Dung và Hằng (Tấm Cám)
Ngày xửa ngày xưa, có hai chị em khác cha khác mẹ sống chung một nhà tên là Dung và Hằng. Mẹ Dung mất sớm, cha Dung hết mực yêu thương cô, nhưng rồi ông bệnh nặng nên đành gửi cô cho người hàng xóm cạnh nhà chăm sóc, không lâu sau đó thì qua đời.
Dung phải sống chung với người hàng xóm là mẹ của Hằng tên Phương. Phương là một người hiền hậu, tuy không phải ruột thịt nhưng vẫn hết lòng nuôi nấng cô nên người. Dung và Hằng đem lòng yêu mến nhau nhưng chưa dám kể cho mẹ Phương nghe.
Một hôm người mẹ bảo Dung và Hằng ra đồng đi bắt cá. Người mẹ dặn: "Hễ đứa nào bắt được nhiều cá hơn sẽ được thưởng một hộp bánh trung thu nhân cốm". Dung vâng lời dặn của mẹ, chăm chỉ siêng năng bắt cá, chẳng mấy chốc mà giỏ cá đã đầy, còn Hằng mải mê thổi sáo viết nhạc nên đã xế chiều rồi mà vẫn chưa bắt được con nào. Thấy giỏ cá của Hằng còn trống, Dung liền nhẹ nhàng bảo:
- Em Hằng này, hay em lấy giỏ cá của chị mà mang về kẻo mẹ mắng.
Hằng nghe vậy liền lắc đầu từ chối Dung. Dung không những không bỏ cuộc mà còn nảy ra ý định khác. Dung ôm lấy giỏ cá trống của Hằng chạy về nhà trước, để lại giỏ cá đầy ắp của mình cho Hằng. Hằng lúc này đã tạm ngưng tiếng sáo, vội vàng đem giỏ cá của Dung trút hết xuống ao rồi trở về nhà.
Mẹ Phương thấy hai chị em về nhà với hai chiếc giỏ trống liền tức giận hỏi:
- Cả hai con làm gì cả ngày mà không bắt được con cá nào?
Hằng vốn nhút nhát nay thấy lần đầu mẹ lớn tiếng với hai chị em liền hoảng sợ, nấp sau lưng Dung. Dung đưa tay ra sau ôm lấy lưng Hằng, cúi đầu nói:
- Thưa mẹ, em Hằng bắt được rất nhiều cá nhưng con lỡ trượt chân làm ngã giỏ cá của em xuống ao ạ.
Hằng nghe Dung cố ý muốn bao biện cho mình liền lên tiếng:
- Thưa mẹ, là con do mải mê chơi đùa không để ý nên đã làm ngã giỏ cá của chị Dung ạ.
Mẹ Phương nhìn hai đứa con trước mặt đang nói dối mình để bao che cho nhau thì càng tức giận hơn. Thế là mẹ quyết định cho cả hai chị em nhịn bữa cơm chiều nay.
Dung và Hằng ngồi trong phòng, cả ngày chưa được ăn gì nên chỉ biết ôm chiếc bụng đói mà khóc nức nở. Bỗng một luồng sáng toả ra, ông Bụt hiện lên và hỏi:
- Tại sao hai con khóc?
Dung và Hằng kể hết sự tình xảy ra cho ông Bụt nghe, ông Bụt bảo Dung và Hằng tìm xem trong giỏ còn con nào không thì còn duy nhất một con cá bống. Ông Bụt mới cất lời:
- Thôi hai con hãy nín đi. Hai con đem con cá bống này bỏ xuống giếng nuôi, mỗi ngày đem cơm cho bống ăn. Khi cho ăn hai con nhớ gọi bống: "Bống bống bang bang, lên ăn cơm vàng cơm bạc nhà ta, chớ ăn cơm hẩm cháo hoa nhà người."
Nói xong Bụt biến mất. Hai chị em nghe lời Bụt dặn nên đem Bống bỏ xuống giếng nuôi. Hàng ngày cứ đến bữa, hai chị em lại thay phiên mang cơm ra cho bống, hai bát cơm thì chỉ ăn một, để dành một bát lại cho cá bống. Chẳng bao lâu sau, cá bống đã lớn nhanh như thổi.
Thấy hai chị em ngày ngày đem cơm ra giếng, mẹ Phương mới đem lòng sinh nghi, quyết định rình xem thế nào thì phát hiện sự tình. Sáng ngày hôm sau, mẹ Phương giao cho hai cô con gái đi chăn trâu ở đồng xa, mẹ ngọt ngào dặn rằng:
- Con ơi, đồng làng mình cấm chăn trâu. Con đi chăn trâu thì chăn đồng xa, chớ chăn đồng nhà làng bắt mất trâu.
Hai chị em nghe lời mẹ dặn nên dẫn trâu đi thật xa. Ở nhà, mẹ Phương ra giếng gọi y như Dung và Hằng hay gọi mỗi ngày, cá nghe tiếng trồi lên miệng giếng, mẹ Phương liền bắt lấy đem thả xuống sông. Đến chiều chăn trâu về, Dung và Hằng đem cơm ra giếng kêu mà không thấy Bống lên. Thấy vậy Dung và Hằng ngồi khóc nức nở, Bụt hiện lên và hỏi:
- Làm sao hai con khóc?
Dung và Hằng lại kể hết cho Bụt nghe, lúc này Bụt mới bảo:
- Bống của hai con đã bị người ta bắt đi rồi. Thôi hai con hãy nín đi! Về nhà lượm lấy vụn bánh trung thu bỏ vào bốn cái hũ và chôn dưới bốn chân giường.
Dung và Hằng nghe lời vào nhà tìm vụn bánh trung thu, nhưng tìm mãi không thấy đâu. Bỗng có con gà ở đâu chạy ra: "Cục ta cục tác, cho ta nắm thóc, ta tìm bánh cho". Dung và Hằng lấy nắm thóc cho gà ăn, gà vào trong bếp, bới đống tro ra thì thấy vụn bánh ở đó. Dung và Hằng nhặt lấy đem bỏ vào 4 lọ chôn bốn chân giường.
Ít lâu sau nhà Vua mở hội, mọi người nô nức đi xem hội. Ba mẹ con chuẩn bị đi từ rất sớm, nhưng vừa bước ra cửa thì trời đổ mưa lớn. Hai chị em lại khóc nức nở.
Bụt lại hiện lên và hỏi:
- Làm sao hai con khóc?
Dung và Hằng kể rõ sự tình cho Bụt nghe, Bụt gật đầu và búng tay một cái, chỉ trong chớp mắt trời đã tạnh mưa. Nhưng ba mẹ con không có quần áo đẹp để đi xem hội, thế là hai chị em lại ôm mặt khóc. Bụt lại hiện lên:
- Làm sao hai con khóc?
Hằng sụt sùi:
- Cả ba mẹ con chúng con đều không có quần áo đẹp để đi xem hội.
Bụt đáp:
- Hai con hãy đào bốn hũ chôn ở bốn chân giường lên đi.
Dung và Hằng nghe lời vào đào bốn hũ lên, hũ thứ nhất mở ra là ba bộ váy áo đẹp rực rỡ - một bộ Gucci, một bộ Chanel, một bộ YSL, hũ thứ hai mở ra là ba đôi giày thêu rất đẹp, hũ thứ 3 là một chiếc xe đồ chơi nhỏ xíu, nhưng kì lạ là khi đặt xuống đất, chiếc xe đồ chơi bỗng chốc biến thành chiếc Mercedes màu đen, hũ cuối cùng là ba chiếc túi xách sang trọng. Ba mẹ con vui mừng khôn xiết, vội thay đồ rồi lên đường tiến kinh. Xe phóng một lúc đã tới kinh thành, nhưng chẳng may trên đường đi, Hằng đã vô tình đánh rơi một chiếc giày không kịp nhặt. Đến hội, Dung liền nhường giày của mình cho Hằng mang và ở lại trong xe.
Giữa lúc ấy, đoàn quân hộ tống nhà Vua đi qua chỗ mà Hằng đánh rơi mất giày, chiếc Porsche phanh gấp lại, vua cho lính xem xét thì tìm ra được một chiếc giày, nhà Vua đưa lên ngắm nghía: "Giày đẹp thế này, hẳn là người đi nó cũng rất đẹp".
Nhà vua ra lệnh cho tất cả đàn bà con gái đi trẩy hội thử giày, nếu ai đi vừa chiếc giày thì sẽ lấy về làm vợ. Ai ai cũng nô nức đến thử giày nhưng không một ai vừa, đến lượt mẹ con nhà Hằng, khi Hằng thử giày, chiếc giày vừa như in nhưng nhà vua lại yêu cầu nàng đưa chiếc còn lại thì lại không thấy. Đúng lúc đó, quân lính tìm được Dung và đưa nàng đến thử giày. Chân nàng vừa khít chiếc giày, đem so với chiếc thứ hai được tìm thấy trong xe thì đúng là một đôi, quân lính reo hò, nhà vua thấy thế thì mừng khôn xiết, vội cho người rước nàng về cung.
Từ ngày đó mẹ con Hằng sống trong sự buồn bã và căm hờn nhà vua, nhân ngày giỗ cha, Dung xin phép nhà vua về nhà để làm giỗ. Thấy Dung và nhà vua về, mẹ con Hằng vừa mừng vừa lo. Nhà vua sẵn bụng không thích hai mẹ con Hằng nên đã bày mưu chia rẽ.
Nhà vua bảo Hằng:
- Nay là ngày giỗ cha Dung, hay em hãy trèo lên cây cau hái xuống cúng cha phụ chị mình.
Hằng vâng lời trèo lên cây cau thì ở dưới quân lính đốn gốc, Hằng thấy cây rung rung mới hỏi.
- Anh làm gì dưới đó thế ạ?
Quân lính giả vờ trả lời:
- Gốc này nhiều kiến quá, anh bắt kiến cho nó khỏi đốt em.
Hằng ngã xuống ao chết chìm. Quân lính vội báo tin cho Vua và hai mẹ con Dung:
- Em Hằng hái cau không may rớt xuống ao chết.
Dung rất giận dữ nhưng không nói lời nào. Hằng chết đi biến thành con chim Vàng Anh, bay vào cung vua. Một lần người hầu đang giặt áo cho Dung, bỗng nghe tiếng hót:
"Giặt áo vợ tao thì giặt cho sạch,
Phơi áo vợ tao phơi lao phơi sào,
Chớ phơi bờ rào rách áo vợ tao."
Người hầu nghe thấy thế sợ lắm, Vàng Anh ở trong cung thì hót líu lo, Dung đi đâu Vàng Anh bay theo đó, thấy chim quyến luyến theo mình Dung bảo: "Vàng ảnh vàng anh, có phải em Hằng chui vào tay áo."
Chim bay đến đậu trên tay Dung rồi chui vào tay áo. Từ ngày đó Dung chỉ chăm lo cho chim, làm cho chim một cái chuồng bằng vàng, ngày ngày chăm sóc chim.
Nhà vua thấy thế tức lắm, ra lệnh lính bắt chim ăn thịt, lông chim mang đem chôn vào góc vườn, Dung biết được chuyện thì giận lắm. Góc vườn chỗ chôn lông chim Vàng Anh mọc ra hai cây xoan đào tỏa bóng sum suê, Dung thấy vậy bèn mắc võng ra nằm nghỉ ngơi. Lính lại về kể chuyện với Vua, Vua lại ra lệnh chặt hai cây xoan đi làm khung cửi, một lần Vua ngồi nghỉ ngơi, nghe tiếng khung cửi kêu:
"Cót ca cót két
Lấy tranh vợ chị
Chị khoét mắt ra."
Vua vô cùng sợ hãi vội sai người mang khung cửi đi đốt, từ đống tro mọc lên một cây thị cành lá xanh tốt um tùm, nhưng lại chỉ có một quả. Một buổi nọ, có một bà cụ đi chợ qua, ngồi nghỉ dưới gốc cây, thấy quả thị bà mới ngỏ:
"Thị ơi thị rụng bị bà
Bà để bà ngửi
Chứ bà không ăn."
Bà lão nói xong thị rụng vào bị của bà. Bà đem về nhà để trên gối, chỉ ngửi mà không ăn. Hàng ngày bà ra chợ, về đến nhà là cơm nước đã tinh tươm, nhà cửa sạch sẽ, mấy ngày như vậy, bà sinh nghi. Một lần bà giả vờ đi chợ, nhưng đi đến nửa đường bà lại quay về. Bà đứng bên ngoài cửa nhìn vào thì thấy một cô gái chui ra từ quả thị, dọn dẹp nhà cửa, bà vội vàng chạy vào xé ngay vỏ thị và ôm chầm lấy cô. Bà nhận cô làm con gái.
Từ đó, Hằng ở nhà giúp bà làm việc, bà lão mở quán nước ngay tại nhà, Hằng giúp bà têm trầu cánh phượng, quán mỗi ngày lại một đông khách. Một lần Dung và Vua đi qua, dừng chân nghỉ bên quán nước, thấy trầu têm giống như Hằng têm ngày xưa mới ngỏ ý hỏi:
- Bà ơi, trầu này ai têm mà khéo vậy?
Bà lão thật thà:
- Trầu này con gái bà têm.
Dung muốn gặp con gái của bà, bà mới gọi Hằng ra, Dung vui mừng khi nhận ra Hằng nên đã cho người đem nàng về cung. Về đến cung, Hằng kể rõ những sự tình cho Dung nghe, Dung tức giận đem quân lính đi xử tội, nhưng Hằng thương cảm, xin tha cho họ. Nhà vua vừa giận vừa tự ái đuổi Dung và Hằng ra khỏi cung, vừa ra khỏi thành, giông tố ập đến cuốn trôi cả quân lính và nhà vua. Từ đó Dung và Hằng sống hạnh phúc đến trọn đời.
Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Com