CPDT508B
Chương 1: Khái niệm về chính phủ điện tử ( CPĐT)
CNTT và truyền thông (CNTT - TT) đã đóng vai trò ngày càng quan trọng trong cuộc sống hàng ngày của con người, làm biến đổi sâu sắc cách thức làm việc, giải trí và thay các nguyên tắc tiến hành kinh doanh. CNTT-TT cũng đã có tác động sâu sắc đến hoạt động của các cơ quan chính phủ. Nó hình thành khái niệm chính phủ điện tử.
1.1 Khái niện về CPĐT (e - Government)
CPĐT là chính phủ ứng dụng CNTT–TT để đổi mới tổ chức, đổi mới quy tắc hoạt động, tăng cường năng lực của chính phủ, làm cho chính phủ làm việc có hiệu lực, hiệu quả và minh bạch hơn, cung cấp thông tin tốt hơn cho người dân, doanh nghiệp, các tổ chức và tạo điều kiênh thuận lợi cho người dân thực hiện quyền dân chủ và tham gia quản lý nhà nước. Nói một cách ngắn gọn, CPĐT là chính phủ hiện đại, đổi mới, vì dân, hoạt động hiệu lực, hiệu quả hơn, cung cấp dịch vụ tôt hơn trên cơ sỏ ứng dụng CNTT–TT.
Theo định nghĩa của ngân hàng thế giới (World Bank) “ CPĐT là việc các cơ quan của chính phủ sử dụng một cách có hệ thống CNTT – TT để thực hiện quan hệ với công dân, doanh nghiệp và các tổ chức xã hội. nhờ đó giao dịch của các cơ quan chính phủ với công dân và các tổ chức sẽ được cải thiện, nâng cao chất lượng. Lợi ích thu được sẽ là giảm thiểu tham nhũng, tăng cường tính công khai, sự tiện lợi, góp phần vào sự tăng trưởng và giảm chi phí”. Như vậy CPĐT là việc ứng dụng CNTT-TT, cung cấp dịch vụ công cho người dân và doanh nghiệp và tạo ra sự công khai minh bạch.
Tham gia CPĐT có 3 chủ thể: người dân, Chính phủ và doanh nghiệp. Tùy theo mối quan hệ tương tác giữa 3 chủ thể ta có:
-G2C: Quan hệ Chính phủ với người dân
-G2B: Quan hệ Chính phủ với doanh nghiệp
-G2G: Quan hệ các cơ quan Chính phủ với nhau
Mục tiêu cơ bản của CPĐT là cải tiến quy trình công tác trong cơ quan Chính phủ thông qua nền hành chính điện tử, cải thiện quan hệ với người dân thông qua công dân điện tử và tiến tới xây dựng một xã hội tri thức trên nền tảng CNTT.
Việc phát triển Chính phủ điện tử trải qua một số giai đoạn khác nhau. Cứ qua từng giai đoạn (thực hiện và duy trì) thì tính phức tạp lại tăng thêm, nhưng giá trị mà nó mang lại cho người dân và doanh nghiệp cũng tăng lên (trong đó có phần tăng cho Chính phủ qua việc có thể có thêm nguồn gián thu hay trực thu).
Một mô hình CPĐT đã được sử dụng rộng rãi, do hãng tư vấn và nghiên cứu Gartner xây dựng nên, chỉ ra bốn giai đoạn (hay thời kỳ) của quá trình phát triển Chính phủ điện tử.
Hình 1: Các giai đoạn của CPĐT theo mô hình của Gartner
Thông tin – Trong giai đoạn đầu, chính phủ điện tử có nghĩa là hiện diện trên trang web và cung cấp cho công chúng các thông tin (thích hợp). Giá trị mang lại ở chỗ công chúng có thể tiếp cận được thông tin của chính phủ, các quy trình trở nên minh bạch hơn, qua đó nâng cao chất lượng dịch vụ. Với G2G, các cơ quan chính phủ cũng có thể trao đổi thông tin với nhau bằng các phương tiện điện tử, như Internet, hoặc trong mạng nội bộ.
Tương tác – Trong giai đoạn thứ hai, sự tương tác giữa chính phủ và công dân (G2C và G2B) được thông qua nhiều ứng dụng khác nhau. Người dân có thể hỏi qua thư điện tử, sử dụng các công cụ tra cứu, tải xuống các biểu mẫu và tài liệu. Các tương tác này giúp tiết kiệm thời gian. Thực tế, việc tiếp nhận đơn từ có thể thực hiện trực tuyến 24 giờ trong ngày. Thông thường, những động tác này chỉ có thể được thực hiện tại bàn tiếp dân trong giờ hành chính. Về mặt nội bộ (G2G), các tổ chức của chính phủ sử dụng mạng LAN, intranet và thư điện tử để liên lạc và trao đổi dữ liệu. Rõ ràng giai đoạn này chỉ có thể thực hiện được khi đã thực hiện cải cách hành chính (với cơ chế một cửa điện tử, cơ chế một cửa liên thông điện tử) theo tinh thần Quyết định số 93/2007/QĐ-TTg ngày 22 tháng 6 năm 2007 của Thủ tướng Chính phủ.
Giao dịch – Với giai đoạn thứ ba, tính phức tạp của công nghệ có tăng lên, nhưng giá trị của khách hàng (trong G2C và G2B) cũng tăng. Các giao dịch hoàn chỉnh có thể thực hiện mà không cần đi đến cơ quan hành chính. Có thể lấy ví dụ về các dịch vụ trực tuyến như: Đăng ký thuế thu nhập, đăng ký thuế tài sản, gia hạn/cấp mới giấy phép, thị thực và hộ chiếu, biểu quyết qua mạng. Giai đoạn 3 là phức tạp bởi các vấn đề an ninh và cá thể hóa, chẳng hạn như chữ ký số (chữ ký điện tử) là cần thiết để cho phép thực hiện việc chuyển giao các dịch vụ một cách hợp pháp. Về khía cạnh doanh nghiệp, chính phủ điện tử bắt đầu với các ứng dụng mua bán trực tuyến. Ở giai đoạn này, các quy trình nội bộ (G2G) phải được thiết kế lại để cung cấp dịch vụ được tốt. Chính phủ cần những luật và quy chế mới để cho phép thực hiện các giao dịch không sử dụng tài liệu bằng giấy.
Chuyển hóa – Giai đoạn thứ tư là khi mọi hệ thống thông tin được tích hợp lại và công chúng có thể hưởng các dịch vụ G2C và G2B tại một bàn giao dịch (điểm giao dịch ảo).
Ở giai đoạn này, tiết kiệm chi phí, hiệu quả và đáp ứng nhu cầu khách hàng đã đạt được các mức cao nhất có thể được.
Không nhất thiết mọi bước phát triển và dịch vụ đều phải nằm cùng một giai đoạn. Quả thực, điều quan trọng là phải biết lọc ra một số dịch vụ cần đưa sang giai đoạn 2 và giai đoạn 3 và đưa ra những mô hình về vai trò và động cơ để tiến lên làm tiếp. Về vấn đề trọng tâm của G2C và G2B, với G2C nên đặt trọng tâm vào các giai đoạn ban đầu là 1 và
2. Tuy nhiên, với G2B thì nên tập trung nỗ lực đạt được giai đoạn 2 và giai đoạn 3 và đích cuối cùng là giai đoạn 4 (nhưng đây là mục tiêu dài hạn (10 đến 15 năm).
Hình 2: Mô hình tiến hóa các giai đoạn của Portal
1.2 Các mục tiêu của CPĐT
Mục tiêu chung là tăng cường năng lực, nâng cao hiệu quả điều hành nhà nước của chính phủ, mang lại thuận lợi cho dân chúng, tăng cường sự công khai minh bạch (transparency), giảm chi tiêu chính phủ. Mục tiêu cụ thể là:
-Nâng cao năng lực quản lý điều hành của Chính phủ và các cơ quan chính quyền các cấp (trao đổi văn bản điện tử, thu thập thông tin chính xác và kịp thời ra quyết định, giao ban điện tử …)
-Cung cấp cho người dân và doanh nghiệp các dịch vụ công tạo điều kiện cho nguời dân dễ dàng truy nhập ở khắp mọi nơi
-Người dân có thể tham gia xây dựng chính sách, đóng góp vào quá trình xây dựng luật pháp, quá trình điều hành của chính phủ một cách tích cực.
-Giảm được chi phí cho bộ máy chính phủ
-Thực hiện một chính phủ hiện đại, hiệu quả và minh bạch
Chính phủ điện tử sẽ tạo ra phong cách lãnh dạo mới, phương thức mới, cung cấp dịch vụ cho người dân và nâng cao được năng lực quản lý điều hành đất nước.
Do vậy mà trong thời gian qua, các nước đều cố gắng đầu tư xây dựng CPĐT. Xây dựng CPĐT ở Việt Nam là một yêu cầu cấp thiết, nó là một phần quan trọng trong tiến trình cải cách nền hành chính quốc gia.
Những khó khăn, trở ngại trong quá trình xây dựng CPĐT tại Việt Nam còn rất nhiều:
-Bất cập từ các dự án CNTT -Cơ sỏ hạ tầng CNTT – TT còn yếu kém.
-Trình độ dân trí thấp
-Trình độ nhận thức và kỹ năng của cán bộ viên chức bị hạn chế
-Quy trình nghiệp vụ chưa ổn định (đang trong quá trình cải cách).
1.3 Lợi ích của CPĐT
CPĐT là chính phủ đảm bảo được cung cấp đầy đủ thông tin cần thiết và đúng lúc cho việc ra quyết định. CPĐT lý tưởng là một chính phủ cung cấp đầy đủ thông tin, đúng thời điểm cho những người quyết định, đó là lợi thế lớn nhất của CNTT.
CPĐT sử dụng CNTT để tự động hoá các thủ tục hành chính của chính phủ, áp dụng CNTT vào các quy trình quản lý, hoạt động của chính phủ do vậy tốc độ xử lý các thủ tục hành chính nhanh hơn rất nhiều lần.
CPĐT cho phép công dân có thể truy cập tới các thủ tục hành chính nà thông qua phương tiện điện tử, ví dụ như: Internet, điện thoại di động, truyền hình tương tác.
CPĐT giúp cho các doanh nghiệp làm việc với chính phủ một cách dễ dàng bởi mọi thủ tục đều được hiểu, hướng dẫn và mỗi bước công việc đều được đảm bảo thực hiện tốt, tin cậy. Mọi thông tin kinh tế mà chính phủ có đều được cung cấp đầy đủ cho các doanh nghiệp để hoạt động hiệu quả hơn.
Đối với công chức, CNTT dùng trong CPĐT là một công cụ giúp họ hoạt động hiệu quả hơn, có khả năng dáp ứng nhu cầu của công chúng về thông tin truy cập và xử lý chúng.
a. Đối với người dân và doanh nghiệp
Giảm thiểu thời gian cho công dân, doanh nghiệp và người lao động khi truy nhập và sử dụng dịch vụ của chính phủ và do đó giảm thiếu chi phí của nhân dân. Khuyến khích sự tham gia của cộng đồng vào các hoạt động của chính phủ.
b. Đối với Chính phủ
Giảm “ nạn giấy tờ ” văn phòng – công sở, tiết kiệm thời gian, hợp lý hoá việc
vận hành công việc, cho phép các cơ quan Chính phủ cung cấp các dịch vụ chất
lượng cao hơn và giảm ngân sách chi tiêu của chính phủ.
Bảng 1: Các mức độ tương tác trong CPĐT:
Cấp độ
Tương tác giữa
Ví dụ
Công dân
Cơ quan hành chính
- Cập nhạt các văn bản nhà
Cung cấp thông tin
Đọc nhận thông tin
- Cập nhật thông tin - Hướng dẫn các thủ tục hành chính - Cung cấp biểu mẫu
nước - Cập nhật các chính sách, chủ trương - Cập nhật những thông tin liên quan đến công dân, doanh nghiệp, các tổ chức
xã hội ( quy hoach, giải
toả/đền bù, hỗ trợ vay
vốn…)
Hỏi / trả lời
Hỏi
Trả lời
Diễn đàm trao đổi, giải đáp thắc mắc, hướng dẫn
Trao đổi
Đề xuất, kiến nghị, yêu cầu
Tiếp nhận, tiếp thu, giải quyết
Quan hệ trực tuyến
-Đăng ký thủ tục
- Tiếp nhận, giải quyết
- Giải quyết các dịch vụ công theo yêu cầu
Quan hệ trực tuyến
- Thanh toán qua mạng: thuế, dịch vụ, mua bán.
- Thực hiện thanh toán điện tử.
Quan hệ trực tuyến
- Kiểm tra thông tin
- Cung cấp thông tin cho khách hàng
- Khách hàng có thểkiểm tra kết quả, những thông tin liên quan đến cá nhân
1.4 Các mô hình giao dịch trong CPĐT
Tham gia chính phủ điện tử có 3 thực thể: chính phủ, người dân và doanh nghiệp. Trên cơ sở quan hệ giữa các chủ thể trên, ta có thể phân loại CPĐT ra thành 4 loại, tương ứng với 4 dạng dịch vụ Chính phủ bao gồm:
G2C (Government to Citizens): được hiểu như khả năng giao dịch và cung cấp dịch vụ của chính phủ trực tiếp cho người dân, ví dụ : Tổ chức bầu cử của công dân, thăm dò dư luận, quản lý quy hoạch xây dựng đô thị, tư vấn, khiếu nại, giám sát và thanh toán thuế, hoá đơn của các ngành với người thuê bao, dịch vụ thông tin trực tiếp 24x7, phục vụ công cộng, môi trường giáo dục.
G2B ( Government to Business ): Dịch vụ và quan hệ chính phủ đối với các doanh nghiệp, các tổ chức phi chính phủ, nhà sản xuất như: dịch vụ mua sắm, thanh tra, giám sát doanh nghiệp ( về đóng thuế, tuân thủ luật pháp,…); thông tin về quy hoạch sử dụng đất, phat triển đô thị, đấu thầu, xây dựng; cung cấp thông tin dạng văn bản, hướng dẫn sử dụng, quy định, thi hành chính sách nhà nước,… cho các doanh nghiệp. Đây là thành phần quan hệ cơ bản trong mô hình nhà nước là chủ thể quản lý vĩ mô nền kinh tế, xã hội thông qua chính sách, cơ chế và luật pháp và doanh nghiệp như là khách thể đại diện cho lực lượng sản xuất trực tiếp của cải vật chất của nền kinh tế.
G2E ( Government to Employees): chỉ các dịch vụ, giao dịch trong mối quan hệ giữa chính phủ đối với công chức, viên chức bảo hiểm, dịch vụ việc làm, trợ cấp thất nghiệp, chăm sóc sức khoẻ, nhà ở…
G2G ( Government to Government): được hiểu như khả năng phối hợp, chuyển giao và cung cấp các dịch vụ mọtt cách có hiệu quả giữa các cấp, ngành, tổ chức, bộ máy nhà nước trong việc điều hành và quản lý nhà nước, trong đó chính bản thân bộ máy của chính phủ vừa đóng vai trò là chủ thể và khách thể trong mối quan hệ này.
Toàn bộ hệ thống quan hệ, giao dịch của chính phủ như G2C, G2E, G2B, và G2G phải được đặt trên một hạ tầng vững chắc của hệ thống: độ tin cậy (trust), khả năng đảm bảo tính riêng tư (privacy) và bảo mật – an toàn (security) và cuối cùng tất cả đều dựa trên hạ tầng công nghệ và truyền thông với các quy mô khác nhau: mạng máy tính, mạng Intranet, Extranet và Internet. Ngoài 4 mô hình giao dịch chủ yếu trên bảng dưới đây cho thấy những hình thức giao tiếp khác trong CPĐT.
Bảng 2: Các loại hình giao dịch trong CPĐT
CPĐT
Nhân dân, công dân
Cơ quan hành chính, nhà nước
Khu vực II (kinh tế)
Khu vực III (NPI/NGO)
Nhân dân, công dân
C2C
C2G
C2B
C2N
Nhà nước, cơ quan hành chính
G2C
G2G
G2B
G2N
Khu vực II (kinh tế)
B2C
B2G
B2B
B2N
Khu vực III (NPI/NGO)
N2C
N2G
N2B
N2N
1.5 Các hình thức hoạt động và các dạng dịch vụ cung cấp qua CPĐT
1.5.1 Các hình thức hoạt động chủ yếu của CPĐT
a. Thư điện tử ( e-mail)
Thư điện tử giúp tiết kiệm được chi phí và thời gian. Có thể sử dụng e-mail để gửi các bản ghi nhớ, thông báo, báo cáo, bản tin. CPĐT yêu cầu mỗi cán bộ công chức phải có địa chỉ e-mail để trao đổi thông tin qua mạng. Việt Nam phấn đấu đến 2010, 70% - 80% tài liệu, công văn được chuyển qua mạng.
b.Mua sắm công trong CPĐT
Việc mua sắm công có thể thực hiên được qua mạng đảm bảo tiết kiệm được thời gian, chi phí. Việc mua sắm công tập trung sẽ đảm bảo tiết kiệm được chi phí, chống tiêu cực.
c. Trao đổi dữ liệu điện tử
Trao đổi dữ liệu điện tử (Electronic Data Interchange - EDI) là việc trao đổi các dữ liệu dưới dạng “có cấu trúc” (Structured Form) từ máy tinh này sang máy tính điện tử khác trong nội bộ cơ quan hay giữa các cơ quan. EDI có tính bảo mật cao.
d. Tra cứu, cập nhật thông tin qua mạng
Chính phủ thông qua mạng internet có thể cung cấp thông tin cho người dân và doanh nghiệp các loại thông tin về kinh tế, xã hội, về chủ trương chính sách, và các hướng dẫn các thủ tuc hành chính.
1.5.2 Các dạng dịch vụ mà CPĐT cung cấp
a) Các dịch vụ công trực tuyến của chính phủ:
Trước đây các cơ quan chính phủ cung cấp dịch vụ công cho người dân tại trụ sở của mình thì nay có thể cung cấp dịch vụ công qua mạng thông qua cổng thông tin điện tử. Người dân không phải đến trực tiếp, chờ đợi tại các trụ sở cơ quan trên như trước đây.
Một số dịch vụ công có thể cung cấp qua mạng là: -Cung cấp thông tin văn bản quy phạm pháp luật, chủ trương chính sách -Cung cấp thông tin kinh tế, xã hội và thị trường; -Cung cấp dịch vụ đăng ký, cấp phép xuất nhập khẩu trực tuyến; -Cung cấp dịch vụ khai báo thuế trực tuyến; -Cung cấp dịch vụ đăng ký kinh doanh trực tuyến
b) GIS và các dịch vụ được cung cấp qua CPĐT
CPĐT có thể sử dụng Internet và GIS để cung cấp được nhiều những dịch vụ mới mà người dân và doanh nghiệp quan tâm. -Cung cấp dịch vụ ứng dụng của GIS để quản lý đất đai, giấy phép xây dựng. -Cung cấp dịch vụ thông tin quy hoạch. -Cung cấp dịch vụ ứng dụng GIS để trao đổi thông tin giữa các cơ quan, chính quyên các cấp phục vụ quản lý tài nguyên.
Chương 2: Cơ sở để phát triển và xây dựng CPĐT
CPĐT không chỉ đơn thuần là các trang web, hay chỉ dùng phương tiện điện tử để thực hiện các giao dịch hành chính giữa chính phủ, các doanh nghiệp truyền thông mà nên hiểu rằng khi chấp nhận ứng dụng CPĐT thì toàn bộ hình thái hoạt động của chính phủ sẽ thay đổi. Chương này sẽ xét các cơ sở cần thiết để cho CPĐT
2.1 Hạ tầng công nghệ
Hạ tầng công nghệ giữ một vai trò quan trọng trong việc áp dụng và phát triển CPĐT. Hạ tầng công nghệ bao gồm: CNTT-TT, công nghệ Internet, công nghệ điện tử (CNĐT), tiêu chuẩn công nghệ.
-CNTT và công nghệ viễn thông (CNVT): CPĐT là hệ quả tất yếu của sự phát triển của CNTT và CNVT. Hạ tầng CNTT và hạ tầng cơ sở CNVT là hai điều kiện tiên quyết để thực hiện CPĐT. Hạ tầng CNTT bao gồm phần cứng, phần mềm, các dịch vụ để áp dụng và phát triển CPĐT nhằm mạng lại hiệu quả kinh tế. Hạ tầng CNVT đòi hỏi công nghệ cao, dung lượng lớn, băn thông rộng, liên kết các mạng viễn thông quốc gia, kết nối trực tiếp với đường truyền quốc tế với nhiều loại hình dịch vụ viễn thông với chất lượng đường truyền cao và giá thành hợp lý.
-Công nghệ Internet: Internet được xem là hết sức quan trọng trong tổng thể chiến lược phát triển CPĐT. Cùng với hại tần CNTT và hạ tầng CNVT thì hạ tầng công nghệ Internet là một trong ba yếu tố cần thiết để áp dụng và phát triển CPĐT. Hạ tầng công nghệ Internet thúc đẩy quá trình tri thức tạo ra tri thưc, tạo cơ hội thành công trong canh tranh và đưa lại hiệu quả tôt cho các hoạt động hợp tác trao đổi. Internet ở Việt Nan chính thức thừ 1997, đến nay mới có khoảng 4 triệu thuê bao quy đổi, Vì vậy từ này đênư 2010, Internet được coi là khâu đột phá, phấn đấu đạt và vượt chỉ tiêu đề ra, triển khai nối mạng đến mọi cơ sở đào tạo, nghiên cứu, tới các bộ, ngành, cơ quan cấp huyện.
Việt nam đang có nhiều thuận lợi cho phát triển CPĐT: các quy định pháp lý liên quan đến hoạt động Internet và dịch vụ thông qua mạng Internet ở Việt Nam đang ngày một hoàn thiện. Ngày càng nhiều doanh nghiệp được cấp phép và đi vào kinh doanh dịch vụ Internet và cung cấp đường truyền Internet. Ngày càng có nhiều thông tin và dịch vụ bằng tiếng việt được đưa lên mạng Internet. Nhiều công nghệ mới cho phép Internet đạt tốc độ cao và cho phép truyền tải các dịch vụ với nội dung vô cùng phong phú, đa dạng.
Tuy nhiên, chất lượng dịch vụ chưa cao, nội dung thông tin tiếng việt còn nghèo
nàn; giá cước truy cập Internet tuy bằng hoặc thấp hơn một số nước trong khu vực
nhưng vẫn là cao so với thu nhập của người dân Việt Nam; việc quản lý sử dụng
Internet còn nhiều bất cập.
Để phát triển Internet bên canh việc xây dựng cơ sở hạ tầng Internet hiện đại phải nhanh chóng phổ cập Internet cơ bản, cách thức sử dụng Internet cụ thể và thiết thực cho việc tìm kiếm, thu thập thông tin bổ trợ cho việc hoạ tập, kinh doanh, chăm lo sức khoẻ và khai thác được tài nguyên tri thức trên Internet của cả thế giới với chi phí thấp nhất. Truy cập Internet tốc độ cao và cả Internet di động sẽ được tăng tốc độ truy cập trong thời gian tới.
-Tiêu chuẩn công nghệ: Muốn hội nhập được với thế giới, một mặt cần xây dựng các chuẩn quốc gia, mặt khác cần thừa nhận và áp dụng các chuẩn của thế giới. Muốn áp dụng và phát triển CPĐT cũng vậy, cần tuân thủ các chuẩn trong việc thanh toán, vận chuyển, hải quan, tài chính, trao đổi dữ liệu điện tử, trong khu vực toàn cầu.
-Công nghệ điện tử(CNĐT): Hạ tầng CNĐT giúp cho việc chủ động sản xuất các linh kiện, phụ kiện và thiết bị cần thiết cho CNTT, viễn thông, Internet.
2.2 Cơ sở hạ tầng nhân lực
Các thành viên tham gia CPĐT cần có kiến thức và kỹ năng sử dụng máy tính và sử dụng mạng. Họ phải có những hiểu biết cần thiết về các luật: giao dịch điện tử, thanh toán điện tử, kinh tế thương mại và ngoại ngữ. Phải xây dựng đội ngũ chuyên gia gia, tiếp cận, hiểu biết và phát triển những công nghệ tiên tiến trên thế giới.
2.2.1 Chuyên gia CNTT
Nguồn nhân lực - một trong những yếu tố chính để phát triển CPĐT vẫn là vấn đề khó khăn, không chỉ thiếu số lượng mà còn hạn chế về mặt chất lượng. Kiến thức của hầu hết sinh viên CNTT ra trường đều thiếu, từ kỹ năng làm việc nhóm, tiếp cận quy trình chất lượng và nhất là trình độ ngoại ngữ. Cần phải quan tâm đến nguồn nhân lực và quan tâm hỗ trợ cho các doanh nghiệp nhỏ. Nhà nước đã và đang đầu tư, triển khai về dự án CNTT, tin học hoá quản lý hành chính nhà nước, tiến tới một nền hành chính điện tử, chú trọng, bồi dưỡng các kỹ sư CNTT trong các trường đại học, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp tham gia vào quá trình thực hiện CPĐT.
2.2.2 Người tiêu dùng
Số lượng người tiêu dùng quyết định thành bại của sản phẩm hay dịch vụ. Muốn thực hiện và phát triển CPĐT thì đông đảo người dân phải hiểu biết và sử dụng được dịch vụ Iternet. Hơn nữa, vẫn còn khoảng cách giữa việc sử dụng máy tính với việc khai thác các ứng dụng của Internet. Nhiều cơ quan, xĩ nghiệp, phần lớn cán bộ, nhân viên chưa từng dùng máy tính, những người được coi là biết sử dụng máy trên thực tế mới chỉ có thể soạn thảo được văn bản ở trình độ thấp, chưa nói tới việc ứng dụng CNTT vào mục đích quản lý kinh doanh. Một số cơ quan đã kết nối với Internet nhưng hiệu quả sử dụng còn kém, một phần do chưa có kỹ năng sử dụng Internet, một phần do trình độ tiếng anh còn hạn chế.
2.3 Cơ sơ hạ tầng kinh tế xã hội
CPĐT cần một hạ tầng kinh tế xã hội phát triển một cách đồng bộ. Trong đó các vấn đề quan trọng cần lưu ý giải quyết là:
-Mức sống của người dân: mức sống thấp không cho phép đông đảo dân cư tiếp xúc với các phương thức của “kinh tế số hoá”. Nếu chi phí cho một máy tính cá nhân, thiết bị phù trợ, thuê bao Internet, phí truy cập… quá lớn so với mức thu nhập bình quân của một người dân thì lượng người truy cập Internet sẽ ít. CPĐT không thể phát triển trong điều kiện số người dân có khả năng truy cập internet thấp.
-Hệ thống thanh toán tài chính tự động: Ở Việt Nam, việc thanh toán tài chính tự động được triển khai ở mức thấp. Trong khi CPĐT đòi hỏi mạng lưới thanh toán tự động hoàn chỉnh và chính xác, nhưng chúng mới chỉ đáp ứng được một phần của những yêu cầu tốii thiểu. Thẻ thanh toán điện tử chưa được sử dụng rộng rãi do người dân có thói quen sử dụng tiền mặt. Chừng nào mà chúng ta chưa hình thành hệ thống thanh toán tự động, chừng đó tính khả thi của CPĐT cũng như của thương mại điện tử còn nhiều hạn chế.
-Năng suất lao động: Nền kinh tế Internet đòi hỏi một nền sản xuất có năng xuất cao. Tại Việt Nam năng suất lao động còn thấp, cách tổ chức công việc còn thiếu khoa học, còn có người thất nghiệp nên chưa tạo động lực thúc đẩy tiết kiệm cao đọ chi phí vật chất và thời gian, là những mục tiêu căn bản và lưọi ích thiết thực mà CPĐT mạng lại.
2.4 Cơ sở hệ thống chính sách – pháp luật
Do Internet là một lĩnh vực khả mới mẻ ở Việt Nam nên hiện nay hệ thống pháp luật của chúng ta chưa đáp ứng được yêu cầu của CPĐT. Chúng ta đã cố gắng ban hành một số luật như luật giao dịch điện tử, luật CNTT, luật sở hữu trí tuệ. Hàng loạt các vấn đề bảo hộ quyền sở hữu, tính bảo mật của thông tin giao dịch trên Internet, chế tài với hành vi gian lận, vi phạm hợp đồng, phương thức tính thuế đối với các giao dịch điện tử,… chưa được cụ thể hoá trong các văn bản pháp luật liên quan.
Vấn đề pháp lý nhà nước, chính phủ cần phải quan tâm khi ứng dụng CPĐT là vấn đề liên quan đến bản quyền tác giả và xâm phạm tác quyền phần mềm. Như vậy, CPĐT là chủ đề cần quan tâm đến không chỉ trên phương diện kinh tế, kỹ thuật, luật pháp mà các vấn đề pháp lý, chính sách lên quan đến bản quyền, văn hoá xã hội cũng phải được xem xét. Cơ sở pháp lý đóng vai trò quan trọng trong việc hỗ trợ ứng dụng CPĐT thành công. Một số nhân tố pháp lý trong CPĐT luôn được nhắc tới:
-Tính riêng tư: trở thanh vấn đề quan trọng cho các khách hàng hiện nay. Các điều khoản bảo vệ tính riêng tư được thể hiện ở rất nhiều trang web CPĐT lớn. Có những vấn đề trên cơ sở pháp luật là không đúng đắn nhưng trong xã hội những hành vi đó có thể chấp nhận được và không vi phạm phạm trù đạo đức truyền thống.
-Bản quyền: bảo vệ bản quyền tác giả trên trang web gặp nhiều khó khăn vì thông tin số hoá có thể sao chép dẽ dàng với mức chi phí thấp. Hơn nữa, vấn đề khó khăn là quá trình kiểm soat ai là người có quyền sử dụng bản quyền.
-Tự do truy nhập thông tin: Internet cung cấp cơ hội lớn trong việc cung cấp thông tin cho các đối tượng sử dụng. Tuy nhiên, sự tự do này có thể ảnh hưởng tiêu cực cho xã hội vì ranh giới giữa các vấn đề bất hợp pháp cũng như thiêud đạo đức trên Internet lúc nào cũng rõ ràng.
Luật giao dịch điện tử: đã được quốc hội thông qua ngày 19/11/2005 và có hiệu lực từ ngày 01/03/2006. Luật gồm 8 chương, 54 điều quy định về thông điệp điện tử; chữ ký điện tử và chứng thực chữ ký điện tử; giao kế và thực hiện hợp đồng điện tử; giao dịch điện tử của cơ quan nhà nước; an ninh, an toàn, bảo vệ, bảo mật trong giao dịch điện tử; giải quyết tranh cấp và xử lý vi phạm trong giao dịch điện tử,… Phạm vi điều chỉnh chủ yếu là giao dịch điện tử trong hoạt động của cơ quan nhà nước, trong lĩnh vực dân sự, kinh doanh, thương mại.
Công nhận và bảo vệ hợp đồng điện tử: Nguyên tắc tiến hành giao dịch điện tử được luạt nêu rõ. Lựa chọn giao dịch bằng phương tiện điện tử là tự nguyện của cơ quan, tổ chức, cá nhân, được tự thoả thuận về việc lựa chọn công nghệ để thực hiện giao dịch, không một công nghệ nào được xem là duy nhất trong giao dịch điện tử, đảm bảo bình đẳng và an toàn…
Luật công nhận và bảo vệ hợp đông điện tử: “giá trị của hợp đồng không thể bị phủ nhận chỉ vì hợp đồng đó được thể hiện dưới dạng thông điệp dữ liệu . Trong giao kết và thực hiện hợp đồng điện tử, thông báo dưới dạng thông điệp dữ liệu có giá trị pháp lý như thông báo bằng phương pháp truyền thông”.
Các bên tham gia hợp đồng điện tử có quyền tham gia thoả thuận sử dụng phương tiện điện tử trong giao kết hợp đông, có quyền thoả thuậ về yêu cầu kỹ thuật, chứng thực, các điều kiện đảm bảo tính toàn vẹn, bảo mật liên quan đến hợp đồng điện tử đó. Việc giao kết thực hiện hợp đồng điện tử phải tuân theo quy định của luật này và pháp luạt hợp đông.
Khuyến khích cơ quan nhà nước giao dịch điện tử: Đẩy mạnh ứng dụng tin học vào quản lý hành chính, luật yêu cầu: “căn cứ vào yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội và tình hình cụ thể, cơ quan nhà nước xác định một lộ trình hợp lý để sử dụng phương tiện điện tử trong hoạt động nội bộ, với cơ quan, tổ chức, cá nhân khác”.
Tổ chức, cá nhân có quyền lựa chọn phương thức giao dịch với cơ quan nhà nước, nếu cơ quan nhà nước đó chấp nhận giao dịch theo phương tiện truyền thông và phương tiện điện tử.
Khi tiến hành giao dịch điện tử, cơ quan nhà nước phải quy định cụ thể về: định dạng, biểu mẫu của thông điệp dữ liệu; loại chữ ký điện tử; các quy trình bảo đảm tính toàn vẹn, an toàn bí mật của giao dịch điện tử.
Cấm cản trở sử dụng giao dịch điện tử: Luật nghiêm cấm các hành vi cản trở việc lựa chọn sử dụng giao dịch điện tử, cản trở ngăn chặn trái phép quá trình chuyển gửi và nhận thông điệp dữ liệu; thay đổi, xoá, huỷ, giả mạo, sao chép, tiết lộ, hiển thị, di chuyển trái phép một phần hoặc toàn bộ thông điệp dữ liệu; tạo ra hoặc phát tán chương trình phần mềm (virus) làm rối loạn thay đổi, phả hoại hệ thống điều hành; tạo ra thông điệp dữ liệu nhằm thực hiện hành vi trái pháp luật; gian lận; mạo nhận; chiếm đoạt hoặc sử dụng trái phép chữ ký điệ tử của người khác,…
Tổ chức, cá nhân không được sử dụng, cung cấp hoặc tiết lộ thông tin về bí mật đời tư hoặc thông tin cơ quan, tổ chức, cá nhân khác mà mình tiếp cận hoặc kiểm soat s được trong giao dịch điện tử nếu không được sự đồng ý của họ, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.
Theo luật giao dịch điện tử, nhà nước công nhận giá trị pháp lý chữ ký điện tử và chứng thư điện tử nước ngoài nếu chũ ký hoặc chứng thư điện tử đó có độ tin cây tương đương cới độ tin cập của chữ ký và chứng thư điện tử theo quy định của pháp luật. Việc xác định mức độ tin cậy của chữ ký điện tử và chứng thư điện tử nước ngoài phải căn cứ vào các tiêu chuẩn quốc tế đã được thừa nhận, điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên và các quy định liên quan khác.
2.5 Cơ sở an toàn và bảo mật
Khi tham gia vào Internet, vấn đề đặt ra là phải tăng cường các biện pháp an tòan bảo mật. An toàn luôn được coi là vấn đề chủ yếu trong thực hiện CPĐT. Theo hiệp hội an toàn máy tính quốc gia NCSA (National Computer Security Association) vấn đề an toàn CPĐT gồm các khía cạnh:
-Tính xác thực: Trong giao thức TCP/IP, phương tiện để nhận diện một người sử dụng là mật mã. Các địa chỉ IP có thể được lọc để phát hiện truy nhập trái phép, nhưng không thể nhận dạng khi một gói tin thực sự được gửi từ một miền nhất định. Thông qua công nghệ gọi là sảo thuật IP, kẻ đột nhập có thể gửi một mẩu tin đến từ một miền xác định nào đó, trong khi mẩu tin đó không có thật. Hoặc kẻ đột nhập có thể thay thế một tên miền trên một tràn web và như vậy các lần truy nhập sau đó người dùng truy nhập với nội dung khác mà chúng đã thay đổi.
-Tính riêng tư: Các hành vi vi phạm tính riêng tư có thể xuất hiên trong và sau khi chuyển giao thông tin. Khi một mẩu tin được nhận, người gửi phải đảm bảo rằng nội dung của mẩu tin đó hoàn toàn bí mật. Ở đây thuật ngữ “nội dung” được hiểu theo nghĩa rộng nhất. Ví dụ một người truy cập vào một tràn web, thì giao dịch được nghi lại. Bản nghi lại các thông tin ngày tháng, thời gian, địa chỉ của người sử dụng và tên miên của của trang trước mà người sử dụng vừa truy nhập. Nếu người sử dụng đang truy cập vào trang web thông qua nhà cung cấp dịch vụ Internet (ISP) thì nhà cung cáp dịch vụ Internet có thể giữ mọ trang mà người sử dụng vừa truy cập. Với cùng đặc điểm đó, nhiều trang web thương mại sử dụng tính năng lưu dấu vết để lưu lại thông tin của người sử dụng (mặc dù hầu hết các trường hợp, việc lưu dấu vết đựơc sử dụng hợp pháp). Tuy nhiên nhiều nhà quảng cáo đã sử dụng tính năng lưu dấu vết vô nguyên tắc để theo dõi các thói quen của người sử dụng. Sự đe doạ lớn nhất đối với tính riên tư không phải là các thông tin được lấy từ sự lừa lọc mà từ sự thoả hiệp trong việc tự do cung cấp thông tin của người sử dụng.
-Tính trung thực: TCP/IP có vai trò truyền các gói dữ liệu trong văn bản thuần tuý. Vì các goid tin liên quan đến một mẩu tin cụ thể thường được truyền khi chúng đi từ trạm đến máy chủ và ngược lại, do đó chúng rất dễbị nắm bắt và mô phỏng trong quá trình di chuyển. Ví dụ kẻ đột nhập có thể mô phỏng địa chỉ mà ở đó các nội dung của trang web sẽ được đệ trình. Người sử dụng điền đầy đủ thông tin về thẻ tín dụng của họ vào một mẩu khai báo và gửi đi mà không biết rằng thông tin
đó sẽ được chuyển sang máy chủ của kẻ đột nhập.
Chương 3: Xây dựng cổng thông tin trong Chính phủ điện tử
3.1 Mạng máy tính trong chính phủ điện tử
Mô hình kiến trúc mạng tin học diện rộng của các cơ quan Đảng và Nhà nước có thể bao gồm các cấp như sau:
-Mức A: Cấp xa lộ thông tin.
-Mức B: Cấp Bộ, Tỉnh.
-Mức C: Cấp Sở, Ban, Ngành, quận, huyện, thị hoặc Cục, Vụ, đơn vị thuộc Bộ.
-Mức D: Cấp xã, phường.
3.1.1 Mạng lõi
Cấp xa lộ thông tin là cấp đường trục trên mạng cho phép cung cấp các cổng kết nối tốc độ cao từ Trung ương tới các tỉnh/thành và quận, huyện trong toàn quốc để các mạng máy tính cục bộ của các cơ quan Đảng, Nhà nước tại các cấp kết nối với nhau tạo thành mạng truyền số liệu nội bộ (Intranet).
Mạng tạo ra xa lộ thông tin được gọi là mạng lõi. Có thể có cấu trúc sau:
Hình 3: Cấu trúc mạng lõi mạng chuyên dụng
Giải thích : -Mạng kết nối cáp quang tạo thành vòng Ring để đảm bảo an tòan. Mạng lõi bao gồm 3 nút lớn : Hà Nội, Đà Năng và HCMC. Đây là các POP lõi của mạng truc.
-Mỗi Core PoP có thể sẽ bao gồm: Thiết bị switch và firewall để cung cấp các kết nối tốc độ cao bảo đảm về an ninh đến hệ thống các máy chủ dữ liệu, hệ thống thông tin IP (VoIP), hệ thống quản lý mạng và các máy chủ dịch vụ khác (như DNS, e-mail, web, caching).
Hình 4: Sơ đồ Coreswitch
3.1.2 Mạng chuyên dụng cấp tỉnh
Hình 5: Mạng LAN cơ quan cấp Tỉnh
3.1.3 Mạng chuyên dụng cấp huyện
Hình 6: Mạng LAN cho các cơ quan cấp huyện thị
3.1.4 Mạng chuyên dụng cấp thành phố
Hình 7: Mạng LAN cho các cơ quan cấp xã phường
3.1.5 Mô hình cổng thông tin điện tử và trung tâm tích hợp dữ liệu của tỉnh
Hệ thống được chia thành các vùng khác nhau:
-Vùng dữ liệu: là nơi đặt các server chứa dữ liệu và ứng dụng, bao gốm LDAP server, Database server, Application server, Backup server. Vùng này được bảo vệ bởi Domain Firewall với vùng DMZ.
-Vùng DMZ (vùng cách ly): vùng này đặt các server như DNS, mail server, webserver, và hệ thống khung portal được đặt tại đây. Việc truy nhập đến vùng DMZ phải thông qua Protocol Firewall.
-Tại mỗi đơn vị Sở Ban Ngành, UBND Huyện, Thị tham gia hệ thống, môi trường vận hành hệ thống ứng dụng là mạng LAN của đơn vị. Các đơn vị truy cập đến Cổng thông qua hệ thống mạng internet với đường truyền ADSL.
Hình 8: Mô hình vật lý Cổng điện tử và Trung Tâm dữ liệu
3.2 Khái niệm về cổng thông tin điện tử (portal)
3.2.1 Khái niệm về cổng điện tử (portal)
Cổng thông tin điện tử là điểm truy cập tập trung và duy nhất; tích hợp các kênh thông tin các dịch vụ , ứng dụng; là một sản phẩm hệ thống phần mềm được phát triển trên một sản phẩm phần mềm cổng lõi (Portal core), thực hiện trao đổi thông tin, dữ liệu với các hệ thống thông tin, đồng thời thực hiện cung cấp và trao đổi với người sử dụng thông qua một phương thức thống nhất trên nền tảng Web tại bất kỳ thời điểm nào và từ bất kỳ đâu.
Các đặc trưng cơ bản của một Cổng thông tin (nhằm phân biệt với Trang thông tin điện tử):
-Khả năng phân loại nội dung: Portal phải cho phép tổ chức nội dụng và ứng dụng theo nhiều cách khác nhau để đáp ứng các yêu cầu không giống nhau của các nhóm (phân loại theo người sử dụng, phòng ban, đơn vị) bên trong một tổ chức.
-Khả năng Tìm kiếm và chỉ mục: Portal phải cung cấp hoặc tích hợp được các hệ thống tìm kiếm và đánh chỉ mục các văn bản, tài liệu để giúp người sử dụng có thể nhanh chóng truy xuất đến những thông tin họ cần.
-Khả năng quản lý nội dung: Portal phải cung cấp các hệ thống kiểm soát nội dung, đây sẽ là một tính năng hữu hiệu cho phép người sử dụng không cần hiểu biết về kỹ thuật có thể tạo lập được nội dung. Portal cũng phải kiểm soát được các truy xuất đến từng nội dung để đảm bảo chỉ những người có quyền mới có thể truy nhập được các văn bản mà họ được cấp phép.
-Cá thể hóa: cho phép thiết lập các thông tin khác nhau, trình bày theo các cách khác nhau, phục vụ cho các loại đối tượng sử dụng khác nhau theo các yêu cầu cá nhân như sở thích, thói quen, yêu cầu nghiệp vụ. Mỗi cá nhân có thể tự chỉnh sửa, tái lập lại các hiển thị thông tin, ứng dụng, nội dung theo sở thích hoặc để phù hợp với công việc của mình.
-Tích hợp và liên kết nhiều loại thông tin: cho phép tích hợp nội dung thông tin từ nhiều nguồn tin khác nhau nhằm phục vụ nhiều đối tượng sử dụng theo ngữ cảnh sử dụng dựa vào kết quả cá nhân hóa thông tin. Portal cung cấp một môi trường tích hợp toàn bộ các ứng dụng Web đang có. Khía cạnh tích hợp này bao gồm hỗ trợ truy cập một lần (một cổng), kể cả các tài nguyên, trang Web bên ngoài, hỗ trợ các dịch vụ Web và có thể hiểu Portal mạng lại một ứng dụng được tích hợp.
-Xuất bản thông tin: Thu thập và bóc tách thông tin định chuẩn từ nhiều nguồn khác nhau và có cơ chế xuất bản thông tin theo chuẩn. Hệ thống tin tức được cập nhật cho hệ thống Portal bằng nhiều hình thức như sau.
-Thông qua hệ thống biên tập viên sử dụng các tính năng của hệ thống CMS để xậy dựng nội dung.
-Cơ chế tích hợp tin tức từ website khác bằng cách áp dụng các chuẩn trao đổi tin tức thông dụng như RSS (RDF Site Summary) và/hoặc Atom feed.
-Hỗ trợ RSS cả hai chiều Người dùng (Client ) và nhà cung cấp (Server) cho phép các website mức dưới cũng có thể dùng lại tin tức của Cổng bằng cách sử dụng cùng cơ chế này.
-Thông qua các hệ thống chuẩn hỗ trợ sẵn của hệ thống Portal như web service, web cliping.
-Định dạng RSS (Rich Site Summary) được xây dựng dựa trên ngôn ngữ đánh dấu mở rộng XML nhằm tạo ra các kênh thông tin (feed) và chuyển tới cho người đọc. RSS được Netscape phát triển vào cuối những năm 90s, hoạt động theo hướng tinh giản, rút gọn các trang điện tử (chỉ lấy tiêu đề, loại bỏ ảnh, định dạng trang trí). Nội dung này có thể được chuyển trực tiếp tới người đọc hoặc gắn trên các website khác với đường dẫn ngược trở lại website ban đầu.
-Đăng nhập một lần (single sign-on): cho phép người dùng chỉ cần đăng nhập một lần, sau đó truy cập và sử dụng tất cả các dịch vụ/nghiệp vụ đã và sẽ đăng ký/cấp phép trên cổng thông tin. Portal phải tích hợp hoặc cung cấp hệ thống đăng nhập một lần (một cửa). Nói cách khác, Portal sẽ lấy thông tin về người sử dụng từ các dịch vụ thư mục như LDAP (Lightweight Directory Access Protocol), NDS (Domain Name System) hoặc AD (Active Directory).
-Quản trị cổng thông tin: cho phép người quản trị, người dùng tự xác định, điều chỉnh cách thức hiển thị kênh thông tin, nội dung thông tin và định dạng chi tiết đồ họa, đồng thời cho phép người quản trị định nghĩa các nhóm người dùng, quyền truy cập và sử dụng thông tin khác nhau.
-Quản lý người dùng: cho phép quản trị người sử dụng dựa trên tiêu chuẩn LDAP để phân quyền sử dụng theo vai trò thống nhất và xuyên suốt toàn bộ hệ thống.
-Hỗ trợ nhiều môi trường hiển thị thông tin: cho phép hiển thị nội dung thông tin trên nhiều loại thiết bị khác nhau như màn hình máy tính PC, thiết bị di động (PDA, Smart phone) một cách tự động. Portal phải khả năng vận hành đa nền, đa phương tiện. Cho phép người sử dụng có thể sử dụng nhiều hệ điều hành khác nhau, thông quan các trình duyệt web khác nhau để truy xuất vào Portal. Bao gồm cả các phương tiện như điện thoại di động, các loại máy tính cầm tay, PDAs (Personal Digital Assitant) không dây.
-Khả năng bảo mật: Portal phải cung cấp được các hệ thống xác thực và cấp phép rất mạnh. Bất kỳ sự tích hợp các hệ thống nào, với cơ chế đăng nhập một lần, đều phải được bảo mật và ngăn chặn các giao dịch không hợp lệ của người sử dụng trên các ứng dụng khác nhau.
-Các tính năng của một ứng dụng lớn: Portal đáp ứng được các tính năng chuẩn của một phần mềm ứng dụng lớn như: Khả năng đáp ứng được dư thừa dữ liệu, khả năng chịu lỗi, khả năng cân bằng tải (chia luồng xử lý), khả năng sao lưu.
-Khả năng cộng tác: Portal là một môi trường làm việc cộng tác được tạo ra nhờ các kênh dịch vụ được tích hợp sẵn như:
-Email: Hệ thống email nội bộ hoặc tích hợp với một ứng dụng Mail Server.
-Chat: Hỗ trợ trao đổi trực tuyến với các thành viên, có thể tuỳ biến theo yêu cầu của sở thích hoặc công việc.
-Forum: Các diễn đàn thảo luận chung để trao đổi ý kiến và thông tin. Các diễn đàn có thể đặt dưới sự kiểm duyệt, mở cho tham dự tự do hoặc chỉ cho phép các thành viên nội bộ của một nhóm tham gia.
-Thời gian biểu, lịch làm việc
-SMS, MMS: Tích hợp các dịch vụ truyền nhận các tin nhắn (messages) để hỗ trợ cho việc trao đổi thông tin, giao hoặc nhắc việc.
Mục đich và nhiệm vụ cơ bản của cổng thông tin cho CPĐT là
-Cung cấp thông tin và các dịch vụ công cho người dân (G2C)
-Cung cấp thông tin và các dịch vụ công cho doanh nghiệp (G2B)
-Cung cấp thông tin và các dịch vụ xử lý nghiệp vụ, tương tác, chia sẻ và phân tích thông tin của các cán bộ, công chức trong một CQNN (G2G)
-Kiểm tra theo dõi hoạt động vận hành hệ thống thông tin điện tử của các CQNN giúp đưa các hệ thống thông tin điện tử vào hoạt động thường xuyên, hiệu quả.
-Làm đầu mối duy nhất ( điểm truy cập “một cửa” ) của Chính phủ, Bộ, Tỉnh về thông tin, dịch vụ của CQNN.
-Thống nhất các nội dung thông tin và dịch vụ thông tin trên cổng, bảo đảm cổng đóng vai trò tích hợp và trao đổi thông tin giữa các hệ thống thông tin điện tử trong CQNN.
-Bảo đảm việc trao đổi thông tin với cổng thông tin điện tử Chính phủ, góp phần hoàn thiện cổng thông tin điện tử Chính phủ với vai trò công cụ chỉ đạo điều hành của Thủ tướng Chính phủ.
-Chuẩn hóa thống nhất phần mềm cổng thông tin điện tử của CQNN, nhằm tránh được tình trạng đầu tư xây dựng phần mềm cổng thông tin điện tử theo các quy chuẩn, tiêu chuẩn khác nhau.
3.2.2 So sánh Portal với công nghệ website truyền thống
Kiến trúc của một hệ thống ứng dụng web truyền thống được mô tả như hình sau:
Hình 9: Website truyền thống
Với kiến trúc này, các ứng dụng được cài đặt tại Application Server, mỗi ứng dụng là độc lập và tương tác, trao đổi dữ liệu với nhau hoặc với các hệ thống bên ngoài (external systems) thông qua hệ quản trị cơ sở dữ liệu (RDBMS) hoặc kênh thông tin được đặc tả riêng cho từng ứng dụng. Mô hình ứng dụng web về mặt kiến trúc khá giống với mô hình client/server, ngoại trừ việc client là browser bất kỳ. Người sử dụng dùng trình duyệt (browsers) truy vấn (reqquest) thông tin thông qua mạng internet trên máy chủ web (Web Server), máy chủ web tiếp nhận và chuyển thông tin này cho máy chủ ứng dụng (Application Server), máy chủ ứng dụng thực hiện các tính toán logic và chuyển trả kết quả về cho máy chủ web để phản hồi (response) cho người truy cập.
Website đã và đang đóng góp rất lớn vào việc phổ cập thông tin, như giới thiệu tin tức, các cơ sở dữ liệu, và một số chương trình ứng dụng trên mạng. Web site đã làm thay đổi cả thế giới từ khi xuất hiện vào đầu những năm 90 của thế kỷ trước. Ngày nay mọi giao tiếp thông qua web site đã trở thành phổ biến. Tuy nhiên, chúng ta có thể gọi một số lớn các web site là “web site truyền thống” bởi những mặt tồn tại do công nghệ cũ:
-Người dùng đã và đang phải chấp nhận với “sự quá tải thông tin” có nghĩa là người dùng thường phải duyệt qua rất nhiều các website khác nhau, phải xử lý một khối lượng khổng lồ các thông tin để tìm ra thông tin mà mình cần.
-Người dùng phải chấp nhận là các thông tin thường đứng độc lập, không thể phân loại được (taxonomy), dẫn đến rất khó chia sẻ thông tin cho nhau. Lý do của vấn đề trên là cách trình diễn thông tin (format) trên các website thường là rất khác nhau.
-Việc quản lý, bảo trì và phát triển các website thường gặp nhiều khó khăn do sự tăng trưởng đến chóng mặt của thông tin trên các website.
-Khó có thể tích hợp các thông tin, dịch vụ từ nhiều nơi như từ các trung tâm một cửa, từ các đơn vị trực thuộc,… lên một nơi để từ đó người dân có thể tìm thấy các thông tin, dịch vụ cho mình.
-Là điểm xuất phát trong lộ trình mà người dùng đi tìm thông tin (departure), và được dẫn trên mạng qua các link.
-Không tạo được quan hệ, người dùng không gắn bó với chủ nhân của Website (không có tính cá nhân hóa).
-Thích hợp cho phổ biến thông tin hơn là cung cấp môi trường cộng tác cho người dùng.
-Qui mô dịch vụ nhỏ, không bảo toàn đầu tư. Khi yêu cầu thay đổi về nội dung thông tin, loại hình dịch vụ, v.v...thường phải xây dựng lại Website mới.
-Không có khả năng cung cấp một nền tảng để từ đó có thể luôn luôn phát triển và mở rộng.
Tóm lại, website đã được phát triển bằng các công nghệ cũ và mới, trong đó có nhiều công nghệ đã lỗi thời. Điều căn bản là web site KHÔNG có nền tảng công nghệ tích hợp để hỗ trợ tính chất phát triển kế thừa và khả năng ghép nối để mở rộng. Đó cũng giải thích một phần lý do tại sao người ta phát triển công nghệ Cổng thông tin điện tử thay thế cho công nghệ web.
Công nghệ portal phát triển sau thời kỳ web khoảng 7-8 năm như một tất yếu xuất phát từ nhu cầu thực tế. Portal là một bước tiến hóa của website truyền thống. Nó ra đời để giải quyết những vấn đề mà website truyền thống gặp phải.
-Là "siêu web site“, gọi đầy đủ là Portal website, gọi tắt là Portal, đối với người dùng vẫn chỉ là trang web qua web browser. Thay đổi thuật ngữ và quan niệm mới.
-Là điểm đích qui tụ hầu hết các thông tin và dịch vụ cho người sử dụng cần (true destination). Thông tin và dịch vụ được phân loại nhằm thuận tiện cho tìm kiếm và hạn chế vùi lấp các thông tin.
-Bảo toàn đầu tư lâu dài. Có nền tảng công nghệ đảm bảo.
-Môi trường chủ động dùng cho việc tích hợp ứng dụng.
3.2.3 Tổng quan về các công nghệ Portal
Song song với công nghệ website truyền thống (hiện đã có nhiều hạn chế), theo những thống kê chưa đầy đủ, công nghệ portal và các phát triển ứng dụng theo hướng kiến trúc portal hiện đang ngày càng phổ biến ở trên thế giới và Việt Nam, trở thành trào lưu công nghệ và kinh doanh phổ biến trên Internet. Xu hướng chung là đa số các nhà quản lý cao cấp của các tổ chức, doanh nghiệp, cũng như các công ty phát triển phần mềm sẽ cùng chia sẻ các khái niệm và lợi thế của portal để cống hiến vì lợi ích của người dân, các cá nhân, tổ chức và doanh nghiệp.
Đối với các sản phẩm portal trên thị trường Việt Nam hiện nay có 3 nhóm chính:
-Nhóm phần mềm do các công ty trong nước tự phát triển
-Nhóm phần mềm dựa trên nền mã nguồn mở
-Nhóm phần mềm do các hãng có uy tín phát triển
a) Phần mềm do các công ty trong nước tự phát triển
Phân tích một số phần mềm nền Portal của các công ty trong nước phát triển như WebCMS, MDS VietPortal, ISA-Web, AMIS Portal chúng tôi đưa ra một số nhận xét sau:
Ưu điểm
-Chi phí thấp
-Kiến trúc đơn giản, có thể yêu cầu bổ sung thêm các tính năng mới.
Nhược điểm
-Tính năng hạn chế. Hiện có một số phần mềm Portal thuộc loại này nhưng chủ yếu chỉ tập trung vào các chức năng của một hệ quản trị nội dung trên web (Web Content Management System - CMS). Những tính năng Portal như tích hợp ứng dụng, tích hợp CSDL, cá nhân hoá, đăng nhập một cửa, tìm kiếm và đặc biệt là khả năng bảo mật,... không có hoặc yếu.
-Chưa được kiểm chứng về hiệu năng cũng như khả năng mở rộng và tính tương thích.
b) Phần mềm phát triển dựa trên nền mã nguồn mở
Phân tích, đánh giá một số sản phẩm hiện nay một số công ty trong nước phát triển dựa trên nền mã nguần mở, trong đó đáng chú ý là các sản phẩm:
-VPortal của Công ty Cổ phần phần mềm Việt (VietSoftware) phát triển dựa trên hệ thống phần mềm mã nguồn mở uPortal, đặc biệt phiên bản mới VPortal 3.0 đươch phát triển trên hệ thống mã nguồn mở Liferay Portal, tương thích 100% với chuẩn JSR 168. Sản phẩm đã được triển khai tại Cổng giao tiếp Hà Nội (http://www.hanoi.gov.vn), Bộ Tư pháp (www.moj.gov.vn), Bộ Thương mại (www.mot.gov.vn), tỉnh Phú Thọ (www.phutho.gov.vn) và portal cho một Bộ ngành và một số tỉnh thành trong cả nước.
-Công ty FPT đã triển khai Cổng thông tin điện tử cho cục Hải quan -TVIS của Công ty Công nghệ tin học Tinh Vân. Tinh Vân đã triển khai cho mạng thông tin tích hợp trên internet của TP Hồ Chí Minh (http://www.hochiminhcity.gov.vn), website của Bộ Ngoại giao
(http://www.mofa.gov.vn) và nhiều đơn vị khác
-iCMS, DTT Portal của Công ty Vinacom
-3C_SmartPortal của Công ty 3C.
Ưu điểm -Chi phí thấp -Tính năng khá đầy đủ do có nhiều thành phần mã nguồn mở phát triển sẵn
(miễn phí). -Có các ứng dụng được phát triển phong phú, phù hợp với nhu cầu ứng dụng, tin học hóa trong các cơ quan hành chính của Việt Nam. -Hiệu năng tương đối tốt, thích hợp với các Portal quy mô tầm trung và
vừa. -Chạy được trên nhiều môi trường khác nhau (hệ điều hành, cơ sở dữ liệu). -Có sự hỗ trợ của cộng đồng mã nguồn mở.
Nhược điểm -Khả năng tích hợp với các ứng dụng thương mại thường không mạnh. -Tính năng không phong phú bằng các sản phẩm thương mại. -Tự do chỉnh sửa mã nguồn đôi khi làm cho sản phẩm không tương thích
với các tiêu chuẩn chung của một portal. -Công nghệ phức tạp hơn so với giải pháp tự phát triển. Vì vậy nếu lựa chọn phần mềm loại này cần xem xét kỹ khả năng làm chủ công nghệ của công ty phát triển phần mềm.
c) Phần mềm thương mại do các hãng có uy tín phát triển.
Hiện đã có một số sản phẩm: BEA WebLogic Portal 8.1, IBM WebSphere Portal 6.0, Microsoft SharePoint Portal 2007, OracleAS Portal 10G, Plumtree Enterprise Web Suite, Sun Java System Portal Server 6.2, Vignette Application Portal 7.0.
Những sản phẩm này thường được lựa chọn vì những lý do chính sau:
-Cơ quan hiện đang có rất nhiều hệ thống thông tin chuyên ngành đang hoạt động (rất nhiều nguồn thông tin đã sẵn sàng để công bố) và những hệ thống thông tin này đã được xây dựng trên các nền tảng công nghệ khác nhau. Khi đó việc tích hợp hệ thống là một đòi hỏi bắt buộc, và giải pháp được lựa chọn phải là giải pháp cung cấp được nhiều kiểu tích hợp hệ thống khác nhau.
-Quy trình sử lý công việc hàng ngày trên cơ sở thông tin “số” đang thành quy chế bắt buộc.
-Cơ quan phải có trình độ ứng dụng CNTT cao, đặc biệt là có bộ phận chuyên trách về CNTT có tay nghề cao, bởi vì việc quản trị hệ thống của những phần mềm này là khá phức tạp, đòi hỏi mức chuyên sâu khá cao.
-Hệ thống thông tin có kích thước lớn, phức tạp: số lượng chức năng phải phong phú để đáp ứng nhiều nhu cầu thông tin của nhiều nhóm người sử dụng khác nhau, khối lượng thông tin khổng lồ, số lượng người sử dụng mà hệ thống phải phục vụ là rất lớn.
Ưu điểm của những sản phẩn này là:
-Tính năng của những sản phẩn này là rất phong phủ chuyên nghiệp, đáp ứng hầu hết các nhu cầu và phổ biến thông tin của mọi cơ quan, tổ chức. Cho phép xây dựng hệ thông thông tin lớn.
-Hoạt động ổn định, tin cậy, tốc độ đáp ứng thông tin cao
-Đầy đủ tính năng để xây dựng Portal thông tin doanh nghiệp hoặc Portal công cộng
-Có hiệu năng cao, nhất là những phần mềm Portal được tích hợp trong một nền tảng (platform) hoàn chỉnh bao gồm cả Application Server, Database Server, Authentication Server, Mail Server.
-Khả năng tích hợp ứng dụng và tích hợp CSDL rất tốt. Thường không cần hoặc chỉ cần rất ít công việc lập trình do các phần mềm này đã có sẵn nhiều bộ kết nối với các Application Server và các hệ quản trị CSDL phổ biến.
Nhược điểm
-Đòi hỏi phải có đầu tư lớn ngay từ đầu. Đầu tư này không chỉ xét trên khía cạnh mua bản quyền phần mềm, mà ở các khía cạnh: Khinh phí tạo lập và duy trì nội dung, có bộ phận chuyên trách lo về kỹ thuật, bộ phận chuyện trách lo về nội dung, có quy trình, nội quy biên tập và xuất bản thông tin hoàn chỉnh và có tính pháp lý.
-Phải có kế hoạch cụ thể khai thác, sử dụng hết công suất những phần mềm này ngay từ đầu, nếu không sẽ dẫn đến lãng phí. Khó khăn thường gặp phải là tính khả thi của kế hoạch xây dựng các hệ thống thông tin nguồn trong một thời gian ngắn (thường chỉ 1-2 năm), nhất là đối với điều kiện và môi trường ứng dụng CNTT tại Việt Nam hiện nay.
-Giá đắt. Ngoài giá mua phần mềm Portal, một số phần mềm loại này đòi hỏi phải có một số thành phần đi kèm khác như Database Server, Directory Server, Mail Server. Chi phí hỗ trợ kỹ thuật cao hơn rất nhiều so với các sản phẩm do công ty trong nước phát triển.
d) Giới thiệu phần mềm Websphere Portal
Đây là phần mềm của hãng IBM (Hoa Kỳ - http://www.ibm.com), dẫn đầu về doanh số trên thị trường thế giới, WebSphere Portal cung cấp các tính năng như sau:
-Cho phép người sử dụng xây dựng các ứng dụng theo chuẩn portlet bằng phân hệ WebSphere Portlet Factory Designer. Ứng dụng được xây dựng nhanh chóng trên cơ sở hệ thống thông tin sẵn có.
-Các portlet bên trong WebSphere Portal có thể được lưu thành mẫu để sử dụng lại trong trang khác, tránh việc thiêt lập nhiều lần.
-Ứng dụng Workplace Web Content Management cung cấp khả năng soạn thảo trang web trực quan, đơn giản hóa việc cập nhật nội dung theo mẫu, tăng cường khả năng tìm kiếm nội dung thông tin.
-Ứng dụng quản lý tài liệu tích hợp chặt chẽ với các phần mềm văn phòng của Microsoft qua kênh thông tin được bảo mật, từ phiên bản Office 97 trở đi, giúp người dùng tránh được việc nâng cấp phiên bản Office nhằm tiết kiệm chi phí khi triển khai.
-Khả năng xây dựng quy trình luân chuyển văn bản, cho phép đơn vị định nghĩa quy trình phù hợp với nghiệp vụ và xây dựng các quy trình mới khi cần.
-Tích hợp tính năng xây dựng biểu mẫu và quy trình xử lý các biểu mẫu điện tử trên mạng, giúp đơn vị xác lập các quy trình dịch vụ hành chính công điện tử dễ dàng.
-Hệ thống trao đổi thông tin qua nhiều kênh mạnh mẽ, giúp người sử dụng có thể tương tác với nhau đơn giản và nhanh chóng.
-Quản lý số lượng trang thông tin lớn hơn 40.000 mà không ảnh hưởng tới tốc độ đáp ứng của hệ thống.
e) SharePoint Portal
SharePoint Portal là phần mềm Portal được xây dựng bởi hãng phần mềm Microsoft, cung cấp đầy đủ các tính năng thiết yếu cho một cổng thông tin điện tử. Ngoài ra phần mềm này còn kết hợp chặt chẽ với bộ ứng dụng văn phòng Microsoft Office đang được sử dụng phổ biến hiện nay nhằm đơn giản hóa thao tác của người sử dụng trong việc xuất bản thông tin.
SharePoint Portal Server tích hợp sẵn sàng tính năng quản lý quy trình (workflow), ngoài ra có thể kết hợp thêm với phần mềm Microsoft Form Server để xây dựng các biểu mẫu điện tử và quy trình luân chuyển các biểu mẫu đó. Các tính năng chủ chốt của SharePoint Portal Server:
-Tùy biến giao diện, cho phép cá nhân hóa hình thức hiển thị của trang thông tin phù hợp với nhu cầu của từng người dùng, từng cộng đồng.
-RSS: tất cả thông tin cung cấp trong SharePoint Portal Server đều hỗ trợ khả năng RSS, cho phép chương trình RSS Feeds có thể truy xuất thông tin nhanh chóng.
-Tự động tạo Site Map, người quản trị hệ thống không cần phải cập nhật thông tin Site Map mỗi khi có điều chỉnh thông tin trên cổng
-Thông tin người sử dụng được lưu trữ trong User Profile Store giúp cung cấp cơ chế phân quyền và bảo mật dễ dùng, thích hợp với việc phân quyền chi tiết đến từng nội dung thông tin.
-Cung cấp khả năng quản lý trang, duyệt trang, quyền truy cập trang thông tin cùng các công cụ trực quan đơn giản hóa quá trình quản trị giao diện hiển thị trang.
-Hỗ trợ hiển thị thông tin trên thiết bị di động.
-Tích hợp chặt chẽ với bộ ứng dụng văn phòng Microsoft Office.
-Khả năng tìm kiếm toàn văn hơn 200 loại văn bản tài liệu khác nhau.
-Cung cấp khả năng quản lý quy trình (workflow) toàn diện, cho phép tự động hóa toàn bộ các thao tác biên soạn, trình ký, phê duyệt các loại văn bản, chức năng này khi kết hợp với Microsoft Form Server có thể xây dựng lên các quy trình xử lý biểu mẫu điện tử nhanh chóng và dễ dàng.
-Soạn thảo nội dung bằng giao diện trực quan.
f) DotNetNuke
DotNetNuke là portal nguồn mở viết trên nền .Net, một môi trường lập trình và tổ chức các hẹ thống thông tin rất nổi tiến vả rất thông dụng trên thế giới nói chung và ở Việt Nam nói riêng. Hiện tai cộng đồng người sử dụng sản phẩm này thuộc loại đông nhất trên thế giới.
Tương tự như vậy, các sản phẩm uPortal, Liferay cũng là nhưng Portal nguồn mở nhưng khác với DotNetNuke ở chỗ chúng được viết trên JAVA, một môi trường lập trình và tổ chức các hệt hống thông tin khá thông dụng trên thế giới tiếc rằng chưa phổ cập ở Việt Nam. Hiện tai cộng đồn người sử dụng dùng những sản phẩm đầu tiên là khá đông đảo, nhưng hiện nay thì cộng đồng DotNetNuke đông hơn.
Những sản phẩm này được chọn vì những lý do sau:
-Cơ quan hiện mới dùng CNTT ở mức độ khiêm tốn xét trên các khía cạnh: năng lực tổ chức nội dung “số” (quy trình, chính sách pháp lý, nguồn thông tin,…) và năng lực khai thác, sử dụng thành thạo các sản phẩm CNTT (của cán bộ quản trị hệ thống, của người khai thác hệ thống). Việc đầu tư lớn ngay từ đầu thường dẫn đến lãng phí bởi vì hệ thống sẽ thiếu nội dung khi vận hành hoặc hệ thống có ít người khai thác do chình độ CNTT hạn chế hoặc chưa hình thành thói quen.
-Quy trình xử lý công việc hàng ngày trên cơ sở thông tin “số” mới đang hình thành và mới ở mức độ khuyến khích sử dụng, chưa phải bắt buộc.
-Các hệ thống thông tin chuyên ngành để tạo nguồn cho thông tin chưa nhiều, và lộ trình xây dựng những hệ thống thông tin chuyện ngành này là chưa rõ ràng, nhất là chưa thể xây dựng trong một thời gian ngắn.
-Nhu cầu khai thác thông tin, chức năng khai thác thông tin và số lượng người khai thác thông tin chưa phải lớn ngay từ đầu, nó cần được hình thành, củng cố mở rộng dần theo thời gian.
Ưu điểm là
-Không đòi hỏi phải có đầu tư ngay từ đầu. Có thể tránh được lãng phí nếu xây dựng được kế hoạch phát triển nội dụng thích hợp
-Hệ thống có thể vừa khai thác sử dụng, vừa bổ sung thêm chức năng, mở rộng thêm nguồn thông tin phủ hợp với lộ trình đầu tư và lộ trình nâng cao trình độ sử dụng CNTT của cơ quan/tổ chức.
-Sản phầm là miến phí và có mã nguồn mở để có thể chỉnh sửa. Tuy nhiên, ưu thế về có mã nguồn cũng không thực sự là ưu thế bởi vì rất hiếm chuyên gia Việt Nam có khả năng để chỉnh sửa những mã nguồn này.
Nhược điểm của những sản phẩm này là:
-Tính năng của những sản phẩm này là hạn chế, mới chỉ đáp ứng những nhu cầu cơ bản nhất của tổ chức và phổ biến thông tin.
-Cần phải lập trình phát triển các chức năng mà sản phẩm mã nguồn mở chưa cung cấp, nhất là các module thực hiện các chức năng tích hợp với các hệ thống thông tin đang hoạt động.
-Mức độ ổn định, tin cậy, tốc độ đáp ứng thông tin không cao bằng những sản phẩm bản quyền.
3.3 Giới thiệu về dotnetnuke Portal
3.3.1 Giới thiệu chung
DotNetNuke® là một hệ thống quản lý nội dung mã nguồn mở viết bằng ngôn ngữ lập trình VB.NET trên nền tảng ASP.NET. DotNetNuke được đánh giá là hệ thống quản trị nội dung mã nguồn mở .NET phát triển mạnh nhất hiện nay với số lượng thành viên đông đảo và phát triển rất nhanh trên khắp thế giới.
DotNetNuke (DNN) là một sản phẩm mã nguồn mở để phát triển các sản phẩm phần mềm cổng thông tin điện tử - Portal. Cổng thông tin điện tử DotNetNuke Portal là một sản phẩm mã nguồn mở đứng đầu thế giới hiện đang được sử dụng bởii hàng nghìn tổ chức trên thế giới.
3.3.2 Đặc tính nổi bật của DotNetNuke (DNN)
Đa năng – DNN là một cơ sỏ hạ tầng lý tưởng của ứng dụng Portal để xây dựng và triển khai các dự án như cổng thông tin thương mại điện tử, cổng thông tin chính phủ điện tử, cổng thông tin cộng tác trong một tổ chức,… trên các mạng internet, intranet, extranet.
Thân thiện – DNN được thiết kế để giúp người quản trị dẽ dàng cấu hình và quản trị mọi chức năng ứng dụng cổng thông tin điện tử. Các biểu tượng, trợ giúp, giao diện, cho phép thao tác rất dẽ dàng.
Tính mở của hệ thống - Kết cấu các tính năng của DNN dựa trên khả năng cho phép cài đặt các module chức năng (Module installtion) vào bên trong phần mềm khung (Plug-in). Những module chức năng này hoặc là những module do nhà lập trình tự phát triển (thường là các module cơ bản nhất) hoặc là những module do nhà lập trình tự phát triển (thường là các module chuyên dùng, được xây dựng theo mục đích xử lý, thông tin đặc thù hoặc những yêu cầu quản lý thông tin mang tính chuyên nghiệp hơn so với những module miễn phí). Đặc tính Plug-in này cho phép các tổ chức mở rộng không giới hạn các tính năng mới theo yêu cầu của người sử dụng và không hề làm ảnh hưởng đến các chức năng đang hoạt động, không hề làm gián đoạn sự vận hành liên tục của Portal
Thêm vào đó, kiến trúc DNN cũng cho phép tạo lập nhiều Portal trên cùng một bộ phần mềm cài đặt. Người quản trị có thể quản lý một hay nhiều Portal khác nhau với những tính năng và giao diện khác nhau. Mỗi Portal con này có hệ thống người sử dụng riêng, bao gồm cả người quản trị, và có giao diện, ngôn ngữ trình bày riêng.
Giàu tính năng – DNN được xây dựng cùng với nhiều tính năng mạnh mễ, Quản trị, thiết kế, nội dung, bảo mật và người dùng được quản lý sửa đổi dẽ dàng qua các công cụ này.
Giao diện tuỳ biến – DNN được thiết kế với kiến trúc sử dụng Skin (giao diện bên ngoài) cho phép tách biệt nội dung và giao diện. Kiến trục này cho phép người thiết kế giao diện có kả năng làm việc độc lập với quá trình phát triển và chỉ đòi hỏi về kiến thức HTML cùng với kiến thức thiết kế Skin của DNN. Chỉ cần người quản trị thực hiện thay đổi Skin của hệ thống sản phẩm Portal đang khai thác ngay lập tức sẽ có giao diện mới. Quá trình thay đổi Skin này đi không hề làm ảnh hưởng đến các chức năng đang hoạt động, không hề làm gián đoạn sự vận hành liên tục của Portal
Được hỗ trợ tốt – DNN được hỗ trợ bởi rất nhiều tổ chức/cá nhân phát triển phần mềm trên thế giới. Trong các diễn đàn trực tuyền, các cổng thông tin, mạng lưới công ty chuyên nghiệp về DNN, việc hỗ trợ kỹ thuật cho dnn là khá dễ dàng và thuận tiện.
Dễ cài đặt – DNN có thể cài đặt và chạy chỉ trong vòng vài chục phút. Một trong những điểm mạnh của DNN là khả năng xây dựng một Portal thông qua những Template sẵn có.
Đa ngôn ngữ hay khả năng bản địa hoá – Trong thiết kế DNN đã hướng đến việc hỗ trợ đa ngôn ngữ qua cơ chế Language Packs của hệ thống. Cơ chế này mang lại khả năng bản địa hoá các module của DNN và của cả chính phần mềm khung. Nói một cách khác, DNN cung cấp công cụ để dịch ứng cá thuật ngữ từ ngôn ngữ này sang ngôn ngữ khác dễ dàng nhanh chóng.
Mã nguồn mở - DNN được cung cấp miễn phí, là phần mềm mã nguồn mở, và cấp phép cam kế BSD chuẩn. Nó cho phép các cá nhân làm bất kỳ việc gì họ muốn với nền ứng dụng, cả thương mại lẫn phi thương mại, với yêu cầu đơn giản là ghi nhận công lao của công đồng thực hiện dự án DNN
Được tín nhiệm – DNN là một thương hiệu nổi tiếng và được tôn trọng rộng rãi trong cộng đồng mã nguồn mở. Với hơn 390.000 thành viên và một đội ngũ lập trình tài năng, DNN liên tục phát triển sản phẩm dựa trên sự phản hồi, ứng dụng thực tế và sự tham gia của người dùng.
3.3.3 Kiến trúc hệ thống DNN
Kiến trúc hệ thống của DNN được phân tầng sử lý dữ liệu rất tường minh, mạng lại khả năng mềm dẻo để lập trình phát triển hệ thống.
Tầng truy xuất dữ liệu – Data Access Layer (DAL)
-Tầng này bao gồm các phương thức đơn giản để kết nối các CSDL khác nhau (database Engine) với tầng quy trình sử lý dữ liệu.
-Giải pháp này cho phép hệ thống DNN là độc lập với giải pháp tổ chức CSDL bên dưới, Ví dụ như Microsoft SQL Server 2000/MSDE/Access, mýQL, Oracle,….
Tầng quy trình xử lý dữ liệu – Business Logic Layer (BLL)
-Tầng này bao gồm các phương thức cho phép định nghĩa các quy trình xử lý dữ liệu ở mức logic để bảo đảm rằng dữ liệu được tổ chức quản lý và xử lý mô phỏng theo, tuân thủ theo các quy định quản lý, xử lý công việc trong hoạt động kinh doanh hàng ngày đang áp dụng tai cơ quan.
-Giải pháp này cho phép xây dựng các quy trình xử lý dữ liệu độc lập với các tổ chức dữ liệu vật lý của hệ thống.
Tâng trình diễn thông tin – Presetation layer (UI)
-Tầng này bao gồm các phương thức tạo lập các cách thức trình diễn thông tin cho người sử dụng, quản lý các vai trò, quyền hạn xử lý thông tin của người sử dụng, quản lý tương tác của hệ thống với người sử dụng.
-Giao tiếp với tầng quy trình xử lý dữ liệu để chuyển yêu cầu thông tin của người sử dụng tới tầng quy trình xử lý, nhận kết quả sử lý và hiển thị cho người sử dụng.
Trên cơ sở công nghệ và sản phẩm Portal đã lựa chọn, công nghệ nền để phát triển và triển khai hệ thống như sau: Ngôn ngữ lập trình C#.Net, VB.Net để phát triển các module chức năng. Cơ sở dữ liệu Microsoft SQL Server 2000/2003/2005 hoặc Microsoft SQL Desktop 2000/2003 (MSDE)/ Express (2005) (bản miễn phí, nhưng chức năng hạn chế hơn so với Microsoft SQL Server 2000).
3.4 Mô hình kiến trúc hệ thống Cổng TTĐT
Mô hình tổng quát cổng thông tin điện tử
Hình 12: Mô hình tương tác Cổng điện tử
Mô tả Hệ thống được tổ chức theo mô hình trung tâm dữ liệu, được chia thành các phân vùng. Các phân vùng kết nối với nhau thông qua tường lửa (Firewall) trung tâm. Từ hệ thống kết nối ra ngoài thông qua đường truy cập dịch vụ (người dùng bên ngoài truy cập vào hệ thống Portal – Internet công cộng) và kết nối với các đơn vị cấp dưới thông qua đường VPN. Dựa trên cấu hình hệ thống mô tả ở trên, các thiết bị cần thiết sẽ bao gồm các máy chủ (Server) và các thiết bị mạng.
Stt
Tên thiết bị
Mô tả chc năng
01
Gateway firewall
Các phân vùng hệ thống kết nối thông qua Firewall, là trung tâm an ninh của toàn bộ hệ thống.
02
Multi Service Router
Tiếp nhận kết nối từ đường truy cập dịch vụ.
03
Các máy chủ (Server)
Các máy chủ thực hiện các chức năng khác nhau của hệ thống như máy chủ Web (Web Server), máy chủ cơ sở dữ liệu (database server).
Hình 15: Mô hình các thành phần kỹ thuật Portal
Giải thích mô hình:
1. 1. Lớp Người sử dụng: thể hiện các đối tượng tham gia sử dụng, khai thác và cung cấp thông tin trên Cổng.
�.2. Lớp Trình diễn: Tầng trình diễn chịu trách nhiệm về cung cấp giao diện cho nhiều loại người dùng khác nhau, có nhiệm vụ lấy các yêu cầu, dữ liệu từ người dùng, có thể định dạng nó theo những qui tắc đơn giản (dùng các ngôn ngữ Script) và gọi các component thích hợp từ tầng Business Logic để xử lý các yêu cầu. Kết quả sau xử lý được trả lại cho người dùng. Lớp này bao gồm các module chính sau:
�.a. Cá nhân hóa: module cho phép người sử dụng đã đăng nhập tùy biến nội dung và giao diện theo từng cá nhân.
�.b. Tổ hợp trang dựa trên kênh: module thực hiện hiển thị thông tin theo kênh đáp ứng yêu cầu của người sử dụng khai thác thông tin. Tạo trang hiển thị
tổng hợp dựa trên cơ chế tổ hợp dữ liệu và kiểu hiển thị của các kênh thành phần.
�.c. RSS/XML: module cho phép Cổng TTĐT xuất thông tin dưới dạng RSS/XML sẵn sàng đồng bộ với các Cổng TTĐT hay website khác.
�.d. Trình bày các dịch vụ web: module kết xuất, hiển thị nội dung nhận được thông qua các dịch vụ web – Webservices.
1. 3. Lớp Dịch vụ Cổng: thực hiện các quy trình tác nghiệp, nghiệp vụ, xử lý, tích hợp thông tin, quản lý cấu hình, quản trị hệ thống.
�.4. Lớp Dịch vụ dữ liệu: bao gồm các dịch vụ nền tảng hỗ trợ vận hành hệ thống Cổng TTĐT. Các dịch vụ nền tảng hỗ trợ bao gồm:
�.k. Enterprise Directory: cung cấp dịch vụ thư mục hỗ trợ khả năng thẩm định/xác thực tài khoản trong hệ thống, cho phép tích hợp với các hệ thống người dùng Active Directory (AD) trên Windows hoặc dịch vụ thư mục Lightweight Directory Access Protocol (LDAP) trên các hệ điều hành Unix/Linux.
�.l. Portal metadata: thực hiện việc lưu trữ hai loại thông tin cơ bản: thông tin cấu hình hệ thống Cổng TTĐT và thông tin dữ liệu sử dụng ngay trong Cổng TTĐT.
�.m. External Content: tích hợp và/hoặc liên kết các nguồn tài nguyên bên ngoài dưới dạng các trang web để kết xuất, hiển thị trên Cổng TTĐT.
e.
Xuất bản nội dung: module thực hiện chức năng liên kết với hệ thống quản
trị nội dung để xuất bản thông tin lên Cổng TTĐT.
f.
Tìm kiếm: module cho phép tìm kiếm toàn văn các loại thông tin trên
Cổng TTĐT, các thông tin có thể là tin tức, thông tin chuyên ngành, văn
bản, câu hỏi,…
Quản trị hệ thống: quản lý các thông tin liên quan tới cấu hình chung
của Cổng TTĐT như: tài khoản, kênh thông tin, yêu cầu truy xuất thông
tin, khuôn mẫu, phiên làm việc, trạng thái, dữ liệu cá nhân, tùy biến cá
nhân hóa của người sử dụng.
Quản lý Portlet (ứng dụng): Thực hiện quản lý các kênh ứng dụng, xuất
bản kênh, module mở rộng. Ngoài ra, module này còn thực hiện việc xử lý
dữ liệu và thông tin hiển thị trên từng kênh có xử lý tới đệm và tương tác
dữ liệu.
An ninh/Bảo mật: xử lý thông tin mã hóa và bảo mật theo yêu cầu. Đặc
biệt là các giao dịch có yếu tố bảo mật trên sử dụng các công nghệ HTTPS
hay SSL.
Tích hợp thông tin: mô đun thực hiện việc tích hợp thông tin như: thông
tin từ các phần mềm dùng chung, phần mềm tác nghiệp, trang web thành
phần hoặc từ hệ quản trị nội dung CMS đặt ngay tại Trung tâm thông tin
của tổ chức, doanh nghiệp.
5. Lớp Cơ sở dữ liệu: gồm các hệ thống CSDL phục vụ lưu trữ các loại dữ liệu của toàn hệ thống.
�.n. Cơ sở dữ liệu người dùng trên AD/LDAP
�.o. Cơ sở dữ liệu Portal trên SQL Server, Oracle, My SQL, PostgreSQL,…
�.p. Dữ liệu bên ngoài: các tệp văn bản, trang web (html)
3.4 Chức năng cổng thông tin CPĐT Cá nhân hóa: thiết lập các thông tin khác nhau cho các đối tượng khác nhau theo các yêu cầu khác nhau của người dùng Đăng nhập một lần, xác thực và phân quyền: người sử dụng đăng nhập một lần sau đó truy cập sử dụng các dịch vụ trên cổng thông tin một cách thống nhất. Áp dụng cơ chế phân quyền truy cập theo vai trò dựa trên quy trình công việc xuyên suốt trong hệ thống cổng lõi và tầng các dịch vụ ứng dụng Quản lý cổng thông tin và trang thông tin: Cung cấp khả năng quản lý nhiều cổng và trang thông tin hoạt động trong hệ thống: -Quản trị cổng -Quản trị kênh thông tin -Quản trị các trang -Quản trị các module chức năng -Quản trị các mẫu giao diện -Quản trị các mẫu hiển thị nội dung -Quản trị ngôn ngữ -Quản trị các quyền và người/nhóm người sử dụng -Quản trị các quy trình và luồng kiểm duyệt các nội dung thông tin -Thiết lập và quản trị danh sách danh mục nội dung thông tin -Thiết lập và quản trị các loại menu Quản lý cấu hình: cung cấp khả năng khai báo và điều chỉnh các module nghiệp vụ hỗ trợ hoạt động bên trong Cổng thông tin -Cho phép cài đặt/gỡ bỏ các khối chức năng trong khi hệ thống đang hoạt động;các mẫu giao diện;các loại ngôn ngữ;các kiểu hiển thị nội dung;quyền quản trị hệ thống linh hoạt -Cho phép định nghĩa các quy trình xử lý công việc và xuất bản thông tin -Mỗi module chức năng cho phép cài đặt trên nhiều trang -Hỗ trợ khả năng định nghĩa và phân quyền theo vai trò
- Hỗ trợ khả năng tìm kiếm Việt/Anh theo chuẩn unicode TCVN 6909:2001 và tìm kiếm nâng cao
-Hỗ trợ khả năng bảo mật cao. Có cơ chế chống lại các loại tấn công phổ biến trên mạng (SQL Injection, Flood, DDoS)
-Có cơ chế quản lý bộ đệm (caching) để tăng tốc độ xử lý, nâng cao hiệu suất xử lý và giảm tải máy chủ ứng dụng
-Có cơ chế dự phòng cho hệ thống máy chủ ứng dụng và dự phòng cho máy
chủ CSDL (khả năng cài đặt máy chủ chính và máy chủ sao lưu theo mô
hình hệ thống cluster đảm bảo cơ chế cân bằng tải, sao lưu dữ liệu tức thời
giữa các máy chủ chính và máy chủ sao lưu)
Tích hợp các kênh thông tin: Tích hợp được nhiều kênh thông tin từ các nguồn khác nhau lên cổng thông tin sử dụng các cơ chế tương tác định chuẩn. Thông qua chức năng tích hợp để cung cấp các chức năng khác phục vụ hoạt động xây dựng cổng, tích hợp các thành phần thông tin để tổ hợp thành các màn hình hiển thị thông tin, quy định các khu vực thông tin sẽ hiển thị trên mẫu trang. Ví dụ định chuẩn cho chức năng tích hợp là Portlet, WSRP (đối với môi trường Java) hay WebPart (đối với môi trường Windows.Net).
Chức năng tìm kiếm thông tin: Tìm kiếm thông tin trong từng miền và trong toàn bộ cổng thông tin.
Quản trị người dùng: Quản trị người dùng cho phép người dùng đăng ký tài khoản hoặc quản trị cấp tài khoản cho người dùng, lưu trữ các thông tin dưới dạng hồ sơ người dùng, cấp quyền sử dụng theo vai trò và báo cáo hoạt động của từng người dùng.
Thu thập và xuất bản thông tin: Thu thập thông tin từ nhiều nguồn khác nhau, sau đó được chuẩn hóa và lưu trữ vào CSDL để sử dụng lại cho các dịch vụ khác. Quá trình thu thập và bóc tách thông tin với các định dạng đã được qui chuẩn. Đồng thời cho phép xuất bản thông tin theo chuẩn RSS 2.0, khuyến nghị áp dụng chuẩn ATOM 1.0 cho các dịch vụ ứng dụng trong hệ thống. Các dịch vụ ứng dụng tự động xuất bản thông tin với các tiêu chí khác nhau dựa trên XML một cách thống nhất.
Sao lưu và phục hồi dữ liệu: Cung cấp công cụ cho người quản trị thực hiện sao lưu định kỳ, sao lưu đột xuất và cho phép phục hồi dữ liệu theo phiên bản đã được lưu trữ khi cần thiết hoặc khi có sự cố xảy ra.
Nhật ký theo dõi: Lưu các sự kiện (event log) diễn ra trong toàn bộ hệ thống để phục vụ theo dõi, giám sát và có phương án nhanh nhất khi hệ thống gặp sự cố.
An toàn, bảo mật cổng thông tin: thực hiện các cơ chế xác thực, cấp phép truy cập trên cổng thông tin, đồng thời hỗ trợ cơ chế trao đổi thông tin, dữ liệu được mã hóa đảm bảo an toàn cho hệ thống cổng thông tin trong quá trình khai thác, vận hành. Các chuẩn áp dụng SSL 3.0 và HTTPS
Hiển thị thông tin theo các loại thiết bị: Cung cấp khả năng tự động hiển thị thông tin theo các loại thiết bị khác nhau như PDA, Pocket PC, PC, tuân thủ theo các chuẩn HTML v4.01, XHTML v1.1, XSL v1.1 và WML 2.0
Quản trị và biên tập nội dung (CMS): Quản trị các nội dung thông tin theo các phân loại khác nhau (category) để phân loại thông tin và bài viết trên cổng, đồng thời cho phép định nghĩa một quy trình biên tập và xuất bản nội dung thông tin (CMS) để công bố thông tin trên cổng.
Cung cấp các dịch vụ ứng dụng (dịch vụ công): Sẵn sàng cung cấp các dịch vụ ứng dụng thông qua tính mở của hệ thống. Các dịch vụ ứng dụng là các dịch vụ hành chính công, được phát triển theo nhu cầu, và cần thiết cung cấp thông qua cổng thông tin với vai trò là điểm truy cập “một cửa”.
Cung cấp các kênh dịch vụ thông tin: Các kênh dịch vụ thông tin được tích hợp trực tiếp trên cổng thông tin. Ví dụ thông báo, quảng cáo, thư viện đa phương tiện, liên kết, trưng cầu ý kiến, diễn đàn, hỏi đáp.
Tích hợp thư điện tử: cung cấp hệ thống thư điện tử tích hợp trên cổng
Giao lưu trực tuyến: dịch vụ trao đổi trực tuyến giữa chính quyền và người dân
Hộp thư góp ý: nơi gửi thư góp ý, phản ánh tới các lãnh đạo và người quản lý
Tiện ích: thông tin thời tiết, giá cả, lịch biểu,. du lịch, sự kiện …
3.5 Cung cấp dịch vụ hành chính công trực tuyến qua Portal
3.5.1 Dịch vụ hành chính công trực tuyến
Cổng thông tin điện tử của tỉnh (hoặc của Bộ ngành) là trang web cung cấp các tài nguyên và dịch vụ, như là thông tin chung của tỉnh (hoặc của Bộ ngành), thư điện tử, diễn đàn, công cụ tìm kiếm và các dịch vụ trực tuyến.
Dựa theo mô hình tiến hóa 4 mức của CPĐT (mô hình Gartner), một dịch vụ hành chính công được gọi là trực tuyến trên cổng thông tin điện tử nếu nó thỏa mãn một trong các điều kiện sau:
-Cổng thông tin điện tử có đầy đủ thông tin về quy trình, thủ tục thực hiện dịch vụ, các giấy tờ cần thiết, các bước tiến hành, thời gian thực hiện, chi phí thực hiện dịch vụ. (mức độ 1)
-Ngoài thông tin đầy đủ như mức độ 1, cổng thông tin điện tử cho phép người sử dụng tải về các mẫu đơn, hồ sơ để người sử dụng có thể in ra giấy, hoặc điền vào các mẫu đơn. Việc nộp lại hồ sơ sau khi hoàn thành được thực hiện qua đường bưu điện hoặc người sử dụng trực tiếp mang đến cơ quan thụ lý hồ sơ (mức độ 2)
-Ngoài thông tin đầy đủ như ở mức độ 1 và các mẫu đơn, hồ sơ cho phép tải về như ở mức độ 2, cồng thông tin điện tử còn cho phép người sử dụng điền trực tuyến vào các mẫu đơn, hồ sơ và gửi lại trực tuyến các mẫu đơn, hồ sơ sau khi điền xong tới cơ quan và người thụ lý hồ sơ. Các giao dịch trong quá trình thụ lý hồ sơ và cung cấp dịch vụ được thực hiện qua mạng. Tuy nhiên, việc thanh toán chi phí và trả kết quả sẽ được thực hiện khi người sử dụng dịch vụ đến trực tiếp cơ quan cung cấp dịch vụ. (mức độ 3)
-Ngoài thông tin đầy đủ như ở mức độ 1, các mẫu đơn, hồ sơ cho phép tải về như ở mức độ 2, gửi trực tuyến hồ sơ và thực hiện các giao dịch qua mạng như ở mức độ 3, việc thanh toán chi phí sẽ được thực hiện trực tuyến, việc trả kết quả có thể thực hiện trực tuyến hoặc gửi qua đường bưu điện. (mức độ 4) Như vậy, mức độ 1 là mức độ đơn giản nhất của dịch vụ hành chính công trực tuyến. Mức độ 4 là mức độ hoàn chỉnh nhất của dịch vụ hành chính công trực tuyến, ở mức độ này, người sử dụng được cung cấp dịch vụ hoàn chỉnh mà không cần giao tiếp trực tiếp (gặp mặt) cơ quan cung cấp dịch vụ.
Áp dụng trong hoàn cảnh thực tế của Việt Nam hiện nay, dựa trên hiện trạng ứng dụng Internet, hiện trạng về các dịch vụ hành chính công, việc thực hiện trực tuyến các dịch vụ nên được hoàn thiện ở mức độ 3. Các nguyên nhân chính dẫn đến việc khó có thể xây dựng các dịch vụ hành chính công trực tuyến hoàn chỉnh - mức độ 4, đó là:
-Chưa có cơ chế xác nhận người sử dụng (vì chưa có cơ sở dữ liệu con người)
-Chưa có khả năng thực hiện thanh toán trực tuyến (chi phí cho dịch vụ)
-Mức độ an toàn, bảo mật cho các giao dịch trực tuyến đòi hỏi rất cao.
Chính vì vậy, mức độ 3 là mức độ phù hợp nhất để triển khai các dịch vụ hành chính công trực tuyến đối với Việt Nam.
3.5.2 Lợi ích khi xây dựng các dịch vụ hành chính công trực tuyến ở mức độ 3
Chính phủ điện tử là mô hình nhiều quốc gia, trong đó có các quốc gia phát triển nhất trên thế giới như Mỹ, Anh, Pháp, Đức hướng tới do các lợi ích to lớn mà nó có thể mang lại. Tuy nhiên, ở đây chỉ kể đến một số lợi ích thực tiễn khi triển khai các dịch vụ hành chính công trực tuyến ở mức độ 3:
-Giảm thời gian gửi/nhận hồ sơ, giảm thời gian đi lại cho người sử dụng, do đó làm giảm thời gian và công sức của người sử dụng các dịch vụ hành chính công. Từ đó làm tăng hiệu suất và hiệu quả của các cơ quan cung cấp dịch vụ.
-Tăng tính minh bạch của các cơ quan cung cấp dịch vụ, vì với sự phát triển của công nghệ thông tin, việc cung cấp các thông tin về trạng thái hiện tại của quy trình là hoàn toàn có thể (cung cấp thông tin hồ sơ đang nằm ở phòng ban nào? đang được ai thụ lý? hồ sơ bị tắc ở khâu nào?...)
-Tăng khả năng giám sát của các cơ quan cấp trên, vì các cơ quan cấp trên có thể kiểm tra được tình trạng xử lý các hồ sơ hiện thời. Từ đó, làm tăng tính trách nhiệm của các cơ quan cung cấp dịch vụ.
-Tạo cơ hội cho việc cải cách hành chính, vì khi thực hiện đưa các dịch vụ hành chính công lên mạng thì các quy trình, thủ tục hành chính đều được chuẩn hóa để có thể áp dụng CNTT. Do đó, các điểm bất cập của quy trình hiện tại có thể được phát hiện và đó là cơ hội để cải cách hành chính thực hiện tái thiết kế quy trình.
-Hiệu quả kinh tế cho cả người sủ dụng dịch vụ và cơ quan cung cấp dịch vụ, do có thể tiết kiệm thời gian, công sức, cắt giảm các chi phí đi lại, chi phí văn phòng phẩm, chi phí nhân công…
3.5.3 Khó khăn đưa các dịch vụ công lên mạng
Đưa các dịch vụ hành chính công lên mạng là một trong những mục tiêu quan trọng của kế hoạch phát triển chính phủ điện tử nói chung. Trong hoàn cảnh hiện tại của Việt Nam, việc triển khai các dịch vụ lên mạng sẽ gặp các khó khăn sau đây: Khó khăn 1: Cơ chế xác nhận người dùng, cụ thể là hai vấn đề sau:
-Kiểm tra xem người đang sử dụng dịch vụ trực tuyến có phải là người có nhu cầu thực sự hay không? Nếu không kiểm tra được điều này có thể dấn đến lãng phí thời gian của người thụ lý hồ sơ khi phải nhận các hồ sơ không có thực.
-Với những người có nhu cầu sử dụng dịch vụ, kiểm tra xem thông tin họ nhập vào hệ thống có phải thông tin thực hay không? Nếu không kiểm tra được điều này có thể dẫn đến việc cung cấp dịch vụ cho những người không đủ điều kiện để nhận dịch vụ.
Giải pháp:Ö Ở các nước mà chính phủ điện tử đã phát triển đến một mức độ hoàn chỉnh, các cơ sở dữ liệu quốc gia về con người, về đất đai, về doanh nghiệp … đều sẵn sàng. Hơn nữa, hạ tầng khóa công khai và chữ ký điện tử sẵn sang. Khi đó việc kiểm tra người sử dụng và các thông tin của người sử dụng là dễ dàng. Ví dụ: Ở Singapore, ở Anh, để đăng nhập vào sử dụng hệ thống các dịch vụ hành chính công trực tuyến thì người sử dụng phải có một tài khoản từ trước đó. Tuy nhiên, ở Việt Nam thì các cơ sở dữ liệu này chưa có hoặc chưa hoàn chỉnh. Do đó, trong giai đoạn trước mắt, để kiểm tra tính trung thực của dữ liệu thì người sử dụng phải gửi bản sao (scan hoặc photo) của các giấy tờ như Chứng minh nhân dân, hoặc Hộ khẩu để người thụ lý hồ sơ kiểm tra như khi giải quyết các thủ tục bằng giấy tờ.
Khó khăn 2: Thói quen và nhận thức của các cán bộ trong cơ quan cung cấp dịch vụ.
GiảiÖ pháp: Để thay đổi thói quen và nhận thức của cán bộ, cần thời gian và những cơ chế chính sách về thưởng/phạt hợp lý.
Khó khăn 3: Thói quen và nhận thức của người sử dụng dịch vụ.
Giải pháp: Cần có sự hỗ trợ của các phương tiện truyền thông đạiÖ chúng trong việc tuyên truyền, quảng cáo cho các dịch vụ trực tuyến.
Khó khăn 4: Internet chưa sẵn sàng ở mọi nơi, mọi lúc ở Việt Nam.
Giải pháp 4: Triển khai các dịch vụ trực tuyến trước hết ở cácÖ thành phố lớn, ở những nơi có trình độ dân trí tương đối phát triển, mật độ người sử dụng Internet cao. Sau khi triển khai thành công ở những nơi này sẽ tiếp tục rút kinh nghiệm để nhân rộng ở những nơi khác.
Kết luận
Trong chuyên đề này, đã giới thiệu khái niệm về chính phủ điện tử và một số nội dung xây dựng CPĐT ở Việt Nam. Chuyên đề được soạn cho sinh viên khoa CNTT nên cách tiếp cận theo cách tìm hiểu quy trình nghiệp vụ, từ đó xấc định các chức năng của hệ thống. CPĐT và sản phẩm công nghệ thông tin trực tiếp là cổng điện tử đã được trình bày để sinh viên có thể lựa chọn đề tài, định hướng nghề nghiệp. Hệ thống portal là một phần mềm lớn, phức tạp nên trong phạm vi một chuyên đề không thể đề cập chi tiết như chuyên đề TMĐT. Tuy nhiên nó là những định hướng giúp sinh viên có thể lựa chọn đề tài thực hiện một vài chức năng trong CPĐT.
Phu lục 1: Xây dựng Portal/Website bằng DotNetNuke
I. Chuẩn bị mã nguồn
Trước tiên vào website www.dotnetnuke.com để tải mã nguồn của Website về. DotNetNuke là dự án mã nguồn mở hoàn toàn miễn phí nhưng để tải được, phải đăng ký làm thành viên trước đã. Sau khi đã có tập tin mã nguồn, phải giải nén vào một thư mục nào đó trên đĩa cứng.
Tiếp theo cố gắng tìm một host có hỗ trợ ASP.NET và cơ sở dữ liệu MS SQL, tốt nhất nên thiết lập cấu hình này trên máy tính của bạn nếu chỉ muốn tìm hiểu và nghiên cứu. Bài viết minh họa trên Windows Server 2003, IIS 6.0, SQL Server 2000. Bây giờ tạo một cơ sở dữ liệu trống bằng cách vào menu Start/ All Program/ Microsoft SQL Server/ Enterprise Manager, tìm đến nhánh Databases trong vùng bên trái, vào menu Action/New Database, nhập tên CSDL vào ô Name (ví dụ: DotNetNuke) rồi nhấn OK, đóng Enterprise Manager. Tiếp theo, tạo thư mục Website ảo để gọi từ trình duyệt, mở Internet Information Services (IIS) Manager (trong Control Panel/ Administrative Tools), tìm đến nhánh Default Web Site, vào menu Action/ New/ Virtual Directory, nhấn Next, nhập tên thư mục gọi từ trình duyệt vào ô Alias (ví dụ: dotnetnuke), Next, nhập đường dẫn đến thư mục mã nguồn vào ô Path, Next, nhấn Next rồi Finish để kết thúc, đóng IIS.
II. Cài đặt DotNetNuke
Trước khi cài đặt bạn cần dùng một trình soạn thảo văn bản nào đó, mở tập tin web.config trong thư mục mã nguồn ra, thay thế dòng <add key=”connectionString” value=”Server=localhost;Database =DotNetNuke;uid=;pwd=;” /> bằng tên CSDL của bạn sau thuộc tính Database, còn uid và pwd là tên và mật khẩu của người dùng có quyền thao tác trên CSDL đó. Lưu tập tin web.config lại. Nếu đã làm theo đúng những thao tác ở trên thì đến lúc này bạn chỉ việc gọi Internet Explorer lên, nhập vào ô Address địa chỉ http://localhost/dotnetnuke rồi Enter là quá trình cài đặt sẽ tự động bắt đầu.
III. Cấu hình DotNetNuke
Mặc định sau khi cài đặt sẽ có hai người dùng là admin (mật khẩu admin) và host (mật khẩu host) tồn tại sẵn, trong đó người dùng Admin có quyền quản lý Website, còn người dùng Host ngoài quyền quản lý Website còn có một số quyền liên quan đến bảo mật và Upload.
Menu Admin:
Site Settings: nhập tiêu đề Website vào ô Title, chọn lại biểu tượng trong danh sách Logo, chọn hình nền trong Body Background, thay thế dòng bản quyền trong ô Footer Text, rồi nhấn liên kết Update ở cuối trang.
Tabs: cho phép sắp xếp và chỉnh sửa hệ thống menu của Website. User Accounts: cho phép quản lý tài khoản thành viên đã đăng ký. (upload) hoặc tải xuống (download), xóa tập tin thêm vào Website.
Menu Host:
Host Settings: nhập tên host vào ô Host Title (nằm ở cuối mỗi trang), thay đổi địa chỉ trong ô Host URL và Host Email, đánh dấu vào Disable Version in Page Title nếu không thích dòng (DNN x.x.xx) nằm trong tiêu đề trang, nhấn liên kết Update ở cuối trang.
Module Definitions: cho phép tải lên các phần hỗ trợ thêm cho DotNetNuke để mở rộng tính năng (giống Plug-in vậy đó).
SQL: thực thi câu lệnh SQL trên CSDL của Website. Tại trang chính (Home), bạn có thể nhấp vào liên kết Add New Tab bên phải trang để thêm vào menu, hoặc Edit Tab Settings ở bên trái trang để chỉnh sửa thông số. Ngoài ra có thể chọn menu các phần (module) muốn thêm vào trang trong danh sách Module ở giữa trang rồi nhấn liên kết Add.
Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Com