xhcn
Câu 6: Điều kiện khách quan quy định sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân. Liên hệ với quá trình thực hiện sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân Việt Nam.
· Những điều kiện khách quan quy định sứ mệnh lịch sử của giai cấp công
nhân:
Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân hoàn toàn không phải do ý muốn chủ quan của bản thân giai cấp này, cũng tuyệt nhiên không dựa trên những ý niệm, những nguyên lý do một nhà cải cách thế giới nào phát minh hay phát hiện ra. Sứ mệnh lịch sử ấy là khách quan. Tính khách quan này được quy định bởi hai yếu tố cơ bản sau:
- Địa vị kinh tế - xã hội của giai cấp công nhân trong nền sản xuất hiện đại:
+ Giai cấp công nhân là lực lượng sản xuất hàng đầu của toàn nhân loại hiện nay.
+ Là giai cấp ngày càng tạo ra giá trị thặng dư khổng lồ, làm giàu cho xã hội, đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của con người.
+ Khi sản xuất đại công nghiệp ngày càng phát triển hiện đại thì "tất cả các giai cấp khác đều suy tàn và tiêu vong" còn giai cấp công nhân, trái lại ngày càng phát triển về số lượng và chất lượng.
Địa vị trên khiến cho giai cấp công nhân trở thành lực lượng duy nhất có khả năng cải tạo các quan hệ xã hội, thực hiện tiến trình lịch sử quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội.
- Những đặc điểm chính trị - xã hội của giai cấp công nhân:
+ Thứ nhất, giai cấp công nhân là giai cấp tiên phong cách mạng:
à Giai cấp công nhân là giai cấp tiên phong cách mạng vì họ đại diện cho phương thức sản xuất tiên tiến, do đó mà cũng đại diện và quyết định cho sự phát triển tương lai của xã hội loài người.
à Công nhân là lực lượng lao động phần lớn sống và làm việc tập trung ở những thành phố lớn, ở các khu công nghiệp tập trung. Chính yêu cầu của nền sản xuất và đời sống đô thành sẽ mang lại tri thức, sự hiểu biết cho họ. Đây là điều kiện thuận lợi để giai cấp công nhân dễ dàng tiếp nhận lý luận khoa học và cách mạng hơn so với các giai cấp, tầng lớp khác.
à Giai cấp công nhân có hệ tư tưởng tiên phong của thời đại ngày nay đó là tư tưởng Mác - Lênin mang tính cách mạng và khoa học được xây dựng trên cơ sở tiếp thu những tri thức tiên tiến nhất của thời đại.
+ Thứ hai, giai cấp công nhân là giai cấp có tinh thần cách mạng triệt để nhất:
à Trong các giai cấp và tầng lớp xã hội đối lập (mâu thuẫn) giai cấp tư sản thì chỉ có giai cấp công nhân là giai cấp ở địa vị mâu thuẫn trực tiếp và có tính chất đối kháng.
à Với tư cách là "người lao động", giai cấp công nhân có những lợi ích cơ bản thống nhất với lợi ích của đại đa số quần chúng nhân dân lao động. Mục tiêu của sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân là không chỉ giải phóng giai cấp mình mà còn giải phóng toàn bộ xã hội.
à Tinh thần triệt để cách mạng của giai cấp công nhân được biểu hiện trong việc tiến hành cách mạng không ngừng nhằm đạt tới mục tiêu cuối cùng trong quá trình thực hiện sứ mệnh lịch sử.
+ Thứ ba, giai cấp công nhân là giai cấp có ý thức tổ chức kỷ luật cao nhất:
à Là lực lượng lao động trong nền đại công nghiệp với hệ thống sản xuất mang tính chất dây chuyền và nhịp độ làm việc khẩn trương, chuẩn xác đã buộc giai cấp này phải tuân thủ nghiêm ngặt kỷ luật lao động, tiêu chuẩn kỹ thuật, ...
à Trong cuộc đấu tranh chống giai cấp tư sản và các lực lượng phản động của thế giới cũ - những kẻ nắm trong tay tiềm lực kinh tế, quân sự và bộ máy đàn áp khổng lồ - buộc giai cấp công nhân phải có tính tổ chức kỷ luật cao nhằm bảo đảm cho sự thắng lợi của cuộc cách mạng.
à Đặc biệt, khi giai cấp công nhân có chính Đảng của mình lãnh đạo và được vũ trang bởi lý luận khoa học và cách mạng thì tính tổ chức kỷ luật sẽ càng được củng cố và tăng cường.
+ Thứ tư, giai cấp công nhân là giai cấp có bản chất quốc tế.
à Đã là giai cấp công nhân thì ở đâu cũng có chung những điểm như nhau (tuy mức độ "đậm nhạt" có thể khác nhau) về địa vị kinh tế - xã hội, đặc điểm chính trị - xã hội, lợi ích cơ bản và sứ mệnh lịch sử của mình. Đây là điều kiện để giai cấp công nhân trên toàn thế giới liên minh, liên kết nhằm chống lại kẻ thù chung là giai cấp tư sản.
à Để chống lại giai cấp công nhân, giai cấp tư sản đã liên minh trên phạm vi quốc tế (cả kinh tế, chính trị, quân sự,...). Do đó, để chống lại liên minh trên, giai cấp công nhân tất yếu và cần phải liên minh, đoàn kết lại. Cũng vì thế, giai cấp công nhân luôn coi cách mạng ở mỗi nước là một bộ phận của cách mạng thế giới.
· Liên hệ với sứ mệnh lịch sử cụ thể của giai cấp công nhân Việt Nam:
- Sứ mệnh của giai cấp công nhân Việt Nam là thông qua đội tiên phong của mình
là Đảng Cộng sản Việt Nam, lãnh đạo nhân dân giành chính quyền, thiết lập nền chuyên chính dân chủ nhân dân (thông qua cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân) và từng bước xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản nhằm giải phóng giai cấp, giải phóng con người (thông qua cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa).
- Đây là sứ mệnh rất khó khăn, gian khổ, lâu dài và phức tạp. Để thực hiện thắng lợi
sứ mệnh cao cả này, giai cấp công nhân Việt Nam cần thực hiện tốt vai trò là giai cấp lãnh đạo cách mạng, lực lượng đi đầu trong sự nghiệp đấu tranh giành độc lập dân tộc, sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa và là lực lượng nòng cốt trong liên minh giai cấp công nhân với giai cấp công nhân và các tầng lớp khác trong xã hội.
Câu 7: Mục tiêu và tiến trình của cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa. Liên hệ với mục tiêu và tiến trình của cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
· Mục tiêu của cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa:
Mục tiêu cao nhất của cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa là thực hiện thành công chủ nghĩa cộng sản để giải phóng giai cấp, giải phóng xã hội, giải phóng con người: "biến con người từ vương quốc của tất yếu sang vương quốc của tự do"; tạo nên một thể liên hiệp trong đó "sự phát triển tự do của mỗi người là điều kiện cho sự phát triển tự do của tất cả mọi người". Điều này cho thấy được tính nhân văn, sâu sắc và triệt để của cuộc cách mạng này.
· Tiến trình của cách mạng xã hội chủ nghĩa:
Mục tiêu này được thực hiện dần từng bước qua hai giai đoạn trong tiến trình
của cuộc cách mạng gắn với hai mục tiêu cụ thể là: chiếm lĩnh quyền lực nhà nước và tổ chức xây dựng xã hội mới (xã hội xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa) nhằm hoàn thành thắng lợi sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân.
· Liên hệ với mục tiêu và tiến trình của cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa ở
Việt Nam:
- Về mục tiêu của cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam:
Mục tiêu của cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa ở nước ta là nhằm giành độc lập cho dân tộc và xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội. Kết quả của những mục tiêu này là nhằm xây dựng nước Việt Nam dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh.
- Nội dung, phương hướng:
Để thực hiện thành công các mục tiêu trên, toàn Đảng, toàn dân ta cần nêu cao tinh
thần cách mạng tiến công, ý chí tự lực tự cường, phát huy mọi tiềm năng và trí tuệ, tận dụng thời cơ, vượt qua thách thức, quán triệt và thực hiện tốt các nội dung, phương hướng cơ bản sau đây:
+ Đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước gắn với phát triển kinh tế tri thức, bảo vệ tài nguyên, môi trường.
+ Phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
+ Xây dựng nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; xây dựng con người, nâng cao đời sống nhân dân, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội.
+ Bảo đảm vững chắc quốc phòng và an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội.
+ Thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hoà bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển; chủ động và tích cực hội nhập quốc tế.
+ Xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, thực hiện đại đoàn kết toàn dân tộc, tăng cường và mở rộng mặt trận dân tộc thống nhất.
+ Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân.
+ Xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh.
Câu 8: Những đặc trưng cơ bản của xã hội xã hội chủ nghĩa. Liên hệ với những đặc trưng của xã hội xã hội chủ nghĩa mà Đảng và nhân dân ta đang xây dựng hiện nay.
Căn cứ vào cơ sở lý luận và phương pháp luận khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin; từ những kết quả nghiên cứu, tổng kết thực tiễn của quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội, có thể chia quá trình phát triển của hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa thành 3 giai đoạn cơ bản sau:
- (1) Thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (thời kỳ của "những cơn đau đẻ kéo dài");
- (2) Giai đoạn đầu xã hội cộng sản chủ nghĩa (tức chủ nghĩa xã hội hay xã hội xã hội chủ nghĩa);
- (3) Giai đoạn cao của xã hội cộng sản chủ nghĩa (tức chủ nghĩa cộng sản hay xã hội cộng sản chủ nghĩa).
· Những đặc trưng cơ bản của xã hội xã hội chủ nghĩa:
Đây là giai đoạn đầu (giai đoạn thấp) của hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa, là kết quả trực tiếp của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội với những đặc trưng sau:
- Về kinh tế: nền đại công nghiệp có trình độ phát triển cao, chế độ công hữu về tư liệu sản xuất chủ yếu chiếm vị trí thống trị vững chắc trong nền kinh tế quốc dân; tạo ra được phương thức tổ chức lao động mới và chế độ phân phối theo lao động.
- Về chính trị: Nhà nước mang bản chất giai cấp công nhân, có tính nhân dân rộng rãi, tính dân tộc sâu sắc; thực hiện quyền lực và lợi ích của nhân dân.
- Về tư tưởng, văn hóa: xã hội đã thực hiện được sự giải phóng con người khỏi ách áp bức, bóc lột; thực hiện quyền bình đẳng xã hội, tạo điều kiện cho con người phát triển toàn diện.
· Liên hệ với những đặc trưng của xã hội xã hội chủ nghĩa mà Đảng và
nhân dân ta đang xây dựng hiện nay:
Trên cơ sở những đặc trưng trên đây và căn cứ vào thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, đặc biệt là qua những năm thực hiện sự nghiệp đổi mới, tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Đảng Cộng sản Việt Nam đã xác định những đặc trưng cơ bản của xã hội xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam là:
- Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh;
- Do nhân dân làm chủ;
- Có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp;
- Có nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc;
- Con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện;
- Các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp nhau cùng phát triển;
- Có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo;
- Có quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước trên thế giới.
Các đặc trưng kể trên đã bao trùm và phản ánh khá đầy đủ các lĩnh vực của đời sống xã hội từ kinh tế đến chính trị, từ văn hóa đến xã hội, từ đối nội đến đối ngoại. Quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta cũng chính là quá trình làm cho các đặc trưng trên dần được biểu hiện ra trong thực tiễn xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Đây là một quá trình cách mạng sâu sắc, triệt để và là cuộc đấu tranh đầy khó khăn, gian khổ, phức tạp giữa cái cũ và cái mới nhằm tạo ra sự biến đổi về chất trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Vì thế, thời kỳ quá độ này nhất thiết phải trải qua rất lâu dài với nhiều bước phát triển, nhiều hình thức tổ chức kinh tế, xã hội đan xen.
Câu 9: Tính tất yếu, đặc điểm và nội dung của thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Liên hệ với đặc điểm và nội dung của thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
· Tính tất yếu, đặc điểm và nội dung của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội:
- Tính tất yếu của thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội:
Để chuyển từ xã hội cũ (phong kiến, tư bản chủ nghĩa) lên xã hội mới (xã hội xã hội chủ nghĩa) - một xã hội phát triển trên cơ sở vật chất kỹ thuật của chính nó - tất yếu phải trải qua một thời kỳ quá độ nhất định. Đây chính là thời kỳ cải biến cách mạng sâu sắc, toàn diện, lâu dài toàn bộ đời sống xã hội; tạo ra những tiền đề vật chất, tinh thần cần thiết để chủ nghĩa xã hội thực hiện những nguyên tắc cơ bản trên cơ sở của chính nó. Tính tất yếu của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội được lý giải từ các căn cứ sau đây:
+ Một là, bất kỳ quá trình chuyển biến từ một xã hội này lên một xã hội khác đều nhất định phải trải qua một thời kỳ gọi là thời kỳ quá độ. Thời kỳ ấy tất yếu diễn ra vì ở đó luôn có sự tồn tại đan xen và đấu tranh lẫn nhau giữa các yếu tố mới và cũ trong quá trình phát triển. Từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội cũng không nằm ngoài quy luật đó. Đó là chưa kể sự chuyển biến này là một bước nhảy vọt và căn bản về chất, từ một chế độ áp bức, bóc lột đến một chế độ giải phóng con người thì thời kỳ quá độ càng phải mang tính tất yếu, thậm chí có thể kéo dài, nhất là đối với những nước chưa kinh qua phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa.
+ Hai là, sự ra đời của một xã hội mới bao giờ cũng có sự kế thừa nhất định từ nhân tố do xã hội cũ tạo ra. Đối với những nước đã trải qua quá trình phát triển tư bản chủ nghĩa, cần phải có thời gian để tổ chức, sắp xếp các cơ sở vật chất - kỹ thuật mà chủ nghĩa tư bản đã tạo ra, hướng nó phục vụ có hiệu quả cho chủ nghĩa xã hội. Đối với những nước chưa qua quá trình phát triển tư bản chủ nghĩa đi lên chủ nghĩa xã hội thì cần phải có một thời kỳ lịch sử lâu dài để xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội với nhiệm vụ trọng tâm là tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
+ Ba là, các quan hệ xã hội của chủ nghĩa xã hội không tự phát nảy sinh trong lòng xã hội cũ (phong kiến, tư sản) mà nó chỉ có thể là kết quả của quá trình cải tạo và xây dựng xã hội chủ nghĩa. Sự phát triển của chủ nghĩa tư bản dù ở trình độ cao cũng chỉ có thể tạo ra những điều kiện, tiền đề cho sự hình thành các quan hệ xã hội mới. Đây là một công việc mới mẻ, khó khăn và phức tạp vì vậy rất cần có thời gian để Đảng Cộng sản, giai cấp công nhân và nhân dân lao động từng bước xây dựng và phát triển những quan hệ đó.
- Đặc điểm của thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội:
Đặc điểm nổi bật của thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội là sự tồn tại những yếu tố của xã hội cũ bên cạnh những nhân tố mới của chủ nghĩa xã hội trong mối quan hệ vừa thống nhất vừa đấu tranh với nhau trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Đặc điểm trên đòi hỏi giai cấp công nhân và quần chúng nhân dân lao động phải biết xoá bỏ những cái gì là bảo thủ lạc hậu, phản nhân văn, đồng thời phải biết tiếp thu những cái gì là tiến bộ, nhân văn mà nhân loại đã tạo ra, đồng thời biết kế thừa những giá trị truyền thống của dân tộc mình.
- Nội dung của thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội:
+ Trong lĩnh vực kinh tế:
à Sắp xếp, bố trí lại các lực lượng sản xuất hiện có của xã hội; cải tạo quan hệ sản xuất cũ, xây dựng quan hệ sản xuất mới theo hướng tạo ra sự phát triển cân đối của nền kinh tế, bảo đảm phục vụ ngày càng tốt đời sống nhân dân lao động.
à Đối với những nước chưa trải qua phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, tất yếu phải tiến hành công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa nhằm tạo ra cơ sở vật chất, kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội. Đối với những nước này, đây là nhiệm vụ trọng tâm trong suốt thời kỳ quá độ.
+ Trong lĩnh vực chính trị:
à Đấu tranh chống lại những thế lực thù địch, phá hoại sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội.
à Củng cố nhà nước và xây dựng các tổ chức chính trị - xã hội ngày càng vững mạnh, bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân trong hoạt động kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội,...
+ Trong lĩnh vực tư tưởng, văn hóa:
à Tuyên truyền, phổ biến những tư tưởng khoa học và cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin trong toàn xã hội.
à Xây dựng nền văn hóa mới xã hội chủ nghĩa đậm đà bản sắc dân tộc, tiếp thu những giá trị tiên tiến của các nền văn hóa thế giới.
+ Trong lĩnh vực xã hội:
à Khắc phục những tệ nạn xã hội do xã hội cũ để lại.
à Từng bước khắc phục sự chênh lệch phát triển giữa các vùng miền, các tầng lớp dân cư trong xã hội nhằm thực hiện mục tiêu bình đẳng.
à Xây dựng mối quan hệ tốt đẹp giữa người với người theo mục tiêu lý tưởng: tự do của người này là điều kiện, tiền đề cho sự tự do của người khác.
· Đặc điểm và nội dung thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam:
- Về đặc điểm:
Quá độ ở nước ta là quá độ từ chế độ phong kiến lạc hậu (xã hội cũ) lên chủ nghĩa xã hội (xã hội mới) bỏ qua chủ nghĩa tư bản. Đây là con đường "quá độ gián tiếp" đầy khó khăn, gian khổ, lâu dài, phức tạp với nhiều bước phát triển, nhiều hình thức tổ chức kinh tế, xã hội đan xen.
- Về thực chất:
ở nước ta, thời kỳ quá độ để xây dựng xã hội mới được bắt đầu ngay khi cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân hoàn thành. "Đây là một quá trình cách mạng sâu sắc, triệt để, đấu tranh phức tạp giữa cái cũ và cái mới nhằm tạo ra sự biến đổi về chất trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội".
- Về nội dung:
Nội dung chủ yếu của thời kỳ quá độ là tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Đây cũng chính là nhiệm vụ trọng tâm trong suốt thời kì quá độ. Thời kỳ quá độ ở nước ta sẽ kết thúc đạt được mục tiêu tổng quát "xây dựng được về cơ bản nền tảng kinh tế của chủ nghĩa xã hội với kiến trúc thượng tầng về chính trị, tư tưởng, văn hoá phù hợp, tạo cơ sở để nước ta trở thành một nước xã hội chủ nghĩa ngày càng phồn vinh, hạnh phúc".
Câu 10: Những nhân tố ảnh hưởng đến triển vọng của chủ nghĩa xã hội hiện thực trong tương lai. Một số thành tựu của chủ nghĩa xã hội hiện thực ở Việt Nam.
· Những nhân tố ảnh hưởng đến triển vọng của chủ nghĩa xã hội hiện thực
trong tương lai:
"Chủ nghĩa xã hội là tương lai của xã hội loài người", sự khẳng định trên được căn cứ từ các cơ sở lý luận và thực tiễn sau đây:
- Một là, học thuyết hình thái kinh tế - xã hội của chủ nghĩa Mác - Lênin đã cho thấy, sự thay thế của các chế độ xã hội từ thấp đến cao là một quá trình lịch sử - tự nhiên. Nguyên nhân của sự thay thế đó bắt nguồn từ sự phát triển không ngừng của lực lượng sản xuất. Quy luật vận động, phát triển tất yếu của sự vật là tương lai sẽ luôn thuộc về cái mới, cái tiến bộ. Quy luật đó đã chỉ ra tính tất yếu sự ra đời của hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa với tư cách là một hình thái ưu việt, tiến bộ và phát triển. Tất nhiên, đó không bao giờ là một quá trình vận động thẳng tắp, ngược lại, thường phải vượt qua những khúc quanh co, phải đi vòng vèo, có cao trào, có thoái trào, thậm chí phải làm lại trong quá trình phát triển.
- Hai là, với mục tiêu là giải phóng giai cấp, giải phóng con người để hướng đến một thế giới tốt đẹp, văn minh, tiến bộ, nhân văn, hạnh phúc, chủ nghĩa xã hội đã thật sự hòa nhịp, đồng điệu với niềm mong nước, lý tưởng, khát vọng, ước mơ của toàn nhân loại từ xưa đến nay. Ngay trong thời đại này nay, mục tiêu của chủ nghĩa xã hội cũng tiếp tục chính là những mục tiêu lớn của thời đại (hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội) mà nhân loại đang hướng tới. Chính vì vậy, lí tưởng và niềm tin chủ nghĩa xã hội đã, đang và sẽ tiếp tục được thấm vào sâu trong quảng đại quần chúng nhân dân không những ở các nước xã hội chủ nghĩa mà còn là nhân dân trên toàn thế giới. Từ đó, chủ nghĩa xã hội tất yếu trở thành ngọn cờ dẫn nhân dân thế giới tiến lên phía trước trong thời đại ngay nay và mãi về sau.
- Ba là, chủ nghĩa tư bản có vai trò to lớn đối với lịch sử phát triển của xã hội loài người nhưng lịch sử không thể dừng lại ở phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa. Nguyên nhân là do chủ nghĩa tư bản không thể giải quyết được mâu thuẫn cơ bản, cố hữu của nó, đó là mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất mang tính chất xã hội hóa với quan hệ sản xuất tư nhân tư bản chủ nghĩa. Dù đã có những điều chỉnh để tồn tại nhưng với bản chất bóc lột, phản dân chủ, vô nhân đạo của mình, chủ nghĩa tư bản không thể giải quyết được những khuyết tật đã trở thành phổ biến ở các nước tư bản, như: chăm sóc y tế không đầy đủ, giáo dục trung học chất lượng kém, vấn đề phân biệt chủng tộc, nghèo đói, ngày càng sâu sắc, tội ác bạo lực tràn lan, cảm giác trống về tinh thần, chiến tranh và tạo nên bao tai họa về văn hoá, xã hội, môi sinh trên thế giới... Những khuyết tật ấy chỉ có thể được giải quyết được trong khuôn khổ của một chế độ tiến bộ và ưu việt hơn.
- Bốn là, trong khuôn khổ của chủ nghĩa tư bản đã xuất hiện những yếu tố của xã hội mới, những yếu tố của nền văn minh hậu công nghiệp, kinh tế tri thức nảy sinh và phát triển; tính chất xã hội của sở hữu ngày càng gia tăng; sự điều tiết của nhà nước đối với thị trường ngày càng hữu hiệu; tính nhân dân và xã hội của nhà nước tăng lên; những vấn đề phúc lợi xã hội và môi trường... ngày càng được giải quyết tốt hơn. Những đặc điểm trên đây cũng có thể xem đó là những xã hội quá độ, vì nó chứa đựng trong nó cả các yếu tố của chủ nghĩa tư bản và xã hội tương lai.
- Năm là, từ khi ra đời đến nay, chủ nghĩa xã hội hiện thực với những thành tựu to lớn không thể phủ nhận đã chứng minh được tính ưu việt, tiến bộ của mình với tư cách là một chế độ xã hội mới. Cả lý luận và thực tiễn ngày càng cho thấy được bản chất của sự thất bại của quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và Đông Âu. Đó chỉ là sự thất bại của một mô hình không khoa học, quy phạm những nguyên tắc cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin. Nó tuyệt đối không phải là sự sụp đổ của một học thuyết, một chế độ và càng không phải là sự thất bại của một phong trào hiện thực. Các nước kiên trì con đường xã hội chủ nghĩa hiện nay với những thành tựu to lớn ban đầu nhờ chính sách đúng đắn của cuộc cải cách, đổi mới tiếp tục là cơ sở thực tiễn đầy sức thuyết phục trong việc minh chứng về tính tất yếu thắng lợi của chủ nghĩa xã hội.
- Sáu là, nhiều nước trước đây vốn là các nước xã hội chủ nghĩa, thông qua công cuộc cải tổ, cải cách, đã phản bội lại chủ nghĩa xã hội và đưa đất nước đi theo con đường của chủ nghĩa tư bản hay chủ nghĩa xã hội dân chủ, hiện nay đang rơi vào khó khăn về con đường phát triển của đất nước mình khi nhiều định hướng giá trị của xã hội bị đảo lộn, xung đột dân tộc, tôn giáo, phe phái gia tăng, đời sống của những người lao động ngày càng khó khăn, sự phân hoá giàu nghèo trong xã hội ngày càng gia tăng, vị thế của các nước đó trên trường quốc tế giảm sút,.... Bên cạnh đó, một số quốc gia sau khi giành được độc lập đã đưa đất nước đi theo con đường tư bản chủ nghĩa, nhưng đất nước vẫn đang rơi vào tình trạng nghèo đói, khó khăn, chiến tranh, xung đột, v.v.. Những khó khăn, bế tắc của những nước này cũng góp phần cho thấy nhân loại đang có nhu cầu vượt qua chủ nghĩa tư bản trong việc tìm kiếm một mô hình xã hội mới tiến bộ hơn.
- Bảy là, đã xuất hiện những nhân tố mới của xu hướng đi lên chủ nghĩa xã hội ở một số quốc gia trong thế giới đương đại. ở nhiều nơi trên thế giới, đặc biệt là ở khu vực Mỹ Latinh, từ những năm 1990 đã xuất hiện xu thế thiên tả và ngày càng phát triển mạnh lên thành một trào lưu vào đầu thế kỷ XXI. Từ 1998 đến nay, thông qua bầu cử dân chủ, các chính phủ cánh tả, tiến bộ đã lên cầm quyền ở 11 nước trong khu vực Mỹ Latinh. Sự xuất hiện của "chủ nghĩa xã hội Mỹ Latinh" còn điểm này, điểm khác phải tiếp tục nghiên cứu và theo dõi, nhưng rõ ràng những biểu hiện đó đã và đang thể hiện sự tác động sâu xa và sức sống mãnh liệt của chủ nghĩa xã hội hiện thực đối với các dân tộc này, thể hiện bước tiến mới của chủ nghĩa xã hội trên thế giới. Đó là một thực tế lịch sử góp phần quan trọng trong việc minh chứng cho sức sống và khả năng phát triển của chủ nghĩa xã hội, củng cố niềm tin vào lý tưởng cộng sản chủ nghĩa.
Tất cả các yếu tố trên đây đều phản ánh một thực tế là: mặc dù còn nhiều khó khăn, thách thức, nhưng "cuộc đấu tranh của nhân dân các nước vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ, phát triển và tiến bộ xã hội dù gặp nhiều khó khăn, thách thức, nhưng sẽ có những bước tiến mới; theo tiến hoá của lịch sử, loài người nhất định sẽ tiến tới chủ nghĩa xã hội".
· Một số thành tựu của chủ nghĩa xã hội hiện thực ở Việt Nam:
- Trên cơ sở tổng kết 25 năm đổi mới, 20 năm thực hiện Cương lĩnh năm 1991, kế thừa Cương lĩnh năm 1991, Cương lĩnh (Bổ sung, phát triển năm 2011) khẳng định những thắng lợi vĩ đại của cách mạng Việt Nam là:
+ Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945, đập tan ách thống trị của thực dân, phong kiến, lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, đưa dân tộc ta tiến vào kỷ nguyên độc lập, tự do;
+ Thắng lợi của các cuộc kháng chiến chống xâm lược, mà đỉnh cao là chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ năm 1954, đại thắng mùa Xuân năm 1975, giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, bảo vệ Tổ quốc, làm tròn nghĩa vụ quốc tế;
+ Thắng lợi của công cuộc đổi mới, tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập quốc tế, tiếp tục đưa đất nước từng bước quá độ lên chủ nghĩa xã hội với nhận thức và tư duy mới đúng đắn, phù hợp thực tiễn Việt Nam.
Với những thắng lợi đã giành được trong hơn 80 năm qua, nước ta từ một xứ thuộc địa nửa phong kiến đã trở thành một quốc gia độc lập, tự do, phát triển theo con đường xã hội chủ nghĩa; nhân dân ta từ thân phận nô lệ đã trở thành người làm chủ đất nước, làm chủ xã hội; đất nước ta đã ra khỏi tình trạng nước nghèo, kém phát triển, đang đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, có quan hệ quốc tế rộng rãi, có vị thế ngày càng quan trọng trong khu vực và trên thế giới.
- Đại hội lần thứ XII của Đảng (2016) , đánh giá, tổng kết nhìn lại 30 năm đổi
mới (1986-2016) khẳng định: Nhìn tổng thể, qua 30 năm đổi mới, đất nwowcss ta đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử trên con đường xây dựng CNXH và bảo vệ Tổ quốc XHCN. Đó là:
+ Đất nước ra khỏi khủng hoảng KT-XH và tình trạng kém phát triển, trở thành nước đang phát triển có thu nhập trung bình, đang đẩy mạnh CNH, HĐH và hội nhập quốc tế. Kinh tế tăng trưởng khá, nền kinh tế thị trường định hướng XHCN từng bước hình thành phát triển.
+ Chính trị - xã hội ổn định, quốc phòng, an ninh được tăng cường. Văn hóa – xã hội có bước phát triển, bộ mặt đất nước và đời sống của ND có nhiều thay đổi. Dân chủ XHCN được phát huy và ngày cảng mở rộng. Đại đoàn kết DT được củng cố và tăng cường. Công tác xây dựng Đảng, xây dựng Nhà nước pháp quyền và cả hệ thống chính trị được đẩy mạnh.
+ Sức mạnh về mọi mặt của đất nước được nâng lên; kiên quyết, kiên trì bảo vệ đấu tranh bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ và chế độ XHCN
+ Quan hệ đối ngoại ngày càng được rộng mở và đi vào chiều sâu; vị thế và uy tín của Việt nam trên trường quốc tế được nâng cao.
Những thành tựu đó tạo tiền đề, nền tảng quan trọng để nước ta tiếp tục đổi mới và phát triển mạnh mẽ trong những năm tới; khẳng định đường lối đổi mới của Đảng là đúng đắn, sáng tạo; con đường đi lên CNXH của nước ta là phù hợp với thực tiễn của Việt Nam và xu thế phát triển của lịch sử.
Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Com