Chương 191
Tác giả: Nam Phái Tam Thúc
Dịch: Hỏa Dực Phi Phi
Cuối cùng vẫn là Bàn Tử và Muộn Du Bình đi tiên phong, sự thực chứng minh chúng tôi bị gian khó trước mặt dọa sợ, bọn họ xuống được 15 phút, liền đánh tín hiệu an toàn. Muộn Du Bình nói an toàn, chắc chắn là tuyệt đối an toàn, chúng tôi xuôi thang đi xuống.
Trong gò đất là một tháp cổ hoàn chỉnh, bởi vì ngoài tất cả mảnh ngói và giàn gỗ đều được tưới thanh đồng bao phủ, bên trong tháp cổ được bảo tồn vô cùng tốt. Chỉ là ở vài nơi có một vài tai nấm nho nhỏ, chứng tỏ hơi ẩm nơi này ít nhiều vẫn thẩm thấu vào đây, bên trong cả tháp cổ làm bằng gỗ, trên gỗ chỉ quét một lớp sơn dầu, nay đã oxy hóa gần hết, lộ ra màu gỗ cũ. Chúng tôi xuống đến tầng cao nhất của tháp cổ, là một gian phòng nho nhỏ, trong đó thờ ba tượng thần, tượng thần không biết làm bằng vật liệu gì, đã mọc đầy những nấm, có thể là sinh vật hữu cơ, Bàn Tử nói có thể là người lột xác. Nhưng đã không nhìn ra hình thù.
Muộn Du Bình nhảy lên xà ngang, vá lại lỗ hổng chúng tôi tiến vào, bên trong một vùng tối đen, tất cả đều bật đèn pin. Chúng tôi đều ngửi thấy trong không khí có một thứ mùi như diêm sinh. Tôi thầm nghĩ đáy tháp này phải chăng rất sâu, thông sâu vào khe hở dưới lòng đất, những mùi này là hơi đất từ sâu trong tầng nham thạch.
Trên sàn nhà trong tháp có một lớp gì đó như rêu xanh, màu xanh sẫm, đi trên đó vô cùng trơn, nhưng hẳn không nguy hiểm. Đèn pin chiếu lên có thể phản xạ ảnh ngược của chúng tôi.
Tôi tỉ mỉ quan sát xung quanh, đèn pin chiếu đến tầng dưới khung vuông, trên xà ngang của tháp, treo một bức hoành phi, vàng dát trên đó đã bong tróc, viết bốn chữ Thanh Dương Mạt Kiếp.
Cả đám người nghi hoặc, trong lòng tôi mừng thầm, cuối cùng cũng có một kiến thức mà tôi biết, không ngờ mọi người quan sát một chốc, lại không ai đặt câu hỏi.
Mắt thấy cả đám người định đi xuống, tôi chỉ đành ho khan một tiếng, cao giọng nói: "Diệu thay, các vị hiền huynh, mời nhìn hoành phi này, Thanh Dương Mạt Kiếp đến từ tam kỳ Mạt Kiếp trong Kim Đồng giáo, tam kỳ Mạt Kiếp này, chính là một trong những giáo nghĩa cơ bản của Kim Đồng giáo, tam kỳ này chia làm, Thanh Dương kỳ, Hồng Dương kỳ, Bạch Dương kỳ, kỳ kiếp thứ nhất, bắt đầu từ Phục Hy, đến Chu vương Quý(1) thì kết thúc, một ngàn tám trăm tám mươi sáu năm. Đây gọi là kỳ Thanh Dương kiếp.
Người Trung Quốc thường nói gặp chín tất loạn(2), chính là bắt đầu từ Thanh Dương kiếp, khi đó định ra chín kiếp, tên gọi "Long Hán thủy kiếp". Mỗi chín năm sẽ xảy ra lũ lụt một lần. Đây là giáo nghĩa cơ bản của Vô Sinh quỷ mẫu. Theo tôi thấy đây là biên từ thần thoại Trung Quốc và nội dung một vài kinh văn Ấn Độ.
Nói như vậy, ba tượng thần mục nát này, hẳn là Nhiên Đăng cổ phật, Phục Hy, và Dao Trì Kim mẫu.
Đây là ba vị thần cứu thế trong Thanh Dương kiếp theo nhận định của Kim Đồng giáo, tuy nhìn từ hiện tại, giáo này giống như Biệt đội siêu anh hùng. Nhưng khi đó đạo Nho Thích không phân biệt, lão bách tính xem không hiểu.
Tôi đại khái phân tích kết cấu chính của tháp này chia làm ba tầng, phía dưới hẳn là Hồng Dương Mạt Kiếp, dưới đó sẽ còn có ba vị thần cứu thế của Hồng Dương kiếp. Cuối cùng là Bạch Dương Mạt Kiếp.
Tôi trông chờ ánh mắt tán thưởng của bọn họ ném tới mình, nhưng bọn họ cẩn trọng đi xuống cầu thang mục nát. Không để ý đến tôi.
Đến tầng thứ hai, kết cấu tầng thứ hai rất kỳ quái, cao hơn tầng đỉnh của chúng tôi rất nhiều, vừa cao đã cao hơn gấp bội, Bàn Tử rõ ràng vừa nãy đã xuống đây vơ vét, không kiêng nể gì, hoành phi tầng này cũng ở trên vị trí cũ, nhưng cao như vậy, tôi lại có hơi nhìn không rõ. Lúc dùng đèn pin chiếu, ban đầu tôi cho rằng trước đó mình nói đúng rồi, nhưng sau khi chiếu tới, tôi mới nhìn thấy chữ trên đó cũng không phải Hồng Dương Mạt Kiếp.
Mà là bốn chữ, Thiên Đại Sổ Kiếp.
Bàn Tử nói: "Cậu nói không chuẩn rồi. Tôi nói cậu hay, tầng bên dưới cũng không phải Hồng Dương Sổ Kiếp."
Lúc này tôi nhìn thấy sắc mặt Hắc Hạt Tử cũng không ổn lắm, tôi đối mắt với anh ta, tôi biết anh ta cũng hiểu bốn chữ này có ý nghĩa gì.
Thiên Đại Sổ là một đơn vị đo lường cổ đại của Trung Quốc, từ bản chất mà nói, đây là một đơn vị đo lường vô cùng khổng lồ. Đại khái là: 10^524291 (thượng sổ) 10^75 (trung sổ)
Là một sinh viên đại học, và một du học sinh, tôi và Hạt Tử hoàn toàn thắng tổ hợp còn lại trong lĩnh vực này.
Ở đây liệt kê một chút hệ thống đo lường của Trung Quốc, có thể càng thêm rõ ràng:
10^524291 (thượng sổ) 10^75 (trung sổ): thiên đại sổ (nghìn số lớn)
10^524288 (thượng sổ) 10^72(trung sổ): đại sổ (số lớn)
10^262144 (thượng sổ) 10^68(trung sổ): vô lượng (không thể cân đo)
10^131072 (thượng sổ) 10^64(trung sổ): bất khả tư nghị (không thể tưởng tượng)
10^65536 (thượng sổ) 10^60(trung sổ): na do tha (phiên âm tiếng Phạn nayuta, nhiều không đếm xuể)
10^32768(thượng sổ) 10^56(trung sổ): a tăng chi (phiên âm tiếng Phạn asamkhya, vô số)
10^16384(thượng sổ) 10^52(trung sổ): Hằng hà sa (hình dung nhiều như cát sông Hằng)
10^8192(thượng sổ) 10^48(trung sổ): cực (cực kỳ)
10^4096(thượng sổ) 10^44(trung sổ): tái (đầy ắp)
10^2048(thượng sổ) 10^40(trung sổ): chính (vừa vặn)
10^1024(thượng sổ) 10^36(trung sổ): giản (hình dung nhiều bằng con suối)
10^512(thượng sổ) 10^32(trung sổ): câu (hình dung nhiều bằng cái mương)
10^256(thượng sổ) 10^28(trung sổ): nhương (hình dung nhiều bằng thân cây)
10^128(thượng sổ) 10^24(trung sổ): tỉ (triệu tỉ tỉ)
10^67(thượng sổ) 10^23(trung sổ): thiên cai (trăm nghìn tỉ tỉ)
10^66(thượng sổ) 10^22(trung sổ): bách cai (mười nghìn tỉ tỉ)
10^65(thượng sổ) 10^21(trung sổ): thập cai (nghìn tỉ tỉ)
10^64(thượng sổ) 10^20(trung sổ): cai (trăm tỉ tỉ)
10^35(thượng sổ) 10^19(trung sổ): thiên kinh (mười tỉ tỉ)
10^34(thượng sổ) 10^18(trung sổ): bách kinh (E) (tỉ tỉ, E là đơn vị Exa)
10^33(thượng sổ) 10^17(trung sổ): thập kinh (trăm triệu tỉ)
10^32(thượng sổ) 10^16(trung sổ): kinh (mười triệu tỉ)
10^19(thượng sổ) 10^15(trung sổ): thiên triệu (triệu tỉ)
10^18(thượng sổ) 10^14(trung sổ): bách triệu (trăm nghìn tỉ)
10^17(thượng sổ) 10^13(trung sổ): thập triệu (mười nghìn tỉ)
10^16(thượng sổ) 10^12(trung sổ): triệu (nghìn tỉ)
10^11: thiên ức (trăm tỉ)
10^10: bách ức (mười tỉ)
10^9: thập ức (G) (tỉ = Giga)
10^8: ức (trăm triệu)
10^7: thiên vạn (mười triệu)
10^6: bách vạn (M) (triệu = Mega)
10^5: thập vạn (trăm nghìn)
10^4: vạn (mười nghìn)
10^3: thiên (K) (nghìn = Kilo)
10^2: bách (trăm)
10^1: thập (mười)
10^0: nhất (một)
10^-1: phân (d) (một phần mười = deci)
10^-2: li (c) (một phần trăm = centi)
10^-3: hào (m) (một phần nghìn = mili)
10^-4: ti (một phần mười nghìn, hình dung bằng sợi tơ)
10^-5: hốt (một phần trăm nghìn)
10^-6: vi (μ) (một phần triệu = micron)
10^-7: tiêm (một phần mười triệu)
10^-8: sa (một phần trăm triệu, hình dung bằng hạt cát)
10^-9: trần (n) (một phần tỉ = nano, hình dung bằng hạt bụi)
10^-10: ai (một phần mười tỉ, hình dung bằng hạt nhỏ hơn hạt bụi)
10^-11: miễu (một phần trăm tỉ, hình dung đã mù mịt)
10^-12: mạc (p) (một phần nghìn tỉ = pico)
10^-13: mơ hồ (một phần mười nghìn tỉ)
10^-14: thuân tuần (một phần trăm nghìn tỉ)
10^-15: tu du (một phần triệu tỉ, hình dung trong chốc lát)
10^-16: thuấn tức (một phần mười triệu tỉ, hình dung trong nháy mắt)
10^-17: đạn chỉ (một phần trăm triệu tỉ, hình dung trong cái búng tay)
10^-18: sát na (a) (một phần tỉ tỉ = ato, hình dung lướt qua một cái)
10^-19: lục đức (một phần mười tỉ tỉ)
10^-20: hư không (một phần trăm tỉ tỉ)
10^-21: thanh tịnh (z) (một phần nghìn tỉ tỉ = zepto)
10^-24: Niết Bàn tịch tĩnh (một phần triệu tỉ tỉ)
Ở Trung Quốc cổ đại, đơn vị nhỏ nhất gọi là Niết Bàn tịch tĩnh, Thiên Đại Sổ đại diện cho con số khổng lồ, nếu tầng tiếp theo không phải Hồng Dương Mạt Kiếp, lẽ nào là Đại Sổ Mạt Kiếp sao?
Nếu là như vậy, mỗi một tầng của tháp này đại diện cho một kiếp nạn, mà kiếp nạn được sắp xếp theo đơn vị đo lường cổ đại Trung Quốc.
Tôi và Hạt Tử lập tức đi xuống tầng tiếp theo, tầng này lại cao hơn tầng trên độ cao một tầng, trên hoành phi viết: Đại Sổ Hoành Kiếp.
Tôi và Hạt Tử nhìn nhau, thầm nghĩ nếu chiếu theo cách liệt kê này, tháp này phải có bao nhiêu tầng?
Nếu là như vậy, thiết trí này mở rộng vô hạn giải thích của tam kỳ Mạt Kiếp truyền thống, cũng chính là, người xây dựng tháp này cho rằng, trước Thanh Dương Mạt Kiếp sớm nhất, trên thế giới vẫn còn có vạn vạn kiếp, nó liệt kê từng kiếp ra thành một tầng xây dựng ở đây.
Chú thích:
(1) Chu vương Quý: tức Chu Quý Lịch (chữ Hán: 周季歷) hay Cơ Quý Lịch là vị thủ lĩnh đời thứ 14 của nước Chu (tính từ thời nhà Hạ và nhà Thương) trong lịch sử Trung Quốc.
(2) Gặp chín tất loạn: Số 9 trong văn hóa Trung Quốc vừa là con số nhạy cảm vừa là con số tôn quý. Những sự kiện quan trọng như 9/9/1976 Mao Trạch Đông qua đời, 4/5/1919 bạo động học sinh Bắc Kinh, 8/10/1959 8 vạn 7 ngàn người Tạng tử vong, sau thành ngày kỷ niệm chống bạo lực Tây Tạng, ngày 4/6/1989 trước quảng trường Thiên An Môn, trấn áp bằng vũ lực tạo thành xung đột đổ máu, v.v... đều là những mốc thời gian có xuất hiện số 9.
Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Com