Truyen2U.Net quay lại rồi đây! Các bạn truy cập Truyen2U.Com. Mong các bạn tiếp tục ủng hộ truy cập tên miền mới này nhé! Mãi yêu... ♥

Những bàn chân nóng (3)


iii.

Muốn giấu một chiếc lá thì hãy giấu trong rừng.

~~

Burke và Hare William bị trói tay điệu đi khi vẫn chưa tỏ tường chuyện gì mới xảy ra. Sherrinford nheo mắt nhìn theo bóng dáng của bọn chúng, đoạn quay sang người thiếu phụ đang đăm đắm nhìn chồng bị áp giải bởi hàng chục cảnh vệ.

Tự trong lòng anh cảm thấy biết ơn với người phụ nữ này. Cũng nhờ cô mà vụ án búp bê gỗ trong công viên Hollyrood cùng với hàng loạt vụ mất tích mới được giải quyết. Sherrinford đưa tay đẩy lại gọng kính rồi bước ra khỏi phòng, sắp xếp lại tất thảy dữ kiện vụ án trước khi đặt chúng ngay ngắn vào một ngăn tủ trong bộ não.

Trước tiên, hãy ngược trở lại một tháng trước, thời điểm Sherrinford lần đầu tiên đặt chân lên mảnh đất này vì lời đồn đại ma cà rồng xuất hiện ở Edinburgh.

Ngay từ khi nghiên cứu những bài báo đưa tin về vụ ma cà rồng ở Edinburgh, Sherrinford đã gần như nắm được tất thảy chân tướng của vụ án này. Quan tài không có dấu hiệu nạy phá, xác chết biến mất như bốc hơi, lời đồn về những âm thanh gầm rú trong nghĩa trang, và rồi người ta bắt đầu dùng tỏi rồi thánh giá.

Con người thường sợ hãi những gì họ không thể lí giải. Nhưng họ lại không muốn thừa nhận sự thiếu hiểu biết ấy, nên họ bắt đầu gắn cho những thứ không thể hiểu được một kiểu lí giải đầy huyền bí và siêu nhiên. Một kiểu lí giải với nguyên nhân xuất phát từ những thế lực mà con người không thể can dự đến: ma quỷ.

Nhưng rốt cuộc chẳng có ma cà rồng nào cả, có chăng chỉ là lũ trộm xác còn ác hơn ma quỷ, cùng nạn đói xác chết ngày ngày âm thầm đục khoét những kẻ đang sống.

Vào ngày đầu tiên tới nghĩa trang Greyfriars Kirkyard khảo nghiệm hiện trường, Sherrinford đã bắt gặp đám tang của một gia đình nông dân. Sau khi chôn cất xong, họ cắm xuyên qua mộ phần một cọc sắt để ngăn không cho xác chết đội mồ hóa thành ma cà rồng. Sherrinford đã đánh dấu ngôi mộ đó. Sáng hôm sau, khu nghĩa trang xuất hiện một vụ đào xác, nhưng ngôi mộ kia vẫn y nguyên. Xung quanh mộ xuất hiện vết chân giày xéo rất mới và trên tấm bia đá hằn lên dấu của một lưỡi xẻng. Những ngày sau đó, ngôi mộ có cọc cắm xuyên kia vẫn nguyên vẹn, dù cho những vụ trộm xác cứ đều đều xuất hiện.

Điều này củng cố cho giả thiết mà Sherrinford đặt ra về lũ trộm xác để bán cho những nhà khoa học. Bọn chúng cần những cái xác nguyên vẹn, càng tươi càng tốt. Màn kịch về lời đồn ma cà rồng có thể được lí giải dễ dàng, thế nhưng lại có một câu hỏi khác: vì sao chúng phải đánh tráo quan tài mà không trực tiếp lấy xác ra khỏi mộ? Việc đánh tráo quan tài sẽ dễ bị chú ý, tốn thời gian và tốn sức lực hơn. Tại sao chúng phải chọn cách mạo hiểm ấy?

Chỉ có một cách giải thích hợp lý nhất. Thứ chúng cần không chỉ có mỗi cái xác. Chúng còn cần cả quan tài. Đến lúc này lại xuất hiện một giả thiết mới. Nếu chỉ dùng cho nghiên cứu cơ thể người, tại sao phải cần có cả quan tài? Và nếu không dùng cho nghiên cứu, thì những xác chết đựng trong quan tài ấy, được bán đi đâu?

Đó cũng chính là câu hỏi khiến Sherrinford ở đây suốt gần một tháng trời.

Những vụ trộm xác xuất hiện thưa dần rồi biến mất hẳn. Đúng lúc đó thì vụ búp bê gỗ ở Hollyrood rộ lên. Sherrinford đã kết hợp với cảnh sát của Edinburgh, đối chiếu hình dáng của 17 con búp bê gỗ với những vụ mất tích trong 1 năm trở lại đây. Quả nhiên 10 trong 17 con búp bê trùng với chân dung của những người mất tích. Nhờ vào bản phác thảo chân dung được cung cấp bởi Janet Brown- bạn thân, cũng là người chứng kiến vụ mất tích của một trong số 17 nạn nhân, họ đã khoanh vùng được nghi phạm và lần được tới khu nhà trọ của Hare William.

Sherrinford đóng giả làm một vị khách nghèo khổ ốm yếu, sắp chết vì bệnh lao. Anh cố tình thu hút sự chú ý, thể hiện cho Burke và Hare thấy rằng anh là một mục tiêu vô cùng dễ xơi. Ban đầu anh chỉ có ý định sẽ hành động một mình, nhưng thật may mắn cho Sherrinford khi anh gặp được sự giúp đỡ bất ngờ từ người vợ của Hare.

Trong lúc dẫn Sherrinford lên phòng trọ, người phụ nữ đã vừa run rẩy vừa nói trong khi nước mắt trực chờ tràn khỏi bờ mi. Cô ấy nói rằng đêm nay anh sẽ bị Burke và Hare giết, rằng căn phòng mà cô sắp dẫn anh lên là căn phòng đặc biệt mà Hare chỉ dành cho những nạn nhân của hắn. Sau một hồi trấn an và trao đổi qua lại, Sherrinford cho người phụ nữ biết anh chính là thanh tra của Scotland Yard đến đây điều tra. Người phụ nữ ban đầu ngỡ ngàng rồi có ý trốn tránh, nhưng cuối cùng vẫn đồng ý hợp tác giúp anh giăng bẫy hai kẻ sát nhân.

Cuối cùng, Burke và Hare William bị bắt với đầy đủ cả bằng chứng và nhân chứng. Thanh tra của sở Edinburgh sau khi lục soát khu nhà trọ đã tìm thêm được một xác chết mà bọn chúng chưa kịp bán, bộ xẻng cuốc còn dính đất khu nghĩa trang Greyfriars Kirkyard, cùng dây thừng và thuốc độc được giấu dưới gầm giường phòng Hare.

Vụ án khép lại mĩ mãn, nhưng Sherrinford thì không cho là vậy. Bởi vẫn còn một câu hỏi chưa được giải đáp.

Tại sao chúng lại trộm cả quan tài?

Bước chân Sherrinford rời khỏi những bậc thang cũ ọp ẹp dẫn xuống tầng một, trong phút chốc mũi anh hơi nhăn lại vì mùi hôi thối gắt mũi bốc lên khi anh ngang qua cánh cửa ngách dẫn tới đằng sau khu nhà trọ. Đoạn anh quay sang mấy tay khảo sát hiện trường.

"Các anh có ngửi thấy mùi hôi thối không? Đằng sau khu nhà trọ được lục soát kĩ càng rồi chứ?"

"Chúng tôi dĩ nhiên ngửi thấy mùi hôi thối chứ, nó rõ ràng quá mà. Còn đằng sau khu nhà trọ chủ yếu là chuồng ngựa và chuồng gia súc, lại ở cạnh bãi rác tập trung của khu này. Nó có mùi kinh khủng như vậy là phải. Anh không tưởng tượng được đâu. Rác và xác động vật chết chất đống ngoài đó."

Sherrinford bỏ lời giải thích kêu ca ấy ra ngoài tai. Kéo vạt áo lên bịt ngang mũi, anh đi qua cánh cửa ngách và rảo bước về phía mảnh đất phía sau nhà trọ.

Bởi cạnh bãi rác tập trung lớn nên nơi đây không có người ở. Chỉ có cơ man là rác và hàng loạt xác động vật chết đang phân hủy. Lớp vải dạ của áo măng tô không thể ngăn mùi hôi thối xộc thẳng vào mũi Sherrinford. Nhưng anh không quan tâm tới điều ấy, chiếc đèn bão trong tay anh vẫn rọi thẳng về phía trước, cố moi ra thứ hôi thối thật sự nằm sâu trong hàng ngàn tấn rác kia. Và cuối cùng thứ ấy cũng xuất hiện. Ấy là một căn chòi sập xệ nằm ở cuối dãy nhà trọ. Bên trái là chuồng ngựa và bên phải là cả một đống rác lớn.

Sherrinford bước về phía ấy. Theo ngay sau anh là một vài viên thanh tra khám nghiệm hiện trường. Họ đi theo vì tò mò, mà vì bắt buộc cũng có.

Càng tới gần căn gác chòi kia, mùi hôi thối của xác chết phân hủy bốc lên càng nồng đậm, tới độ một vài người đã phải đưa tay lên bịt miệng. Hàng mày của Sherrinford nhíu chặt như dính lấy nhau, nhưng đôi mắt của anh lại mở to, sáng quắc hơn bao giờ hết. Không chần chừ, anh đưa tay lên đẩy mạnh phiến cửa.

Giây phút cánh cửa bật tung, mùi hôi thối lập tức xộc ra khiến những viên thanh tra cốt cán suýt nữa ngã ngửa vì sốc. Dưới ánh sáng hắt từ chiếc đèn bão trên tay Sherrinford, khung cảnh kinh hoàng bên trong căn gác chòi bắt đầu hiện lên rõ rành rành.

Dọc bốn bức tường là vô vàn những chiếc quan tài dựng đứng, bên trong là xác chết đã bắt đầu phân hủy, tỏa ra thứ mùi đặc trưng của thời gian mục nát. Dưới ánh trăng hắt vào qua những lỗ thủng trên mái nhà, thật rõ và cũng thật kinh khủng khi nhìn vào những gương mặt đã bị chuột và giòi bọ gặm thủng lỗ chỗ. Đếm sơ qua thì trong căn phòng này phải chứa tới gần 30 xác chết.

Sherrinford ngồi xổm xuống đất, đặt chiếc đèn bão sang một bên, cẩn trọng xem xét một xác chết có dấu hiệu phân hủy nhẹ nhất. Thế nhưng dựa vào dấu hiệu vết lục đã lan tới ổ bụng, chứng tỏ nạn nhân này đã chết trong khoảng 2-3 ngày rồi. Vết hoen tử thi xuất hiện dọc phần lưng, mang màu đỏ tươi- dấu hiệu của việc chết bởi chất độc. Sherrinford dùng đèn soi rõ từng centimet trên cơ thể nạn nhân, đôi mắt dần lạnh đi khi nhìn thấy những vết hoen tử thi rải khắp cơ thể và đặc biệt là một lớp bột màu đen đọng mờ ở dưới gan bàn chân.

"Lớp bột này đáng ngờ thật. Phải chăng nó là nguyên nhân tử vong?"

Một trong những người khám nghiệm hiện trường đáp khi thấy Sherrinford nhìn chằm chằm vào vết đen trên gan bàn chân của tử thi.

Viên thanh tra xuất sắc của Scotland Yard không đáp. Anh trầm ngâm một hồi lâu như đang ngụp lặn trong làn nước tĩnh lặng của mặt hồ kí ức, để nước tràn vào khiến đầu óc tỉnh táo, đánh thức những tri thức nằm sâu dưới đáy hồ.

"Anh đã từng nghe tới tà thuật Voodoo chưa?"

"Tà thuật Voodoo? Tôi chưa từng nghe thấy. Có liên quan tới vụ án này sao?"

"Tôi e là vậy."

Sherrinford đáp một cách thận trọng, trong khi cẩn thận đặt lại bàn chân của thi thể vào trong quan tài.

"Đó là một tôn giáo được tôn sùng ở Haiti, một đảo quốc thuộc vùng vịnh Caribbean. Bản chất của tôn giáo Voodoo vốn rất minh bạch và trong sạch, tuy nhiên nó có một vài biến thể theo hướng tiêu cực, mà người ta gọi là tà giáo. Những kẻ theo tà giáo này đặt niềm tin vào những trò nguyền rủa trên hình nhân thế mạng và thậm chí là tin vào việc hồi sinh người chết. Cách đây 3 năm đã có một vụ mất tích liên quan đến tà giáo này. Mà nạn nhân chính là những thủy thủ cùng hai vị quan đại thần trên con tàu Sư Tử  Trắng.

"Hơn 20 người trên con tàu trở thành nô lệ suốt gần 1 năm trời trên đảo Haiti. Sau này khi được hoàng gia giải thoát về, họ đã thuật lại quãng thời gian ấy như một trải nghiệm kinh hoàng nhất. Họ bị đưa tới một căn nhà đầy rẫy xác động vật chết của những pháp sư, bị phù phép, chết đi rồi được chôn cất, sau vài hôm thì thấy mình sống lại, vật vờ và yếu ớt như thể đã mất đi nửa linh hồn. Điều đáng nói là khi bị đưa vào căn nhà ấy, họ được những pháp sư rắc lên gan bàn chân một lớp bột màu đen nhánh. Lớp bột ấy khiến họ hoa mắt, đổ mồ hôi, sức lực bi rút cạn, rồi quả tim của họ cũng từ từ ngừng đập. Vụ việc này tính tới nay vẫn là một ẩn số mà Scotland Yard vẫn chưa thể lí giải. Nhưng tôi thì có một giả thiết thế này."

"Mấu chốt của trò đào mộ rồi hồi sinh kia nằm ở chất độc màu đen được rắc lên gan bàn chân những nạn nhân. Nếu như nó chẳng phải thứ bột huyền bí ma thuật gì cả mà chỉ là một dạng chất độc, thì mọi thứ trở nên đơn giản hơn nhiều. Trong suốt 3 năm nay tôi đã nghiên cứu rất nhiều loại độc. Tôi có hẳn một bộ sưu tập, gồm tổng cộng 121 loại độc có thể gây chết người. Trong số đó có độc của loài cá nóc rất gần với yêu cầu của trò chơi hồi sinh này. Khi trúng phải một lượng vừa phải, cơ thể nạn nhân sẽ xuất hiện những dấu hiệu gần như chết, mà ở đây chúng ta sẽ gọi là trạng thái chết giả. Nhiệt độ cơ thể giảm, đổ mồ hôi, tim và mạch đập yếu tới mức không thể nghe thấy. Rồi sau đó họ lại được chôn cất, khi đang trong trạng thái đã mất đi toàn bộ ý thức.

"Chừng một hôm sau họ sẽ đào những cái xác lên, đưa chất độc ra ngoài cơ thể, đánh thức những nạn nhân và tiếp tục khống chế họ bằng chất độc từ cây cà độc. Một loại độc chất có tính an thần cực mạnh, khiến nạn nhân chìm trong trạng thái mê man, dễ bị kiểm soát. Vậy là họ gần như mất đi toàn bộ ý thức, không còn ý định phản kháng, trở thành nô lệ lao động cho những pháp sư của ngôi làng. Nguyên do lí giải cho giả thiết họ bị khống chế bởi độc chất chứ không phải phép thuật nằm ở bàn chân bị rắc lên chất bột màu đen. Tất cả nạn nhân sau khi bị trúng tà đều đi khập khiễng, vì bàn chân đó là nơi trực tiếp tiếp nhận chất độc từ cá nóc. Còn một yếu tố nữa, đó là khi trở về đất liền, sau một năm thì 20 nạn nhân năm xưa đã có thể trở về với nhịp sống như bình thường."

Những viên điều tra hiện trường còn lại nhìn Sherrinford bằng ánh mắt mịt mờ, dường như không thể kịp tiêu hóa hết những gì anh vừa nói.

Sherrinford cũng chẳng trông đợi bọn họ sẽ hiểu được anh. Anh chỉ muốn nói ra những nghĩ vấn cất giấu trong lòng bấy lâu nay, khao khát muốn phần nào xua đi lớp sương mù đang bao quanh sự thật.

"Nhưng đó cũng chỉ là suy luận của tôi, phần nhiều là phán đoán dựa vào lời kể của những người thủy thủ trở về từ Haiti, cộng với một vài hiểu biết về tôn giáo Voodoo được biết qua sách vở. Cũng có thể những suy đoán đó là sai bét, bởi chính tôi cũng chưa được trông thấy thứ bột màu đen ấy có hình dạng như thế nào. Nhưng nếu vết màu đen xuất hiện ở thi thể này thực sự liên quan tới thuật hồi sinh xác chết của tà giáo Voodoo, thì tôi cá là các anh sẽ phải tiếp nhận một vụ án thú vị mà cũng hóc búa bậc nhất."

Sherrinford nói rồi bước ra khỏi căn phòng sặc mùi xác chết phân hủy, định bụng trở về nhà chính và đặt vài câu hỏi chưa kịp hỏi với vợ của Hare. Thế nhưng khi vừa mới bước ra khỏi cửa đã bắt gặp cô đứng đợi ở đó từ bao giờ.

"Bà William?"

Người phụ nữ lắc đầu.

"Gọi tôi là Jane Bernet, thưa ngài."

"Ồ, dĩ nhiên rồi, cô Jane Bernet. Có việc gì khiến cô ra tận đây sao?"

"Tôi sực nhớ ra một điều này, không biết nó có giúp ích cho các ngài không. Nhưng cách đây vài hôm đã có một người đàn ông đến tìm tôi và hỏi về Hare cùng những tội ác của hắn. Ông ta dường như biết tất cả mọi thứ, thưa ngài. Về việc Burke và Hare trộm xác rồi bán lại cho Robert Knox."

"Kẻ đó đến tìm cô rồi hỏi cô những gì?"

"Ông ta hỏi tôi về 17 nạn nhân bị hai tên sát nhân đó giết trong nhà trọ này. Hare có thói quen quái đản là chụp lại hình các nạn nhân trước khi bán xác lại cho Robert Knox. Tôi đã lấy những tấm hình đó cho người đàn ông kia, khi ông ta hứa sẽ khiến hai gã đó vào tù và trả cho tôi một khoản tiền lớn."

Đôi mắt màu lam của Sherrinford trong phút chốc sẫm lại. Lời hứa sẽ khiến Burke và Hare vào tù, hàng ngàn con búp bê gỗ rải trong công viên Hollyrood mô phỏng hình dáng 17 nạn nhân. Sherrinford cuối cùng cũng có thể xâu chuỗi lại những mắt xích còn rời rạc cuối cùng.

"Cô có nhớ hình dáng của người đàn ông đó không?"

"Ông ta có vẻ thuộc tầng lớp thượng lưu. Là một đàn ông trung niên, mặc áo đuôi tôm đắt tiền. Dáng vẻ lãnh đạm và lịch sự."

"Còn gì nữa không? Thứ gì đó đặc biệt. Như là một hình xăm hoặc vật tùy thân gì đó."

"À, ông ta có một chiếc đồng hồ quả quýt bằng vàng ròng, ở nắp đồng hồ có khắc hình một con diều hâu tung cánh."

Người thiếu phụ vừa dứt lời, hai bàn tay Sherrinford chầm chậm nắm chặt tới mức lộ những khớp xương trắng bệch.

Lại là diều hâu.

Một tiếng kêu tai ác chợt vọng lên giữa đêm trăng tĩnh mịch. Quạ đã kéo đến đậu kín nóc của căn chòi chứa đầy xác chết.

Chú thích: Trong chương này, phân đoạn lí giải về thủ thuật hồi sinh người chết của tộc người ở Haiti được mình viết dựa trên công trình nghiên cứu của nhà nhân chủng học Wade Davis- người vào 1982 đã từng đến Haiti để điều tra chân tướng sự thật đằng sau việc hồi sinh người chết của giáo phái Voodoo tại Haiti.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Com