Truyen2U.Net quay lại rồi đây! Các bạn truy cập Truyen2U.Com. Mong các bạn tiếp tục ủng hộ truy cập tên miền mới này nhé! Mãi yêu... ♥

Hoàn


01/ảnh xưa

Ông nội qua đời vào đúng độ vào đông, gần giáp Tết Nguyên Đán. Mất vì suy tim. Cơ thể già yếu không chịu nổi cái lạnh của gió đông năm này.

Chuyện hậu sự của ông được ba giao hết cả cho tôi. Ba đã bước qua tuổi ngũ tuần, tâm cạn sức kiệt, không thể lo xuể lễ tang của ông nội. Hoặc cũng có thể là vì từ rất lâu về trước, ba trở nên bất hoà với ông.

Di vật của ông nội để lại trong viện dưỡng lão rất đơn giản, vài ba bộ áo Tôn Trung Sơn bạc chỉ sờn vai, áo quần tôi mua cho, vật dụng hàng ngày, và kính lão cùng kính lúp dùng khi đọc sách. Tôi chỉ biết tên của ông là Tăng Tử Phồn, còn như từng học ở đâu, biết quen người nào, cuộc dài nông sâu hay hạn hẹp thì hoàn toàn chẳng rõ. Còn ba tôi, có lẽ cả đời cũng không kể cho tôi hay.

Lúc thu dọn di vật, gấp lại những bộ quần áo đã cũ, tôi bỗng dưng thấy hoài niệm. Nhưng cũng chỉ là chút giây phút thoáng qua, sau đó lại dẹp buồn rầu sang một bên. Khi vuốt phẳng chiếc áo có cái túi sứt chỉ thì lại tình cờ mò thấy cái gì như là giấy cứng. Di ngôn? Là ý nghĩ nảy lên trong đầu tôi khi ấy. Tôi hy vọng ông sẽ để lại chút gì đó, vì bởi tôi biết thứ ấy nhất định là dành cho tôi.

Tôi hiếu kỳ lấy mảnh giấy cứng kia ra, nhưng lại ngoài dự liệu, đấy không phải là di ngôn như đã tưởng. Mà là hai bức ảnh đen trắng ố vàng, trước đó tôi chưa bao giờ thấy qua.

Một bức ảnh chụp một nhóm thanh niên trẻ, hẳn là từ rất rất lâu về trước, trong ảnh có người mặc áo dài có người vận tây trang. Bọn họ cùng đứng trước một cánh cổng, mặt mày rạng rỡ, nhưng đã sớm bị thời gian làm mai một lu mờ. Một bức ảnh khác thì chỉ chụp ba người đàn ông, vận áo sơ mi, miệng cười tươi tắn. Lật ra mặt sau bức ảnh, một hàng chữ đen đen cong cong làm tôi ngạc nhiên vô cùng: "Kẻ chốn góc biển xa xôi, người nơi chân trời cách biệt, sống chẳng hẹn ngày sau tương ngộ, chết chẳng mộng hồn cũ tương phùng." Từng chữ nắn nót thanh mảnh, đích xác là chữ viết của ông nội.

Những người này, là ai?

Ông nội là người lặng lẽ ít lời, khoẻ mạnh dẻo dai, ăn học đến nơi đến chốn, có chữ viết rất đẹp. Bởi vì ba mẹ tôi là công nhân viên chức, nên khi còn bé, đa số thời gian tôi được gửi cho ông nội chăm sóc. Những khi ở bên ông nội, ông thường dạy tôi viết chữ. Ông rất ít nói, lại luôn im lặng, nhưng lúc nào cũng nhìn tôi cười ấm áp... ấn tượng tuổi thơ về ông chỉ có vậy. Và còn cả cái bàn gỗ ghế đá ở dưới tán hoa quế um tùm suốt ngày đưa hương trong mảnh sân vắng.

Lúc học cấp hai, ba tôi làm ăn phất lên, dọn nhà rời quê, tới thành phố lớn. Thời gian sau đó, tôi không mấy nhớ rõ, tựu chung chỉ là những tháng ngày ba mẹ cãi nhau hết đòi ly hôn lại tái hôn. Càng lúc tôi càng quen với nhịp sống đô thành. Khi bắt đầu quên hết kí ức về quê cũ thì ông nội lại một lần nữa xuất hiện trong cuộc đời tôi. Ban đầu, tôi thật không dám tin ông cụ đầu tóc bạc phơ rối bời, gầy trơ xương đó, lại là ông nội tôi. Tuy bình thường ông đều luôn rất gầy, nhưng chưa bao giờ lại giống như khi ấy, trông tưởng chừng như chỉ còn mỗi tấm xương tàn.

Dưới quê tuy không có con cháu, nhưng những năm này xóm giềng vẫn luôn chiếu cố ông. Thế nhưng thời gian đổ lại đây, người ông kiệm lời nhưng ấm áp ấy lại bắt đầu uống rượu, chẳng bao giờ rớ đũa tới cơm cháo gì. Sức khoẻ của ông nhanh chóng xuống dốc, gầy đến chỉ còn mỗi lớp da bọc bên ngoài. Cho dù mọi người có can ngăn thế nào, ông vẫn cứ làm theo ý mình. Hàng xóm e chẳng thể đảm đương nổi, đành gọi báo cho ba tôi hay.

Tôi không rõ bắt đầu từ khi nào ba trở nên gay gắt với ông nội, nhưng tới cùng vẫn rước ông lên thành phố. Ông dưới sự càm ràm của ba, bắt đầu ăn uống trở lại. Trước đây ông vẫn hay nhìn tôi mỉm cười hòa ái, thế nhưng bây giờ, tôi thấy rõ mắt ông đã mờ. Ba tái hôn, gia đình mới hạnh phúc, tôi không hợp tính ba, ông nội ốm đau. Thế là hai ông cháu tôi nhanh chóng dọn khỏi nhà, tôi vào kí túc xá trường, còn ông thì vào viện dưỡng lão.

Chẳng biết có phải là do di truyền nhà họ Tăng hay không, mà từ sau khi mẹ tôi bỏ đi, gia đình chúng tôi cũng càng ngày càng trở nên lạnh lùng xa cách. Quan hệ giữa tôi và ba cũng đạm bạc như ba với ông nội, âm thầm trở mặt lặng lẽ bất hoà. Nhiều lúc tôi thấy ba và đứa con riêng của người mẹ kế mới giống cha con máu chảy ruột mềm. Vì vậy, phần lớn thời gian tôi đến ở với ông. Cả hai thường im lặng ngồi đọc sách, khẽ khàng vượt qua những buổi trưa nóng nực dài đằng đẵng.

Lúc thi lên nghiên cứu sinh, tôi công khai chuyện mình là đồng tính với ba. Chẳng phải vì đã có tri kỉ suốt đời tâm giao hay người yêu tâm đầu ý hợp, đơn giản là không muốn che giấu hay lừa dối gì. Ba vốn luôn là người hiểu lý lẽ đúng sai, thế như lần đó lại vô cùng tức giận, quay lưng trở mặt đoạn tuyệt quan hệ. Còn tôi vẫn bình chân như vại, nghĩ bụng cắt đứt thì cắt đứt vậy, căn bản chúng tôi cũng chẳng giống cha con một nhà. Sau đó, lúc ba đã bình tĩnh hơn, thì không nhắc gì tới chuyện đó nữa. Nhưng tình cảm đôi bên thì càng lúc càng nhạt dần.

Đôi khi tôi rất muốn hỏi ông nội, vì sao ba đời nhà chúng tôi lại thành nông nổi này? Nhưng tôi lại không muốn ông phải lo lắng. Có một vài câu nói tốt hơn hết là nên giữ lại. Tỷ như ông nội cũng chưa bao giờ hỏi tôi, tại sao ba lại không bao giờ tới thăm ông?

Hay tin tôi làm trợ giảng cho giáo sư đại học, ông nội vui lắm, bảo rằng gia đình mình đều là một mạch thư hương. Tôi không biết nhà họ Tăng là như thế nào, không một ai kể cho tôi hay. Tới năm thứ hai làm trợ giảng, thì ông nội mất.

Lúc biết tin ông qua đời, tôi không hề thấy buồn khổ gì. Còn nhớ hồi học tiểu học, ông ngoại mất, vừa nghe chuyện tôi liền khóc như mưa, tưởng chừng nước mắt đều cạn. Thế nhưng khi ông nội ra đi, tôi chỉ thấy mình như rơi xuống một cái giếng khô sâu hun hút. Quan hệ giữa tôi và ông nội vốn bình lặng như nước, không bao giờ có cảm xúc gì mạnh mẽ, vui quá hay buồn quá. Ngay cả lúc tôi đến viện dưỡng lão lấy di vật, tâm trạng cũng phẳng lặng như tờ, chẳng chút bi ai sầu muộn.

Nhưng rồi tối hôm ấy, tôi đã mơ thấy một giấc mộng. Quay trở về mảnh sân đìu hiu buồn tẻ ở quê cũ, đứng dưới tàng cây hoa quế, ông nội mỉm cười mà nói, "Tùng Viễn, ông phải đi rồi." Khi tỉnh lại, nước mắt cứ tuôn như vòi nước hỏng van, cảm giác lạc lõng mất mát ngày nào bỗng chốc hóa thành đau thương buồn tủi.

Ông nội của tôi, đã qua đời.

Sáng hôm ấy nhận được điện thoại của ba, bảo tôi toàn quyền lo liệu tang lễ. Mộ phần của dòng họ vốn ở quê cũ phía Nam, đồng nghĩa với chuyện tôi phải ôm tro cốt của ông hồi hương, quay về thị trấn đã xa rời mấy mươi năm. May là trường học đang trong dịp nghỉ, và trong thời gian này, có lẽ chỉ có mình tôi đón Tết cùng ông. Bình tro lạnh nằm trong tay như có lớp gai bao bọc, đâm vào lòng tôi đau rát.

Ông nội tôi, là người như thế nào? Có một cuộc đời ra sao? Tôi phải chọn di ảnh nào, khắc ghi lời gì lên bia mộ? Ông cho đến chết vẫn cất trong người hai bức ảnh cũ, liệu có câu chuyện nào đằng sau đó không?

Bỗng nhiên tôi khao khát mình có thể hiểu hơn về ông. Ngày thường mỗi lúc ở cạnh nhau, chúng tôi chẳng mấy khi nhắc tới chuyện cũ. Nhưng đến khi ông đi rồi, tôi lại muốn được biết nhiều hơn. Vì một già một trẻ chúng tôi đã cùng nhau đi qua mười năm cô đơn bạc bẽo.

02/quê cũ

Cố hương nằm ở phía Nam, là một thành phố núi. Mùa đông thành phố núi gió lạnh thấu xương.

Tôi mang tro cốt cùng di vật của ông nội về lại mảnh sân lạnh lẽo vắng teo. Cây hoa quế mùa nay lá rụng hết. Bàn gỗ ghế đá cũng tiêu điều lạnh giá.

Ngôi nhà cùng mảnh sân con này là tài sản duy nhất ông nội để lại, ngoài viện dưỡng lão thì đây chính là chỗ tôi và ông đã sống cùng với nhau. Thế nhưng khoảng sân be bé lưu giữ vài ba hồi ức tuổi thơ này rất nhanh sẽ không còn nữa, đã có thông báo phá bỏ và di dời dán ngoài cổng. Ba nhất định sẽ không quan tâm mà quay trở lại đây. Vì thế trước lúc rời đi, tôi sắp xếp lại hết đồ đạc của ông, mang về nơi tôi ở.

Tuy rằng đã về tới cố hương, nhưng quê tổ Tăng gia và nhà của ông nội không cùng trong một thị trấn, mà toạ lạc tại cổ trấn cách phố lớn mấy mươi cây số. Tôi chưa bao giờ đến đó, chỉ mới được nghe ông nội nhắc tới vài lần, là vùng hoa quế đỏ bốn mùa đưa hương thơm ngát, ba bề giáp với núi non xóm giềng. Nơi ấy từng là trạm dịch biên thuỳ, đồng thời cũng là xứ sinh ra biết bao vị tao nhân mặc khách cũ. Có lẽ ngày xưa khi ông bảo gia đình tôi vốn một mạch thư hương cũng chính vì thế. Nghĩ vậy bất giác tôi lại cười một tiếng.

Bởi vì cổ trấn vẫn còn lưu giữ rất nhiều giá trị văn hoá và là nơi sinh sống của nhiều cư dân bản địa, có đông khách du lịch nên một ngày đến tận mười mấy lượt xe đò lên xuống. Sáng hôm ấy tôi mua vé xe, đi đến quê tổ của ông nội, và cũng là của cả tôi nữa.

Còn mấy ngày nữa mới đến Tết, du khách cũng vãng đi nhiều, trên xe đa phần là người làm ăn trên thị trấn. Ngồi bên cạnh tôi là một thanh niên trẻ tuổi, sự nhã nhặn của cậu ta làm tôi chú ý nhiều. Đối phương nhìn không giống du khách, nhưng người dân phố lớn vẫn chưa được nghỉ lễ sớm như vậy. Như thể phát hiện đường nhìn của tôi, cậu ta liền ngước lên mỉm cười bắt chuyện, "Anh đến Quế Lâm du lịch à?"

Tôi lắc đầu, "Tôi đi có việc."

"Lần đầu tới ư?" Cậu ta rất nhiệt tình, "Nếu có thời gian thì đến tham quan cổ trấn của chúng tôi."

Vốn không phải người giỏi ứng xử, tôi chỉ biết đáp, "Tôi cũng định vậy."

"Tôi có thể làm hướng dẫn viên cho anh, không lấy tiền đâu!" Cậu ta hào hứng nói.

"Hoá ra anh là hướng dẫn viên du lịch à?" Tôi cũng vui vẻ bắt chuyện.

"Không phải, ba tôi mới đúng," Thanh niên nói, "Cơ mà những gì ông ấy biết tôi cũng biết."

"Nói vậy anh là dân địa phương?"

"Đúng thế, tôi sinh ra và lớn lên ở đây!"

"Thế thì chúng ta là đồng hương rồi."

"Gì, thiệt chứ? Tôi chưa từng gặp anh trước đây!"

"Ông nội tôi sớm đã rời khỏi đây, hôm nay là lần đầu tôi về quê cũ."

"Ông nội của anh đâu? Chắc ông tôi quen ông anh đó! Lát nữa tôi dẫn anh tới gặp ông tôi, ông ấy là trưởng thôn."

Những dân làng ngồi gần đấy phì cười, "Thanh Hứa, ông của cậu là cựu trưởng thôn mới phải!"

"Thì cũng là trưởng thôn cả thôi." Thanh niên tên Thanh Hứa xấu hổ nói.

"Quên không giới thiệu, tôi là Tăng Tùng Viễn." Tôi nói sang chuyện khác.

"Thái Thanh Hứa." Cậu ta chủ động chìa tay ra với tôi, "Họ Tăng là một tộc lớn ở Quế Lâm đấy."

Một vài đồng hương cũng họ Tăng hỏi tên ông nội, sau đó còn kể cho tôi nghe dăm ba chuyện về dòng Tăng thị. Đoạn lại bảo ông nội thuộc lớp tên thế hệ là "Tử"(tên thế hệ là tên dùng cho phần tên đệm của người TQ. Gọi là "tên thế hệ" vì bởi các anh em trong cùng thế hệ của gia tộc đó đều được đặt tên đệm giống nhau/theo wiki và baidu), nên hẳn ở Quế Lâm vẫn còn nhiều người lớn tuổi biết đến ông. Nhìn những đồng hương hồ hởi nhiệt tình, tôi cũng nhẹ gánh lo, cảm thấy như được an ủi đôi phần.

Đường tới Quế Lâm xa thật xa, lại quanh co khúc khuỷu. Làn đường rất hẹp, hai cỗ xe du lịch vất vả lắm mới chen nhau mà qua. Nếu xui xe giáp phải xe, bác tài phải vất vả tránh lui. Dân thành phố tôi cuối cùng cũng cảm nhận được thế nào đường thôn lối quê. Xe chạy mãi cũng tới nơi. Điều đáng ngạc nhiên chính là Quế Lâm không quê mùa nghèo nàn như tôi đã nghĩ.

Đầu thôn có một miếu thờ rất to, nằm chếch bên cạnh là đình nghỉ mát mái cong trổ long trổ phượng, ven đường trồng rất nhiều liễu xanh hoa đỏ, cảnh sắc cổ kính, bắt mắt khách ghé thăm. Nếu đứng từ xa trông lại, toà cổ trấn chẳng khác gì một dải kiến trúc xưa cũ nằm xếp lớp lên nhau.

Thái Thanh Hứa dẫn tôi đi vào trong trấn, thôn xóm dần hiện ra dưới hàng giậu xanh um tùm. Đường đá, cầu gỗ, bia xanh, nhà nhà đều là mái cong vòm lượn, suối nước trong veo rầm rì chảy qua. Nơi đây đúng là cổ trấn lâu đời, chẳng khác nào chốn thế ngoại đào viên.

"Khụ," Thái Thanh Hứa hắng giọng khiến tôi chú ý, đoạn lại chỉ tay về phía chiếc cầu đá nằm trước thôn, "Đây là cầu thạch bản (cầu được in chữ thạch bản tức in litô, một phương pháp in ấn trên bề mặt nhẵn/theo wiki). Anh xem, trước hai đầu cầu có dựng hai tấm bia lớn."

Tôi gật đầu, ra ý cho cậu ta nói tiếp.

"Một tấm thì khắc ngày tháng năm sinh, còn một tấm là để ghi lại thời điểm qua đời. Cầu này còn có tên là Sinh Kiều. Con người từ lúc sinh ra tới khi chết đi âu cũng chẳng khác gì bước qua một cây cầu."

Nghe Thái Thanh Hứa nói vậy tôi liền nhíu mày nhìn hai tấm bia sinh tử nọ. Nói thế, lẽ nào ngày mất của ông nội cũng sẽ được khắc lên trên đây? Tôi chợt ngây ra.

"Tùng Viễn?" Thái Thanh Hứa gọi tôi, "Chúng ta vào làng thôi."

Tôi đi theo cậu ta bước qua cây cầu nhân sinh thế sự đó. Ven đường có vài ba gốc hoa quế tuổi đã ngoài trăm năm. Rồi thì miêm man suy tưởng tới cuộc sống ông nội từng trải qua ở nơi đây.

Trong làng rất yên tĩnh, suốt đường đi chẳng có mấy người qua lại. Thái Thanh Hứa nói, đa số thanh niên trong làng đều đi học ở trường phố, người trưởng thành thì ra trấn lớn làm ăn, còn chăng chỉ là những ông cụ bà cụ cùng với cán bộ thôn mà thôi. Từ phía xa, tôi chợt nghe thấy có giọng nói rất to vọng lại, Thái Thanh Hứa cười bảo, là ba tôi đang giới thiệu cho khách tham quan đó.

Cuộc sống như thế cũng tốt, ở một nơi yên tĩnh xinh đẹp, sống cuộc đời nhàn nhã vô ưu.

Ngôi làng nằm trên triền núi, nên đường đi thường là những bậc thang nối dài. Cầu đá bắc qua một cái ao nhỏ nước chảy róc rách, bên dưới cá lội lung tăng, thu hải đường (hay còn gọi là Kim Chính Nhật) nằm rải dọc bờ đê. Tôi mê say thu trọn mọi cảnh sắc vào mắt, buồn vì mình đến tận bây giờ mới quay lại quê xưa.

"Ha ha, cá này là ông nội tôi dùng để dụ khách du lịch đấy." Thái Thanh Hứa nói, "Làm gì có chuyện trong ao lại có cá chép to và đẹp thế này."

Tôi cười một tiếng, "Chắc ai nhìn cũng hiểu thôi."

Muốn đi hết cổ trấn cần rất nhiều thời gian, nhưng tôi mong nhanh chóng được gặp người già trong thôn, vì vậy Thái Thanh Hứa liền dẫn tôi đến miếu tổ gặp ông nội của cậu ta.

Họ Tăng tuy là một tộc lớn ở thôn Quế, nhưng vẫn không qua được họ Thái. Như lời Thái Thanh Hứa nói, họ Thái là một chi lớn ở Quế Lâm, có hẳn một cuốn gia phả đồ sộ, con cháu thế hệ đầu tiên là hậu nhân của Tống triều. Miếu tổ Thái thị nghe đâu được xây dựng vào thời kì Tống Nguyên, trùng tu lúc Càn Long vi hành, nổi danh rực rỡ trong thời gian Khang Hi trị vì, và chỉ có con cháu đậu tiến sĩ mới được tiếp quản từ đường Thái thị.

Miếu tổ Thái gia hiện lên trước mắt tôi là một toà lầu đúc rộng lớn và cũ kĩ. Tôi đã ở đây tới năm mười tuổi mới đi, nên cũng rất quen với kiểu nhà xưa này.

Thái Thanh Hứa nhiệt tình giới thiệu, "Đây là kiểu kiến trúc mái vòm đỉnh cong trần gác gỗ sàn lát gạch hoa. Muốn vào sân trước phải bước qua mười một nấc thang đá ong..." Vẻ hướng dẫn chuyên nghiệp của cậu ta không khỏi làm tôi bật cười.

Đi vào miếu tổ, phía trên chính giữa trần nhà treo đầy các bảng hiệu Tiến sĩ, Cử nhân, Văn khoa, Võ khoa... Không khí trang trọng tới mức khiến người ta phải nghiêm cẩn cúi đầu.

"Thanh Hứa, cháu dẫn bạn tới tham quan đấy à?" Giọng nói của ông cụ cắt ngang tâm sự của tôi.

"Anh ấy tới là vì công việc." Thái Thanh Hứa dẫn tôi đến trước mặt ông nội của cậu ta, cũng chính là trưởng thôn trước ở Quế Lâm.

"Chào ông ạ. Cháu họ Tăng, tên Tăng Tùng Viên. Mấy ngày trước ông nội cháu mất, cháu về là để nhập mồ cho ông. Cha cháu muốn an táng ông nội trong mộ phận Tăng thị, cháu tới chính là vì chuyện này." Tôi khẽ cúi đầu, khách khí thưa gửi.

Thái Thanh Hứa không ngờ tôi về quê xưa là vì tang lễ nên có chút giật mình, "Tùng Viễn, anh... đừng đau buồn quá."

Tôi gật đầu một cái, lại chờ ông cụ lên tiếng.

"Cậu thật có lòng, người già, chết rồi đương nhiên phải an táng trong mộ phần tổ tiên. Dù chỉ là một hũ tro cốt nằm gối đầu cũng tốt..." Ông cụ vỗ vỗ tay tôi, "Tôi sẽ dẫn cậu đi gặp người lớn trong Tăng thị. Chàng trai trẻ, nói tôi biết tên ông cậu là gì nào?"

"Tăng Tử Phồn ạ." Tôi liền đáp, đoạn nhanh chóng bổ sung thêm thông tin nghe được trên xe đò, "Tên thế hệ là Tử."

"Cậu nói cái gì?" Ông cụ túm lấy cánh tay tôi, "Cậu nói ai?"

Lẽ nào ông cụ biết ông tôi? Tôi mừng thầm, chầm chậm nói, "Tăng.Tử.Phồn. Tử của cây Tử (một loại cây lấy gỗ làm đàn), phồn trong phồn thịnh."

"Không thể nào! Không thể nào!" Ông cụ liên tục xua tay lắc đầu, "Anh Tử Phồn đã qua đời cách đây năm mươi năm rồi!"

03/đêm đông

"Không thể nào! Không thể nào!" Ông cụ liên tục xua tay lắc đầu, "Anh Tử Phồn đã qua đời cách đây năm mươi năm rồi!"

Tôi vô cùng ngạc nhiện, "Ông à, liệu ông có nhớ nhầm không?"

Thái Thanh Hứa cũng nói, "Ông nội đừng làm Tùng Viễn sợ chứ, có phải là ông lầm lẫn rồi chăng?"

Ông cụ cũng có vẻ kinh ngạc vô cùng, nhưng lại chắc chắn đáp, "Ông không nhớ lầm đâu, Tăng Tử Phồn là họ hàng với nhà chúng ta! Anh ấy là thầy giáo của làng, thời trẻ từng học trường Tây, còn có tên là Đại Viễn. Ông nhớ rất là kỹ, năm mươi năm trước anh ấy đã mất vì bệnh phong hàn."

"Đại Viễn?" Tôi không hề biết ông nội còn có cái tên này, "Ông ơi, ông nội cháu sinh vào những năm đầu thế kỉ 20 phải không ạ?"

"Đúng vậy, anh ấy lớn hơn tôi 20 tuổi. Nếu anh ấy không phải là anh chồng họ của vợ tôi thì tôi cũng không gọi ảnh là anh đâu, phải là chú cháu mới đúng! Đại Viễn là tên hồi ảnh đi học, anh ấy dạy chữ cho chúng tôi, bọn trẻ trong làng bấy giờ đều gọi là anh Viễn."

Năm sinh giống nhau, nói vậy Tăng thị không thể nào có tới hai Tăng Tử Phồn. Dù sao đây cũng chỉ là một cái thôn nhỏ, chẳng mấy khả năng trùng tên. Bất chợt tôi lại nhớ trong di động có hình chụp của ông nội, bèn vội vàng lấy ra cho ông cụ Thái xem, "Ông ơi, đây là ông nội cháu, ông nhìn ra không?"

Bức ảnh được chụp hồi ở thành phố S, ông nội ngồi bên khung cửa sổ lớn trong viện dưỡng lão, đang cầm kính lúp đọc báo. Ngoài hiên mà mùa xuân cây cối xanh mơn mởn, ánh nắng vàng hanh rọi khắp người ông. Tôi chỉ có duy nhất tấm hình này thôi.

"Ồ, là người biết chữ, anh Viễn đích xác là người biết chữ. Còn bọn chúng tôi già hai thứ tóc rồi, cũng chỉ bập bẹ được vài ba tiếng!" Ông cụ nhíu mày nhìn vào di động, lắc đầu nói.

Tôi lại nhớ đến hai tấm ảnh đen trắng của ông nội, biết đâu chừng lấy ra cho ông cụ Thái xem, ông ấy sẽ nhận ra? Nhưng tiếc rằng tôi lại chẳng mang chúng trong người. Được rồi, vẫn còn chút manh mối.

"Ông còn nhớ ba của cháu không?"

"Nhớ nhớ, là một bé trai, bé trai rất đáng yêu! Tôi nhớ đâu ngày xưa thằng nhỏ bị ốm nặng, phải đưa sang nhà ngoại, sau đó thì không gặp nữa."

"Vậy, nhà bà ngoại cháu ở đâu?" Tôi hỏi.

"Ở trấn trên, cũng là người có học, nhưng vì thai lớn nên sinh thằng bé xong thì mất." Ông cụ thở dài.

Mọi thứ đều trùng khớp, nhưng tại sao lại có tin ông nội tôi đã mất năm mươi năm về trước? Còn người mà tôi gọi là ông nội suốt hơn hai mươi năm qua là ai?

"Tùng Viễn, anh đừng hoảng, chúng ta đến hỏi người trong Tăng thị xem sao." Thái Thanh Hứa nói.

"Thanh Hứa, cậu có thể hỏi thăm những người già trong làng giúm tôi được không? Bây giờ tôi phải quay lại thị trấn, ở đó có hình của ông tôi, ngày mai tôi lại xuống đây." Tôi thấy nghi hoặc vô cùng, hai bức ảnh cũ đó chính là chìa khoá quan trọng.

Từ biệt ông cụ Thái, Thái Thanh Hứa đưa tôi ra đầu làng, "Tôi sẽ hỏi thăm người trong xóm giúp anh, anh cũng gọi điện về hỏi gia đình xem sao."

"Cảm ơn cậu. Chuyện này thật sự là kỳ lạ quá." Tôi cười khổ một tiếng.

Trên xe đò quay lại thị trấn, tôi cứ siết chặt di động trong tay, sau cùng vẫn không gọi về cho ba. Nếu ba đã bảo tôi mang tro cốt của ông nội về quê, hiển nhiên là ba không hề biết chuyện này. Bây giờ mà gọi điện hỏi ba, thể nào ba cũng cằn nhằn than trách ông nội, rồi lại khó chịu trong lòng. Tôi suy nghĩ, trước tiên cứ làm rõ chuyện này, xong xuôi mới báo lại cho ba hay. Có lẽ, chuyện về ông nội và về tôi, mọi thứ đều cách ba tôi quá xa.

Tôi vuốt mặt, nhằm khiến bản thân tỉnh táo, tập trung suy tính cẩn thận. Ông nội đã từng nhiều lần nhắc với tôi về Quế Lâm. Tuy ông chưa bao giờ nói là muốn an táng trong mộ phần Tăng thị, nhưng lúc nào ông cũng bảo nơi này chính là cố hương người ta phải tìm về. Nếu như người tôi luôn gọi là ông nội không phải là Tăng Tử Phồn thật sự, vậy thì cũng phải là người Quế Lâm. Hoặc, nếu như ông cứ luôn tự ám thị mình là Tăng Tử Phồn thì sao? Nếu như ông đã tiếp nhận thân phận của Tăng Tử Phồn, vậy thì cũng phải xem gia hương của người đó là cố hương của mình.

Sau nhiều lần suy đoán, tôi vẫn không tài nào tin nổi chuyện này. Thế giới quan suốt ba mươi năm như thể bất ngờ bị đánh sập. Tôi chỉ hy vọng là ông cụ Thái đã nhớ nhầm. Thế nhưng vẻ mặt cùng giọng điệu chắc nịch đó của ông cụ làm tôi bất an không thôi.

Về tới thị trấn, tôi liền soạn di vật của ông nội ra xem lại. Mục tiêu đầu tiên là giá sách. Ông là người có học, nơi đây hẳn cất giữa nhiều ít bí mật.

Trên kệ, tất cả đều là sách của thế kỷ trước, vài ba tập thơ bình, đôi cuốn điển tích, cùng một vài sách báo cũ. Mỗi trang sách đều bị tôi rà soát qua, mất trọn một buổi tối. Đừng bảo là nhật ký, thư từ, hay giấy nhắn, tới cả một lời lưu niệm cũng chẳng có.

Nhà không có lò sưởi, ban đêm thành phố núi gió cắt rát da rát thịt. Tôi đun chút nước nóng rửa mặt. Ngọn đèn mờ nhạt rọi ra bóng tôi chếch dài trên đất. Thi thoảng có cả tiếng tay đụng chạm vào chậu rửa.

Đêm đông rét buốt như đang chậm rãi cắn nuốt mọi thứ. Lòng tôi như cái hố sâu hun hút.

Tôi nhắm mắt, chẳng thể tưởng tượng nổi tình cảnh ông nội tôi đơn côi lẻ bóng chống chèo đi qua những tháng ngày dài đằng đẵng trong ngôi nhà nhỏ này. Người ông lúc nào cũng lặng lẽ nhưng ấm áp đó, liệu có cô đơn chăng?

Bỗng nhiên tôi thấy ba tôi thật tàn nhẫn, cha con tôi thật tàn nhẫn. Vứt bỏ một ông cụ ở lại trong bốn bức vách lạnh lẽo. Và ông ấy, mỗi ngày chỉ có một mảnh sân con, một gốc quế già, và một kệ tủ chất đầy mấy mươi tập sách tuổi đời dài lâu hơn một thế kỷ.

Con người có lẽ chính là như thế này đây, cô đơn mỏi mòn rồi lặng lẽ tan biến.

Từ bé, tôi đã quen với sự ghẻ lạnh của ba đối với ông nội, nên thấy mọi sự hết sức tự nhiên. Tôi chưa bao giờ nghĩ, liệu ông cụ im ắng đó có bao giờ khát khao tình thân, hay mong muốn được sum họp với cháu con hay không.

Tôi nằm trên tấm phản cứng ngắc, ngắm thật kĩ hai tấm ảnh cũ. Người trong hình, hoặc là tươi cười rạng rỡ, hoặc là mặt mày hớn hở.

Trong nhà có sót lại tấm ảnh nào của ông nội lúc trẻ không? Tuổi thanh xuân ông có từng mộng tưởng gì? Tương lai vẽ ra có hình thù thế nào?

Có lẽ, ông không bao giờ nghĩ, kẻ đã trải qua bao tang thương dâu bể, nửa đời sau lại là một lão già lặng lẽ buồn tủi. Và lại càng không thể ngờ, mấy mươi năm sau đó, đứa cháu trai của ông lại đang ôm hai tấm ảnh ông để lại mà cắn răng khóc không thành tiếng.

"Kẻ chốn góc biển xa xôi, người nơi chân trời cách biệt, sống chẳng hẹn ngày sau tương ngộ, chết chẳng mộng hồn cũ tương phùng." Thốt nhiên tôi thấy mười năm này, tôi với ông, tuy gần nhau đấy, nhưng biển trời cách mặt.Cây muốn lặng mà gió chẳng đừng, con muốn dưỡng nuôi mà mẹ cha không còn. Bao nhiêu tiếc nuối hôm nay đều do ngày trước bản thân tạo thành.

"Ông ơi, chúng ta làm quen một lần nữa có được không... Cháu muốn biết ông tên là gì, muốn rõ trước khi cháu có mặt trên đời, ông là người thế nào, cuộc đời dâu bể ra sao..."

0 4/đầu mối

Một đêm chẳng mơ mòng, hôm sau tôi dậy từ rất sớm, là loại cảm giác bất an không cách nào yên giấc nổi. Trời chưa sáng, tôi ra nhà ga, mua vé tàu sớm nhất đi Quế Lâm.

Vài ngày nữa là đến Tết, một mình tôi ngồi đợi trong phòng chờ, bên ngoài khung cửa sổ thủy tinh sát đất là mọi người bận rộn qua lại. Đầu óc tôi trống rỗng, không muốn phải nghĩ tới điều gì, yên lặng ngồi thở ra những hơi khói trắng mờ. Hai bàn chân lạnh buốt, từng ngón tay tê cứng. Bữa sáng ăn lúc nãy lợn cợn chực trào lên cổ họng.

Sau đó là mấy tiếng đồng hồ ngồi xe, lòng dạ rối bời. Thầm mong hôm nay có thể sáng tỏ mọi nghi vấn. Thế nhưng câu nói "đã mất năm mươi năm về trước" đầy chắc chắn đó lại cứ như thòng lọng phủ xuống chực treo cổ tôi. Tôi ôm nỗi lòng bất an đi về phía đường núi quanh co gập ghềnh.

Khi đến Quế Lâm, trời mới vừa mờ mờ sáng. Khí hậu buổi sớm mai như càng lạnh hơn. Sương mù buốt rét mang theo hơi giá chui tọt vào trong phế quản.

"Tùng Viễn, anh tới sớm quá!" Nhận được điện thoại của tôi, Thái Thanh Hứa rất nhanh đã ra đầu thôn.

Đại não vốn chết lặng của tôi bấy giờ mới hồi phục lại được, "Xin lỗi, làm phiền anh thế này! Tôi, tôi ngủ không được, dậy từ rất sớm."

"Ai da," Thái Thanh Hứa vỗ vai tôi một cái, "Nếu tôi là anh thì cũng chẳng ngủ nghê gì được. Không sao mà, dân quê chúng tôi dậy sớm lắm."

Tôi miễn cưỡng cười một tiếng, đoạn lại thở hắt ra một cái, siết chặt cái túi trong tay. Hy vọng duy nhất bây giờ của tôi chính là hai tấm ảnh cũ này.

Thái Thanh Hứa vừa dẫn tôi đến chỗ nhà Tăng gia vừa nói, "Hôm qua tôi đã đi hỏi già Tăng, ông của anh, cụ Tử Phồn, là anh họ của già Tăng. Nhưng già cũng nói y hệt ông nội tôi, ông Tăng Tử Phồn đã mất năm mươi năm trước vì bệnh phong hàn, được an táng trong mộ phần Tăng thị."

Lòng tôi chợt chùng xuống, nếu Tăng Tử Phồn đã sớm xuống mồ vi an trong mộ phần Tăng thị, vậy thì ông nội tôi phải làm sao bây giờ? Dạ dày tôi đột ngột co thắt, âm ĩ đau. "Hy vọng rằng cụ Tăng có thể nhận ra người trong tấm hình, biết đâu cụ sẽ nhớ ra chuyện gì đó... rồi tôi sẽ đi hỏi ba mình xem thế nào."

Thái Thanh Hứa quay đầu lại nói, "Đừng lo lắng. Tôi sẽ cố hết sức giúp anh."

Gương mặt chân thành rạng rỡ của cậu ta xua tan đi phần nào u ám trong lòng tôi. Có rất nhiều ý nghĩ trỗi lên trong đầu, nhưng lại chẳng thể mở miệng ra nói cho ba tôi hay. Từ hôm qua tới giờ, chuyện này vẫn luôn đè nặng trong lòng, cơ hồ khiến tôi không thở nổi. Nếu có người để chia sẻ được đôi ba điều thì tốt qua, ít ra tâm trí cũng đỡ rối bời hơn.

Rất nhanh chúng tôi đã tới được nhà của cụ Tăng. Tôi đứng trước cửa hít sâu vài hơi rồi mới dám bước vào trong. Nơi đây cũng là một tòa nhà cũ kĩ, mảnh sân rộng lớn chất đầy củi khô. Ông cụ đang ngồi xổm dưới đất vót tre.

"Bữa nay già dậy sớm ghê, mặt trời chưa lên đã ngồi vót tre vót nứa thế này!" Thái Thanh Hứa dùng phương ngôn bắt chuyện với ông cụ, tôi chỉ nghe hiểu đôi ba điều.

"Già rồi, ngủ không được!" Ông cụ cười, tay vẫy không ngừng.

Thái Thanh Hứa kéo tôi đến trước mặt ông cụ, "Già ơi, đây là người hôm qua cháu nói với già đó, già nhớ chứ? Anh ấy là cháu của ông Tăng Tử Phồn..."

Tôi lo lắng chào ông cụ, "Cháu chào ông ạ."

Ông cụ nheo mắt nhìn tôi một hồi, rồi gật gù bảo, "Giống! Quả nhiên là rất giống!"

"Chuyện hôm qua cháu nói ấy, già đã nhớ ra được gì thêm không ạ?"

Ông cụ lắc đầu, "Chuyện này thiệt là kỳ cục quá, ông anh họ của tôi quả thật là có thằng con trai lưu lạc đã lâu..."

Tôi vội vàng lấy tấm ảnh ra cho ông cụ xem, "Ông nhìn thử xem, có người nào trong hình ông quen không ạ?"

Ông cụ cầm lấy bức hình, ra hiệu chúng tôi né ra tránh bóng cho ông được xem rõ. Tôi và Thái Thanh Hứa nhanh chóng bước ra sau lưng ông. Ông cụ ngắm tấm ảnh một lúc mới lắc đầu bảo, "Mấy người này... đều nhìn không ra..."

Tôi nhanh chóng nói, "Tấm kia thì trông rõ hơn đó ạ."

Ông cụ lấy bức hình chụp ba người lên nhìn, đoạn liền bảo, "Người này là anh họ!"

"Ai ạ?" Tôi kích động.

"Cái người ở giữa." Ông cụ chỉ vào thanh niên mặc áo sơ mi trông vô cùng nhã nhặn ở giữa tấm hình, "Người này đúng là anh họ Đại Viễn của tôi."

Thái Thanh Hứa nói, "Tùng Viễn, coi bộ là ông nội của anh quen biết với ông Tử Phồn, nếu không thì sao có ảnh chụp của ông ấy chứ. Nói không chừng, ông của anh cũng có mặt trong hình!"

Tôi gật đầu, chợt thấy rất khẩn trương, "Ông ơi, hai người còn lại ông quen không ạ?"

Ông cụ nhìn tôi, "Cái thằng ngốc này, phải gọi tôi là ông chú chứ."

Tôi không để ý bèn đáp, "Phải phải, ông chú, ông nhận ra hai người còn lại không?"

Ông cụ lắc đầu thở dài, "Không biết, hai người này hẳn là thiếu gia ở trên phố. Tôi chẳng biết ai cả."

"Già nói vậy là sao ạ?" Thái Thanh Hứa hỏi.

Ông cụ vừa vót tre vừa nói, "Hồi ấy, gia cảnh nhà họ Tăng kém nhà họ Thái nhiều lắm. Thái thị đều là người có học, nếu muốn đi học thì sẽ tới trường tư trên phố. Còn Tăng gia thì kiếm đâu ra tiền, chỉ có thể học trường làng, nhiêu đấy cũng may mắn lắm rồi."

"Vậy còn ông Tử Phồn?" Thái Thanh Hứa hỏi.

"Từ bé Đại Viễn đã thích đọc sách, học vỡ lòng ở trường làng cũng nhanh hơn người ta. Sau đó, người trong nhà tích góp tiền bạc cho ảnh lên phố ăn học... Nên chắc quen biết với mấy thiếu gia trong hình."

Hy vọng nhỏ nhoi phút chốc bị dập tắt, tôi không biết phải nói gì. Thái Thanh Hứa thấy tôi có vẻ thất vọng, bèn vỗ vai tôi một cái.

"Cơ mà tôi biết cái trường đó," Ông cụ nhìn bọn tôi, "Là trường tư thục trên trấn, bây giờ vẫn còn."

"Bây giờ vẫn còn? Ông là nói..."

"Là Khê Nam quán." Ông cụ bảo.

Tuy rằng cố hương là một thành phố núi nhỏ bé không chút tiếng tăm, nhưng không phải là không có lịch sử. Người trong làng hết sức tự hào với tích nơi đây là chốn chôn rau cắt rốn của một vị đại nho sinh, tương truyền rằng cây nhãn lòng do chính tay vị ấy trồng cùng mảnh sân cũ của ông ta đã trải qua cả trăm năm mưa gió bão bùng. Khê Nam quán chính là nhà của ông ta, sau thì trở thành ngôi trường nổi tiếng gần xa.

"Khê Nam quán, lẽ nào chính là thư viện Khê Nam? Ồ, nhưng bây giờ thì đã được sửa lại thành công viên văn hóa rồi, bên cạnh còn có cái nhà bảo tàng của huyện nữa." Thái Thanh Hứa nói, đoạn lại bất chợt hứng khởi mà rằng, "Tùng Viễn, chúng ta có thể tới Khê Nam quán tra hồ sơ, không chừng vẫn còn lưu lại tư liệu của học sinh thời bấy giờ? Ông nội của anh rất có thể là bạn học của cụ Tăng Tử Phồn."

"Chuyện đâu dễ cứ nói tra là tra ra được?" Tôi cười khổ.

Thái Thanh Hứa cười, "Dù gì cũng phải thử xem sao."

Tạm biệt già Tăng, Thái Thanh Hứa bảo tôi ra ngoài đầu thôn chờ cậu ta. Chốc sau, cậu ta lái một chiếc xe tải nhỏ (xe Pickup Truck) đến, "Đường núi thì đi xe này mới tiện. Tôi chở anh đi."

"Thế thì ngại quá, không dám phiền anh đâu." Tôi từ chối.

"Chuyện dính tới người trong thôn thì cũng dính tới tôi, anh cứ coi tôi như người nhà là được. Với lại bây giờ tôi cũng đang rảnh, giúp anh một tay cũng đâu hề gì." Cậu ta vẫy vẫy tay.

Tôi hết cách, đành leo lên xe, quả nhiên là ngồi trong xe thoải mái hơn rất nhiều.

"Quên nói với anh, cậu ba của tôi làm trong bảo tàng, có thể nhờ cậu ấy giúp một phen. Chúng ta dùng tấm hình làm điều kiện trao đổi, được không?"

"Trao đổi? Sao có thể chứ?"

"Đương nhiên là có thể. Bức ảnh chụp Khê Nam quán mấy mươi năm về trước giá trị vô cùng luôn đấy! Cái huyện này tới nay vẫn còn dựa bóng những gì vị nho sinh kia để lại đặng được nổi tiếng đấy. Bức ảnh của anh rất có giá trị với bảo tàng! Tặng tấm ảnh cho bảo tàng để họ phục chế lại, còn họ thì giúp bọn mình tra cứu tư liệu!" Thái Thanh Hứa lên sẵn kế hoạch.

"Anh nói cũng có lý." Tôi nhanh chóng đồng ý.

Khi chạy lên trên phố lớn thì cũng đã quá trưa, chúng tôi liền tới thẳng viện bảo tàng. Khi tôi dọn lên thành phố sống thì công viên văn hóa vẫn chưa xây, hiện tại trông nó rất có quy mô và tầm thế. Nhưng tôi lại chẳng lòng dạ nào đi tham quan, chỉ mong nhanh chóng tra được chút ít tin tức gì đó.

Cậu ba của Thái Thanh Hứa không phải là người Quế Lâm, nhưng lại hết sức hiểu biết về những người trong cổ trấn, sau khi xem xong ảnh chụp thì liền giúp chúng tôi tra cứu tài liệu.

Bước ra viện bảo tàng, tôi và Thái Thanh Hứa cùng đi dùng cơm. Món ăn quê nhà xa cách đã lâu chẳng may mảy lay động được tâm tư tôi.

"Anh đó, lo lắng nhiều quá rồi!" Thái Thanh Hứa nói.

Tôi miễn cưỡng cười một tiếng, "Tôi cứ cho là mình hiểu ông nội, nhưng bây giờ lại có chuyện như vầy, thật sự thấy rất khó chịu." Ông nội suốt đời cô đơn, nay khi đã thác lại chẳng có chốn về, điều này sao tôi chịu nổi.

Thái Thanh Hứa nhác thấy không thể làm gì giúp tôi khá hơn, đành nói, "Cậu tôi giỏi lắm, chắc chắn sẽ tra ra được thông tin gì đó!"

Nhờ lời may mắn này của Thái Thanh Hứa, chúng tôi vừa ăn xong tính quay về nhà của ông nội thì có điện thoại gọi tới, "Cái gì? Nhanh vậy sao! Được rồi, bọn con tới liền!"

"Sao?" Tôi lo lắng, "Đã tìm ra được?"

"Phải, nhờ vào bức ảnh ba người. Cậu tôi mang tấm hình tới phòng làm việc nhờ chủ nhiệm xem thử, nói rằng người trong hình đều là người có địa vị cả." Thái Thanh Hứa mặt mày hưng phấn đáp.

05/cố nhân

Tôi vừa lo lắng vừa hy vọng, dọc đường đi không nói gì. Thái Thanh Hứa hiểu lòng tôi, chỉ nói, "Tùng Viễn, cứ thong thả thôi."

Thật ra tôi vốn không phải kẻ ưa lo nghĩ, thường rất thờ ơ với mọi thứ, luôn bị mọi người nhận xét là người lãnh đạm. Nhưng chỉ cần là việc khiến tôi lưu tâm rồi thì khó lòng mà dứt khỏi ra được.

Cậu ba của Thái Thanh Hứa nhiệt tình nói, "Tiểu Tăng, hai tấm ảnh của cậu quả thật rất quý giá!"

"Cậu, cậu lợi hại thiệt, nhanh vậy đã có manh mối rồi!" Thái Thanh Hứa thấy tôi không còn lòng dạ nào nói chuyện, bèn đáp thay, "Cậu đừng thừa nước đục thả câu nhá, mau mau nói mọi chuyện cho con với nào!"

"Cậu có nói tên ra mấy đứa cũng không biết đâu mà lần, nhưng có hai nơi này hai đứa có thể đi. Một là dinh thự Lư thị ngoài ngoại ô, hai là mương Đại An ở Song Mai. Hai đứa biết chứ?"

"Dinh thự Lư thị thì cháu biết, là biệt viện của quân phiệt ngày trước." Tuy rằng tôi rời quê đã lâu nhưng vẫn không hoàn toàn quê mất mọi thứ.

"Nói quân phiệt thì cũng không đúng lắm. Lư sư trưởng hồi trẻ từng là hán gian nên phải lẫn trốn, sau đó thì chấn hưng quân đội về lại đường ngay nên được đón nhận. Khi quân ngụy được quân Quảng Đông sát nhập thành vệ quốc quân, một năm sau đó ông ấy cũng được tiến cử thành sư trưởng. Đến năm dân quốc thứ 15 (tức 1926), quốc quân lui về Phúc Kiến, ông được đưa vào đội tân quân tự chủ đầu tiên, một tay nắm hết chính quyền bắc Phúc Kiến. Ông thậm chí đã từng bắt cóc chính trị gia tỉnh ủy, đánh bom thủ đô."

"Chuyện đó con có biết, vụ đánh bom ấy hết sức đáng sợ!" Thái Thanh Hứa chen vào.

Tôi nén hiếu kỳ vào lòng, hỏi, "Người trong hình có quan hệ với Lư sư trưởng?"

"Nói sao nhỉ, có một người, thậm chí là hai người trong ảnh, có quan hệ với ông ta." Cậu ba của Thái Thanh Hứa đẩy đẩy gọng kính, "Lư sư trưởng từng là trùm quân phiệt, đánh bom thủ đô, bao vây Hồng Quân Trung Hoa (Quân đội chính phủ trong thời nội chiến TQ), tham gia công cuộc thành lập Chính phủ nhân dân Phúc Kiến (hay còn gọi Sự biến Phúc Kiến) cùng Thái Đình Khải ( lệnh của Lộ quân 19 Quân đội CM Quốc dân), sau đó còn đứng về phía chính quyền kháng Nhật. Năm mươi tuổi, ông ấy được Tưởng Giới Thạch khen thưởng. Đại khái là một huyền thoại lẫy lừng trong quân đội Dân quốc thời bấy giờ. Song, cuộc đời cũng có một sự nuối tiếc lớn."

"Nuối tiếc?"

Cậu ba lấy bức ảnh chụp ba người ra, "Người bên phải chính là con trai của ông ta."

Tôi nhíu mày nhìn cho kỹ. Người thanh niên trong hình mặc dù mỉm cười nhưng lại có khí chất vô cùng nội liễm. Nếu đứng ở khía cạnh thân thế mà nhìn, quả thật ông ta trông có vẻ chín chắn lạnh lùng.

"Cái nơi bé tẹo này chẳng có mấy người nổi tiếng, đa số ảnh chụp thời Dân quốc đã chẳng còn biết ai với ai. Thế nhưng trước khi Lư gia di dân sang Đài Loan có để lại một số hình chụp cho họ hàng ở đây. Cũng chính vì thế mà vừa nhìn, chúng tôi liền biết ngay thanh niên đứng bên phải trong tấm hình là con trai duy nhất của Lư sư trưởng, Lư Minh Huân."

"Lư Minh Huân." Tôi khẽ thầm thì cái tên này. Liệu phải chăng đây là ông nội tôi? Nhưng lại tự thấy chẳng mấy khả năng. Dựa vào thân thế và mặt mày khí chất, tôi không cách nào nhìn ra được sự hiền hòa ấm áp.

"Lư sư trưởng có ba gái một trai, nên vô cùng yêu thương đứa con trai duy nhất này. Ấy nhưng Lư Minh Huân lại trở mặt với ông ta. Đây chính là nuối tiếc lớn nhất đời sư trưởng."

"Vậy còn người bên trái?" Thái Thanh Hứa hỏi.

"Là thiếu gia Tiêu Quang Bảo ở khu Đại An. Chắc là mấy đứa không biết mương Đại An nhỉ. Chỗ này hiện nay là nơi còn lưu giữ rất nhiều nhà cũ xưa cổ từ sau vụ chính biến Phúc Kiến. Tiêu gia ở Đại An từ nhà nông chuyển sang buôn gỗ, rồi làm đại lý gỗ lớn nhất trấn, sau đó thì thành phú hộ giàu có nhất vùng."

"Vì cũng có hình chụp được bảo tồn nên cậu mới nhận ra người này?" Tôi ngắm kĩ thanh niên đứng bên trái, đôi mắt của đối phương hết sức nhu hòa, nụ cười lại hàm hậu. Ông ấy... có thể là ông nội?

"Đúng thế, ngoài ra thì cũng có một vài tin đồn về Tiêu Quang Bảo, phần lớn là có dính líu với người của Lư gia." Cậu ba thở dài một tiếng, tựa hồ là đang bùi ngùi thổn thức, "Lư sư trưởng về sau tu chỉnh làm người, không làm chuyện xấu, thế nhưng thời gian còn là quân phiệt đã từng gây ra không ít việc tày đình. Mặc dù sau khi hợp nhất quân đội, tính tình cũng sửa đổi, nhưng quân lương ít ỏi, lại ngựa quen đường cũ."

"Lẽ nào..."

"Người Song Mai không chấp nhận chuyện nộp thuế lương nên biểu tình chống đối Lư gia, thậm chí còn mắng Lư gia là Lư phỉ. Lư sư trưởng tức giận bèn đem quân đàn áp Song Mai, gây ra thương vong không ít. Trong đó có thiếu gia Tiêu Quang Bảo của Đại An."

"Ông ấy... đã chết?" Tôi liền thất vọng, xem ra ông nội không có mặt trong hình.

"Đúng thế. Thật ra Lư quân căn bản không đụng tới Đại An, chẳng qua là Tiêu Quang Bảo chết vì tên bay đạn lạc thôi. Một vài cụ ông trải qua sự kiện năm ấy kể lại, Tiêu Quang Bảo đã sớm biết Lư quân có ý định càn quét nên mới chạy từ Đại An tới Song Mai báo tin, rồi tử nạn. Về chuyện vì sao ông ta biết chuyện Lư quân thì chẳng ai rõ cả. Nhìn bức ảnh này, có thể thấy là Lư Minh Huân và Tiêu Quang Bảo có quan hệ rất tốt, có lẽ chính Lư Minh Huân là người đã nói chuyện càn quét của Lư quân cho Tiêu Quang Bảo biết."

"Cậu nói Lư Minh Huân trở mặt với Lư sư trưởng, có phải là vì chuyện ở Song Mai?" Thái Thanh Hứa hỏi.

"Ừ. Vì để xoa dịu dư luận thời bấy giờ về chuyện đó, Lư gia còn gả con gái cho phú hộ ở Song Mai. Có người đồn, cha con Lư gia không phải vì chuyện cán quét Song Mai mà trở mặt. Bây giờ ngẫm lại, nguyên nhân rất có thể chính vì cái chết của Tiêu Quang Bảo."

"Lư gia di dân tới Đài Loan, vậy hiện giờ làm sao để gặp Lư Minh Huân? Liệu có cách nào liên hệ với người của Lư gia?" Trong đầu tôi chỉ toàn chuyện liên quan tới ông nội, nói không chừng Lư Minh Huân biết rõ nguồn cơn cớ sự.

Cậu ba lại thở dài một hơi, "Sau đó Lư quân gia nhập vào quân đoàn 52 (tức quân chủ lực Lục Địa, thành lập năm 1937), Lư sư trưởng tới Nam Xương nhận chức ủy viên, không lâu sau đó thì từ chức ẩn cư. Em trai của ông ấy lên thay chức sư trưởng, đưa quân tới Thượng Hải kháng Nhật. Năm 1942 kháng Nhật diễn ra quyết liệt, có hơn 400 người được đưa về hậu phương cứu chữa, và hơn một ngàn quân phải hi sinh. Lư Minh Huân đã bỏ mạng trong nội chiến Tùng Hộ (Giang - Thượng Hải, cuộc nội chiến cùng năm với công cuộc kháng Nhật) năm ấy."

"Chết trong nội chiến Tùng Hộ..." Đầu óc tôi trống rỗng, không rõ là tiếc nuối hay hoảng sợ. Vốn luôn ngỡ rằng khói lửa chiến tranh thế kỷ trước chẳng cách nào liên lụy được núi sông thôn xóm nhỏ bé ngự phía Nam này, mọi thứ đều cách nơi đây rất xa, ấy vậy bây giờ nghe kể, hóa ra lịch sử lại gần gụi tới đau thương.

"Lúc bấy giờ Lư sư trưởng đau buồn không thôi, suốt ngày ru rú trong nhà, mấy năm sau mắc bệnh viêm phổi lại không chịu chạy chữa, sau cùng nghe đâu còn bị tướng phe địch ám sát nhưng không chết. Tới năm 1945, có tin Nhật đầu hàng, bấy giờ ông ta lại nhớ tới Lư quân cùng con trai đã vong mạng của mình mà khóc thương nhiều ngày, cuối cùng thì mất vì bệnh..." Cậu ba chặc lưỡi vài tiếng.

Tôi chẳng tâm trí đâu để thương cảm cho những chuyện này, toàn bộ suy nghĩ đều quy về việc của ông nội. Những tin tức về "người này đã mất, người kia thì khuất..." trong cuộc chiến tranh quân phiệt và nội chiến năm xưa đều đã lui về dĩ vãng. Thốt nhiên lại thấy chuyện về ông nội cũng đã quá xa xôi cách biệt. Bất kể là hán gian, quân phiệt đều chẳng liên quan gì tới cuộc sống của tôi. Chuyện về nội chiến Tùng Hộ hay đoàn quân kháng Nhật âu cũng chỉ được đọc qua trong sách sử. Tôi bất giác nghĩ, ông nội mình từng là một người thầy, một thợ mộc, một công nhân bình thường trong nhà máy, chẳng qua khi ông còn trẻ, xui thay đúng vào độ đất nước phân chia nhà nhà ly tán. Thời gian đó ông đã làm gì nhỉ? Có từng tham gia vào cuộc chiến?

Thái Thanh Hứa lau khóe mắt, cảm khải nói, "Ai, thiệt là bi thảm quá..."

Nhờ vậy, cậu ta cũng giúp tôi hồi tỉnh ra, dở mếu dở cười hỏi, "Anh vì vậy mà khóc?"

"Tôi..." Cậu ta đỏ mặt, "Tôi đa sầu đa cảm không được à!"

Nhìn cậu ta nước mắt giọt ngắn giọt dài, tôi cũng không phải buồn rầu gì thêm nữa, có lẽ lệ đó cũng là khóc người xưa chuyện vãng thay tôi rồi.

"Cậu có nhận ra ai trong tấm hình chụp nhiều người không?" Tôi hỏi.

"Tấm ảnh đó mờ quá lại chẳng rõ mặt, nên tôi chẳng biết ai. Bất quá, bức hình ba người ấy cho thấy giữa Lư Minh Huân và Tiêu Quang Bảo là có quan hệ khắng khít, chuyện này rất có ý nghĩa với bảo tàng. Vì vậy ấy, cậu cứ yên tâm, chúng tôi sẽ tận lực phục chế lại tấm ảnh nhiều người nọ, huống hồ gì chuyện cũng có liên quan ít nhiều tới danh tiếng thư viện Khê Nam này mà!" Cậu ba vỗ vai tôi.

"Cậu thiệt biết tranh thủ!" Thái Thanh Hứa đùa, nhằm giúp bầu không khí vui vẻ lên.

"Liên quan gì cậu mày hả, chuyện đều do ông chủ nhiệm phụ trách cả, ai bảo ông ấy là người đầu tiên nhận ra nhân vật trong hình..."

Tôi khẽ thở dài một tiếng. Hình giữ trong người đã lâu, ấy vậy lại chẳng hay đằng sau bức ảnh ba người miệng cười tươi tắn này là đầy ắp những thăng trầm lịch sử. Họ đã từng cùng nhau đứng chung một chỗ chụp hình lưu niệm, thế nhưng mệnh số lại chẳng tương thức chung đường. Một người chết vì tên bay đạn lạc, một người hi sinh trong chiến trận kinh kỳ, còn một người thì an phận với đời dạy học ở quê, mấy mươi năm sau qua đời bởi bệnh phong hàn...

Hôm nay là tôi cầm ảnh người xưa trải lòng cảm khái, thế nhưng sự đời xoay vần luân chuyển, ngày sau tiếp nối, ai người thương cảm phận tôi đây?

Tạm thời không nói tới việc buồn quá khứ, tới lui thưa chuyện cũng mất trọn một ngày, bây giờ đã là buổi chiều bốn giờ hơn. Mùa đông mặt trời lặn sớm, sắc trời chỉ u uất một màu xám xịt, rất hợp để tả lòng tôi lúc này.

Manh mối quan trọng tôi trông chờ vào, cứ đơn giản mà bị chặt đứt.

06/lối tắt

Thái Thanh Hứa định chạy thẳng về Quế Lâm, ấy nhưng vào đông trời tối sớm, tôi lo cậu ta ban đêm một mình lái xe chạy đường núi không an toàn, nên liền giữ cậu ta ngủ lại một đêm trên trấn. Cậu ta đã giúp tôi rất nhiều, với lại tôi cũng muốn có người tâm sự. Thái Thanh Hứa có lẽ thấu suốt lòng tôi, nên không từ chối, thậm chí còn dẫn tôi đi dạo một vòng thị trấn, đưa đi thưởng thức món ngon quê nhà.

Khi trở về nhà của ông nội thì đã chín giờ hơn. Chúng tôi đậu xe trong sân, rồi đi bộ ra siêu thị mua khăn mặt cùng bàn chải cho Thái Thanh Hứa. Đêm nay trời đông không gió nhưng vẫn lạnh thấu da. Đang giáp mười lăm, trăng vàng lanh lảnh ngự giữa trời đêm trong vắt, phủ ánh sáng bàng bạc xuống mọi vật, khiến ý lạnh càng thê lương não nùng.

"Tùng Viễn, anh có muốn mua túi giữ ấm không?" Thái Thanh Hứa hỏi, hơi thở phả ra cũng hóa thành luồng khói trắng.

"Cậu sợ lạnh à?" Tôi hỏi.

Cậu ta khẽ lắc đầu, gương mặt giấu hơn một nửa dưới chiếc khăn choàng cổ khiến nhìn có vẻ trẻ con, "Đêm không gió mà lại lạnh thế này, sớm mai thể nào cũng có sương mù, chắc chắn bọn mình sẽ tỉnh vì lạnh cóng cho xem!"

Tôi từng sống ở đây, đương nhiên biết sương mù buổi sớm ở thành phố núi lạnh thế nào. "Túi giữ ấm chẳng để qua được sáng mai, chúng ta cứ mua hẳn chăn điện cho tiện?" Trong nhà toàn là đồ ông nội để lại, tôi đúng thật đã quên chuyện phải giữ ấm cho mình.

Thái Thanh Hứa cười, "Chắc Tùng Viễn là sợ sáng mai lạnh quá nên mới mua chăn điện cho tôi phải không?"

Dù là bị trêu chọc nhưng tôi lại không thấy phiền lòng. Bình thường tôi chẳng dễ ở chung với người khác, nên không khi nào có chuyện người mới gặp hai ngày đã thân. Thế nhưng chẳng hiểu vì sao lại hòa hợp với Thái Thanh Hứa như vậy, ở cạnh cậu ta thấy rất dễ chịu. Vì thế tôi liền đùa theo, "Nếu tối mà chăn không ấm, tôi sẽ đá anh xuống giường."

"Tùng Viễn muốn sao cũng được." Cậu ta vô cùng phối hợp, đoạn lại choàng vai tôi mà rằng, "Chúng ta mau đi mua chăn điện thôi."

Tôi cười một tiếng, nỗi thất vọng vì mất manh mối cũng vơi đi bớt.

Lâu nay tôi cũng không mua cái chăn điện nào mới, bây giờ đang là mùa đông, nên có sắm sửa tí cũng không đáng gì. Trên đường về nhà, đi bộ mãi cũng ra mồ hôi, ấy nhưng hai bàn tay vì xách đồ mà thò ra bên ngoài thì lạnh cóng lên. Vừa vào nhà, Thái Thanh Hứa đã xung phong đi nấu nước.

Tôi thì trải chiếu, lấy hai bộ chăn đệm của ông nội ra xếp thành hai cái kén ngủ, rồi lại phủ thêm lớp chăn điện vừa mua. Tuy là nếu ngủ cùng nhau thì sẽ ấm áp hơn, nhưng tôi không cách nào có thể cùng người vừa quen nằm chung mền chung gối được.

Thái Thanh Hứa nấu nước xong trở vào phòng, nhìn tác phẩm của tôi thì liền cười, "Tôi cứ tưởng bọn mình sẽ ngủ chung chứ, ai dè là tôi đã tưởng bở rồi."

Tôi bị cậu ta chọc cười, cảm giác xấu hổ lúc trải giường cũng tiêu tán đi.

Uống chút nước nóng, rồi ủ tay cho ấm, người dần tan đi cái lạnh ban nãy. Tôi dẫn Thái Thanh Hứa đi ngó một vòng nhà của ông nội, kể chuyện lúc bé mình từng sống ở đây một quãng thời gian, tính ra cũng xem như là nửa chủ nhân. Ấy thế, câu chuyện chỉ tới nửa chừng ấy thì ngừng, ngôi nhà quạnh quẽ tới đáng sợ. Nỗi buồn thương quấn lấy thân suốt mấy ngày nay lại trỗi lên, nhất là khi đã hay chuyện thương tâm đằng sau tấm ảnh chụp, lại đang cảnh đêm đông vắng người im tiếng, tâm rất dễ sầu dễ đau. Kể ra cũng là một nỗi may, khi mà đêm nay có Thái Thanh Hứa bạn cùng, bằng không một mình, hẳn lại tự chuốc rầu vào thân.

Thái Thanh Hứa thấy tôi im lặng, bèn hỏi, "Anh đang nghĩ tới chuyện ông nội mình à?"

"Ừ." Tôi gật đầu, "Tôi đang nghĩ xem liệu có còn cách nào nữa không."

"Anh đã hỏi thăm bạn bè của ông anh chưa?"

Tôi lắc đầu, "Ông tôi chẳng có bạn bè gì, có chăng chỉ là đồng hương hàng xóm ở quê nhà. Trước khi về đây tôi có nói cho ba tôi hay, vùng này sớm đã có thông báo di dời, rất nhiều người sớm đã chẳng còn đây, còn những ông bạn của ông tôi cũng đã qua đời nhiều năm về trước."

"Vậy, anh biết ông anh ngày xưa làm gì không?" Thái Thanh Hứa hỏi, "Một cái huyện nói lớn chẳng lớn, nói nhỏ chẳng nhỏ, hẳn là có ai đó biết chuyện ông anh. Nếu anh biết ông của anh từng làm việc ở đâu, chúng ta có thể tới đó hỏi thăm người ta, tìm ra chút manh mối gì đó."

Quả nhiên đây là lối tắt để tìm hiểu. Tôi thôi cau mày, đáp, "Hồi trước ông từng làm ở trạm lâm nghiệp." Cố hương là một thành phố núi, trước nay có danh về nghề làm gỗ. Ngày xưa, núi non còn nhiều, hệ thống lâm nghiệp phủ khắp vùng, cả ba và mẹ tôi cũng từng làm việc ở trong xưởng gỗ. Tôi từng nghe ba nhắc tới, ông nội xưa từng là người trong xí nghiệp, nhưng giữ chức vụ gì thì không rõ lắm, có thể là người vận chuyển, thợ mộc, hay kiểm soát viên, hoặc cả người gác rừng.

"Trạm lâm nghiệp ư..." Thái Thanh Hứa nói, "Có rất nhiều người thôn mình từng làm trong xưởng gỗ, trước khi là hướng dẫn viên du lịch ba tôi cũng là trưởng ca trong xí nghiệp."

Dùng internet tìm kiếm tin tức về ông nội thì chẳng khác gì mò kim đáy bể. Tôi khẽ vuốt chiếc điện thoại di động trong túi quần, lo lắng không biết có nên gọi về hỏi ba.

"Đừng nản lòng, ông của anh sống ở đây đã lâu, không có chuyện không điều tra được gì." Thái Thanh Hứa động viên tôi, "Đi ngủ sớm một chút, ngày mai lại bắt đầu tìm kiếm, được không?"

Tôi đương nhiên hiểu chuyện này không thể ngày một ngày hai là xong, có buồn lo thất vọng cũng chẳng phải cách, nên cố lơi lỏng tâm tình, chuẩn bị rửa mặt đi ngủ.

Chăn đệm tuy cũ nhưng đã được tôi mang ra phơi nắng hôm mới về nhà, bây giờ nom cũng thơm mát ấm áp. Từ lúc tôi công khai mình là người đồng tình, chưa từng chung đụng với bất kì người đàn ông nào. Bây giờ, tôi và Thái Thanh Hứa tuy chẳng chung gối chung chăn, ấy vậy lại thấy khẩn trương đến lạ.

Tôi lăn qua trở lại mấy bận, ổ chăn cũng mất nhiệt phần nào.

Thái Thanh Hứa nghe thấy động tĩnh, bèn hỏi, "Ngủ không được à?"

Tôi cứng người, không dám nhúc nhích, "Ừ, có quấy rầy anh không?"

Cậu ta cười khẽ một tiếng, giọng nói chợt rõ hơn, "Tôi cũng ngủ không được."

"Anh có bị lạnh không?" Tôi hỏi ngay.

"Không." Cậu ta dừng lại một chút, rồi hỏi, "Anh có thấy tôi vô duyên và lo chuyện bao đồng quá không?"

"Sao anh lại hỏi thế?" Tôi khó hiểu.

"Vì từ lúc gặp tới giờ tôi cứ bám dính lấy anh thôi." Cậu ta nói, "Tự tôi còn thấy mình thật vô duyên nữa là. Anh coi, mấy ngày trước mình còn không biết nhau, bây giờ lại nằm chung một cái giường."

Bỗng dưng tôi cũng thấy chuyện thật lạ kì. Nếu cậu ta chẳng nói, tôi cũng không tin là mình đang cùng một người mới chỉ quen vài ngày ngủ chung trên một cái giường. Ấy vậy, chuyện cứ tự nhiên mà xảy tới.

"Số phận thiệt kỳ diệu." Thái Thanh Hứa cảm khái, "Vừa gặp anh tôi đã thấy rất thân, cảm giác như biết nhau tự thuở nào, cứ muốn nói chuyện với anh, giúp anh một tay... Liệu anh có thấy tôi phiền phức đáng ghét không?"

"Đừng nghĩ lung tung, tôi thấy cảm ơn anh không hết nữa là. Thật đó!" Tôi chợt rất cảm động.

"Anh không ghét tôi thì hay rồi. Tôi không phải là người xấu đâu." Cậu ta cười, "Ở chỗ tôi người ta chẳng cướp tiền bao giờ, chỉ cướp sắc thôi."

Tôi xùy một tiếng, "Ai cướp ai còn không biết đâu."

"Hừ, chỉ mạnh miệng." Cậu ta nghẹn lời, đoạn là chuyển ý, "Mau ngủ đi."

Tôi bật cười, bị cậu ta trêu chọc như thế, lo lắng buồn phiền gì cũng chắp cánh bay, hẳn là có thể chợp mắt được ngay.

Giữa lúc mơ màng chuẩn bị thiếp đi, tựa hồ nghe thấy Thái Thanh Hứa thầm thì, "Đừng lo lắng, tôi sẽ giúp anh."

"Ừ." Tôi cũng đáp nhanh một tiếng.

Hoặc cũng có thể, lời này chỉ là một giấc mộng mơ hồ thoáng qua rồi lạc giữa đêm đông mà thôi.

7 /đồng hương

Sáng hôm sau, tôi vì lạnh quá mà bật tỉnh. Người thì vẫn còn ấm nhưng hai chân đã tê cóng đi. Trong phòng tối om, rèm cửa chắn hết ánh mai buổi sớm, chỉ nghe thấy tiếng chim hót thánh thót trong vườn. Tôi nằm nghiêng qua một bên, thấy có chút đau đầu.

"Anh dậy chưa?" Tiếng của Thái Thanh Hứa vang lên làm tôi giật mình. Sớm đã quen với chuyện sống một mình, ấy nhưng sáng nay lại phát hiện còn có một người khác nữa nằm trên giường mình, nên thấy có hơi kỳ quái.

"Ừ." Tôi đáp, "Anh lạnh không?"

"Không." Cậu ta ngồi dậy, "Anh cứ nằm thêm chút nữa đi, tôi đi nấu nước."

Theo lẽ thì không nên để khách dậy sớm nấu nước, nhưng người tôi lại đang run bần bật, đầu cũng đau vô cùng, nên chẳng can ngăn gì.

Không lâu sau, Thái Thanh Hứa gọi tôi rời giường. Tôi định ngồi dậy, rồi lại không chút sức lực, tay cứ run lên mãi.

"Anh sao vậy?" Cậu ta chạy tới dìu tôi.

Bấy giờ tôi không thể mạnh miệng nữa, đành mệt mỏi đáp, "Chắc là hồi đêm trúng gió, bây giờ người sốt rồi." Từ trước tới nay mỗi khi bị cảm thì tôi lại thành như vậy, người rét run, đầu đau, tứ chi bải hoải.

Tôi ngỡ rằng Thái Thanh Hứa sẽ đưa tay sờ trán tôi, dè đâu cậu ta lại trực tiếp dùng trán mình để lên trán tôi, "Đúng là nóng thật. Ai cha, xin lỗi! Tôi quen rồi... tôi... chờ tí. Anh mặc áo vào rồi uống chút nước ấm, tôi sẽ đi mua điểm tâm và thuốc!" Thế rồi cậu thanh niên kia mặt mày đỏ bừng chạy vội ra cửa. Tôi cười thầm một tiếng, mặt cũng khe khẽ nóng lên. À, chắc là sốt tới mụ người rồi.

Tôi ngồi nghỉ một lúc, tới khi đầu không còn xây xẩm thì mới đứng lên choàng áo vào, đoạn bước ra cái hồ ngoài sân rửa mặt. Mặt nước hồ đã đóng thành một lớp băng mỏng, khi mở vòi nước thì nghe thấy tiếng xì xèo như ai bị sổ mũi. Thốt nhiên lại thấy hoài niệm, chẳng dằng lòng được mà nhớ tới rất lâu về trước, từng ở đây sinh sống qua những mùa đông.

Chốc sau, Thái Thanh Hứa hớt ha hớt hải chạy về, "Tôi mua cháo trắng và dưa muối, anh ăn đi rồi uống thuốc." Cậu ta kéo tôi ngồi xuống ghế, "Tôi còn mua cả nhiệt kế, loại thủy ngân ấy, anh cặp nhiệt độ trước đi. Coi chừng, trời lạnh đấy..."

Tự rất lâu về trước, ba mẹ đã quen với chuyện tôi ưa đau bệnh nên chẳng mấy để tâm. Bao nhiêu năm qua đi, chẳng ai sốt sắng lo lắng cho tôi như thế cả. Tôi vừa thấy có chút buồn cười, vừa âm thầm hưởng thụ, "Chỉ là đau đầu sổ mũi thôi, anh đừng lo lắng quá."

"Bệnh sao có thể không lo chứ." Cậu ta vừa mở nắp hộp cháo vừa nói, "Nếu không, anh cùng tôi về lại dưới thôn đi."

"Tôi về đó làm gì?" Tôi có chút ngạc nhiên.

Thái Thanh Hứa ngước đầu lên chăm chú nhìn tôi, "Hiện giờ anh đang bệnh, ở một mình chẳng ai lo. Hơn nữa thời tiết bây giờ chẳng thể mang chăn màn ra phơi, tới đêm thì lạnh cóng, ngủ dễ cảm lạnh lắm. Anh cứ theo tôi về lại dưới thôn, mẹ tôi mấy bữa trước vừa lấy mền mùng ra phơi xong."

"Thế không hay lắm đâu." Tôi lắc đầu, "Sao tôi có thể tới ở nhà anh được."

"Có gì lại không thể chứ, Thái gia với Tăng gia cũng là chỗ quen biết bao lâu nay. Còn không thì anh tới nhà họ Tăng ở, già Tăng là ông chú của anh. Chắc anh cũng không nở để mình già sống cô đơn trong ngôi nhà to như vậy? Tôi sẽ mang chăn màn nhà tôi sang cho anh dùng!"

"Thật tình là không cần phiền phức vậy đâu." Tôi từ chối.

"Anh coi, bọn mình về lại đó, tôi có thể nhờ ba tôi hỏi thăm những đồng sự ở trạm lâm nghiệp về ông nội anh. Quế Lâm dẫu sao cũng là cố hương của anh, đừng làm như người xa lạ vậy. Cứ quyết định thế đi." Thái Thanh Hứa tự nói tự quyết, không cho tôi chút cơ hội cự tuyệt, rồi sau đó múc ngay thìa cháo thổi nguội rồi đút vào miệng tôi. Vì vậy, tôi cũng không thể làm gì khác hơn là cúi đầu đồng ý.

Ăn xong bữa sáng, uống xong thuốc cảm, tôi xếp vài ba bộ đồ đơn giản vào giỏ, cùng Thái Thanh Hứa về Quế Lâm.

Thật ra tôi chỉ bị sốt nhẹ, uống thuốc rồi cũng đỡ hơn, tới khi về Quế Lâm thì khỏe hẳn. Thôn xóm ở Quế Lâm nằm trên triền núi, cao hơn rất nhiều so với mặt nước biển, khí hậu tính ra còn lạnh hơn ở trên thị trấn, nhưng lại trong lành yên tĩnh. Được hít thở không khí trong ngần như thế, cả người tôi như tỉnh táo ra, tinh thần cũng tốt lên rất nhiều.

Trước khi về đây, Thái Thanh Hứa có gọi điện cho ba cậu ta bảo rằng đưa tôi trở lại, nên khi xe ngừng chúng tôi liền tới nhà cậu ta. Bước qua rất nhiều thềm đá, rẽ vào sa số con đường quanh co nằm khuất dưới những hàng hiên mái ngói mới tới được nhà của Thái Thanh Hứa. Nơi ấy cũng là một tòa nhà dựng bằng gỗ, to lớn và cổ xưa.

"Nhà tôi nhìn cũ vậy thôi chứ đã sớm sửa chữa lại lâu rồi." Thái Thanh Hứa vừa nói vừa đẩy cửa vào nhà.

Tuy cậu ta nói vậy nhưng kiến trúc ngôi nhà vẫn làm tôi thấy thích thú vô cùng. Sân trước thì trải đá xanh, xà nhà thì gác bằng gỗ có trổ chim muôn, hiên bên lại khắc hoa lá, trông đẹp vô cùng, phảng phất như trăm năm thời gian đều đọng lại đây. Thái Thanh Hứa còn bảo, sàn nhà không phải làm bằng loại vữa trộn từ cát dưới đáy sông và vôi, mà là loại pha giữa gạo nếp, đường mật cùng đất vàng mà nên. Thật tình tôi chẳng dám tin nền nhà kiên cố như thế lại được làm từ gạo nếp.

Tôi vừa ngồi xuống ghế thì ba Thái đã đi từ sân sau ra, mẹ Thái cũng bưng trà lên. Tôi lúng túng chẳng biết làm sao, đành cúi đầu bảo đã quấy rầy gia đình rồi.

Ba Thái là một người đàn ông trung niên tráng kiện, thuộc kiểu hồn hậu thuần phác do sinh sống ở phố núi, "Đây là trà thanh minh năm nay, hàng hái ngay chính trong vườn. Người nhà quê chẳng có trà gì sang quý, cháu uống thử xem sao."

"Bác đừng khách sáo, với lại cháu cũng không hiểu gì về trà." Tôi chỉ biết trà thanh minh là loại trà chỉ hái những lá đọt vào trước tiết thanh minh, còn bàn về phẩm vị thì thật tình tôi không rõ.

Tôi vừa nâng tách trà để lên miệng thì Thái Thanh Hứa liền ngăn lại, "Anh mới uống thuốc cảm nên đừng uống trà, coi chừng giả thuốc mất."

"Tiểu Tăng bị bệnh à?" Ba Thái hỏi.

"Không có gì đâu ạ, chỉ là hồi đêm bị trúng gió thôi." Tôi vội đáp, "Sáng nay uống thuốc xong đã đỡ hơn rất nhiều."

"Uống thuốc rồi thì tốt. Gió ở đây độc hơn dưới thị trấn nhiều, cháu nhớ cẩn thận." Ba Thái nói, đoạn lại chuyển đề tài, "Bác có nghe chuyện của cháu. Cháu có nhớ ông nội cháu từng làm ở trạm lâm nghiệp nào không? Bác có thể đi hỏi thăm giúp."

"Là xã Ung Dương ạ. Ba cháu bảo hồi trước ông nội làm ở trạm lâm nghiệp thuộc xã Ung Dương." Tôi đáp.

"Ung Dương, nếu thế thì gay rồi." Ba Thái gật gù.

Thái Thanh Hứa hỏi, "Ba nói vậy là sao?"

"Từ hồi trước Ung Dương đã là một trạm lớn, công nhân ở đó làm việc rất ổn định lại không có nhiều sự kiện gì. Với lại, huyện mình chia ra làm hai phía, hai đứa biết chứ?"

Tôi cố nhớ lại nhưng rồi vẫn lắc đầu, dù sau thì khi còn bé tôi cũng đã lên thành phố sống, chưa từng xuống dưới đây nên không biết gì.

"Ở đây có rất nhiều người nói phương ngôn của tỉnh Mân (thuộc Phúc Kiến), tuy là khẩu âm của huyện mình có hơi khang khác người trên Mân một chút. Nhưng huyện lại bị chia thành hai phía, phương ngôn cũng tách ra hai loại. Người làng trên thì nói phương ngôn âm Phúc Châu (cũng thuộc tỉnh Phúc Kiến) còn Ung Dương thì nói giọng của Mân nam. Hai làng trên dưới mà đối thoại với nhau thì như ông nói gà bà nói vịt vậy."

"Chuyện này thì cháu biết, người trên trấn cũng dùng phương ngôn phía Mân nam giống như người dưới Ung Dương." Bấy giờ tôi mới ngộ ra, hèn gì hôm trước tôi nghe không hiểu ông chú và Thái Thanh Hứa nói gì cả.

"Tuy rằng có nói tiếng phổ thông, nhưng ở dưới quê này, đại đa số người ta đã quen dùng phương ngôn. Người ở làng này với dưới Ung Dương chẳng những khác nhau về phong tục tập quán mà còn cả phương ngôn nữa. Chính vì thế, mấy mươi năm nay, người ở đây hiếm ai xuống dưới Ung Dương làm ăn lắm. Ông nội cháu làm việc ở Ung Dương đã lâu, hẳn là muốn xa cách với người trên Quế Lâm này."

Tôi gật đầu, ba Thái nói rất đúng.

"Thôi, bảo Thanh Hứa đưa cháu đi xem phòng đi, nhà ông chú của cháu chẳng có ai ở cả, nên chắc cũng không sửa sang gì. Cháu cử ở bên nhà bác, rảnh thì tới thăm ông chú cũng được. Để bác đi gọi điện xuống dưới trạm Ung Dương hỏi thăm tình hình xem sao."

"Thật là đã làm phiền bác rồi." Tôi cảm kích nói.

"Không có gì, dù gì bác cũng rảnh mà." Bác Thái cười đầy hàm hậu.

Phòng tôi sát ngay bên cạnh phòng Thái Thanh Hứa, tường trong phòng đều được quét vôi mới, quả nhiên là đã được sửa chữa lại. Thế nhưng bây giờ tôi không còn hứng khởi như lúc sáng, nên chỉ ngồi yên ắng trên giường, lòng đầy mê man. Ba Thái nói không sai, có thể ông nội xuống Ung Dương làm việc là đều có suy tính cả. Nhưng đến tột cùng là vì lẽ gì?

Thái Thanh Hứa ôm mền gối qua cho tôi, lại còn giúp tôi trải chiếu. Tôi tính hỗ trợ nhưng cậu ta kiên quyết không cho tôi động vào, cứ buộc tôi ngồi đấy mà nghỉ ngơi. Hại tôi lọng ngọng chẳng biết phải phản ứng ra sao.

"Tôi làm quen rồi, không sao đâu." Thái Thanh Hứa cười, vỗ vỗ tấm chăn nom rất thơm mát sạch sẽ nọ, "Không phải tối qua anh cũng trải chiếu ủ chăn cho tôi đấy sao, bây giờ tới phiên tôi trả lễ chứ."

Tới trưa dùng cơm tất cả đều là món quen ở quê, có cả những thổ sản miền núi mà trên thành phố khó lòng thấy được. Hầu như các món ăn đều rất thanh đạm, vừa trông liền hiểu là nhằm chiếu cố "bệnh nhân" là tôi đây. Tôi thì cứ chân tay lóng ngóng lên cả. Hôm từ thành X về đây, hoàn toàn không dám nghĩ rằng lần này về quê cũ lại được đồng hương đối đãi chân tình nồng hậu như thế.

Người nhà họ Thái cũng không nhiều, một nhà bốn người, thêm tôi nữa là năm. Họ không hề tò mò hỏi han về chuyện gia đình tôi, khi nghe tôi bảo là tôi đang làm trợ giảng ở đại học thì mỉm cười khen tôi giỏi, lại còn nói tôi quả không hổ danh con cháu Quế Lâm, đều là dòng dõi thư hương cả. Ba Thái còn hỏi tôi đang dạy ở trường nào, tôi cũng thật thành đáp lại.

Thái Thanh Hứa vui vẻ lên tiếng, "Trùng hợp thiệt ta! Tôi cũng vừa được đại học S mời về dạy, học kỳ mới này sẽ tới báo danh."

Bấy giớ tới phiên tôi giật mình, nhưng ngẫm lại cũng thấy đúng, bằng không thì tại sao mới sớm thế mà cậu ta đã thảnh thơi về quê rồi.

"Đã là đồng hương rồi thì tới chừng đó hai đứa phải chiếu cố nhau đấy..." Ba Thái nói.

Tôi nhanh chóng gật đầu ngay. Hết ngày nghỉ mà lại còn được gặp Thái Thanh Hứa, thật lòng là tôi thấy vui vui.

Sau bữa trưa, Thái Thanh Hứa muốn đưa tôi đi dạo một chút. Hai lần trước xuống đây tôi cũng chỉ toàn vội vội vàng vàng, chẳng kịp nhìn ngắm cái gì. Lần này Thái Thanh Hứa còn có hảo ý là sẽ làm hướng dẫn viên du lịch cho tôi nữa.

Ấy nhưng lòng tốt của Thái Thanh Hứa chưa kịp thực hiện, hai chúng tôi chân vừa ra tới ngõ thì ba Thái đã gọi điện tới, "Đã hỏi phía bên kia Ung Dương, trạm trưởng xác nhận là trước đây nơi ấy từng có một công nhân họ Tăng, rất có thể là người mà chúng ta đang tìm..."

8/hồi ức

Tôi và Thái Thanh Hứa tức tốc chạy về Thái gia, ba Thái và ông nội Thái đều đang ngồi trong phòng khách chờ bọn tôi.

"Bác đã liên hệ với trạm trưởng Ung Dương, chuyện mấy mươi năm trước, chẳng biết là ông ta còn nhớ được bao nhiêu." Ba Thái nói, "Bây giờ bác gọi cho ông ấy, cháu nói chuyện với ông ấy nhé."

"Vâng ạ." Tôi đáp, "Cháu thật tình cảm ơn bác nhiều lắm." Thật không thể tin, nhanh vậy đã có thể liên lạc được với người bên phía Ung Dương rồi.

Ba Thái gọi điện thoại rồi vẫy tay với tôi, ý bảo tôi không cần khách sáo, "A lô, bác trạm trưởng đấy à, là tôi Tiểu Thái đây. Bác chờ tí, Tiểu Tăng nó về rồi, tôi để nó nói chuyện với bác."

"Chào ông, ông vẫn mạnh khỏe ạ." Tôi tiếp điện thoại, lòng có chút khẩn trương, "Cháu là Tăng Tùng Viễn, phải, là cháu nội của ông Tăng Tử Phồn."

"Nghe bảo là ông Tăng đã mất, cậu đừng đau lòng quá." Giọng nói phía bên kia điện thoại rất ổn định, hẳn là trạm trưởng vẫn còn minh mẫn tráng kiện, hy vọng rằng ông ấy vẫn còn nhớ chuyện năm xưa của ông nội.

"Cảm ơn ông. Ông ơi, thật ra là cháu muốn hỏi ông chút chuyện của ông nội cháu ngày trước để viết hồi kì ạ." Tôi bịa đại lý do, dù sao thì chuyện nghi ngờ thân phận này không tiện nói với người ngoài. Nghe tôi nói vậy, người Thái gia cũng không có biểu hiện gì, hẳn là cũng hiểu giúp cho.

"Hồi kí cuộc đời ư..." Trạm trưởng cảm khái, "Chuyện của ông Tăng tôi cũng đã cố nhớ, hồi ấy công nhân ở đây rất đông, khi tôi tới Ung Dương làm việc thì ông ấy cũng có tuổi rồi. Ông ấy là thợ làm thuyền, chuyển ngành tới đây. Lúc tôi ở trạm lâm nghiệp thì ông ấy còn ở trạm vận tải đường thủy, là một người có tay nghề giỏi của thủy trạm."

"Trạm vận tải đường thủy ạ?" Tôi không ngờ lại là trạm vận tải đường thủy, tuy rằng ba mẹ tôi đều làm việc trong hệ thống lâm nghiệp, ấy nhưng tôi lại chẳng hiểu gì về nó cả.

"Phải, tôi nghe nói ông ấy bơi rất giỏi, còn người thì ít nói lại thiệt thà, có tay nghề khéo léo tinh xảo, hồi trước từng ăn học tới nơi tới chốn. Lúc đó đang có quy hoạch, trạm vận tải đường thủy được trao về cho quân kiến thiết quản lý, mấy sếp lớn còn tính thăng chức để ông ấy làm trong văn phòng, nhưng rồi lại tiếc tay nghề của ông, để ông chuyển công tác sang trạm lâm nghiệp, rồi sau đó thì làm việc tới lúc về hưu mới thôi."

"Ông... ông có nói chuyện nhiều với ông cháu không ạ?" Xem ra trạm trưởng cũng không gần gũi mấy với ông tôi.

"Chuyện này tôi cũng không nhớ rõ lắm." Trạm trưởng thở dài, "Hồi ấy tôi là kỹ thuật viên của trạm lâm nghiệp, không làm chung chỗ với những công nhân chuyển ngành."

"Vậy ông có biết ông nội cháu còn quen biết với những ai không ạ?"

"Tiểu Tăng, tôi và ông cậu không phải đồng trang lứa với nhau. Khi ông ấy về hưu thì tôi cũng mới làm được có vài năm, còn bây giờ thì tôi cũng đã về hưu rồi, nếu muốn tìm đồng sự năm đó của ông ấy thì e là hơi khó."

"Cháu biết." Tôi cố chấn chỉnh tinh thần, cười nói, "Cháu cảm ơn trạm trưởng nhiều."

"Ai, không có gì, giúp được việc gì thì giúp..."

"Ông thật có lòng..."

Hàn huyên thêm vài câu nữa tôi liền gác máy.

"Sao rồi?" Thái Thanh Hứa hỏi, "Trạm trưởng không thân với ông nội anh à?"

Tôi lắc đầu, "Ông ấy nói ông ấy là kỹ thuật viện của trạm, còn ông nội thì là công nhân chuyển từ trạm vận tải đường thủy qua, không làm chung một chỗ."

"Trạm vận tải đường thủy là sao?" Thái Thanh Hứa khó hiểu.

Ba Thái liền giải thích, "Hồi ấy lâm nghiệp không đồng nhất một mối như bây giờ mà chia ra rất nhiều nhánh, có nhánh chuyên về gỗ, nhánh chuyên về vận tải, mỗi bên lại có cơ cấu quản lý khác nhau, công nhân mỗi nơi lại có đoàn kiến thiết riêng quản chế. Bên về gỗ là do lâm nghiệp chịu trách nhiệm, còn vận tải đường thủy thì do phía vận tải lo liệu."

"Con biết, ngày trước tàu bè đóng xong thì đều được vận chuyển đi đâu đó." Thái Thanh Hứa lên tiếng, "Không ngờ là có nhiều bộ phận chuyên ngành như thế."

"Công nhân chuyển ngành là sao ạ?" Tôi hỏi.

"Lúc ấy quân giải phóng miền Nam tới nơi nào đó thì đều được gọi bằng cái tên khác là binh đoàn kiến thiết sản xuất, công nhân chuyển ngành là muốn chỉ người của Quốc quân Đảng, được hưởng đãi ngộ của công nhân bình thường nhưng lại không được quyền thăng chức." Ba Thái đáp.

"Ông nội chưa bao giờ kể ông từng đầu quân vào Quốc quân Đảng." Tôi lắc đầu, "Cháu cũng không biết là ông nội có từng tham gia bộ đội hay không, nhưng lại có lần thấy có quân hiệu trong đồ đạc của ông, là ngôi sao năm cách màu đỏ."

Ông nội Thái thở dài, "Có thể ông của cháu từng tham giam quân đoàn Giải phóng, ấy nhưng Tăng Tử Phồn quả thực lại là người của Quốc quân Đảng. Lúc thời kháng Nhật thì bị chính quyền cưỡng chế tòng quân, hơn nữa cuộc đời đều là ở trong quân đội, thành thử mới mang bệnh vào người, rồi mất khi còn trẻ như thế."

"Thiệt là, thời đó toàn những chuyện cưỡng chế như thế." Thái Thanh Hứa cảm thán, "Mà Tùng Viễn nè, có thật ông nội anh từng ở trong quân Giải phóng không?"

Tôi chần chừ lắc đầu, "Tôi cũng không chắc lắm."

"Ông nội anh đã thay thế thân phận của cụ Tử Phồn, lại còn cam tâm tình nguyện làm một công nhân chuyển ngành nữa." Thái Thanh Hứa tặc lưỡi một tiếng.

"Với lại, làm công nhân tàu thủy còn hết sức nguy hiểm, đụng phải mạch nước ngầm thì chết dễ như chơi ấy." Ba Thái bổ sung.

Tôi thì thào, "Chắc ông nội có lý do của mình."

Ngẫm lại thì thấy suy nghĩ trước đây của tôi thật khờ, thời đại ấy, có người nào lại không bị cuốn vào vòng xoáy chiến tranh. Thế nhưng tôi lại nhớ tới sức khỏe của ông nội khi về già. Hồi còn trong viện dưỡng lão, tôi từng nhiều lần đẩy xe cho ông nội, người ông đầu tóc bạc phơ ấy chỉ còn mỗi tấm xương bọc da. Tôi hoàn toàn không cách nào tưởng tưởng ra chuyện ông từng có một cơ thể cường tráng dẻo dai, từng Nam chinh Bắc chiến, từng lặn ngụp dưới dòng nước chảy xiết.

Tôi ngồi một mình trong phòng để mong được tĩnh tâm, nhịn chẳng đặng lại mang tấm ảnh ba người ra xem.

Người đứng phía bên trái có nụ cười đôn hậu, nhãn thần ôn hòa, là thiếu gia Tiêu Quang Bảo của Đại An, mất năm 1936 trong cuộc càn quét của Lư quân ở Song Mai. Người phía bên phải thì mang tiếu ý sâu sắc nội tại, ánh mắt sáng ngời tinh nhạy, là công tử quân phiệt Lư Minh Huân, hi sinh năm 1937 trên chiến trường Tùng Hộ. Còn thanh niên ở giữa thì có gương mặt tuấn tú nhã nhặn, nụ cười hiền lành ấm áp, từng theo Quốc quân kháng Nhật, qua đời năm 1961 bởi bệnh phong hàn. Và cũng chính là người mà ông nội tôi đã dùng năm mươi năm đời mình để lưu giữ lại sự hiện diện của ông ấy trên cõi đời - Tăng Tử Phồn.

"Kẻ chốn góc biển xa xôi, người nơi chân trời cách biệt..." Tôi chợt nghĩ tới câu được viết phía sau tấm ảnh, lòng như minh bạch điều gì. Bây giờ, hai người rốt cục cũng gặp lại nhau.

"Tùng Viễn..."

Tiếng nói của Thái Thanh Hứa cắt ngang suy nghĩ của tôi, bàn tay khẽ run lên, tấm ảnh rơi xuống đất.

"Tùng Viễn..." Thái Thanh Hứa đẩy cửa bước vào, "Anh đừng nghĩ ngợi nhiều quá, chúng ta cứ chờ tin từ phía cậu ba tôi đi. Tôi bóc cam cho anh ăn nhé?" Tay cậu ta đang cầm hai quả cam, mỉm cười nhìn tôi.

Tôi nhặt bức ảnh lên, nhìn người thanh niên đang dạt dào ý cười rạng rỡ này. Năm nào đó tháng nào đó, tôi nên dùng tình cảm gì để hồi tưởng lại nụ cười này của cậu ta nhỉ? Phải chăng cũng giống như cảm xúc ẩn chứa trong tấm hình đã ố này, lúc chụp thì hồn nhiên vui vẻ, nào ai ngờ rằng ngày sau nhìn tới lại vô cớ buồn rầu.

"Anh đấy, cứ miên man lo lắng mãi thôi." Thái Thanh Hứa ngồi xuống cạnh tôi, chậm rãi bóc vỏ cam. Mùi hương thanh mát len vào mũi, xộc vào mắt, bất giác lòng cay cay.

"Để tôi tự làm." Tôi chìa tay ra.

"Mới vừa cầm tấm ảnh xong tay dơ rồi còn gì." Thái Thanh Hứa ngó lơ đề nghị của tôi, bẻ một múi cam đút vào miệng tôi, "Đều là chuyện quá khứ cả, bây giờ phiền muộn thì được gì? Hồi ấy họ cũng là do dòng đời đẩy xô cả."

Tôi im lặng ăn cam, không đáp.

"Úi, chua quá." Thái Thanh Hứa cũng ăn một miếng rồi lại nhăn mặt nhăn mày, "Tùng Viễn, không cần biết ông nội anh thật ra là ai, tình cảm giữa hai người cũng không thay đổi được. Nếu như, tôi nói là nếu như, chúng ta không tìm được thân phận thật sự của ông ấy, tôi hy vọng rằng anh sẽ chuẩn bị tốt tâm lý, để chuyện này qua đi. Ông nội của anh coi như cũng cầu người được người, hẳn ông ấy cũng không mong anh sẽ buồn bã."

Trong miệng đều là cái vị chua chua ấy, làm cho đầu lưỡi như tê dại ra, khiến một câu đơn giản tôi cũng không thể đáp được.

Sáng ngày hôm sau, chúng tôi nhận được điện thoại của cậu ba Thái Thanh Hứa gọi từ trên trấn về. Bọn họ tìm được ở Khê Nam bảng danh sách học sinh tốt nghiệp năm 1935, có tên của Tiêu Quang Bảo, Lư Minh Huân và Tăng Tử Phồn. Họ đoán tấm ảnh chụp nhiều người chính là học sinh đã tốt nghiệp năm ấy.

Bấy giờ lòng tôi lại tràn trề hy vọng trở lại.

9/bạn học

Cậu ba của Thái Thanh Hứa nói cho bọn tôi biết, thật ra vào năm 1930, Lư sư trưởng cho đã xây một trừng trung học công lập trong huyện. Còn Khê Nam quán là một nơi khác hẳn, ngoài là biểu tượng văn hóa của huyện ra còn là dấu ấn thời gian cả trăm năm của thị trấn. Nơi ấy có từ đường của vị đại nho sinh kia, đồng thời còn là học đường được hoàng đế Đại Tống ban thưởng liễn vàng. Thời đó trường đã dạy Toán học, Anh văn, Mỹ thuật tạo hình. Và từ lâu đã là trường học gương mẫu trong suy nghĩ của nhiều người. Thời gian trôi nhanh, phong ba chất đầy, trường đã đào tạo ra không ít nhân tài cho đất nước.

Năm 1935 có ý nghĩa thế nào? Là năm diễn ra hội nghị Tuân Nghĩa, hiệp định Hà Mai, bắt đầu cuộc Vạn Lý Trường Chinh, bạo phát phong trào ngày 9/12? Cũng trong cùng năm này, Nguyễn Linh Ngọc (diễn viên huyền thoại đóng phim câm của TQ) uống thuốc độc tự sát, Mai Lan Phương (diễn viên kịch nổi tiếng) đến Liên Xô, khúc quân hành Nghĩa Binh được truyền xướng? Và chính tại thời gian ấy, những học sinh tốt nghiệp kia, đã hướng tới một tương lai thế nào?

"Mấy đứa không cần quay lên thị trấn, cứ nói chuyện qua điện thoại được rồi." Cậu ba dặn dò.

"Tại sao?" Thái Thanh Hứa mở loa điện thoại, kéo tôi ngồi xuống ghế.

"Vì cũng không có phát hiện gì đặc biệt cả. Hai đứa không phải mất công chạy tới chạy lui làm gì, cứ nói qua điện thoại. Hai năm trước vào ngày kỷ niệm 880 năm ngày sinh của vị đại nho sinh, nhằm để kích phát du lịch mà huyện tổ chức rất nhiều hoạt động." Cậu ba hừ khẽ một tiếng, "Phải nói là quá trời hoạt động luôn."

Chuyện này tôi có nghe thấy, có người còn bảo có phát hành cả tem kỷ niệm nữa, thậm chí còn tổ chức vô số lễ hội giao lưu văn hóa.

"Trong số đó thì hoạt động có liên quan tới Khê Nam quán là nổi trội nhất, bọn cậu còn làm cả phim tư liệu để tuyên truyền, vẽ tranh và thăm hỏi những học sinh từng học ở đó." Cậu ba thở dài, "Thế nhưng Khê Nam quán đã đóng cửa trong thời gian chiến tranh diễn ra, lứa học sinh cuối cùng là vào năm 1936. Chuyện qua đã lâu, hơn nữa còn trải qua chiến loạn liên miên, quá trình thăm hỏi hết sức gian nan, sau cùng chỉ đành đăng tin cảm tạ này nọ. Cậu đã tra xét giùm mấy đứa, lúc đó chuyện thăm viếng ấy chia làm hai phần, một là dành cho học sinh tốt nghiệp năm 1935, một là năm 1936."

Tôi khó lòng dằng cơn kích động, "Là bạn học của ông nội con, cùng Tiêu Quang Bảo và Lư Minh Huân ư?"

"Chính xác thì là bạn học của Tăng Tử Phồn, bọn tôi vẫn chưa xác nhận được thân phận của ông nội cậu. Trong hình có tổng thảy mười lăm người, chúng tôi đã xem xét hết sức cẩn thận, Tiêu Quang Bảo, Lư Minh Huân và Tăng Tử Phồn đều cùng có mặt. Vì vậy mới đoán là cũng có quan hệ với những người tốt nghiệp năm 1935."

Thái Thanh Hứa nhanh chóng hỏi vào trọng tâm, "Học sinh tốt nghiệp khóa 1935 sau đó thế nào hả cậu?"

"Khóa ấy tốt nghiệp tất cả là 33 người. Trường có nhận được thư thông báo, báo tin trong số 33 người thì có 5 người đậu đại học. Trong bộ phim tài liệu về trường cũng chú trọng về chuyện đậu đại học đó, nhưng chỉ tìm được chút tin tức về họ, còn bằng cuộc sống thế nào thì không rõ."

"Cậu cứ nói kết quả cho bọn con nghe nhanh nhanh đi!"

"Cái đợt thăm viếng đó chỉ tra được rằng có 5 người thi đậu đại học, 4 người chết trận, 3 người mất tích trong chiến loạn, 3 người di dân sang Đài Loan, 11 người đã qua đời. Tóm lại, 33 người, phần lớn đều đã không còn trên đời, số ít ỏi thì không rõ tung tích."

Dù gì cũng đã hơn nửa thế kỉ trôi qua... Lòng tôi lại phiền muộn, bất an hỏi, "Vậy... không liên lạc được với bất kì người nào hết sao ạ?"

"Cuốn phim tư liệu năm đó thiệt ra là có liên hệ được với một cụ ông ở Đài Loan, là học sinh khóa 1935. Nhưng bây giờ thì không biết là có thể tìm lại được không, hai đứa đừng hy vọng nhiều quá."

"Không sao, tụi con chờ được, cảm ơn cậu!"

"Mợ con bảo cậu hỏi mấy đứa, con cũng biết bà ấy là phóng viên nhật báo rồi đấy, liệu chuyện này sau khi tra rõ thực hư xong có thể kể cho bà ấy biết hay không. Đương nhiên, chuyện này đều do mấy đứa quyết định cả."

"Ha ha, mợ cũng nhạy tin quá. Đợi chuyện xong xuôi rồi tính. Tùng Viễn bây giờ cũng không có tâm trí đâu suy nghĩ việc này." Thái Thanh Hứa chẳng hỏi tôi có đồng ý hay không đã nhanh tiếng đáp thay, nhưng lại rất hợp lòng tôi.

"Bà ấy cũng nói thế." Cậu ba đáp, "Vậy mấy đứa chờ tin cậu đi. Bây giờ cậu cũng tò mò kinh khủng luôn đây, mong là có thể giúp hai đứa tra được ngọn nguồn mọi chuyện."

"Con cảm ơn chú rất nhiều, chú Lâm." Tôi nói.

"Đừng khách sáo, cứ gọi tôi là cậu ba giống Thanh Hứa đi, he he." Đoạn dường như cậu ba thấy mình có phần tự nhiên quá nên lại cười cho qua.

Thái Thanh Hứa vội nói, "Cậu đừng ỷ già lên mặt nhé..."

Cúp điện thoại, tôi và Thái Thanh Hứa đều im lặng.

Không phải là tôi không thất vọng, thế nhưng trải qua chuyện suốt mấy ngày nay, tôi cũng đã biết cách kiềm chế được mình, không chờ mong gì nhiều. Song, cảm giác này lại khó lòng dằng xuống đặng, lẽ nào tôi chẳng cách gì tra được thân phận thật sự của ông nội ư?

Thái Thanh Hứa như nhìn thấu suy nghĩ của tôi, "Tùng Viễn, đừng hy vọng nhiều, cũng đừng tự trách quá."

"Ừ." Tôi gật gù, nếu như không gặp cậu ta, tôi thật không dám tưởng tượng bây giờ mình sẽ lâm vào tình cảnh gì nữa. Hiện tại, chỉ có thể kiên trì mà chờ đợi.

Thái Thanh Hứa lại nhích tới gần, bảo, "Tùng Viễn, anh phải cười nhiều lên một tí. À, không, không nên với ai cũng cười cả."

Là sao chứ? Thiệt tình là khiến người ta không sao hiểu nổi.

Thôn Quế Lâm là nơi sinh sống của cư dân cổ tự xưa tới giờ, ấy nhưng những thiết bị điện gia dụng của bà con lại không hề thiếu. Điều duy nhất tôi không hiểu chính là thời buổi này rồi mà mọi người vẫn còn nhóm củi nấu cơm. Thái Thanh Hứa nói là nấu bếp lò như vậy cơm sẽ ngon và thơm hơn rất nhiều.

Bóng chiều bảng lảng buông xuống thôn, dải đá lót đường không còn vang tiếng. Khói bếp nhà nhà cũng dậy khói nổi lửa, thỉnh thoảng còn nghe tiếng chó sủa cùng tiếng cười con trẻ vang phía xa xa.

Nơi này thời gian dường như lắng đọng và ngừng trôi hẳn, khiến chân người bước lở khó lòng kìm chế nỗi niềm xốn xang và cô tịch.

"Đang nghĩ gì vậy?" Thái Thanh Hứa hỏi.

Tôi đáp nhanh một tiếng, "Không, mau mau đong rượu đi."

Tôi vốn muốn giúp mẹ Thái làm cơm, rồi lại bị Thái Thanh Hứa kéo đi mua rượu cho ông nội Thái. Tiệm tạp hóa duy nhất của làng nằm tận đầu thôn, chỉ bán duy nhất loại rượu đỏ tự nhà ủ. Chuyện này tui vốn cũng quen, người nhà quê vẫn thường thích tự mình ủ rượu. Ban đầu dùng màu đỏ thực vật lên men rượu, dùng loại gạo nếp tốt nhất và nước suối trong nhất trên đầu nguồn. Ngắn thì ủ hai năm, dài thì ba tới năm năm, có nhà ủ tới những mười năm. Rượu đỏ của quê nhà có màu đỏ nhạt rất trong, hương vừa thanh vừa dịu. Thỉnh thoảng có người còn bỏ thêm gừng vào rượu, để mùi hương nồng nàn hơn một tí, vị cũng the the, quan trọng là khiến người uống khó say.

Thái Thanh Hứa tay cầm cái vò nhỏ, phía trên thân vò còn dán tấm giấy đỏ có đề chữ "tửu", nom cũng ra dáng cổ phong nhã vận lắm. Tiệm tạp hóa dùng vại to đựng rượu, ai mua thì lại lấy gáo trúc múc chiết ra vò gốm, có vẻ vô cùng chăm chút.

"Rượu quan trọng là không được khuấy trộn quá nhiều bằng không vị sẽ chua." Thái Thanh Hứa hăng hái giải thích.

Điều này đương nhiên tôi biết, "Hồi còn nhỏ, ông nội tôi thường dùng rượu chua hầm giò heo." Làm như thế sẽ khiến món ăn thơm hơn.

"Anh cũng thích món đó à?" Thái Thanh Hứa hỏi, "Trong nhà còn chút rượu chua, lần sau tôi làm cho ăn."

Chủ tiệm nhăn mặt nói, "Tôi cũng thích này! Chưa tới giờ ăn cơm mà nghe hai người nói thế, đói chết được!"

Tôi và Thái Thanh Hứa bật cười, hai người dĩ nhiên cũng đã đói bụng rồi.

Nơi này tất cả đều dễ thương quá đỗi. Đường đá thềm gỗ, nhà xanh ngói đỏ, hải đường khoe sắc, quế trắng đưa hương... Lại còn những người dân quê mùa chất phác, nồng hậu chân tình, khiến người gặp liền quý. Đây là cố hương của tôi, cũng có thể là chốn mà ông nội từng sinh sống. Nghĩ thế, lòng cũng chợt thoải mái một chút.

Lúc rời khỏi tiệm tạm hóa, mặt trời đã lặn xuống núi, tà dương dát màu ánh kim nhàn nhạt lên vạn vật. Thái Thanh Hứa ôm vò sượu, bất ngờ nói, "Ngắm núi non rực đỏ, rừng phong lá nhuộm vàng..." (Thấm viên xuân/Trường Sa)

Tôi nhìn ra non mà cười một tiếng, từ đầu làng kéo đến cuối thôn rặt một màu cỏ cây xanh mướt, dù chiều có tà, ánh dương có phủ thì cũng đâu tới nỗi lớp lớp nhuộm vàng chứ. Thái Thanh Hứa tự thấy mình tức cảnh đọc thơ trật, nên xấu hổ mà nhìn tôi cười trừ.

Chúng tôi chậm rãi về nhà, Thái Thanh Hứa cẩn thận ôm vò rượu trong người.

Thôm xóm tĩnh lặng, hoàng hôn bóng đổ, hương rượu thanh ngần, đường làng đá sỏi... Tất cả đều trầm lặng phong nhã như không thuộc về thế kỉ này. Nhiều năm về trước, là ai đã từng ôm vò rượu nóng, cùng bạn bước trên con đường này?

Lòng tôi rung động, nhớ câu thơ cũ, "Vừa đồng học tuổi xuân,Tài hoa đang độ, Hiên ngang khí phách, Vùng vẫy tha hồ, Việc nước phê bình, Văn chương chiến đấu, Coi có ra chi vạn hộ hầu" (Thấm Viên Xuân/Trường Sa)

"Ai có nhớ, Giữa dòng sông gạt sóng, Thuyền vượt lên mau?"(Thấm Viên Xuân/Trường Sa) Thái Thanh Hứa nhanh nhẹn tiếp lời.

Tôi khẽ mỉm cười, mắt lại cay cay.

Ba mươi ba người, sống chết khó phân, tung tích khó nhận...

10 đăng báo

Hễ nhớ lại chuyện xảy ra trong mấy ngày ngắn ngủi này thì lại thấy ly kỳ hơn cả gần ba mươi năm sống trên đời. Ấy nhưng tôi chẳng mong những sóng gió đó, chỉ cầu kiếp này bình an tĩnh lặng.

Hũ tro của ông nội tạm thời được gửi ở từ đường Tăng gia. Ông thác đã lâu nhưng lại chẳng thể nào hạ táng, vì huyệt phần trong tộc mồ Tăng thị vốn chẳng thuộc về ông. Thời gian càng trôi nhanh, tôi lại càng lo lắng, tuy không hiểu mấy về phong tục tập quán trước đây, nhưng tôi cũng mơ hồ thấy không nên kéo dài chuyện an táng này. Song, khi thời điểm ấy đến phải làm sao đây? Nếu hạ táng ông trong nghĩa trang công cộng thì tôi phải đề danh tính gì cho ông, khắc ghi lời nào lên bia mộ?

Bởi vì đang ở nhờ nhà họ Thái, tôi không dám cứ suốt ngày mặt mày ủ ê. Dẫu gì Tết nhất cũng gần cận kề, tôi không muốn không khí gia đình người ta mất vui, nên đành cố gắng kìm nén tâm tình, rảnh rỗi thì lại lang thang bên ngoài.

Trước đó thì bảo có thời giờ sẽ đi tham quan mọi nơi trong cổ trấn, nhưng lại không thành. Càng ngày càng thấy chán nản mệt mỏi, không tâm tư đâu mà ngắm cảnh dạo chơi.

Phần lớn thời gian là tôi sang nhà ông chú, ngồi trong sân nhìn ông vót tre đan nứa. Hai người không nói gì, chỉ im lặng ngồi tới khi mặt trời xuống núi, tôi giúp ông nhóm lửa nấu cơm xong lại đi. Thái Thanh Hứa cũng hết sức ân cần, luôn chuẩn bị lồng sưởi cho tôi, có khi còn ngồi thừ người ra cùng tôi trong đình nghỉ mát ngoài đầu làng.

"Tùng Viễn, anh tính xem chúng ta có nên nghĩ cách khác hay không?" Thái Thanh Hứa sợ tôi cứ u uất nên luôn cố tìm đề tài nói chuyện.

Cậu ta đã giúp tôi rất nhiều, tôi chẳng thể ngó lơ được, miễn cưỡng mở miệng, "Còn cách nào nữa sao?"

"Chúng ta đăng tin tìm người đi." Cậu ta nói, "Không phải mợ tôi làm ở nhật báo hay sao? Chúng ta nhờ mợ đăng tin tìm người giúp, tìm người biết về tấm ảnh đó. A, được rồi! Bối cảnh trong hình là Khê Nam quán, đây khôn phải là một nhân tố quan trọng đó sao? Lấy tựa đề tìm bạn cùng trường được không? Dùng lý do là muốn tri ân người xưa."

Tôi chợt thấy buồn cười, cậu ta lúc nào cũng nghĩ ra những cách cổ quái. Thật ra lòng tôi đã không còn mong mỏi gì nhiều nữa, nhưng vẫn nói chiều theo ý cậu ta, "Làm thế ổn chứ? Chúng ta có nên làm hẳn một mục quảng cáo không?"

"Không phải là quảng cáo, chỉ là một bài cảm ơn thôi. Nhật báo của huyện chán lắm, ai cũng mong có gì đó hay hay để làm. Với lại cái tin tìm kiếm học sinh xưa kia của Khê Nam quán chắc chắn sẽ khiến người ta chú ý!" Thái Thanh Hứa càng nói càng phấn khởi.

Tôi nghe cậu ta nói cũng thấy dao động, nhưng lại không muốn cậu ta vì mình mà làm phiền người khác, nhất thời chẳng biết nói sao.

Thái Thanh Hứa không để ý tới sự bất an của tôi, lấy điện thoại ra gọi.

Hai ngày sau, nhật báo của huyện quả nhiên đã đăng tin "Tìm bạn học cũ", gạn lọc đi sự nghi ngờ về thân phận của ông nội, chỉ dùng lời lẽ thê thiết bày tỏ tình cảm cũng như mong mỏi muốn tìn lại những bạn học năm xưa ở Khê Nam quán... Thế nhưng chẳng một ai biết tấm ảnh kia cả.

Tâm trạng tôi lại một lần nữa chìm xuống đáy, tuy chuyện đăng báo khiến rất nhiều người quan tâm nhưng tôi lại đã quên một điều, những người thời ấy sau nửa thế kỷ trôi qua đã sớm xuống mồ vi an cả rồi.

Ngay khi tôi và Thái Thanh Hứa mất niềm tin vào nhật báo thì lại nhận được điện thoại từ tòa soạn, "Có... có một ông lão biết tấm hình đó! Cũng đã xác định ông ấy chính là học sinh tốt nghiệp khóa 1935!"

Ông cụ ấy tên Lương Hán Sinh, nhà ở Tú Khê. Sáng hôm sau, tôi và Thái Thanh Hứa tức tốc lên xe đi đến đó.

Chuyện bất ngờ chính là, ông nội Thái và ông chú của tôi cùng đưa hai người bọn tôi ra đầu thôn. Ông nội Thái như có tâm sự, nhưng lại chỉ nói, "Tiểu Tăng, ông biết mấy bữa nay cháu rất khó khăn. Lần này... dù kết quả có ra sau, cháu cũng phải cố lên."

Bấy giờ tôi mới biết ông nội Thái vẫn luôn yên lặng quan tâm tới tôi. Tôi định bảo là mình không sao, nhưng rồi lời cứ nghẹn lại ở cổ, chỉ thấy mũi cay xè, thốt chẳng ra tiếng, đành ra sức gật đầu.

Ông chú chỉ đứng bên cạnh hút thuốc, ông không rành tiếng phổ thông, nhưng khi tôi bước lên xe lại nắm siết lấy tay tôi. Đôi tay kia do mỗi ngày phải làm lụng, vót tre đan nứa nên đã chai sần, ấy lại ấm áp vô cùng. Tôi cũng siết lấy tay của ông chú, rồi chào tạm biệt ông.

Thật ra tôi biết, chuyến đi hôm nay lòng tôi sớm không ôm hy vọng gì. Song, lại không hoàn toàn tuyệt vọng, vẫn một lòng một dạ muốn tìm cho ông nội một nơi để hồn mộng quay về.

Từ Quế Lâm đi Tú Khê mất chừng mấy chục cây số. Tôi và Thái Thanh Hứa không trao đổi gì. Hẳn là vì mặt mày tôi cứ nhăn nhíu lại nên cậu ta bất chợt cũng nghiêm nghị đi.

Xe tải chạy trên đường đèo, tôi yên lặng ngắm nhìn những dải núi trong mùa đông vẫn xanh biêng biếc... Những loài cây ấy có tên không? Khi ông nội còn nhỏ chúng đã có mặt trên đời chưa? Tự xưa rừng rậm trong thôn đã nhiều, nhưng lại chẳng đủ xanh để phủ đầy một đời ký ức. Ngày trước quang cảnh nơi đây ra sao? Tôi nghĩ mãi chẳng ra.

"Anh đang lo à?" Qua một lúc lâu sau, Thái Thanh Hứa rốt cục cũng mở miệng hỏi tôi.

"À," Tôi hắng giọng, "Có một chút."

"Chừng hai tiếng nữa sẽ tới Tú Khê, anh thắt chặt dây an toàn rồi ngủ một lát đi. Nhìn anh kìa, hai mắt có quầng thâm rồi."

Tôi lắc đầu, cười khổ một tiếng, "Không ngủ được, chúng ta nói chuyện đi."

Trên đoạn đường tiếp theo, tôi và Thái Thanh Hứa câu đặng câu mất hàn huyên với nhau. Tôi chẳng nhớ bọn tôi đã nói gì, đơn giản là chỉ mong có thể dùng tiếng nói để làm dịu đi bầu không khí này.

Bởi vì rời nhà đi từ rất sớm nên lúc tới Tú Khê trời cũng vừa lên nắng. Tú Khê cách thị trấn không xa, người bên phía tòa soạn cũng tới. Mợ ba của Thái Thanh Hứa là người đã viết bài cảm ơn kia, hiện đang đứng ở đầu thôn chờ chúng tôi.

"Chúng ta vừa đi vừa nói." Người phụ nữ trong rất giỏi giang ấy ái ngại nói, "Tình hình chẳng mấy lạc quan, hai đứa nên chuẩn bị tâm lý."

Lòng tôi lại chùng xuống, tuy ban đầu cũng không có mấy trông mong, song số phận cứ như trêu cợt tôi vậy.

Tú Khê là một thôn hiện đại hơn so với Quế Lâm nên không mang cảnh sắc hay không khí cổ kính như nơi đó. Chúng tôi đi trên con đường trải đá, sau đó rẽ vào một ngõ nhỏ, tới đây lại được trông thấy những nhà xanh ngói đỏ phổ thông ở quê. Đến nơi, cổng được mở rộng, người phía tòa soạn và thân thích của ông cụ đang chờ sẵn.

Tôi và Thái Thanh Hứa không mấy hiểu lắm về tình hình hiện tại nhưng vẫn bước vào nhà, chào hỏi mọi người, sau đó thì nhìn thấy một cụ ông ngồi ở giữa phòng. Cụ ông ấy có hình dạng tôi hết sức quen thuộc, là kiểu già nua kiệt quệ mắt môi đã mụ mờ. Ông ấy và ông nội giống hệt nhau, đều là lửa tàn trước gió. Tôi muốn đến gần ông cụ nhưng bất chợt thấy sợ hãi, tình huống thế này liệu có được mấy phần lạc quan đây?

Bấy giờ người bên tòa soạn giới thiệu tôi, thân thích của ông cụ dùng phương ngôn để thuật lại.

Ông cụ đưa đôi mắt đục ngầu của mình lên nhìn, tôi khẽ bước tới. Cầu xin ông! Cầu xin ông biết được chút ít gì đó!

"Ô... ô..." Ông cụ vươn bàn tay khô quắt ra, nắm lấy tay tôi. Tôi ngồi xỗm xuống cạnh ông, nhìn ông dùng bàn tay còn lại chỉ vào bức ảnh được đăng trên báo, miệng cứ khàn khàn nói, "ô... ô..."

Nháy mắt tôi hiểu thế nào là tuyệt vọng. Khi còn chăm sóc ông nội ở viện dưỡng lão từng gặp một ông cụ bị trúng gió mà mất khả năng nói chuyện. Lòng tôi khó chịu vô cùng, không phải là thêm lần nữa mất đi manh mối, mà tại vì đau xót khi phải nhìn ông cụ cố gắng trò chuyện với tôi.

Tôi nhìn bàn tay run run kia của ông cụ, dùng chút ít phương ngôn tôi biết mà hỏi, "Người này là ông, phải không ạ?"

Ông cụ nghe thấy tôi nói, ra sức gật đầu, rồi chỉ bản thân, tựa hồ còn mỉm cười một cái.

Tôi lấy bức ảnh gốc ra để vào tay ông ấy, "Ông xem, đây là hình mà ông nội cháu vẫn luôn giữ!"

Ông cụ định chìa tay ra cầm lấy, nhưng rồi như e ngại gì, lại rụt tay về.

Tôi chỉ vào bức ảnh, "Đây là ông!" Người thanh niên mà ông cụ bảo là mình ấy, đứng phía ngoài cùng bên trái trong tấm hình, trông rất trẻ. Gương mặt có vẻ hiền hậu, nụ cười tươi tắn, đôi mắt sáng rực. Thật lòng, nếu ông cụ không nói người này là ông, chẳng ai dám tin chàng thanh niên đó và ông là cùng một người.

Ông cụ cầm tấm hình, đưa lên sát mặt mà nhìn một đỗi lâu, hai tay run rẩy không thôi. Tôi định đỡ ông nhưng lại không kịp, tấm ảnh rơi xuống đất. Tôi cúi đầu xuống nhặt hình, lại nghe thấy mọi người đứng gần đấy an ủi, "A Đáp (xưng của người phố núi dành cho người ông) ông đừng khóc! A Đáp đừng khóc..."

Tôi ngước lên, thấy ông cụ nhắm nghiền hai mắt, nước mắt ràn rụa khắp mặt, tay vẫn còn đang run như chẳng kìm chế được. Trong nháy mắt, tim tôi như bị ai thụi cho một cú. Chẳng rõ vì sao, bàn tay đang giơ ra của tôi cũng xụi lơ, chẳng lấy nổi tấm ảnh.

Thái Thanh Hứa thấy tôi thất thần, bèn cúi xuống nhặt bức hình lên, "Tùng Viễn! Đừng khóc! Sao cả anh cũng khóc!"

Khóc? Tôi giật mình đưa tay sờ mặt mới phát hiện chẳng rõ tự lúc nào mình cũng đã rơi lệ.

Tình cảnh này khiến ai nấy cũng khó xử không biết phải làm sao.

Một ông cụ sắp gần đất xa trời bỗng nhiên lại trông thấy bức ảnh của 70 năm về trước sẽ có suy nghĩ gì? Nhớ về mình của thời ấy rồi trông ra thấu suốt cả cuộc đời? Thế nhưng bao nhiêu đắng cay đau khổ đó lại chẳng thể thốt được thành lời.

Một lúc sau, khi đã bình tĩnh hơn, ông cụ lau nước mắt. Ông vẫy tay với tôi, còn tôi chỉ ngây ra nhìn.

"A Đáp nói anh đừng khóc." Cô cháu gái nhỏ đứng bên phải giải thích.

Tôi ném cảm xúc rối bời trong lòng xuống, mỉm cười nhìn ông cụ, "Cụ ơi, cháu hết khóc rồi."

Thái Thanh Hứa đứng bên cạnh xem vậy lại bình tĩnh hơn tôi rất nhiều, bảo cô cháu gái kia hỏi ông cụ về chuyện của Tăng Tử Phồn.

"A Đáp, ông biết hồi đó Tăng Tử Phồn thân với ai nhất không?"

Tôi vội vàng chỉ vào Tăng Tử Phồn trong hình.

Ông cụ nhìn hình một lúc, rồi cố gắng nói, "đờ... đờ..."

"A Đáp, ông muốn nói gì?"

"Đờ... chớ..."

Cô cháu gái ghé tai sát lại.

Tôi khẩn trương nhìn họ, nhưng chỉ thấy gương mặt không chút biến đổi của cô cháu.

"Sao rồi?" Thái Thanh Hứa hỏi.

Cô gái lắc đầu, "A Đáp bảo là, đã chết, đã chết."

Tôi không còn sức lực nào để đứng dậy hay bước đi, sau khi nghe thấy đáp án thì hồn vía tôi như bị bắt đi mất. Suốt một đêm không ngủ, nay lại còn khóc, mắt vừa đau vừa rát, chịu không nổi. Có cảm tưởng như nước mắt đều cạn cả, mệt mỏi đến lả người.

"Tùng Viễn, anh phải bình tĩnh!" Một lúc sau, Thái Thanh Hứa lay gọi tôi, "Cậu ba vừa gọi điện thoại nói rằng đã liên lạc được với ông cụ ở Đài Loan, ngày mai chúng ta sẽ gọi điện qua đó hỏi thăm. Ông ấy hiện còn rất khỏe, trí óc minh mẩn, lần này chắc chắn sẽ có thu hoạch."

Tôi máy móc gật đầu, nhưng lòng không còn hy vọng gì nữa.

11/nhớ quê

Buổi tối hôm trở về từ Tú Khê tôi cứ trằn trọc mãi. Đau lòng cùng tuyệt vọng cứ giằng xé đan xen quấy nhiễu giấc ngủ. Tôi cứ lăn qua lộn lại mãi, khiến ổ chăn mất ấm, đoạn phủ thêm áo, ôm túi giữ ấm mà ra sân ngồi.

Hiện tại chỉ tầm mười giờ tối, với thành phố thì chỉ là thời gian để đêm bắt đầu. Thế nhưng đây đang là nông thôn, bấy giờ với mọi người là đã quá khuya, nhà nhà đều tắt lửa tối đèn cả.

Thôn xóm trong đêm đông có vẻ ảm đạm và lạnh lẽo hơn rất nhiều, thỉnh thoảng chỉ nghe thấy tiếng cú gọi bầy, vừa sờ sợ vừa buồn thê lương. Tôi ngồi ở mảnh sân bên chái nhà phải, nhìn bóng trăng qua cửa mà ngẩn người ra.

"Sao anh còn chưa ngủ?" Thái Thanh Hứa đột nhiên xuất hiện làm tôi giật nảy cả mình.

"Anh... anh không phải cũng vậy sao?" Giọng tôi đã rét run.

Thái Thanh Hứa sờ túi giữ ấm tôi để trong lòng, nhíu mày nói, "Mất nhiệt hết rồi, tôi đi đổi nước nóng khác cho anh. Anh cứ ngồi đây, đừng đi lung tung." Cậu ta nói rồi bỏ lồng sưởi vào tay tôi, đoạn lại quay đi.

Tôi ngây ra ở chỗ cũ, lúc sau bỗng dưng lại bật cười một tiếng, lẽ nào tôi với cậu ta lại tâm linh tương thông đến vậy?

"Không ngủ được mà còn cười khúc khích thế à?" Thái Thanh Hứa quay lại, thay lồng sưởi trong tay tôi bằng túi giữ ấm, lại còn cúi xuống cài lại cúc áo ấm kín bưng cho tôi, "Còn lạnh không?"

Tôi lắc đầu, "Không lạnh, chỉ là ngủ không được."

Cậu ta thở dài, kéo ghế ngồi xuống bên cạnh, "Tôi cũng vậy..."

Hai chúng tôi im lặng nhìn bóng trăng từ từ khuất dần xuống sau mái nhà, bốn phía tối hẳn lại, chỉ còn vài ba ngôi sao nhấp nháy.

"Thật ra hồi trước tôi cũng thường ngồi đây." Thái Thanh Hứa nói.

"Hả?"

"Mùa đông buổi tối sẽ trông thấy chòm Orion (Lạp Hộ). Tuy bầu trời bị cắt ra chỉ còn một mảnh nho nhỏ thế này nhưng lại có rất nhiều sao."

"Ừ."

"Hoàn cảnh có khốn khó cách mấy, chúng ta cũng tự tìm ra cách giải quyết được, như những ngôi sao dù ở đâu cũng tỏa sáng."

Tôi không đáp. Lời an ủi của cậu ta nghe ra rất ngốc, làm tôi chẳng biết phải trả lời thế nào.

"Đôi khi tôi sẽ ra cửa để ngắm mảng sao Tam giác mùa đông, lúc đó tôi thường nghĩ, chẳng phải Tô Thức có bảo 'Miền Tây Bắc, bắn sao Lang' (Giang thành tử - Mật Châu xuất liệp) đó sao? Nhưng rõ ràng sao Thiên Lang (Sirius, đỉnh của mảng sao Tam giác mùa đông) nằm ở phía đông nam cơ mà." Cậu ta thấy tôi không nói, bèn chuyển đề tài.

"Sao Thiên Lang là đại khuyển đi theo sau Lạp Hộ và nghiêng về phía tây." Tôi nói.

"Ai, anh cũng không để tôi tự lừa mình dối người một tí nữa." Cậu ta làm bộ tiếc nuối.

Tôi bỗng thương cảm mà nói, "Bất chợt lại có cảm giác 'Vầng trăng cổ tích ai hay? Trăng này từng chiếu mấy đời cổ nhân' quá ! (Bả tửu vấn nguyệt/Lý Bạch) Rất lâu về trước, không, bảy mươi năm về trước, ai đã từng ngồi đây ngắm cũng những ngôi sao này?"

"Đây phải sao, là trăng chứ!"

"Đừng so đo mà!"

"Tùng Viễn, sao hôm nay anh lại khóc?" Cuối cùng thì cậu ta cũng hỏi.

Tôi lắc đầu, "Bình thường tôi không đa sầu đa cảm vậy đâu, nhưng mấy ngày nay, tôi cứ bị cái suy nghĩ về những chuyện trước đây, về người đã thác làm yếu đuối đi..."

"Ai, anh thật..."

"Tôi nghĩ bức ảnh chụp tốt nghiệp đó, từng người trong số họ đều ôm ấp hoài bão về tương lai. Thế nhưng hậu nhân chúng ta khi cầm hình xưa mà nhìn lại, hoàn toàn không thấy đâu tương lai, chỉ thấy chiến tranh và ly biệt. Một khi bị số phận cuốn đi, lúc quay đầu lại ngắm tấm hình đầy ắp ước mơ ngày xưa, tâm trạng vừa phức tạp vừa khó chịu..."

Nói đoạn chúng tôi lại trầm mặc một đỗi lâu.

"Vì vậy, chúng ta nên quý trọng hiện tại." Lúc sau, Thái Thanh Hứa bất chợt lên tiếng, nhẹ nhàng áp bàn tay của cậu ta lên trên lưng tôi, lạnh và thoáng run rẩy. Hóa ra cái lồng sưởi của cậu ta đã sớm tắt, ấy nhưng cứ cùng tôi miên man suy tư ngồi lặng người giữa bốn bề gió núi cảnh đêm này.

Tôi nắm bàn tay của cậu ta để lên túi giữ ấm, nhưng cậu ta lại từ chối. Tôi ngước lên nhìn, chợt thấy vẻ mong chờ cùng hồi hộp khẽ lóe lên rồi biến mất trong mắt cậu ta. Lẽ nào cậu ta...

"Anh..."

"Anh..." Chúng tôi đồng thời lên tiếng.

"Không có gì." Thái Thanh Hứa cười, "Sức khỏe tôi tốt lắm, không sợ lạnh đâu."

Tôi im lặng nắm bàn tay của cậu ta, truyền hơi ấm của mình sang bên ấy. Cậu ta cũng khẽ khàng nắm lại tay tôi. Cả hai người đều không nói gì.

Trầm mặc một lúc thì cậu ta lại bật cười, "Bọn mình đêm nay như thi nhân thời xưa ngắm trăng ngắm sao rồi luận bàn về nhân sinh thế sự ấy."

"Phốc..." Tôi cũng nhịn không được mà cười, đây là lời kịch kinh điển của nàng Tử Vi và chàng Nhĩ Khang đây mà.

Buổi chiều hôm sau, chúng tôi gọi điện webcam cho ông cụ ở Đài Loan.

Giữa trưa, cậu ba của Thái Thanh Hứa điện thoại tới bảo, "Ông cụ ấy tên Lâm Kỳ Sâm, rời Đại Lục đã hơn nửa thế kỷ. Bữa trước liên lạc với người nhà của ông ấy mới biết ông ấy có một nguyện vọng."

"Ông ấy muốn hồi hương?" Thái Thanh Hứa hỏi.

"Đúng vậy. Thế nhưng bây giờ ông ấy tuổi tác đã cao, cơ thể chẳng chịu nổi đường xa gió bụi." Cậu ba thở dài, "Ông ấy còn muốn tìm một người, là em trai trong dòng họ, từng cùng ông ấy sống nương tựa lẫn nhau. Hai người bằng tuổi nhưng khác vai vế. Người đó tên Lâm Minh Phương."

"Cậu sắp sửa biến thành người tìm người chuyên nghiệp rồi đó."

"Đâu dám!" Phía bên kia cậu ba chợt cảm thán, "Lúc đó mấy người trong đoàn làm phim có đi tìm giúp ông ấy, nhưng lại chẳng ai mò ra được, sau thì bỏ cuộc. Ấy mà cậu mày vừa ra tay liền có tin tức ngay!"

"Lợi hại vậy sao!?" Thái Thanh Hứa nịnh nọt.

"Bởi vì cậu cũng họ Lâm, muốn tìm người trong cùng tộc họ cũng dễ! Ông cụ Lâm đó là người của Lâm gia ở Hoa Khẩu, bên ấy mấy năm trước từng chỉnh sửa lại gia phả, cậu dò tra một tí liền ra ngay. Ông Lâm rời Đại Lục không lâu thì Lâm Minh Phương cũng mất vì bệnh, lễ tang khá sơ sài. Vì không được chôn trong mộ tộc nên khó tra ra. Mấy năm trước gia phả chỉnh sửa, người trong tộc mới dời mộ của Lâm Minh Phương về lại khu mộ phần của tộc ở Hoa Khẩu."

Lại thêm một người... Nỗi xót xa bấy giờ khó lòng ngăn lại nổi.

"Chắc ông cụ Lâm hay tin sẽ đau lòng lắm?"

"Phải, sáng này người nhà của ông ấy đã liên lạc với cậu. Sau ông cụ biết chuyện xong thì liền bỏ ăn. Chừng này tuổi rồi mà còn khóc chết đi sống lại, cứ nức nở xin lỗi người nọ mãi thôi."

"Cậu hãy nhắn ông cụ giữ gìn sức khỏe, bọn con có thể chờ được." Tôi vội nói.

"Cậu cũng nói thế, nhưng ông cụ chỉ cảm ơn rồi muốn được nói chuyện với mấy đứa ngay. Túm lại, chiều nay phải tốc chiến tốc thắng, nhớ là đừng gợi chuyện thương tâm khiến ông ấy đau lòng." Cậu ba căn dặn.

"Bọn con nhớ rồi. Khổ cho cậu quá!"

Sau khi nghe xong cú điện thoại của cậu ba, tôi suýt nữa chẳng nuốt nổi cơm. Nhưng vì không muốn người họ Thái lo lắng đành miễn cưỡng ăn một ít, sau đó về phòng cố điều chỉnh lại tâm trạng, suy tính xem nên hỏi những gì. Song, tiếc rằng tôi vốn đã ăn nói vụng về, suy nghĩ cũng chả linh, cuối cùng không nghĩ được gì.

Hai giờ chiều, ông cụ gọi điện qua mạng cho chúng tôi.

Cameras rất rõ, tôi nhìn ông cụ Lâm, so với tuổi của ông thì trông ông trẻ hơn rất nhiều. Song bấy giờ mặt mày ông nhuốm đầy vẻ mệt mỏi, khiến lòng tôi xót xa quá đỗi.

"Ông Lâm, ông khỏe chứ ạ. Cháu là Tăng Tùng Viễn." Tôi nhìn vào cameras, giọng có hơi khẩn trương.

"Mọi chuyện thế nào Tiểu Lâm đã nói với ông, cháu cực khổ rồi." Phương ngôn Hoa Khẩu có âm của Phúc Châu, thế nhưng giọng ông lại nghe có chút vị Đài Loan.

"Không đâu ạ, cháu chỉ... cháu chỉ muốn biết thật ra ông nội cháu là ai."

"Lòng muốn tìm kiếm đó ông hiểu chứ..." Ông cụ thở dài, "Bao nhiêu đêm chập chờn mất ngủ, ông đã sớm nghĩ thông... Nhưng người ta bảo 'giọng quê không đổi tóc đà biến suy' (Hồi hương ngẫu thư/Hạ Tri Chương) còn ông đến cả giọng quên cũng không giữ được. Thậm chí lúc chết cũng chẳng thể trở về, từ rày về sau không còn được gặp lại..."

"Ông, xin ông đừng đau lòng quá."

"Chỉ là cảm khái tí ấy mà." Ông cụ cười khổ, "Tiểu Tăng, ông không muốn khiến cháu thất vọng, song lại chỉ có thể nói cháu biết, ngoại trừ Lư Minh Huân cùng Tiêu Quang Bảo, Tăng Tử Phồn còn thân thiết với một thanh niên rất tốt bụng khác nữa."

Tôi như ngừng thở mà nhìn vào màn hình. Sau bao ngày xuôi ngược, ông là người đầu tiên nói cho tôi hay một manh mối rõ ràng đến vậy.

"Người đó là đồng hương của Đại Viễn, cũng là người Quế Lâm và họ Thái. Ông không biết ông ta tên gì, chỉ rõ là nhỏ hơn bọn ông một tuổi, tốt nghiệp khóa 1936."

"Họ Thái..." Tôi kinh ngạc rồi lại vô thức đưa mắt nhìn Thái Thanh Hứa, đồng thời cậu ta cũng giật mình mà ngó tôi.

"Chỉ có một người đó thôi ạ?" Tôi hỏi.

"Phải, chỉ có người đó thôi. Ông không quen ông ta, chỉ biết đối phương họ Thái, ngoài ra thì hết rồi."

"Cảm ơn ông. Thật lòng rất cảm ơn ông! Cháu sẽ tiếp tục tìm hiểu thêm!"

"Tiểu Tăng, dù kết quả thế nào cũng đừng bỏ cuộc, chắc chắn tới cuồi cùng rồi cũng tìm thấy thôi. Đừng như ông..." Giọng ông cụ run run, "Đừng như ông, bỏ mặc suốt năm mươi năm, khi sắp chết rồi mới biết tin của Minh Phương."

"Ông chú ý sức khỏe, đừng đau lòng lại bệnh ạ."

Ông cụ lắc đầu, "Không sao đâu. Ông còn một việc cuối cùng này, muốn nhờ các cháu..."

Mấy ngày sau đó, tôi và Thái Thanh Hứa nhận được một quyển sổ do người của cậu ba mang tới, là nhật ký mà ông cụ Lâm gửi chuyển phát nhanh từ Đài Loan về đây. Cậu ba nhắn, chúng tôi hãy tới Hoa Khẩu một chuyến, đến trước mộ phần của Lâm Minh Phương, đốt quyển nhật ký này xuống cho ông ấy.

Bên trong nhật ký có ghi lại một nửa sau cuộc đời của ông Lâm Kỳ Sâm. Có rất nhiều việc mà Lâm Minh Phương không bao giờ biết, có những phong cảnh mà Lâm Minh Phương chưa bao giờ thấy. Tất cả đều được ông Lâm Kỳ Sâm nắn nót viết lại. Chỉ tiếc, những chuyện hay ho thú vị này lại không phải do chính ông Lâm Kỳ Sâm kể cho Lâm Minh Phương nghe.

Trang đầu quyển nhật ký có những dòng đề từ còn rất mới, nét chữ run run, đầy xót xa hoài niệm, "Tiếc nỗi ngày trôi, gió mưa buồn tẻ, cây đà lớn thế." (Thuỷ long ngâm - Đăng Kiến Khang Thưởng Tâm đình/ Tân Khí Tật/ Cụm "Thụ do như thử/Cây đà lớn thế" ý bảo việc Hoàn Ôn đời Tấn, khi đem quân qua Kim Thành, thấy cây liễu trước đây mình trồng đã lớn tày ôm, liền than: "Cây còn như thế, người biết còn thế nào")

Thốt nhiên tôi lại nghĩ đến những cụm cây xanh tươi cao ngất được trồng men theo đường lên núi cùng mảnh rừng xanh ngun ngút trải rộng mỗi khi đưa mắt trông ra. Chúng đã âm thầm sinh trưởng, không người hay biết, chẳng kẻ hỏi han. Lòng bất giác lại đau xót khôn chừng, "Cây nay trổ lớn, tình lấy gì đong!"

12/năm xưa

Qua lời kể ngày hôm ấy, biết được người bạn của Tăng Tử Phồn mang họ Thái làm chúng tôi kinh ngạc không thôi. Nếu người họ Thái đó là đồng hương của Tăng Tử Phồn, vậy sao ông nội Thái và ông chú của tôi lại chẳng bao giờ nhắc tới?

Thái Thanh Hứa không nén được nghi vấn, tối đó ăn cơm xong liền kéo ông nội Thái vào phòng riêng.

"A Đáp, ông nói sự thật cho cháu biết đi. Bạn thân của Tăng Tử Phồn họ Thái, hai người lại còn là đồng hương. Ông và già Tăng nhất định là biết chuyện đó, thế sao không nói chứ?" Thái Thanh Hứa chẳng mấy khi gọi ông nội Thái là A Đáp, thế nhưng mỗi lần dùng tới đều nghe như là đang làm nũng vậy.

Ông nội Thái trợn mắt ra ngó bọn tôi, "Họ Thái? Bạn học của anh Đại Viễn nói vậy?"

"A Đáp mau nói đi, còn chuyện gì mà con và Tùng Viễn là chưa biết?"

Ông nội Thái lắc đầu, "Không thể là chú ấy được, thiệt đó. Ông cũng đâu muốn làm lỡ chuyện của mấy đứa."

"Ông ơi, người họ Thái đó thật ra là ai?" Tôi trông mong.

"Ông ấy..." Ông nội Thái vô thức đưa tay xoa mép chung trà, "Ông ấy là chú ruột của ông, tên Thái Văn Trạch, tự Diệc Tuyền."

"Hả?" Thái Thanh Hứa giật mình, "Là ông chú của cháu? Sao cháu chưa từng nghe ai nhắc tới?"

"Ừ, ông cũng... không nhớ lắm về chú ấy. Chú ấy là người thông minh nhất họ nhà mình, sau khi tốt nghiệp ở Khê Nam rồi thì lên phía Bắc học, sau đó chiến tranh bùng nổ thì mất liên lạc."

"Ý của ông là..."

"Không." Ông nội Thái xua tay, "Năm đó chú ấy tòng quân, có vài lần gửi thư về nhà. Sau khi Nhật rút quân về nước, chú có trở lại nhà một lần, phụ ba ông và A Đáp ông làm lễ tang cho A Ma (bà). Sau đó chú ấy lại tiếp tục vào quân đội, một thời gian sau thì về nhà tham dự đám cưới của Đại Viễn... À, Đại Viễn cũng chính là Tăng Tử Phồn mấy cháu nói đó."

"Có người nói chú ấy và anh Viễn rất thân nhau, chú nhỏ hơn anh Viễn một tuổi, từ nhỏ đã cùng đi học ở trường làng. Hồi đám cưới anh Viễn ông là người lo liệu chứ đâu, còn nhớ là khi ấy đang độ vào đông, trời rất lạnh. Tối hôm ấy trăng vừa to vừa sáng, nhưng không hiểu sao cứ có cảm giác ánh sáng rọi xuống cứ lạnh lẽo thế nào ấy." Ông nội Thái hồi tưởng lại, "Chú ấy uống say lắm, song lại không hùa theo người khác nháo động phòng, chỉ bảo ba của ông cõng về. Ông đi theo sau lưng họ, hình như là nghe thấy tiếng chú ấy khóc. Chú ấy nằm trên lưng của ba ông nói miên man gì đó. Sáng hôm sau thì chú ấy bỏ đi, sau đấy thì không bao giờ trở về nữa..."

Không bao giờ trở về nữa?

"Nghĩa là sao ạ?" Thái Thanh Hứa hỏi.

Ông nội Thái thở dài một tiếng, "Anh Viễn lấy vợ không lâu sau đó thì nhà mình cũng nhận được thư báo tang. Lúc chú ấy qua đời chỉ có một mình, vật gửi về chỉ có hai tấm giấy mỏng. Một là tờ báo đăng tin cáo phó của chú ấy, một là thư bạn bè viết để chia buồn với gia đình. Bảng tin cáo phó của chú ấy được dán cùng hàng trên cầu báo tử với anh Viễn, sau 49 ngày mới bóc ra..."

Cầu báo tử, tôi còn nhớ. Khi lần đầu tới đây, Thái Thanh Hứa từng giới thiệu với tôi về hai tấm bia sinh tử dựng ở đầu cầu. Một tấm ghi ngày sinh, một tấm ghi ngày mất. Cây cầu đó còn gọi là Sinh Kiều. Con người từ lúc sinh ra tới khi thác rồi chẳng qua cũng như là bước qua một cây cầu.

"Chính vì vậy mà ông không kể chuyện đó với bọn cháu?"

"Đúng vậy... Sinh tử thất lạc... đã có rất nhiều người ra đi." Họ đều đi qua cây cầu độc mộc đó.

Đầu mối sáng tỏ duy nhất cứ như vậy mà bị chặt đứt. Tôi bắt đầu manh nha cái ý nghĩ, phải chăng là nên bỏ cuộc.

Hết hôm nay thì còn mười ngày nữa là đến Tết. Tôi muốn cùng ông nội đón cái Tết cuối cùng này, sang năm lại mang trong của ông an táng trong nghĩa trang của thị trấn. Tôi có thể dùng cả đời để tìm hiểu, nhưng còn ông nội lại chẳng thể chờ. Về phần tính danh trên bia mộ, tôi nghĩ là vẫn sẽ để tên "Tăng Tử Phồn" mà ông vẫn luôn nặng mang...

"Sao? Anh định về trên thị trấn đón Tết?" Nghe tin tôi muốn đi, Thái Thanh Hứa kinh ngạc vô cùng.

Lòng tốt đã quyết nên liền đáp, "Phải, nhà của ông nội không lâu nữa sẽ bị phá bỏ, tôi muốn cùng ông đón cái Tết cuối cùng này. Sang năm, tôi sẽ đưa tro cốt của ông ra an táng trong nghĩa trang."

"Nhưng..."

"Anh đừng lo, tôi không bỏ qua chuyện này đâu. Chỉ là hiện giờ cái gì cũng tra không ra, nên cứ từ từ mà tìm vậy, coi như để mình bình tĩnh lại."

Thái Thanh Hứa im lặng một lúc lại nói, "Được rồi, tôi đưa anh về. Cơ mà bọn mình sẽ cùng nhau dọn dẹp nhà cửa, dán câu đối lên cửa, và phơi mền mùng. Sau khi xong việc rồi mới trở về đây đón ông nội anh có được không?"

"Ừ, cũng là anh chu đáo."

Trước đêm rời Quế Lâm, tôi ngồi suy nghĩ về những chuyện đã xảy ra mấy ngày nay. Tuy chỉ vỏn vẹn có hai tuần, nhưng nhìn lại cứ như một đời đã qua.

Thấp thoáng trong mộng như mơ thấy mình quay về bảy mươi năm trước, gặp được Tăng Tử Phồn, Lư Minh Huân, Tiểu Quang Bảo, Lương Hán Sinh, Lâm Kỳ Sâm, Lâm Minh Phương và Thái Văn Trạch. Chỉ thấy nhân sinh của họ như một cơn pháo hoa lướt qua trong nháy mắt. Cuộc đời lúc sinh tiền chẳng khác gì cưỡi ngựa xem hoa.

Bởi vì trở về từ phố núi nằm rất cao so với mực nước biển, cảm thấy thị trấn không còn lạnh như trước, người cũng dễ dàng thích nghi hơn.

"Đừng có mà ỷ y." Thái Thanh Hứa lo lắng nói, "Lần trước chẳng phải anh đã bị cảm đó sao? Đợi ngày mai tôi lấy thêm chăn nhà tôi tới cho anh."

Cuối cùng tôi không cách gì cự tuyệt được cậu ta, bèn nói sang chuyện khác, kéo cậu ta đi dán câu đối, mua đồ Tết, canh chừng thời gian mà quét dọn nhà cửa.

Phía trên bàn ăn nhà ông nội treo một dây bóng đèn tròn kiểu xưa ơi là xưa, mỗi khi gió tạt vào sẽ làm đèn lung lay. Hồi còn bé thì cứ thấy bàn ăn rất lớn, bây giờ thì chỉ ngại nó quá nhỏ. Vẫn nhớ mỗi khi ăn cơm ba và ông nội hay mặt nặng mày nhẹ, bầu không khí lúc nào cũng hết sức căng thẳng. Thế nhưng hiện tại ra sức hồi tưởng, lại không cách nào hình dung nổi tình hình lúc đó.

"Lại nghĩ tới ông của anh à?" Thái Thanh Hứa gắp thức ăn cho tôi.

Tôi gật đầu, cũng gắp thức ăn cho cậu ta, bất chợt phát hiện đây là lần đầu chúng tôi ngồi ăn cùng nhau ở nhà ông nội. Hình như lúc nhỏ cũng từng có ai đó gắp thức ăn cho tôi thì phải. Đã bao lâu rồi nhỉ? Ba mẹ ly hôn đã bao lâu, việc này tôi cũng không nhớ.

Ăn tối xong, Thái Thanh Hứa đi quét mạng nhện, tôi sắp xếp nhà cửa. Lúc mới về đã dọn dẹp kệ sách của ông, bây giờ tới phiên tủ quần áo.

Tủ đồ của ông nội cũng là dạng tủ cây hai cánh kiểu cũ, bề mặt tủ có khắc hình hoa cỏ, rất đẹp. Mở cửa tủ ra, mùi long não liền xộc vào mũi, áo quần cùng vật dụng hằng ngày của ông nội được xếp rất gọn gàng. Ông nội là một người như thế, lúc nào cũng gọn gàng sạch sẽ, luôn luôn hiền hòa ấm áp. Mũi tôi lại cay lại xót, không đành lòng mà động tay vào những món đồ này...

"À, Tùng Viễn này, bất chợt tôi nhớ ra một chuyện!" Thái Thanh Hứa quay vào phòng thì thấy tôi đứng đờ ra trước tủ áo.

"Có chuyện gì?" Tôi quay đầu lại hỏi.

"Không phải lần trước anh bảo là tìm trên giá sách nhưng chẳng thấy gì sao? Ấy nhưng các cụ lại hay giấu đồ trong tủ quần áo hơn. Tôi nhớ ông nội tôi toàn lén giấu bà nội cất tiền dưới tấm vải lót đồ trong tủ."

"Hả?" Tôi ngạc nhiên.

Thái Thanh Hứa gãi đầu, "Tôi cũng không biết sao lại có thói quen đó nữa, trước đây người ta thường trải một tấm vải phía trên ngăn tủ trước khi xếp áo bỏ vào. Chỗ dưới tấm vải là một nơi tốt để giấu đồ!"

Tôi nhíu mày nhìn phía dưới cùng của mớ quần áo, thế mà lại trông thấy có tấm vải lót màu xanh đen!"

"Tìm thử xem sao!?"

"Tôi thấy hồi hộp quá..."

"Tôi làm cho nhé?"

"Đợi đã, anh đừng xào tung đồ lên thế chứ... Để tui tự làm!"

Bọn tôi cứ như hai thằng ngố mà chui đầu vào trong tủ áo lục tìm gì đó. Thái Thanh Hứa thì nhấc đống trang phục lên, tôi thì lần tay xuống dưới tấm vải lót.

Ban đầu thì chẳng thấy gì, nhưng rồi lòng tò mò đã giúp bọn tôi thành công. Tôi và Thái Thanh Hứa mang quần áo hết ra ngoài, giở tung tấm vải lót ra, quả nhiên là có gì đó rơi xuống.

Thái Thanh Hứa nhặt lên, "Là một tấm ảnh!"

Tôi cầm lấy, vừa nhìn liền thấy tấm hình từng bị xé ra làm đôi sau đó thì được dán lại. Phía bên mép phải còn dính một vệt bẩn, trông như vết máu khô. Tuy rằng đã được lau chùi kỹ lưỡng thế nhưng vẫn không sạch được. Người trong tấm hình ấy, sau bao lần nheo mắt quan sát, tôi cũng nhận ra, là Tăng Tử Phồn! Là ảnh chụp một mình Tăng Tử Phồn!

Tôi vội vàng lật mặt sau của tấm hình ra xem, hàng chữ viết liền đập ngay vào mắt,"Thân tặng Diệc Tuyền!" bên dưới còn đề, "Đại Viễn, mùa xuân 1936."

"Thân tặng Diệc Tuyền!" Bức ảnh tặng cho Thái Văn Trạch sao lại ở chỗ của ông nội tôi?

Lẽ nào... Tôi và Thái Thanh Hứa nhìn nhau, trong lòng cùng chung nỗi hoài nghi.

13 /chuyện

Ảnh Tăng Tử Phồn tặng Thái Văn Trạch sao lại được giấu trong tủ áo của ông nội? Trong đầu tôi nảy ra một ý nghĩ động trời.

"Tùng Viễn, anh cũng nghĩ vậy à?" Thái Thanh Hứa hiển nhiên cũng có suy đoán giống tôi.

Tôi trầm mặc một lúc mới đáp, "Tôi thấy chuyện này cũng có thể lắm. Không phải ông nội anh bảo lúc ông Thái Văn Trạch mất thì chỉ có một mình, rồi gửi về nhà mỗi hai tời giấy báo tử đó sao? Như vậy có nghĩa là chẳng ai mang tro cốt của ông ấy về, thứ được an táng chỉ là di vật và quần áo."

"Thế nhưng, chúng ta không có chứng cứ xác thực."

"Chỗ giấu đồ!" Tôi hỏi, "Anh nghĩ xem còn chỗ nào người ta có thể giấu đồ nữa không?"

"Dưới ván giường? Trong hốc nhà?" Thái Thanh Hứa ngơ ngẩn đáp.

Vì vậy hai chúng tôi bèn lật tung tất cả vật dụng trong nhà lên, nhưng chẳng tìm thấy gì.

"Anh nghĩ còn vật gì nữa à?"

Tôi thở dài, "Tôi chỉ là nghĩ..."

"Được rồi, vẫn còn một chỗ," Thái Thanh Hứa thở hắt ra, "Hồi nhỏ tôi thường giấu đồ trong áo gối. Nếu không ai thay áo gối thì sẽ không bị phát hiện."

Quả nhiên là vừa cẩn thận vừa quái dị, khiến tôi muốn cười một tiếng.

Lòng ấp ủ hy vọng, chúng tôi cởi bao gối của ông nội ra, kết quả là trố mắt nhìn trân trối...

"Quả nhiên là có ư?" Thái Thanh Hứa lắp bắp hỏi.

Tôi cầm lá thư tìm được lên, như có trực giác gì đó, "Thái Thanh Hứa, nói không chừng... ông nội tôi là ông chú của anh đó!"

Không được người ta cho phép mà đã đọc thư thế này, tôi thấy có chút áy náy. Song bây giờ không phải lúc để câu nệ. Tôi nhủ lòng mình một tiếng, sau đó bóc thư ra xem.

Bìa thư có viết 4 chữ phồn thể xinh đẹp nắn nót, "Thân gửi em Tuyền." Đây là thư gửi cho Thái Văn Trạch. Tay tôi cứ run lên khi nhìn vào mục thông tin người gửi, "Từ anh Đại Viễn", thời gian vào khoảng "Giữa thu năm Tân Sửu".

"Năm Tân Sửu? Là khi nào?" Thái Thanh Hứa hỏi.

Tôi lắc đầu, "Không biết nữa, cứ đọc thư trước đã."

Đầu thư là kể chuyện hoa quế mùa này ở Quế Lâm nở rất đẹp, người nào đó ủ rượu quế rất thơm, nhà ai đó làm bánh quế ngọt ngào. Sau đó thì nhắc tới chuyện em Tuyền lúc bé rất thích ăn bánh quế, rồi hỏi còn ở ngoài bao lâu nữa, chừng nào thì trở lại nhà. Thậm chí còn nhắc nhở mùa này khí trời bắt đầu se lạnh, dặn em Tuyền ra đường thì mặc thêm áo, ngủ phải đắp thêm chăn. Anh nay mang bệnh trong người, duy nhất không an lòng về đứa con trai. Cuối cùng thì nói, rất nhớ ngày thơ ấu được cùng đến trường với em Tuyền, hy vọng con trai mai này cũng có thể thông minh giỏi giang, nên người như em Tuyền vậy.

Toàn bộ thư chỉ nhắc tới chuyện cũ, hơn nữa còn âm thầm ủy thác.

"Có phải ông ta là có ý định đó? Câu 'duy nhất không an lòng về đứa con trai' có nghĩa như là tôi đang nghĩ?" Tôi nắm lấy tay Thái Thanh Hứa, bỗng dưng như hiểu ra mọi lẽ.

"Anh xem, còn một đoạn nữa kìa." Thái Thanh Hứa lấy lá thư, đọc tiếp, "Nay đang bệnh, dạ bồi hồi. Mộng toàn người lạ bạn tôi không vào."

Tôi sửng sốt, vốn ngỡ đây chỉ là một phong thư nhắc tình xưa thác sự đời, dè đâu lại còn một đoạn thê trường thế này. Chỉ một câu nói giản đơn, đủ hiểu ra tình nghĩa sau trước hẹn thề.

"Chẳng rõ làm sao sự đời. Đêm qua hồn mộng mơ người phương xa."*

"Nay đang bệnh, dạ bồi hồi. Mộng toàn người lạ bạn tôi không vào."**

(*Bạch Cư Dị bấy giờ bị biếm tới Giang Châu, nửa đêm nằm mộng mơ thấy tri kỷ là Nguyên Chẩn, bèn viết bài "Mộng Vi Chi/Nhớ Vi Chi" mà gửi đi (Vi Chi là tên tự của Nguyên Chẩn). **Nguyên Chẩn được thư, bèn đáp lại bằng bài "Thù Lạc Thiên tần mộng Vi Chi/Đáp chuyện Lạc Thiên nhớ Vi Chi" (Lạc Thiên là tên tự của Bạch Cư Dị))

Nhưng tôi lại không thể nào biết được, Thái Diệc Tuyền có từng mộng Tăng Đại Viễn hay không?

Đêm ấy tôi lại mất ngủ, miên man suy nghĩ về chuyện này. Tại sao Tăng Tử Phồn lại phải viết lá thư ủy thác đầy mơ hồ và thê lương tới vậy? Nếu như ông nội chính là Thái Văn Trạch, thì sao phải trá tử, rồi dùng thân phận của Tăng Tử Phồn mà nhận nuôi ba tôi?

"Tùng Viễn, đừng nghĩ ngợi nhiều quá. Sáng mai chúng ta tức tốc về Quế Lâm tới hỏi già Tăng. Anh ngủ sớm đi." Vì tôi cứ lăn qua lộn lại mãi nên Thái Thanh Hứa cũng mất ngủ lây. Lần trước tôi nửa đêm cảm lạnh, lần này Thái Thanh Hứa nhất quyết ép tôi đắp hai cái chăn điện, kết quả là tôi đành xấu hổ ngủ chung mền với cậu ta.

Tôi áy náy nói, "Tôi không lăn nữa, cậu ngủ đi."

Thái Thanh Hứa thở dài một tiếng, choàng tay ngang qua lưng tôi.

"Anh, anh làm gì vậy!" Tôi giật mình hoảng hốt.

"Mau ngủ đi." Cậu ta thì thầm khẽ vào tai tôi.

Ngủ được mới lạ! Tôi chưa bao giờ có tiếp xúc thân mật với bất kì ai, nên lúc này cả người như hóa đá đi.

Thái Thanh Hứa dùng bàn tay còn lại che mắt tôi, cả người hầu như là ôm chặt lấy tôi, "Nhắm mắt lại, thế mới ngủ được chứ."

Thật lòng tôi cũng không muốn cự tuyệt cậu ta, nên im lặng mà thỏa hiệp. Tôi vẫn giữ nguyên tư thế cuộn người nằm nghiêng, từ từ nhắm hai mắt lại.

"Bây giờ không suy nghĩ gì nữa, ngủ đi..." Giọng nói của cậu ta trong đêm nom cứ như độc dược đầu độc người ta vậy.

Tim tôi khẽ run lên, lý do vì sao thì chẳng rõ, chỉ biết phải cố mà bình tĩnh lại.

Thiệt là lạ, đang có một cơ thể ấm áp khác cận kề với nhịp đập trái tim tôi. Tôi cũng không miên man suy nghĩ tới chuyện ông nội nữa, thay vào đó là lo lắng tới tình huống hiện tại. Tôi nghĩ mình có thể nghe thấy rõ ràng tiếng Thái Thanh Hứa hít thở. Giữa bốn bề đêm đông im ắng tịch mịch, phảng phất như cả thế giớ này chỉ còn mỗi hai người chúng tôi là đang truyền hơi ấm cho nhau vậy...

Tối đó tôi có một giấc mơ. Thấy mình cùng Thái Thanh Hứa sinh ra và lớn lên ở Quế Lâm. Mỗi ngày sáng sớm chúng tôi cùng đi trên những con đường làng rải đá cuội mà tới trường, sau khi tan học lại cùng nhau về nhà. Chúng tôi còn cùng nhau chơi đuổi bắt ngoài đình làng, đi bắt nòng nọc lúc mương cạn. Thỉnh thoảng sẽ trốn nhà dắt nhau ra bãi đất trống ngoài đầu thôn mà ngắm sao. Khi Tết đến thì kéo nhau lên núi chơi thảy pháo...

Sau đấy thì có một ngày Thái Thanh Hứa đột nhiên muốn kết hôn, tôi đi uống rượu mừng. Tim tôi rất đau, lòng cũng khó chịu. Uống tới trời đất cũng phải say mèm. Lúc tôi rời khỏi tiệc vui thì trời đổ tuyết, giữa trời treo một vầng trăng sáng vành vạch. Giá lạnh vô cùng...

"Tùng Viễn! Tùng Viễn!"

"Hở?"

"Được rồi, đừng xoay người nữa, anh là con nít à? Ngủ cứ cuốn hết lấy chăn là sao?" Hình như là giọng của Thái Thanh Hứa.

"Thái Thanh Hứa?" Tôi mơ mơ màng màng choàng tay ôm lấy cổ cậu ta, "Không được kết hôn đâu đó!"

"Anh đang nói gì thế..."

Tôi không quan tâm cậu ta lải nhải cái gì, chỉ thấy lòng ấm áp vô cùng. Hiện giờ Thái Thanh Hứa là của tôi. Tốt quá!

Sáng sớm tỉnh dậy thì mơ hồ nhớ tới chuyện đêm qua, chắc là đầu óc tôi bị nước vô hư rồi. Còn Thái Thanh Hứa thì cứ phơi phới ra mặt, thật đáng ghét! Vậy nên tôi đành giả vờ như không biết gì hết.

Bọn tôi nhanh chóng ăn điểm tâm rồi lấy bức thư cùng tấm ảnh chụp Tăng Tử Phồn về lại Quế Lâm. Tôi mong ông chú của thể kể cho tôi nghe mọi việc.

Suốt dọc đường chúng tôi không hề dừng chân nghỉ lại, xe vừa ngừng ở đầu thôn tôi và Thái Thanh Hứa liền đi tìm ông chú. Tới Tăng gia, ông nội Thái cũng có mặt. Hai người đang ngồi ngoài sân, đốt lồng sưởi và uống trà.

"Sao mới sáng sớm đã về rồi?" Ông nội Thái ngạc nhiên nhìn chúng tôi.

"A Đáp, già Tăng, bọn con có cái này cho hai người xem." Thái Thanh Hứa mặt mày nghiêm túc đưa ảnh chụp cùng lá thư ra cho hai ông.

"Cái này..." Ông chú tay run run cầm tấm hình, "Bức ảnh này lấy ở đâu?"

"Ở nhà của ông nội cháu." Tôi đáp.

Ông nội Thái nheo mắt đọc hết lá thư rồi thở dài một tiếng, "Nghiệp chướng..."

"Ông Thái, ông chú, có phải hai người đang giấu cháu chuyện gì phải không?" Tôi nhìn sắc mặt của hai người thì liền hiểu.

Ông chú lấy lá thư từ tay ông nội Thái, đọc một lúc lâu, cuối cùng thì nghẹn ngào nói, "Bức thư này... hồi đó là do chính ông gửi đi."

"Sao ạ?" Tôi và Thái Thanh Hứa không ngờ ông chú lại biết nội tình.

Ông chú bập bẹ dùng tiếng phổ thông mà kể, "Lúc đó, anh Viễn sắp không chịu nổi nữa, nhờ ông mang thư gửi cho chú Trạch. Ông có hỏi lý do, vì bởi hai người đã tuyệt giao tự rất lâu. Anh Viễn chỉ cười chứ không nói gì."

"Khoan đã, ông chú, sao ông lại kêu ông nội cháu là chú Trạch." Tôi bị vai vế này làm cho hồ đồ.

Ông nội Thái tiếp lời, "Thái gia và Tăng gia vốn là họ hàng xa. Anh Viễn và chú Trạch tuy chỉ hơn kém nhau một tuổi, nhưng so vai vế thì chú Trạch vẫn lớn hơn."

"Thế nhưng xưng hô trong thư..."

"Ai, đúng là nghiệt duyên mà..." Ông nội Thái lắc đầu, nhíu mày hỏi, "Hai đứa có biết từ xưa đã có phong tục kêu là 'huynh đệ khế' không?"

Chuyện này đương nhiên là biết. Tôi và Thái Thanh Hứa nhìn nhau một cái rồi lại tức tốc dời mắt đi.

Ông nội Thái nói tiếp, "Phong tục ở Mân hồi trước, đàn ông mà kết thành 'huynh đệ khế' rồi thì sống với nhau như thể vợ chồng. Nhưng đây là một tập tục đã xưa. Từ 'khế đệ' là muốn chỉ người có vẻ ngoài xinh đẹp nhưng lại nghèo nàn, kết bái với thiếu gia nhà giàu... Còn ở quê mình, từ 'khế đệ' đó lại có ý nhục mạ. Thế nhưng lúc bấy giờ, có người đồn chú Trạch và anh Viễn là 'khế huynh đệ' của nhau."

Ông chú kể tiếp, "Chuyện này bọn ông chưa bao giờ nghe thấy, bác hai không biết 'huynh đệ khế' là gì. Nhưng phía Thái gia khi biết chuyện xong thì vô cùng giận dữ, tới gặp bác hai mà nói chuyện. Sau đó người nhà hai bên cũng không để lộ ra ngoài, phạt chú Trạch quỳ ở từ đường, còn bác hai thì tức quá hóa bệnh."

"Chú Trạch bị phạt quỳ mà cứ lo lắng cho anh Viễn, bảo ông đi nhắn lời cho anh ấy, nói là muốn cùng anh ấy bỏ đi để tránh chuyện sóng gió này. Nhưng chú Trạch đợi tới sáng cũng không thấy anh Viễn đâu, tới khi bị ba của ông chạy đến bắt về. Sau đó thì chú ấy bị đưa tới học ở trường ngoài phía Bắc." Ông nội Thái nói.

"Chú Trạch đã không hiểu cho anh Viễn. Bác hai chỉ có mỗi anh Viễn là con, nên ảnh nào có thể bỏ gia đìn không lo." Ông chú thở dài, "Anh Viễn vẫn luôn chờ tin tức của chú Trạch, song mãi chẳng có thư về. Sau đó thì chiến tranh nổ ra, anh Viễn nhập ngũ. Lúc chú Trạch về nhà lo chuyện ma chay, hai người có gặp nhau một lần."

"Sau cái đợt hai người bị đòn ấy, bác Tăng trở bệnh nặng, ép anh Viễn lấy vợ. Anh Viễn đợi chú Trạch tới hết năm đó, sau đó thì không chờ nữa. Anh ấy cưới một cô gái đào hôn, là người ảnh quen biết ở bên ngoài, lúc về thì thưa với bác Tăng cô ấy là bạn học của mình. Đúng vào ngày anh Viễn kết hôn thì chú Trạch trở về..." Ông nội Thái thở dài.

"Ban đầu anh Viễn cứ một mực muốn chờ chú Trạch, nhiều lần cãi nhau với bác hai, lại còn tính để ông làm con thừa tự của bác hai. Ông không chịu, anh Viễn bèn nhiều bận khuyên giải. Lúc đó, thật lòng là ông rất ghét anh Viễn và chú Trạch, vì họ làm sai mà khiến bao người bị vạ lây. Thế nhưng vào ngày anh Viễn kết hôn... Ông đột nhiên nghĩ, hai người họ thật là khổ."

"Còn nhớ tối đó trên đường về nhà, chú Trạch nằm trên lưng của ba ông nói rất nhiều lần câu xin lỗi. Chú ấy, nửa cuộc đời có công với nước, duy chỉ mang tội với gia đình. Còn về chuyện chú ấy với anh Viễn, quả thật phân không rõ là ai phụ ai..."

"Chẳng rõ làm sao sự đời. Đêm qua hồn mộng mơ người phương xa."

"Nay đang bệnh, dạ bồi hồi. Mộng toàn người lạ bạn tôi không vào."

Chẳng cần biết là ai đã phụ lòng ai. Chung quy hai người đã để lỡ nhau một đời, đến cả khi đêm khuya mộng tới cũng không thể gặp lại.

14/bí mật

Tôi và Thái Thanh Hứa trầm mặc một đỗi lâu. Thật không ngờ giữa Tăng Tử Phồn và Thái Văn Trạch còn có một quá khứ như thế.

Trong lòng tôi, hai người họ vốn dĩ chỉ là người xa lạ... Họ đã lớn lên bên nhau như thế nào? Có từng chơi đuổi bắt, từng đi bắt nòng nọc, hoặc từng lên núi thẩy pháo không?

Tôi đã từng trông thấy ảnh chụp Tăng Tử Phồn, nhìn thấy nét chữ của ông ấy, nhưng tựu chung cũng vẫn không biết ông ấy là ai. Tôi không biết cái đêm mà ông nội đứng ở đầu thôn chờ ông ấy thì có tâm trạng ra sao, không biết ông nội đã cảm thấy thế nào vào ngày kết hôn của ông ấy. Đến cuối cùng, ông ấy cũng vẫn chọn gia đình, không bàn tới lẽ đúng sai.

Còn ông nội tôi, tự tôi cho là mình thân thiết với ông, nhưng hóa ra tên ông lại là Thái Văn Trạch, hóa ra người an tĩnh ấm áp như thế từng có một thời tuổi trẻ nông nổi liều lĩnh. Thật ra ông là người thế nào? Vừa cuồng nhiệt vừa nhã nhặn? Cảm tình sâu nặng năm xưa phải chăng giờ cũng theo mưa gió tan đi?

Ông chú dùng giọng quê mà nói, "Thì ra chú Trạch chưa bao giờ từ bỏ... Sống chẳng cầu chung đôi nhưng chết xin được chung đường."

Như vậy, đây chính là lý do mà ông nội chỉ gửi hai tờ giấy báo tử về nhà.

"Còn một việc cháu không hiểu, tại sao ông Tử Phồn lại giao ba của Tùng Viễn cho ông chú?" Thái Thanh Hứa hỏi.

"Vì anh Viễn biết, nếu thằng bé ở lại Quế Lâm, mồ côi cả cha lẫn mẹ như thế sẽ phải ăn nhờ ở đậu, do vậy cũng không được tới trường. Còn điều kiện của chú Trạch rất tốt, nên nếu nhận nuôi thằng bé thì có thể cho nó được ăn học đến nơi đến chốn."

"Ông nội thật là..." Tôi thở dài.

"Chú Trạch quả thật là người rất kiên quyết." Ông nội Thái nói.

Tôi nghĩ, người trên đời này có thể hiểu Thái Văn Trạch nhất chỉ có thể là Tăng Tử Phồn mà thôi. Ông nội là một người cương liệt, chuyện dán giấy báo tang lên trên cùng bia tử với Tăng Tử Phồn là nhằm muốn biểu đạt quyết tâm của mình. Nếu đời này đã không còn Tăng Tử Phồn, vậy thì cũng không có Thái Văn Trạch. Thế nhưng khi ấy Tăng Tử Phồn lại phó thác con trai của mình cho ông nội, thành ra ông nội không thể chết được... Nhưng Tăng Tử Phồn hẳn là không thể ngờ, ông nội ấy vậy lại gửi giấy báo tử về nhà, rồi cố chấp dùng thân phận của Tăng Tử Phồn mà sống hết quãng đời còn lại.

"Việc đúng là trớ trêu thật!" Ông nội Thái đặt chung trà xuống bàn, nghe một cái cạch, "Chuyện khi ấy hai ông già này chỉ hiểu có một chút. Ai, tôi đây đã hai thứ tóc, sống gần cả đời, vậy mà có những chuyện biết thì biết đó, lại chẳng nhìn ra chân tướng... Bao nhiêu chuyện cũ trên đời, tới cùng cũng không người biết đến, khiến hiểu lầm chồng chất hiểu lầm."

Hôm ấy, tôi cũng có quay về nhà Thái gia. Họ nói, cái phòng mà tôi đang ở đấy, cũng chính là nơi năm xưa ông nội từng trú, thế nhưng vết tích đã sớm bị bôi xóa khi nhà được sửa sang lại. Chắc chỉ có mỗi tấm ảnh bị xé làm hai kia là còn ghi lại chút dấu ấn thời gian mà thôi. Đây là bức hình mà ông nội tôi mang theo bên người, phía trên có một vết máu bẩn, hẳn là có tự hồi chiến tranh. Nhưng sao hình lại bị rách, ai là người đã xé? Thật lòng, tôi không dám suy tưởng gì chuyện xưa nữa.

Nhà của Tăng Tử Phồn năm xưa không được sửa chữa lại. Thỉnh thoảng ông chú có quét dọn, nhưng vì không ai ở nên nhà cũng xuống cấp hẳn, lại còn lạnh lẽo hoang vắng vô cùng. Tôi đứng trong sân một hồi, nhìn những tán cỏ dại mọc lên từ những khe nứt trên tường, thân cây đều đã cao quá nửa thắt lưng tôi... Nơi này, vốn dĩ là nhà của tôi.

Nếu như lần này không phải là tôi mang tro cốt của ông nội về lại cố hương mà là ba tôi, rất có thể ông nội đã sớm bị an táng trong nghĩa trang công cộng rồi. Cuộc đời đầy đau thương tủi phận ấy của ông nội sẽ không người nào biết tới. Chuyện xưa quá vãng mà ông phí hoài tâm tư ấy cũng bị tháng năm phủ bụi lãng quên dần.

Rốt cuộc thì, nhớ hay quên thì tốt hơn?

Tôi mơn trớn bức ảnh nằm trong túi áo, ngực chợt ấm áp lên. Tất cả vãng sự năm xưa đều nằm trong tấm hình đã ố này. Bao gồm tình cảm thiên trường địa cửu, hay cuộc đời tang thương dâu bể.

Tới chiều, tôi từ chối hảo ý giữ lại làm khách của Thái gia mà lên đường về lại thị trấn. Một mình tôi cũng có thể quay về trên ấy, nhưng Thái Thanh Hứa cứ nhất mực đòi đưa tôi đi.

"Anh dự định tiếp theo làm gì?"

"Tôi tính sẽ gọi điện về cho ba tôi. Tới năm sau thì bàn bạc với mọi người, để ông nội có thể an táng trong mộ phần Thái thị."

"Ừ." Thái Thanh Hứa như còn lời nào muốn nói, nhưng lại không thốt ra tiếng.

Chúng tôi cứ thế mà im lặng. Tôi nghiêng đầu qua ngắm mảng tối đang dần lớn ra tự phía chân trời, bóng trăng non nhợt nhạt, bất chợt nhớ tới ánh trăng đã mơ thấy đêm qua, một thứ ánh sáng lạnh lẽo phủ khắp núi rừng.

Thái Thanh Hứa bật radio, có tiếng ca vang lên, "Trăng vàng tỏ, tim tôi đỏ, rất sáng soi, nhưng lạnh lẽo. Ai cũng có cho mình chút đau thương riêng lẻ, muốn âm thầm chôn giấu, nhưng lại cứ không ngừng lớn lên..."

Tôi muốn cất giọng hát theo, nhưng mãi cũng không vang thành tiếng.

Lúc tới thị trấn thì phố thị cũng lên đèn.

Thái Thanh Hứa đêm nay không ngủ lại, chỉ quan tâm căn dặn, "Anh và ba anh bình tĩnh nói chuyện. Mấy ngày nữa tôi sẽ lên đây thăm anh."

Cậu ta mua cho tôi một phần cơm, bây giờ chỉ còn mỗi tôi ngồi ăn cơm dưới đèn. Nhìn bàn ăn bốn người, bất chợt lại thấy rộng vô cùng.

Sau khi ăn xong, tôi lại lau dọn nhà cửa, sắp xếp đồ dùng. Thật tình tôi không muốn nói chuyện với ba chút nào. Nhưng rột cuộc cũng phải gọi điện. Trước khi có người bắt máy tôi lại hít sâu một hơi.

"Chuyện đã xong chưa?" Giọng ba vẫn lãnh đạm như trước.

"Vâng, con đã tới Quế Lâm." Tôi đáp.

"An táng trong mộ phần của tộc?"

Tôi không biết phải mở lời thế nào, cứ ấp úng, "Ba... Ông nội... Năm sau ông nội sẽ được đưa vào mộ địa của Thái gia."

"Thái gia?" Ba rất ngạc nhiên, "Anh đang làm gì thế hả!"

Tôi hít sâu một hơi, nói một mạch những chuyện đã xảy ra từ lúc về đây. Vì không muốn nghe giọng điệu thờ ơ của ba nên tôi nói rất nhanh, cũng không ngừng. Điều lạ chính là, ba không hề ngắt lời tôi.

"Cho nên ông nội là họ Thái còn chúng ta là họ Tăng. Ông nội phải an táng ở Thái gia." Tôi tổng kết.

Phía bên kia điện thoại im lặng rất lâu, tôi đoán rằng thể nào ba cũng sẽ nổi trận lôi đình, như cái ngày mà tôi come out. Thốt nhiên tôi thấy rất hả hê, ba xem, ba của ba và con của ba đều cùng một kiểu người!

Ba vẫn không nói gì, ngay lúc tôi định gác máy thì ba lại lên tiếng, "Là ba xé!"

"Sao?"

"Bức ảnh đó, là ba xé!"

Tôi ngây người ra.

Giọng của ba run lên, "Từ nhỏ ba đã bị mắng là đồ không có mẹ dạy, nhưng ba không hề để ý, ông nội con không chịu tái hôn, chắc chắn là vì ông rất thương bà nội. Tới khi ba phát hiện ra tấm hình đó... Khi ấy ba đã không còn là thằng bé chuyện gì cũng không biết, ba hiểu ánh mắt mà ông nội con mỗi khi ngắm tấm hình đó là gì. Cho nên, đã xé bức ảnh đó,"

Ba đang nói gì vậy? Tôi nghĩ là mình đang nghe chuyện liêu trai rồi.

"Khi ba biết con cũng vậy thì ba... rất giận dữ. Xin lỗi, Tiểu Viễn, lúc đó ba không nên đánh con." Giọng của ba lạc đi.

Bây giờ nói những lời này thì có ích gì? Tôi không muốn nghe, chỉ muốn cúp điện thoại ngay lập tức.

"Hiện tại nhớ lại thì thấy thật ngộ. Tại sao ba lại phải ấm ức tức tối suốt mấy mươi năm trời như thế? Thật ra, ba cũng đã sớm bỏ qua chuyện này, thế nhưng... ba không cách nào đối mặt được với ông nội con. Tiểu Viễn, ba có lỗi với A Đáp của con... Tới khi ông qua đời, tới khi A Đáp của con qua đời, ba cũng không thể đối mặt được với ông. Bây giờ, sau khi nghe xong mọi chuyện, ba lại càng không có mặt mũi nào để nhìn A Đáp con..."

Lạ quá! Thật sự lạ quá! Tôi thế mà lại nghe tiếng ba đang khóc. Tôi chẳng nói gì được cả, châm chọc cũng không, an ủi lại càng không. Tôi không thốt được một câu nào.

Hóa ra là vậy! Hóa ra giữa ba và ông nội còn có một bí mật như vậy! Gút mắt ba đời nhà chúng tôi, sao lại buồn cười đến thế!

Tôi không lòng dạ nào nghe tiếp được nữa, bèn gác máy. Đáng sợ quá! Không gian quạnh quẽ tĩnh lặng này đáng sợ quá! Năm xưa khi ông nội bỏ ăn mà chỉ uống rượu hẳn cũng là muốn tìm tới cái chết. Vì cô đơn thui thủi trong bốn bức tường lạnh lẽo này, bị kí ức dày vò, không thể chịu đựng nổi nữa!

Sau khi biết được mọi chân tướng, tôi không thấy mình được giải thoát, ngược lại là càng lún sâu vào đau khổ hơn.

Chắc là vì chính tôi cũng nhìn không ra, nghe không hiểu, những chuyện cũ năm xưa tới cùng cũng không ai biết tới, chỉ có hiểu lầm là chất chồng lên nhau.

15/cuối cùng

Tiếng đập cửa vang lên như cứu vớt tâm hồn suýt nữa thì bể nát của tôi. Tôi lau mặt rồi đi mở cửa.

Bên ngoài, quả nhiên là Thái Thanh Hứa nói đi mà lại quay trở về.

"Tùng Viễn, anh sao vậy? Anh và ba anh..." Cậu ta dừng một chút, cẩn thận hỏi, "Hai người cãi nhau à?"

Tôi lắc đầu, xấu hổ dụi mắt, "Sao anh lại quay về?"

"Tôi, tôi đã suy nghĩ suốt dọc đường..." Cậu ta nhíu mày, "Anh cùng tôi về lại Quế Lâm đi được không? Mang ông chú của tôi cùng về, gia đình chúng ta sum vầy."

"Ai là gia đình với anh!" Tôi chỉ là người ngoài mà thôi.

"Tùng Viễn," Cậu ta vò đầu bứt tai cả buổi, "Tôi thích anh! Tôi muốn là gia đình với anh!"

Ai đó cứu với! Tôi quả thật chỉ muốn cười, đây là gì, tỏ tình à?

"Này, đừng cười chứ... Anh cười cái gì?" Thái Thanh Hứa sốt ruột.

"Ha ha ha ha..."

"Không được cười! Không cho anh cười! Bây giờ anh phải trả lời tôi mới đúng chứ!" Cậu ta mặt dày nói.

"Anh vào nhà đi rồi nói, ngốc ạ!" Tôi cũng không muốn đứng ở cửa mà tranh cãi chuyện này.

Sau đó, tôi cùng Thái Thanh Hứa quay lại Quế Lâm. Trở về nơi làm tôi yêu quý không thôi.

Gần Tết, những người làm ăn trên thị trấn cũng về lại dưới thôn, cả xóm như rộn ràng lên hẳn. Nhà nhà đều bận bịu. Tôi giúp mẹ Thái làm vằn thắn, cùng ba Thái gói bánh tổ. Ông chú dẫn tôi tới thăm hỏi họ hàng Tăng gia, hại tôi không biết phải làm sao với sự niềm nở của mọi người.

Lúc bình thường, Thái Thanh Hứa kéo tôi ra ngoài dạo chơi. Tới bây giờ tôi mới có thời gian mà tham quan cổ trấn. Tất cả những nhà cổ đều có người ở, đi tới đâu cũng lấy danh nghĩa khách du lịch mà được bà con tặng quà.

"Tùng Viễn, Tùng Viễn, tôi thật mong mau mau qua Tết quá. Khi nào về lại thành S mình dọn tới sống cùng nhau nhé?"

"Đồng chí Tiểu Thái à, tiến triển nhanh quá rồi đó!"

"Hả... tôi đã thưa chuyện với A Đáp rồi, tôi nghĩ A Đáp sẽ đồng ý chuyện bọn mình thôi."

"Đừng nghĩ ngợi lung tung, cứ từ từ, bọn mình còn nhiều thời gian mà."

Không khí rộn ràng của Tết nhất khiến tôi quên hẳn buồn phiền mấy ngày trước. Nhìn mọi người ai ấy cũng hớn hở tươi vui thì lòng cũng như được xoa dịu.

Rất lâu về trước, những người trong hình đã từng cùng nhau đón Tết, giống như tôi lúc này, quây quần bên bạn bè gia đình. Bất luận ngày sau thế nào thì họ cũng đã từng hạnh phúc. Mọi đau khổ tổn thương ấy chỉ khiến họ biết quý trọng hơn phút giây sum họp. Cuộc đời họ do chính họ làm chủ, có gian khó thế nào cũng đi hết con đường, làm hậu bối là tôi đây phải thổn thức khôn dứt.

Ông nội tôi nửa đời trước từng học trường phố, sau đó còn lên cả phía Bắc mà tầm học, kinh qua mấy mươi năm chiến tranh thay đổi; lúc về già, tình tự lắng xuống, nhận nuôi con trai người mình yêu, vứt bỏ tên họ cùng thân phận mà làm một đời công nhân tỉnh lẻ, sau cùng cô đơn ra đi trong một đêm đông giá rét.

Sang năm, tôi mang ba bức ảnh cùng lá thư cũ chôn cùng với tro cốt của ông nội. Cuối cùng, tôi cũng không đề từ gì lên bia mộ của ông. Đời này tự ông có những thăng trầm gió nguồn mưa bể, tự có bao phen cười thỏa khóc thầm. Nhân sinh của ông sẽ mãi mãi lắng đọng dưới đáy tháng năm, không cần người sau phải biết mà nhỏ lệ khóc giùm.

Một đoạn chuyện cũ như khói mờ hương vãng xin được dừng tại đây.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Com