Văn Đức và Lê Ngọc Trụ không ghi nhận đăng cai thì chỉ đơn giản vì đây là một lôi nói tuy thịnh hành ở miền Bắc nhưng trước năm 1975, miền Nam lại không hề biết đến. Với tinh thần thực sự cầu thị, Từ điển tiếng Việt 1992 đã ghi nhận đăng cai vì hiện nay, ở cả miền Bắc lẫn miền Nam, hình như chẳng còn ai nói đương cai hoặc đang cai nữa mà chỉ nói đăng cai, đặc biệt là trến các phương tiện thông tin đại chúng.

(KTNN 151, 9-1994)

ĐỘC GIẢ: Tại sao người ta hay nói "đầu Ngô mình Sở" mà không nói "đầu Yên mình Triệu" hoặc không dùng tên nước nào khác?

AN CHI: Sở dĩ nói đầu Ngô mình Sở mà không nói "đầu Yên mình Triệu" hoặc không dùng tên của nước nào khác là vì câu thành ngữ này của tiếng Việt bắt nguồn từ câu thành ngữ tiếng Hán: Ngô đầu Sở vĩ. Việt- Nam tự-điển của Lê Văn Đức và Lê Ngọc Trụ (q.thượng, ph.II, tr.112) cũng khẳng định xuất >£ứ của câu đó là như thế. Vì xuất xứ bằng tiếng Hán đã có sẵn tên nước Ngô và nưđc Sở nên câu tiếng Việt cũng nhắc lại tên hai nước đó chứ không đưa tên của nước nào khác vào. Còn trong nguyên văn tiếng Hán thì nhất định phải là Ngô và Sở chứ không thể là nước nào khác vì Ngô đầu Sở vĩ là một lối nói dùng để mô tả vị trí địa lý của đất Dự Chương, một miền đất nay thuộc tỉnh Giang Tây, giáp với miền thượng du của tỉnh Giang Tô, xưa là đất Ngô - nên mới nói "Ngô đầu" - và miền hạ du của tỉnh Hồ Bắc, xưa là đất Sở - nên mới nói "Sở vĩ". Theo Từ hải thì Chức phương thặng của Hồng Sô có câu: "Dự Chương chi địa, vi Ngô đầu Sở vĩ" (Đất Dự Chương là (đất) ở đầu Ngô cuối Sở). Phương dư thắng lãm cũng có câu: "Dự Chương chi địa, vi Sở vĩ Ngô đầu" (Đất Dự Chương là (đất) cuối Sở đầu Ngô). Vị trí địa lý đã "trót" như thế rồi nên không thể đưa Yên đưa Triệu hoặc đưa nước nào khác vào mà thay thế cho Ngô và Sở ở đây được. Câu tiếng Việt, vì chỉ là "diễn Nôm" của câu tiếng Hán đang xét, cho nên tất nhiên phải nhắc lại tên nước Ngô và tên nước Sở cho đúng với "nguyên bản". Tuy nhiên, "bản dịch" cũng có "cải biên" về chi tiết thứ yếu mà nói mình Sở thay vì "đuôi Sở" (Sở vĩ).

Cuối cùng, xin lưu ý rằng trong tiếng Hán thì từ ngữ được hiểu như đã nói nhưng sang đến tiếng Việt thì "bản dịch" lại được dùng theo nghĩa khác hẳn. Lại xin lưu ý rằng Việt-Nam tự-điển của Lê Văn Đức và Lê Ngọc Trụ đã giảng câu đầu Ngô mình Sở như sau: "Cái đầu bên nước Ngô (đầu đội mão nước Ngô), cái mình bên nước Sở (ăn-vận quần áo nước Sở)". Chúng tôi không biết là tác giả đã căn cứ vào tích nào, điển nào hay đó chỉ là suy diễn đế giảng cho "hợp lý" mà thôi. Vậy xin nêu lên để thỉnh giáo các bậc thức giả.

192. (KTNN 151, 9-1994)

ĐỘC GLẪ: Trên Kiến thức ngày nay số 134, Chuyện Đông chuyện Tây, tr. 87-88, ông An Chi có giảng rằng "thò lò là cái bong vụ sáu mặt (nhât, nhị, tam tứ, ngũ, lục) có tra cốt ở giữa để bong cho quay". Nhưng sách Kể chuyện thành ngữ tục ngữ của Viện ngôn ngữ học do Hoàng Văn Hành chủ biên (Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 1994, tái bản lần thứ nhất, có sửa chữa), nơi mục "Thò lò sáu mặt, Thò lò hai mặt", tr.340-341, lại giảng như sau: "Về hình dáng cấu tạo thò lò trông như một khôi lập phương bóp méo đi và đánh số vào các-mặt, ở giữa hai mặt đó có một chiếc cán nhỏ bằng que tre xuyên qua để quay khi chơi bạc" (trang 340). Và: "Có lẽ (...) trong thực tế còn có loại thò lò làm bằng gỗ mỏng hay bìa cứng chỉ có hai mặt xấp và ngửa để đánh bạc" (tr.341). Vậy xin ông An Chi cho biết ai đúng, ai sai.

AN CHI: Cái thò lò không phải là "một khối lập phương bóp méo đi" theo sự diễn tả trong sách Kể chuyện thành ngữ, tục ngữ (KCTNTN) của Viện ngôn ngữ học do Hoàng Văn Hành chủ biên. Thứ nhất, đó là một vật nhỏ hình khối hoàn toàn đều đặn và cân đối. Thứ hai, đó không phải là một khối lập phương vì khôi lập phương chỉ có sáu mặt trong khi cái thò lò dùng để đánh bạc lại là một hình lăng trụ có đến tám mặt: sáu mặt bên là những hình chữ nhật bằng nhau, có đánh dấu (bằng những chấm tròn) thành các mặt: nhất, nhị, tam, tứ, ngũ, lục còn hai mặt đáy là những hình lục giác đều (và cũng bằng nhau). Cái cốt dùng để bong thì xuyên suốt cái thò lò từ đúng điểm giữa của mặt đáy này sang đúng điểm giữa của mặt đáy kia và thừa ra ở mỗi đầu khoảng lcm. Tùy kích thước của cái thò lò mà hai đầu thừa ra này có thể dài hoặc ngắn hơn, miễn sao cho cân đối để cái thò lò có thể quay đều và đằm vì một trong hai đầu (bất cứ đầu nào cũng được) sẽ là "chân" của cái thò lò khi nó quay. Nếu "chân" mà quá cao - nghĩa là cái đầu cốt thừa ra quá dài - so với "thân" của cái thò lò thì nó sẽ chao đảo trong khi quay, thậm chí có thế ngã liền mà không quay được. Khi một đầu đã là "chân" của cái thò lò thì đầu kia sẽ là cái "cán" mà người ta kẹp vào giữa ngón cái và ngón trỏ (hoặc ngón giữa) để bong cho nó quay. Chẳng làm gì có chuyện "người ta dùng hai lòng bàn tay kẹp vào cán thò lò và xiết mạnh rồi tung lên không; nó sẽ quay tít và rơi


xuông đất" như KCTNTN đã diễn tả. Cứ y như là thủ thành của môn bóng đá phát bổng trái banh lên phần giữa sân cỏ hoặc như đấu thủ môn quần vợt lốp (tiếng Anh: to lob) trái banh sang phần sân của đôi thủ! Thực ra, người ta chỉ bong cái thò lò ngay trên mặt một cái dĩa hoặc trong lòng một cái chén (bát), cũng có khi bong nó ngay trên mặt tờ giấy hoặc cái khay gỗ (có kẻ hoặc khắc sáu ô từ một đến sáu nút) được dùng để làm sòng bạc mà thôi.

KCTNTN tr.340 đã viết: "Ngày nay, chắc ít người biết đến con thò lò và trò chơi của nó ra sao" nhưng cứ theo những gì đã thấy được trong mục "Thò lò sáu mặt, thò lò hai mặt" của sách này thì có thể khẳng định rằng chính tác giả của mục đang xét cũng chưa hề biết đến nó. Tác giả đã cứ theo lời giảng trong từ điển của Khai trí tiến đức, của Lê Văn Đức và của Thanh Nghị, rằng thò lò có sáu mặt được đánh sô" mà luận ra răng nó là một khối lập phương (vì khối lập phương có sáu mặt!). Thực ra các quyển từ điển đó, và cả chúng tôi nữa (trên Kiến thức ngày nay 134, Chuyện Đông chuyện Tây, tr.87) chỉ nói đến những mặt số, tức là những mặt bên - mà không nói đến hai mặt đáy - của cái thò lò nhưng đều có nói rõ rằng thò lò là cái bong vụ (hoặc con quay) có sáu mặt. Sáu mặt này đương nhiên chỉ có thể là sáu mặt bên mà thôi. Còn cái vật nho nhỏ hình khôi lập phương - nhưng phải là khối lập phương thật sự đều đặn và cân đối chứ không "bị bóp méo đi" - mà tất cả sáu mặt đều có đánh dấu từ một đến sáu (thành sáu mặt nhất, nhị, tam, tứ, ngũ, lục), thì trong Nam lại gọi là hột lúc lắc, hoặc hột xí ngầu (xí ngầu = tứ ngũ, nói theo âm Triều Châu) còn ngoài Bắc thì gọi là con xúc xắc (Từ điển tiếng Việt 1992 cho rằng cách viết chuẩn là súc sắc). Nếu cái thò lò là một khôi lập phương mà hai mặt đã bị dùng để "tra cán" như KCTNTN đã khẳng định thì nó chỉ còn lại có bốn mặt bên, lấy đâu ra đủ sáu mặt để đánh nút cho từng mặt thành: nhất, nhị, tam, tứ, ngũ, lục?

Vậy cái thò lò, mà trong Nam gọi là cái bong vụ và hột lúc' lắc, mà ngoài Bắc gọi là con xúc xắc, đều là những đổ cụ có "chức năng" như nhau. Khác nhau chỉ là ở chỗ nếu dùng cái thò lò, tức cái bong vụ, thì phải bong còn nếu dùng hột lúc lắc, tức con xúc xắc thì phải lắc.

Tác giả lại còn nghĩ ra thêm rằng "có lẽ (...) trong thực tế còn có loại thò lò làm bằng gỗ mỏng hay bìa cứng chỉ có hai mặt xấp (sic) và ngửa để đánh bạc!" Người thực sự biết cái thò lò sẽ thấy ngay rằng đây là chuyện ngộ nghĩnh mà vô lý và rằng các nhà biên soạn sách Kể chuyện thành ngữ tục ngữ quả đã có một trí tưởng tượng "bay bổng".

(KTNN 151, 9-1994)

ĐỘC GIẢ: Xin cho biết nguồn gốc của tên gọi chùa Hương và cho biết vài nét về cảnh chùa.

AN CHI: Chùa Hương là tên thường gọi và là tên gọi tắt của chùa Hương Tích. Sở dĩ gọi chùa Hương Tích là vì chùa được cất trên núi Hương Tích, cũng gọi là Hương Sơn, thuộc huyện Hoài An, phủ ứng Hòa xưa, nay thuộc huyện Mỹ Đức, tỉnh Hà Tây.

Từ điển di tích văn hóa Việt Nam của Viện nghiên cứu Hán Nôm do Ngô Đức Thọ chủ biên đã chép về chùa này như sau: "Tương truyền Phật Quan âm Bồ tát từng Nam du đến trụ trì tại đây. Thắng cảnh chùa Hương bao gồm một sô di tích chùa đền, hòa hợp với cảnh sắc hang động, núi non sông suối thiên nhiên hùng vĩ, khiến chùa trở nên nổi tiếng khắp trong nước. Muốn vào chùa phải đi bằng thuyền nhỏ, trước tiên đến đền Trình, tục gọi đền Quan Lớn, sau đó tới chùa Thiên Trù (Bếp trời) có hai tháp lớn bằng đá và bằng gạch. Đi tiếp tới chùa Giải Oan có giếng nước tương truyền là nơi Phật tắm. Qua chùa Tiên Sơn có các pho tượng đá, vượt đỉnh Mai Lĩnh có rừng mơ thì tới cửa chùa Hương. Chùa ở trong động đá giữa lưng chừng núi, cửa động khắc đá 5 chữ "Nam thiên đệ nhất động", tương truyền do vua Lê Thánh Tông ban cho chùa từ thời Hồng Đức. Trước cửa động có cầu Liên Kiều, do vua Lê cho xây bằng gạch, hai bên vách đá treo chuông và trống đồng do đệ tử tiến cúng. Động đá rất rộng, có thể chứa trên 500 người. Trong động nhũ đá ngũ sắc lung linh ẩn hiện thành đủ thứ hình thù được người đời gọi là Ngọc Tỉnh, Long Tuyền, Lẫm Gạo, Kho Tiền, Án Sách, V.V.. Ớ giữa một phiến đá cao phẳng nối lên tảng đá hình tượng Phật. Thuộc quần thế thắng cảnh chùa Hương còn có chùa Tuyết Sơn và chùa Hinh Bồng. Chùa Tuyết Sơn cũng nằm trong động đá giữa sườn núi Tuyết Sơn ở phía Tây "Bạch Tuyết môn", bên trong có tượng Phật bằng đá. Triều Lê đã dựng hành cung tại đây, gọi là Bảo Đài, có bàn đá rộng phẳng, từ đó nước suối chảy qua, tương truyền là chỗ tắm của vua. (...) Chùa Hinh Bồng trên núi Hinh Bồng ở mé ngoài Hương Tích, cũng là nơi cảnh sắc sơn thủy hữu tình." (Sđd, tr.347-50).

ơ miền Trung, cũng có một chùa tên là Hương Tích, mà cũng Từ điển di tích văn hóa Việt Nam chép như sau: "(Chùa) ở trên ngọn núi cùng tên thuộc dãy Hồng Lĩnh về địa phận huyện Can Lộc (tức là Thiên Lộc), tỉnh Nghệ Tĩnh. Chùa có từ thời Trần, nhưng truyền thuyết gắn với sự tích còn xa xưa hơn, như nói con gái Trang Vương nước Sở tên là Mậu đến tu hành và hóa thân tại đây, hoặc nói Trang Kiệu tướng nước Sở, sau làm vua nước Dạ lang, lập chùa tu hành ở đẫy (Theo Thoái thực ký của Trương Quốc Dụng). Qua nhiều đợt trùng tu, trên nền cũ hiện nay chỉ còn di tích chùa thời Lê với quả chuông lớn và gạch cổ có chạm chữ và hình hoa lá. Từ dưới chùa đi lên, đường núi quanh co qua khe suối, nhiều chỗ dốc đứng. Tương truyền mùa xuân đi lễ, càng gần đến chùa càng nức hương thơm, do đó mà đặt tên là chùa Hương Tích. Tên núi do đó cũng gọi theo tên chùa. Trước chùa có suối thác chảy quanh năm. Sau chùa có am Đá Trắng, thường gọi là am Thánh Mẫu. Một vùng thông trúc xanh tót, cảnh đẹp núi sông thu hút vào tầm mắt, được coi là nơi đệ nhất danh thắng của đất Hoan Châu." (Sđd, tr.352).

194. (KTNN 152, 10-1994)

ĐỘC GIẢ: Câu "nhàn cư vi bất thiện" xuất xứ từ đâu? Có người lại bảo là "nhàn cư vi bất tiện", có đúng không?

AN CHI: Xuất xứ của câu "Nhàn cư vi bất thiện" là thiên "Đại học" trong sách Lễ ký. Nguyên văn đầy đủ là: "Tiểu nhân nhàn cư vi bất thiện" nghĩa là kẻ tiểu nhân (hễ) ở không (thì hay) làm diều xằng bậy. Nguyễn Đăng Thục đã luận về vấn đề này như sau: "Vậy người biết đạo-lý luôn luôn nội tỉnh, tự soi xét lấy mình khi ngồi không một mình, không để cho những tư tưởng gian tà nó tiêm nhiễm vào, và đột nhiên, một ngày kia thây nó bùng khởi, với một sức mạnh không sao cản trở dược nữa. Bấy giờ nó sô (sic) dẩy mình như trôi theo giòng nước. Ây sở dĩ tại sao mà người quân tử phải luôn luôn thận kỳ độc (cẩn thận giữ mình khi chỉ có một mình - AC). Thận kỳ độc để nội tỉnh, chứ không như tiểu nhân nhàn cư vi bất thiện" (Đại-học, Nxb Tứ-hải, Hà Nội, 1949, tr.28).

195. (KTNN 152, 10-1994)

ĐỘC GIẢ: Câu ca dao:

"Gió đưa cành trúc la đà,

Tiếng chuông Thiên Mụ, canh gà Thọ Xương" cũng có người lại bảo câu dưới là:

"Tiếng chuông Trấn Vũ, canh gà Thọ Xương"

Như vậy câu nào đúng?

AN CHI: Nguyên văn đầy đủ gồm có bốn câu như

sau:

Gió đưa cành trúc la đà

Tiếng chuông Trấn Vũ, canh gà Thọ Xương

Mịt mù khói tỏa ngàn sương

Nhịp chày Yên Thái mặt gương Tây Hồ.


Đây là những câu được xem là ca dao nói về kinh thành Thăng Long xưa. Trấn Vũ là Trấn Vũ quán, tục gọi đền Quan Thánh, ở góc đường Quan Thánh giáp với đâu đường Cổ Ngư, nay là đường Thanh Niên (Hà Nội). Thọ Xương là một trong hai huyện của phủ Phụng Thiên thuộc kinh thành xưa, nay là phạm vi quận Hoàn Kiếm và quận Hai Bà Trưng của Hà Nội. Yên Thái là làng Bưởi nổi tiếng về nghề làm giấy (tiếng chày ở đây là tiếng chày giã bột để làm giấy) nay thuộc quận Ba Đình, Hà Nội. Còn Tây Hồ thì đương nhiên là... hồ Tây, rộng trên 500ha, nằm ở phía Tây Bắc nội thành Hà NộiT

Ngay tại Hà Nội, câu thứ hai cũng có một dị bản là "Tiếng chuông Trấn Quốc..." (thay vì "Trấn Vũ"). Trấn Quốc là chùa Trấn Quốc, tọa lạc ở phía nam hồ Tây, trên đường Cổ Ngư, cách đền Quan Thánh (Trấn Vũ quán) độ vài trăm mét. Còn câu thứ nhất cũng có một dị bản là:

Phất phơ ngọn trúc trăng tà

Có thể là về sau người ta đã lấy hai câu đầu và thay Trấn Vũ (hoặc Trấn Quốc) bằng Thiên Mụ để nói về Huế vì ở Huế cũng có địa danh Thọ Xương.

Cuối cùng, xin nói thêm rằng, theo một sô tác giả, đặc biệt là Dương Thiệu Tống trong quyển Tâm sự Dưang Khuê và Dương Lâm (Văn học, 1995) thì bôn câu tưởng là ca dao trên đây chính lại là một bài thơ của Dương Khuê có nhan đề là "Hà Nội tức cảnh" (X. sđd, tr.101)

196. (KTNN 152, 10-1994)

ĐỘC GIẢ: Nói về vai trò của người bảo trợ văn hóa, bài "Khang Hy, hoàng đế lỗi lạc Thanh triều dưới mắt người phương Tây" trên Kiến thức ngày nay số 149, tr.52, đã viết về ông vua này như sau: "Về lãnh vực truyền thông, ông là người khởi hứng cho ít nhất năm công trình lớn: một bộ tự điển tiếng Hán gồm hơn 40 ngàn chữ, làm cơ sở cho nhiều bộ từ điển về sau, bốn bộ bách khoa văn học rất phong phú những trích dẫn, tra cứu (một trong các bộ ấy, Tou chou che tch'eng (?) gồm tới 1.628 tập". Xin cho biết âm Hán-Việt của "T'ou chou che tch'eng" và xin giới thiệu cụ thể về bộ sách này.

AN CHI: Bộ tự điển đó là Khang Hy tự điển mà thỉnh thoảng chúng tôi có nhắc đến ở mục Chuyện Đông chuyện Tây. Bôn bộ bách khoa văn học là: Biền tự loại biên (240 quyển), Tử sử tinh hoa (160 quyển), Uyển giám loại hàm, (450 quyển) và Bội văn vận phủ (212 quyển).

Còn T'ou CÌIOU che tcìỉeng là Đồ thư tập thành, tên gọi tắt của Cổ kim đồ thư tập thành, một bộ sách đồ sộ gồm 10.000 quyển chính văn và 40 quyển mục lục. Theo Từ nguyên thì Cổ kim đồ thư tập thành chia làm 6 vựng biên (có thể coi như phạm trù) là: lịch tượng, phương dư, minh luân, bác vật, lý học và kinh tế. Vựng biên lịch tượng (các hiện tượng và sự việc có liên quan đến năm tháng, thời tiết) chia làm 4 điển. Điển càn tượng (các hiện tượng liên quan đến trời) có 21 bộ gồm 100 quyển. Điển tuế công (thứ tự tháng, mùa và nông sự) có 43 bộ gồm 116 quyển. Điển lịch pháp có 6 bộ gồm 140 quyển. Điển thứ trưng (nhân mưa tạnh, rét ấm mà đoán kiết hung) có 50 bộ gồm 188 quyển. Vựng biên phương dư (địa lý nói chung và địa lý hành chính) chia làm 4 điển. Điển địa dư có 20 bộ gồm 140 quyển. Điển chức phương (chức quan lo công tác địa chính địa bạ ở các địa phương) có 223 bộ gồm 1544 quyển. Điển sơn xuyên có 401 bộ gồm 320 quyển. Điển biên duệ (các vùng đất xa ở biên giới) có 542 bộ gồm 140 quyển. Vựng biên minh luân (làm rõ luân thường) chia làm 8 điển. Điển hoàng cực (thiên tử đặt ra chuẩn tắc cho muôn dân tứ phương tuân theo) có 31 bộ gồm 300 quyển. Điển cung vi (cung thất) có 25 bộ gồm 140 quyển. Điển quan thường (quan lại và các chức quan) có 65 bộ gồm 800 quyển. Điển gia phạm có 31 bộ gồm 116 quyển. Điển giao nghị (giao tế, hữu nghị) có 37 bộ gồm 120 quyển. Điển thị tộc có 2694 bộ gồm 640 quyển. Điển nhân sự có 97 bộ gồm 112 quyển. Điển khuê viện (đức hạnh và dung mạo phụ nữ) có 117 bộ gồm 376 quyển. Vựng biên bác vật chia làm 4 điển. Điển nghệ thuật có 43 bộ gồm 824 quyển. Điển thần dị (chuyện thiêng liêng huyền bí) có 70 bộ gồm 320 quyển. Điển cầm trùng (động vật) có 317 bộ gồm 192 quyển. Điển thảo mộc có 700 bộ gồm 320 quyển. Vựng biên lý học chia thành 4 điển. Điển kinh tịch có 66 bộ gồm 500 quyển. Điển học hạnh có 96 bộ gồm 300 quyển. Điển văn học có 49 bộ gồm 260 quyển. Điển tự học (nghiên cứu văn tự) có 24 bộ gồm 160 quyển. Vựng biên kinh tế chia làm 8 điển. Điển tuyển cử có 29 bộ gồm 136 quyển. Điển thuyên hành (cân lường) có 12 bộ gồm 120 quyển. Điển thực hóa (lương thực, vải vóc, v.v. ) có 83 bộ gồm 360 quyển. Điển lễ nghi có 70 bộ gồm 348 quyển. Điển nhạc luật có 46 bộ gồm 136 quyển. Điển thú chính (việc trấn thủ biên giới) có 30 bộ gồm 300 quyển. Điển tường hình (thận trọng về việc hình án) có 26 bộ gồm 180 quyển. Điển khảo công (chê tạo các loại đồ dùng) có 154 bộ gồm 252 quyển.

Tổng cộng là 6 vựng biên, 32 điển, 6109 bộ gồm

10.0 quyển (và 40 quyển mục lục). Sách soạn trong 10 năm cuối đời Khang Hy (Thanh Thánh Tổ) đến đầu đời Ung Chính (Thanh Thế Tông) mới xong.

197. (KTNN 152, 10-1994)

ĐỘC GIẢ: Kiến thức ngày nay 143, trang 58, có nói rằng tr~đ là một cặp tương ứng ngữ âm mà người ta có nhan nhản những thí dụ nhưng lại không cho thí dụ. Tôi biết đó là do khuôn khổ bài viết có hạn. Vậy lần này, xin nêu thêm thí dụ để chứng minh cho mối quan hệ ấy.

AN CHI: Trường hợp đầu tiên mà chúng tôi muốn nêu lên là trường hợp của tiếng trò trong học trò. Học trò không phải gì khác hơn là học đồ ^ tâ. mà Mathews' Chinese-English Dictionary dịch là "a pupil; an apprentice". Hai chữ này cùng với nghĩa trên đây cũng đã được ghi nhận trong nhiều quyển từ điển tiếng Hán như Từ nguyên, Từ hải, Vương Vân Ngũ đại từ điển và cả Hiện đại Hán ngữ từ điển của Phòng biên tập từ điển, Sở nghiên cứu ngôn ngữ, Viện khoa học xã hội Trung Quốc do Thương vụ ấn thư quán ấn hành tại Bắc Kinh năm 1992. Đồng âm với trò trong học trò là trò trong giở trò. Trò ở đây là mưu mẹo, mánh mung, thực ra cũng chẳng phải gì khác hơn là đồ ® trong ý đồ, mưu đồ. Trò trong trò chơi cùng chính là đồ. Trò chơi chẳng qua là mẹo chơi, luật chơi, sự sắp xếp cách chơi.

Đó là những thí dụ đầu tiên về mối tương ứng âm vị tr~đ trong lãnh vực Hán Việt học.

Thứ hai là trường hợp của chữ trọc trong ô trọc mà âm xưa là đục (trong vẩn đục). Vương Lực đã chứng minh rằng chữ trọc này xưa thuộc thanh mẫu định, nghĩa là có phụ âm đầu đ- vì thiên "Thích ngôn ngữ" trong sách Thích danh đã chú âm cho nó bằng chữ độc /ft (X. "Hán Việt ngữ nghiên cứu", Hán ngữ sử luận văn tập, Bắc Kinh, 1958, tr.360). Xin nói thêm rằng chữ trọc /5 được hài thanh bằng chữ thục mà chữ thục cũng lại hài thanh cho chữ độc Щ. Vậy chẳng có gì đáng lấy làm lạ nếu có một thời, chữ trọc cũng đã có phụ âm đầu là đ-.

Thứ ba là trường hợp của từ trợt trong phương ngữ Nam Bộ mà phương ngữ Bắc Bộ phát âm là trượt. Đây chính là âm xưa của chữ diệt (địch khiết thiết) có nghĩa là sẩy chân, té ngã. Lại còn một chữ điệt khác, tự hình là (thuộc bộ nhục (ỉ] ), có nghĩa là sai khớp xương. Chữ này có một âm thông dụng là trật trong trật khớp, trật xương, mà trặt là một biến thể ngữ âm trong phương ngữ Nam Bộ (trặt xương, trặt gân, V.V.). Chữ trặt này đã bị các quyển từ điển ghi thành trặc do người Nam Bộ phát âm -t cuối thành -k. Trong cái gọi là "từ láy" trục trặc thì trặc cũng vốn là trặt mà -t cuối đã bị -c [к] cuối của trục đồng hóa. Trục trặt có nghĩa gốc là cái trục, cái cốt (trong xe cộ, máy móc) bị "sai khớp". Do nghĩa gốc này mà ngày nay trục trặc mới có nghĩa phái sinh thông dụng là "ở tình trạng gặp khó khăn, vướng mắc, không được trôi chảy" (Từ điển tiếng Việt 1992). Cả hai chữ diệt trên dây dều dược hài thanh bằng chữ thất 3^., chữ này cũng còn hài thanh cho chữ trật trong trật tự) mà âm xưa là đợt (trong đợt sóng, từng đợt, V.V.). Vậy rõ ràng là 3^. đã từng hài thanh cho những chữ có phụ âm đầu là tr- hoặc đ-.

Thứ tư là trường hợp của chữ trất Ịế, có nghĩa là nhét, lấp, làm cho nghẹt, mà Dictionaire classique de la langue chinoise của F.s. Couvreur dịch là "boucher". Chữ trất này chẳng phải gì khác hơn là đút trong đút nút (= nhét nút vào). Chữ Hán đang xét được hài thanh bằng chữ JL và chữ này cũng đã hài thanh cho nhiều chữ diệt khác nhau như là ỊỄ, ịẳ-, Ì3L, V.V., có phụ âm đầu là đ-.

Thứ năm là trường hợp của tiếng đìa trong (nước mắt) đầm đìa mà có thể sẽ có người cho là một từ láy. Thực ra đầm đìa là nhiều như nước đầm nước đìa. Đây là một từ ghép đẳng lập gồm hai danh từ đồng nghĩa, trong đó đìa là một từ Việt gốc Hán bắt nguồn ở một tiếng Hán ghi bằng chữ mà âm Hán Việt chính thống hiện đại đọc là trì, có nghĩa là cái ao. Chữ tri được hài thanh bằng chữ dã , chữ này còn hài thanh cho chữ địa là đất. Vậy chẳng có gì lạ nếu chữ ỳtỈL xưa kia đã từng đọc thành đìa. (Chữ đầm cũng là một từ Việt gốc Hán mà âm Hán Việt hiện đại là đàm, tự hình là )ị).

Nếu đi vào vấn đề yếu tố hài thanh (thanh phù) trong chữ Hán đọc theo âm Hán Việt thì sự tương ứng âm vị tr~đ có rất nhiều thí dụ mà chúng tôi không thể nêu thêm được.

198. (KTNN 153, 10-1994)

ĐỘC G LẢ: Chuyện Đông chuyện Tây trên một kỳ Kiến thức ngày nay có nói rằng Caesar là quan chấp chính và quan độc tài của La Mã cố' đại. Nhưng trong một băng video mang chu đề "Đêm Sài Gòn" do Asia Productions và Caesar's Palace (Las Vegas) thực hiện thì người giới thiệu lại nói rằng Caesar là hoàng đế khi hai người sắm vai Caesar và Cléopâtre xuât hiện trên sân khâu để chào khán giả. Tôi cho rằng Caesar phải là hoàng đế mới đúng chứ tại sao lại chỉ là quan chấp chính hoặc quan độc tài mà thôi?

AN CHI: Hoàng đế, tiếng La Tinh là imperator. Caesar đã nhiều lần được quân sĩ của mình tung hô là imperator sau mỗi lần thắng trận nhưng ông ta chưa bao giờ là hoàng đế. Danh từ imperator có nhiều nghĩa: 1. người chỉ huy, người đứng đầu, người chủ. 2. tổng tư lệnh một quân đội, đại tướng, 3. tước hiệu danh dự dành cho một vị tướng thắng trận. 4. hoàng đế La Mã (đi chung với danh từ riêng và luôn luôn đứng trước). 5. người thắng cuộc (trong đấu cờ). 6. biệt danh của Jupiter (Theo Ch. Lebaigue, Dictionnaire latin-français, Paris, 1960). Nghĩa của từ imperator mà quân sĩ của Caesar đã dùng chỉ là nghĩa thứ 3 trên đây chứ không phải là nghĩa thứ 4 (nghĩa này chỉ phát sinh sau khi Caesar đả chết).

Caesar rất muốn trở thành hoàng đê nhưng đáng tiếc là sau khi ông ta chết đến 17 năm thì đê chế La Mã mới được thiết lập (27 trước Công nguyên - 476 của

Công nguyên) và hoàng đế La Mã đầu tiên lại là Octavianus Augustus (27 tr.CN - 14 của CN), cháu và con nuôi của ông ta. Tuy không phải là hoàng đế nhưng Caesar chính là nhân vật đã khởi xướng ý thức hệ đê quyền và là người đã đặt nền móng cho chế độ quân chủ của La Mã cổ đại.

Lúc sinh thời, Caesar đã giành được một sự ưu đãi hiếm có của Viện nguyên lão: quyền được đặt tôn hiệu imperator ở trước tên của mình mà tập quán bấy giờ bắt phải luôn luôn đặt sau. Caius Julius Caesar Imperator (Caius là tên riêng của Caesar, Julius là tên của thị tộc, Caesar là tên của gia tộc, imperator là tướng thắng trận) trở thành Imperator Caesar. Chính là xuất phát từ cấu trúc sau cùng này mà về sau danh từ riêng Caesar mới trở thành danh từ chung chỉ tôn hiệu - vì nó chiếm vị trí của từ chỉ tôn hiệu imperator - cho các ông vua La Mã không những của dòng Caesar, mà cả của các dòng Flavius, Antoninus và Constantinus. Thế là từ chỗ được dùng làm tên riêng cho một nhà (kiểu như tiếng Việt nói nhà Lý, nhà Trần, nhà Lê, v.v. ) danh từ riêng Caesar đã trở thành danh từ chung có nghĩa là hoàng đế, dùng để chỉ cả các ông vua của nhà Flavius, nhà Antoninus và nhà Constantinus tại La Mã. Hơn thế nữa, nó còn đi vào tiếng Đức mà trở thành Kaiser để chỉ các hoàng đế của nước Đức và đi vào tiếng Nga mà trở thành tsar để chỉ các Nga hoàng (mà có một số người gọi là Sa hoàng theo phiên âm).

Tiếc thay cho Caesar vì ông ta đã là hoàng đế hụt! Trước khi ông ta lên đường đi đánh người Parthicus (ở

Trung Cận Đông) ấn định vào ngày 18 tháng 3 năm 44 tr.CN, tất cả các quan bốc phệ đều báo rằng La Mã phải có một ông vua thì mới trị nổi dân Parthicus. Thế là Aurelius Cotta, cậu của Caesar, một trong các ông thầy bói đó, bèn đề nghị với Viện nguyên lão làm lễ đăng quang cho cháu mình trong phiên họp ngày 15 tháng 3, ba ngày trước khi Caesar xuất chinh. Đúng ngày này, Viện nguyên lão họp tại Campus Martius (là nơi tụ họp để tổ chức các trò chơi hoặc để họp đại hội quốc dân tại thành La Mã), trong hội trường của Viện do Pompeius xây dựng. Khi Caesar vào thì ông ta đã bị hạ sát bằng 35 nhát dao găm ngay dưới chân tượng Pompeius. Thi thể của ông ta nằm lại tại đây cho đến chiều thì ba người nô lệ của ông ta mới đến để khiêng đi. Caesar chưa bao giờ là hoàng đế. Và lịch sử La Mã cổ đại cũng chưa bao giờ gọi ông ta như thế.

Người dẫn chương trình "Đêm Sài Gòn", nam ca sĩ Anh Quý, đã nói trong diễn từ khai mạc rằng Caesar's Palace là "một nơi chốn để ghi lại dấu tích lịch sử oai hùng và làm sống lại quá khứ truyền kỳ và huyền thoại của đại đế Caesar". Có lẽ vì thấy bên cạnh Caesar còn có nữ hoàng Cleopatra nên nghệ sĩ mới cho Caesar "ăn theo" mà phong ông ta làm "đại đế". Vậy xin mạn phép thay "đế" bằng "tướng" để trả lại cho Caesar cái gì đích thực là của Caesar.

199. (KTNN 153, 10-1994)

ĐỘC GIẢ: Tại sao người ta thường gọi người đàn bà dữ là "sư tử Hà Đông"? AN CHI: Từ điển thành ngữ điển cố Trung Quốc do Lê Huy Tiêu biên dịch (Hà Nội, 1993) đã giải thích như sau:

"Ngày xưa có một người tự xưng là Long Khâu tiên sinh, rất sợ vợ, nhà thơ Tô Đông Pha làm một bài thơ trêu ông ta: "Long Khâu cư sĩ cũng đáng thương/ Nói có nói không đêm chẳng ngủ/ Bỗng nghe Hà Đông sư tử rông/ Gậy chông rời tay lòng hoang mang" (Xem Dung Trai tùy bút, quyển 3 của Hồng Mại đời Tông). Hà Đông là quê hương của Liễu Thị, vợ Long Khâu tiên sinh, nay thuộc phía Nam tỉnh Sơn Tây. "Sư tử hống" là câu nói của nhà Phật, biểu thị uy nghiêm. Long Khâu tiên sinh bình thường vẫn nói về Phật nên Tô Đông Pha mượn tiếng nhà Phật để trêu ông. Đời sau dùng "Hà Đông sư hông" (sư tử Hà Đông gào rống) để chỉ người vợ hay ghen, đanh đá, bạc ác, hung hãn (Sđd, tr.186, câu 693).

Nguyên văn tiếng Hán của bài thơ là:

Long Khâu cư sĩ diệc khả liên Đàm không thuyết hữu dạ bất miên Hốt văn Hà Đông sư tử hống Trụ trượng lạc thủ tâm mang nhiên

Long Khâu cư sĩ chính là Trần Tháo, tự Quý Thường, người Vĩnh Gia, đời Tống, vợ là người đàn bà họ Liễu (Liễu thị là người đàn bà họ Liễu chứ không phải là họ và tên của vợ Trần Tháo), tính hay ghen lại hung dữ. Một hôm, Tháo thết tiệc đãi khách, có ca kỹ đàn hát; nàng họ Liễu bèn vung gậy đập tường mà la hét om sòm, khiến cho khách khứa bỏ đi về cả. Vì vậy

Tô Đông Pha mới làm bài thơ trên đây đế vịnh chuyện này mà trêu chọc Trần Tháo.

Sư tử hông là ẩn dụ mà Kinh Phật dùng để chỉ tiếng thuyết pháp sang sảng và uy nghiêm của Đức Phật. Long Khâu cư sĩ Trần Tháo là người thường thích nói chuyện nhà Phật (cư sĩ là người tu tại gia) nên Tô Đông Pha mới dụng tâm dùng ba tiếng sư tử hống để ám chỉ sự la hét của nàng họ Liễu. Ngoài ra, nhà thơ còn có ý đối sư tử với rồng nữa: Long Khâu là gò Rồng. Vị cư sĩ náu mình ở gò Rồng mà lại được nghe tiếng sư tử gầm thì còn gì... thú vị bằng.

Địa danh Hà Đông đã được Từ nguyên và Từ hải giải thích khác với Từ điển thành ngữ điển cố Trung Quốc. Theo hai quyển từ điển đó thì Hà Đông không phải quê hương của vợ Trần Tháo. Đó là hai tiếng mà Tô Đông Pha mượn ở một câu thơ của Đỗ Phủ. Câu đó là:

Hà Đông nữ nhi thân tính Liễu

nói về một người con gái họ Liễu người Hà Đông. Thi sĩ họ Tô đã mượn hai tiếng Hà Đông của cáu thơ này làm định ngữ cho danh từ sư tứ đế ám chỉ vự Trần Tháo vì người đàn bà này cũng họ Liễu. Chúng tôi cho rằng cách giải thích của Từ nguyên và Từ hải đúng hơn. Và câu thơ của Tô Đông Pha quả là thâm thúy và tê nhị vì nó không có lấy một tiếng nào trực tiếp đả động đến phu nhân của Long Khâu cư sĩ cả.

Gút lại, xuất xứ của mây tiếng sư tử Hà Đông là bài thơ trên đây của Tô Đông Pha. Nhà thơ đã dùng mấy tiếng đó để ám chỉ vợ của Trần Tháo rồi người đời mới dùng chúng để chỉ người đàn bà hay ghen và hung dữ nói chung.

200. (KTNN 154, ngày 20-10-1994)

ĐỘC GIẢ: Thế nào là một câu đối hay?

AN CHI: Câu đối hay phải là câu đối đáp ứng được sáu yêu cầu sau đây:

1. Các tiếng đổi nhau trong hai câu phải cùng từ loại với nhau (chúng tôi đã tách điểm này ra theo truyền thống còn thực chất đây chỉ là một biểu hiện của đặc điểm 3).

2. Các tiếng cuối nhịp của hai câu phải đối nhau về đưừng nét thanh điệu: bằng (ngang, huyền) đối với trắc (hỏi, ngã, sắc, nặng) hoặc ngược lại.

3. Tiếng đối lại của câu dưới phải theo sát tiếng tương ứng của câu trên về tất cả các đặc điểm ngữ học của nó.

4. Cấu trúc của câu sau phải đồng dạng với cấu trúc của câu trước.

5. Các từ đối nhau ở hai câu phải cùng trường nghĩa với nhau hoặc phải thuộc hai trường nghĩa có thể đối ứng với nhau một cách không miễn cưỡng.

6. Hai câu đối »phải hài hòa với nhau về nội dung hoặc về hoàn cảnh chúng được sáng tác.

Các yêu cầu 1, 2, 3, 4 là những yêu cầu về hình thức, còn các yêu cầu 5, 6 là những yêu cầu về nội dung của câu đối.

Để làm dẫn chứng, xin nêu đôi câu đối do Phan Ngọc đưa ra trong bài "Cấu trúc ngôn ngữ và cảm giác thẩm mỹ" đăng trên Sông Hương sô' 1 (40) năm 1990 (Xuân Canh Ngọ). Tác giả đã dẫn ra đôi câu đối của lồng châu Nghệ Tĩnh viếng Nguyễn Phong Di (trước ;heo phong trào Đông Du, sau về theo Pháp):

Một nén hương đưa người chí sĩ

Trăm năm còn mãi tiếng đình nguyên

rồi nhận xét về câu dưới như sau: "Cuối cùng ai cũng phải thừa nhận vế này là tuyệt hay (...) Nó phi thường ở chữ "tiếng". Chữ này lập tức nhắc đến cái chết do câu tục ngữ: "Trâu (sic) chết để da, người ta chết để tiếng", tức là người chết không phải bình thường mà có để tiếng lại. Nó lại có hai nghĩa, hiểu là "danh tiếng" cũng được, mà hiểu là "tai tiếng" càng hay. Do áp lực của câu trúc, khi "tiếng đình nguyên" là tai tiếng thì "người chí sĩ" tức khắc thành "người đầu thú".

Các cụ tranh luận hàng giờ mới tìm ra được chữ "tiếng" làm mọi người thỏa mãn. Rõ ràng cái đẹp là khách quan và có ngữ pháp của nó" (Bđd, tr.63). Tiếc rằng ngữ pháp của cái đẹp ở đây đã bị Phan Ngọc hiểu một cách sai lệch: Câu đối mà ông đã tán tụng là một câu đối không chỉnh nên làm sao có thể cho là tuyệt hay được!

Thật vậy, tiếng thứ ba của câu trên (hương) là danh từ còn tiếng thứ ba của câu dưới (còn) là động từ thì làm sao chúng có thế đối với nhau cho chỉnh được. Tiếng thứ tư của câu trên (dưa) là động từ, còn tiếng thứ tư của câu dưới (mãi) là phó từ thì làm sao chúng có thể đối với nhau cho chỉnh được. Cấu trúc "một nén hương" có ba tiếng, còn cấu trúc "trăm năm" chỉ có hai tiếng thì làm sao chúng có thể đôi với nhau cho chỉnh được, cấu trúc "đưa người chí sĩ" có bốn tiếng, còn cấu trúc "còn mãi tiếng đình nguyên" lại có đến năm tiếng thì làm sao chúng có thể đôi với nhau cho chỉnh được. Nhịp của câu trên là 3 - 4 (Một nén hương - dưa người chí sĩ) còn nhịp của câu dưới là 2 - 5 (Trăm năm - còn mãi tiếng dìnìi nguyên) thì làm sao chúng có thể đôi với nhau cho chỉnh được. Rõ ràng là ở đây tác giả đã nhìn ngữ pháp của cái đẹp một cách hoàn toàn sai lệch.

Câu đổì hay không nhất thiết phải là câu đối dài (nhiều tiếng). Có khi nó chỉ có hai tiếng như trong giai thoại "ba sông, bốn mắt" liên quan đến Lê Quý Đôn. Khi ông bạn của cha nhìn ra khúc sông rẽ ba cạnh nhà mà xướng lên "Tam xuyên" (ba sông) thì Lê Quý

Đôn tương truyền bấy giờ mới có bảy tuổi, đằ nhanh trí đối lại là "Tứ mục" ra § (bốn mắt) vì nhìn thấy ông khách có đeo mục kỉnh. Đây là một câu đối hay. Tứ đối với tam, đều là số từ. Mục đối với xuyên, đều là danh từ. Nếu chữ tam dựng dứng sẽ thành chữ xuyên Jỉ| thì chữ tứ ra dựng đứng sẽ thành chữ mục § (Hoàng Ngọc Phách và Kiều Thu Hoạch, trong Giai thoại văn học Việt Nam, Hà Nội, 1988, tr.84 còn phân tích thêm rằng chữ tứ ra và chữ mục ã mỗi chữ đều có bôn nét. Thật ra chúng có đến 5 nét). Tuy mỗi câu đôi ở 'đây chỉ có hai tiếng nhưng nhờ ngôn cảnh trong giai thoại mà ta có thể biết được rằng đó là những phần thuyết liên quan đến những phần đề xác định. Phần đề liên quan đến tam xuyên là cảnh quê của Lê Quý Đôn còn phần đề liên quan đến tứ mục là người bạn của ông bô'. Tuy tứ mục không thể nào hài hòa một cách viên mãn về nội dung với tam xuyên (vì thuộc hai phạm trù khác hẳn nhau) nhưng bù lại chúng rất thích hợp với hoàn cảnh trong đó ông khách đã ra câu xướng cho Lê Quý Đôn đối lại. Đó vẫn là những câu đôi thỏa mãn được yêu cầu thứ

6. Vậy đó là những câu đối hay.

Lâu nay, khi phân tích cái hay của câu đôi, người ta thường chỉ chú trọng đến các yêu cầu 1, 2, 3 mà hầu như không đề cập đến các yêu cầu 4, 5, 6. Thực ra, đáp ứng được yêu cầu 1, 2, 3 chĩ mới là câu đối chỉnh, phải đáp ứng được các yêu cầu 4, 5, 6 thì mới có thể là câu đối hay.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Com