Truyen2U.Net quay lại rồi đây! Các bạn truy cập Truyen2U.Com. Mong các bạn tiếp tục ủng hộ truy cập tên miền mới này nhé! Mãi yêu... ♥

Đền


1.

Tôi vẫn thường xuyên nghĩ về mình như một kiểu người dễ dàng bị tác động bởi những suy nghĩ của mọi người xung quanh. Nhưng giả thử thế là thật đi chăng nữa thì tự tôi cũng đã nuôi dưỡng cho mình một bản thể hoàn chỉnh ăn khớp với cái hữu hình hiển hiện trong cõi thế gian thực tại này. Tôi nói tự mình, vì người xây dựng nên bản thể ấy là tôi, chỉ một mình tôi chứ không phải ai khác. Mặc dù với sự giáo dục của gia đình cũng như hoàn cảnh sống, tôi đáng lẽ phải bị ảnh hưởng mà cộng hưởng vào với cái hạt sâu xa từ trong bản thân tôi để kết tinh ra thứ là tôi bây giờ, nhưng không, chính tôi từ tấm bé đã tự tin nói với mình rằng tự tôi tạo nên tôi bây giờ, và nếu phải ở trong một hoàn cảnh nào khác đi chăng nữa, thì đến thời điểm này, tôi cũng chỉ là một tôi y hệt. Đấy không phải ngẫu nhiên mà tôi lại tuyên bố như thế, mọi sự đều cần có sự kiểm chứng của nó. Như thể trong quá khứ tôi đã từng bị lôi ra khỏi vòng tay ấm áp của cha mẹ tôi mà đến sống với một người bà con ở thành phố lớn, nhưng rồi tôi lại quay trở về trong những đồng ý ngầm định của người lớn. Hai con đường, nhưng sẽ chỉ có một tôi tồn tại theo đúng quy trình mà tôi đã xây dựng nhưng chưa kịp hoàn thiện nó ở mức tối đa.

Gia đình tôi có một ngôi nhà nhỏ ở thị trấn Mát. Tôi cùng ba mẹ dọn về đây vào những năm sau khi đến sống thử với người bà con kia một thời gian. Ba tôi bất mãn với công việc ông đang làm, còn mẹ tôi vốn là một thứ trang trí điểm xuyết trong cuộc sống của hai cha con tôi đã đồng ý chuyển về nơi ấy để sống "một cuộc sống thanh nhàn" như ba tôi phân tích. Tôi biết rằng ông - người cha thân mến luôn ấp ủ trong lòng một cái gì đó to lớn hơn chính hạt nhân của ông mà giờ đã được bao bọc bởi những kiến thức thu lượm được từ cuộc sống lăn lộn từ chiến trường đến khắp các trường đại học của cả nước, luôn luôn muốn trở thành một cái gì đó to lớn hơn cái ông đang nắm giữ bây giờ, chính thế nên tôi biết cuộc sống của ông sẽ không dừng lại ở mức "an nhàn" tại thị trấn nhỏ này. Nhưng sự thể thì vẫn cứ tiếp diễn theo những bất chợt nắng mưa trong tâm tưởng của người lớn,chúng tôi đến đây vào một ngày đẹp trời mà bầu trời trong đến độ tôi cứ cảm giác nếu ngẩng đầu lên tôi sẽ thấy được gương mặt mình trong ấy. Cha tôi khi này hãy còn hưởng ứng với ý nghĩ mới mẻ về sự an nhàn mà không lường trước được thói phù phiếm gắn với hạt của ông từ khi còn bé tí đã rất vui vẻ vừa huýt sáo vừa dọn những cái thùng cạc tông nặng chịch những sách vào trong nhà. Mẹ tôi mệt mỏi vì chuyến đi dài nhưng vẫn không nói một lời, thi thoảng vuốt sợi tóc mai thấm mồ hôi dính trên thái dương rồi lại tiếp tục mở những thùng các tông có ghi chữ "bếp". Bố mẹ tôi vốn tự cho tôi cái quyền là con gái nhẹ nhàng nên không bao giờ ép tôi phải làm những việc nặng nhọc, nên tôi chỉ ôm những thứ vừa phải vào trong nhà và quan sát tất cả những thứ xung quanh mình bằng con mắt lơ đãng mà tôi được thực hành nhiều giờ trong trường cấp hai gần nơi ở cũ.

Cha tôi luôn thích kéo tôi vào lòng ông ngồi mỗi buổi tối khi ông không có một công trình phải nghiên cứu, hay một hồ sơ báo cáo phải hoàn thành, ông sẽ âu yếm vuốt ve hai má phúng phính của tôi, rồi hỏi tôi những câu hỏi vu vơ về trường về lớp, về những người bạn mà, tôi biết câu trả lời của tôi chỉ đọng lại ở chính bờ môi tôi mà không thể nào lọt qua được ánh mắt mờ đục của ông. Ông chỉ đặc biệt chú ý khi nghe tôi nhắc đến những phương pháp giáo dục của các cô giáo, hay một kiểu đổi mới nào của nhà trường. Những lúc đề cập đến vấn đề ấy, mắt ông sáng lên như vừa phát hiện ra ở đứa con gái nhỏ của mình cũng có những thứ đáng để quan tâm. Đức tính lơ đãng ấy tôi chắc hẳn được thừa kế từ ông, nó ảnh hưởng qua tôi từ cha,nhưng một phần nó hiển hiện ngay sẵn trong bản tính tự nhiên của tôi. Và cứ như thế tôi trưởng thành để nuôi dưỡng cái hạt càng ngày càng lớn với phần lơ đãng ngày càng hiển hiện ra trong ánh mắt. Hai cha con tôi nói chuyện với nhau mà không một ai để ý vào nội dung câu chuyện, như những kẻ săn sao qua ống kính thiên văn, họ nhìn mà như không nhìn, đôi lúc tôi tự hỏi liệu có khi nào điểm rơi của ánh mắt hai cha con tôi khác hẳn với những người khác, rằng là nó hoàn toàn không thuộc về bất cứ một vật gì cụ thể ở thế giới này?, và thế nên trông chúng tôi lúc nào cũng có dáng vẻ của những kẻ vừa du hành từ vũ trụ trở về, không già, không trẻ, cứ lơ lửng ở giữa những ánh nhìn. Kể từ khi người ta đặt tôi hãy còn vương những máu và cái dây rốn lơ lửng ở giữa hai chân lên ngực mẹ tôi thì bà đã biết chuyện này sẽ xảy ra, bà nhìn thấy trước sự xa lánh hữu hình trong đôi mắt tôi y hệt như của chồng bà. Và chẳng sớm thì muộn, vai trò của bà trong mối quan hệ giữa một người đàn ông và một đứa trẻ sẽ chấm dứt ngay khi đứa trẻ có khả năng làm chủ được đầu óc mình. Cứ thế, vai trò của ba chúng tôi trong một không gian với những mối quan hệ có tên đàng hoàng được hình thành thông qua sợi dây kết nối vô hình lỏng lẻo mà chỉ cần một ngọn gió sắc lạnh thổi qua cũng dễ dàng làm nó ta ra thành từng mảnh.

Ngôi nhà mới của chúng tôi nằm trên đỉnh một con dốc ngắn nhưng cao, tầm nhìn xa bao trùm xuống giữa con lộ chạy dọc thị trấn. Trước mặt ngôi nhà là một quả đồi nhỏ toàn bụi rậm mà ở phía trên đỉnh có một ngôi đền thờ Thánh Mẫu cứ hai tháng một lần lại thấy vẳng lại tiếng kèn trống của những người nhảy đồng. Tôi có phòng riêng trên tầng áp mái với cửa sổ hướng ra khoảng sân trước của một ngôi nhà nằm phía sau nhà tôi, tụt hẳn xuống khỏi con dốc khiến toàn bộ căn nhà đó đều bị cửa sổ phòng tôi thu hết vào thành một khoảng. Tôi không thể nói là mình thích thú trước cảnh tưởng mới mẻ ấy, nhưng tôi cũng không tỏ ra buồn bã vì phải xa khung cảnh thân quen với bạn bè, trường lớp, những rạp chiếu phim và những cửa tiệm xanh đỏ ở chốn cũ. Những gì tôi thấy hẳn nhiên là khác với những gì bố tôi thấy, và còn khác xa hơn nữa những gì mà mẹ tôi nhìn. Tôi im ắng trong căn phòng của mình đợi cho qua mùa hè để được nhập học ở ngôi trường mới nhỏ hơn trường cũ, ít học sinh hơn trường cũ.

Bố tôi tiếp tục vùi đầu vào công việc của mình trong phòng làm việc ngay cạnh phòng ngủ của tôi. Sự im lặng vẳng lại từ phòng bên cạnh luôn khiến tôi rùng mình, đôi lúc tôi áp tai mình vào bức tường ngăn giữa hai căn phòng để kiểm tra xem bố tôi có còn sống không, nhưng cách đó chỉ làm tôi thất vọng thêm. Những lần sau tôi đành chờ đúng ba giờ chiều, bố tôi sẽ mở tung cánh cửa phòng làm việc của ông, đi vào toalet và ngồi trong đó khoảng 15 phút, rồi quay trở lại phòng làm việc. Chỉ lúc đó tôi mới thở phào rằng trái tim ông vẫn còn đập, và còn lâu nữa những sợi dây vô hình giăng kín trong ngôi nhà này mới bị đứt. Ở nhà cũ sự im lặng như thế này không phải là không có, nhưng ngôi nhà quá rộng khiến khoảng im lặng bị kéo giãn ra thành một thứ không gian mỏng hơn, áp lực của nó lên các thành viên nhẹ hơn nên không ai cảm thấy ngột ngạt, nhưng ở đây mọi thứ như bị gắn thêm một tấm kính lúp, cứ phồng tướng lên và đập vào ngực người ta những cảm xúc mới mẻ mà đa phần đều khó chịu, đến độ một hôm, sau khi chờ cho cha tôi mở cửa phòng làm việc và đi vào toalet, tôi vội vàng chạy hẳn ra ngoài đường hít lấy hít để không khí tỏa ra từ ngọn đối trước mặt hãy còn ẩm mùi khói nhang.

Ở trong phòng của mình, tôi cũng giữ mọi thứ thật im lặng, cứ như thể chính sự im lặng này mới là chất dinh dưỡng nuôi sống cả gia đình tôi, để làm được điều đó, hàng ngày tôi ngồi đọc sách, và mỗi khi bị một cơn xúc động mạnh mẽ lan tỏa ra từ các trang sách bủa vây lấy giác quan mình, thì tôi hướng mặt mình về phía ngôi nhà phía dưới bệ cửa sổ, tập trung vào hơi thở của chính mình. Căn nhà ấy trông không khác gì những căn nhà khác ở thị trấn này, cùng một kiểu mái bằng với ba gian gạch sơn trắng, một khoảng sân trước rộng rãi trát xi măng sạch sẽ với một mảnh vườn sau dành cho cây ăn quả và nuôi gia cầm. Sân trước lúc nào cũng dựng chưng hửng một cái xe máy màu đỏ không còn hai bên chắn gió và một cái xe đạp kiểu cũ có cái thanh gióng ngang trước mặt. Tôi chưa từng nhìn thấy người ở trong căn nhà đó, tuy nhiên những đồ vật vẫn không ngừng phơi bày sự tiếp diễn của sự sống trong ngôi nhà ấy. Ví dụ như đôi lần chiếc xe máy bị đặt lệch hẳn về một bên , hay một con dao thái đồ ăn cho lợn bị vứt chỏng chơ trên cái vỏ bao tải mỏng hãy còn vương những mảnh thân cây chuối ngoài nắng. Những lúc như thế tôi thường ngồi nhìn thật lâu xuống khoảng sân trước ấy, chờ một người nào đó ra chỉnh lại cái xe máy, hay cất con dao với bao tải đi, nhưng chẳng có ai đi ra, chỉ đến hôm sau, khi tôi thức dậy, thì mọi thứ lại đâu vào đấy.

Mẹ tôi vẫn thường nấu bữa sáng vào lúc bảy giờ, là khi bà vừa đi chợ về. Chợ ở khá xa nhà nhưng bà đã tự mua cho mình một chiếc xe đạp giống y hệt chiếc hay dựng ở sân trước ngôi nhà đằng sau nhà tôi với cái cán ngang vô lí trước mặt, mỗi lần ngồi lên đó mẹ tôi lại phải nhấc chân cao hết sức để bước qua. Có đôi lần tôi tưởng mẹ tôi nghiêng chiếc xe sắp đổ đến nơi, nhưng khi bà vừa đưa chân phải qua được bên kia thì lập tức vực chiếc xe dậy bằng hai cổ tay mỏng dính của mình. Mỗi khi mẹ rời nhà đi chợ vào buối sáng tôi phải dậy đóng cổng nhà, khi đó tôi thường bắc ghế ngồi luôn trước mỏm đất doi ra phía ngoài đường mà ngóng lên ngôi Đền ở trên đồi, ngửi mùi nhang mà người trông coi đền sáng nào cũng đốt. Trong khi ngồi ngơ ngẩn trước sân nhà vào giờ ấy, tôi thường tự cho rằng mình cũng đang làm tốt cái phần hoàn thiện bản thể của mình mà không cần một ai nắm lấy tay chỉ đường. Tôi khá mềm dẻo trong lĩnh vực tự thuyết phục bản thân mình tin vào một ý nghĩ vừa chợt đến, nhưng cũng từ đó tôi biết cách gạn sao cho thật trong thứ nước đục ngầu mà ý nghĩ ấy mang tới. Tôi xây dựng bản thể mình theo một chiều hướng tích cực hơn nhiều so với nhiều đứa cùng trang lứa, và tôi đôi khi kiêu hãnh nhìn chúng bạn bằng con mắt đấng bề trên, kẻ cả với những thứ trẻ con mà chúng bạn đang bàn tán và hưởng thụ. Tôi chấp nhận mình như một vị hòa thượng thích sự hoàn hảo, tìm kiếm một điểm đến tiếp theo cho những cái không thể xác định trên con đường trước mặt. Tôi mài bóng loáng lưỡi dao của mình chỉ chờ dịp chém xuống nhưng trong thâm tâm, tôi lại mong chờ đừng bao giờ phải dùng đến cái lưỡi dao sắc bén ấy. Cũng như khi nhìn ngắm ngôi Đền chỉ rõ một nửa vì khoảng cách thì tôi tự tưởng tưởng ra những điều vô cùng kì bí mà tôi luôn giữ kín cho riêng mình, bằng ánh mắt đờ đẫn thừa hưởng từ cha, tôi che dấu hết sức kỹ càng điều đó, chính thế nên tôi chưa bao giờ tiếc nuối một điều gì ở những thứ cũ kĩ, ở những nơi quen thuộc. Sự lạnh lùng mà người ngoài dành cho tôi được chính tôi phong tặng như chiếc áo của vị vua ngự trị trên đỉnh cao của lòng khinh miệt, tôi chấp nhận nó, giấu mình trong nó và giữ cho bộ mặt của mình lúc nào cũng thẳng đơ và im bặt. Trước mặt tôi hình ảnh ngôi đền chỉ có một nửa với những chái nhà cong lên ở bốn phía lặng lẽ đứng nhìn ngược lại phía ánh sáng, màu sơn của nó đã bạc đi vì tiếng hát của những cô đồng đến đây nhảy nhót hàng giờ mỗi hai tháng và bước chân của những con người tìm kiếm một thực thể siêu hình trong tâm trí chính mình đang giẫm đạp lên nhau. Họ cũng là những con người với những linh hồn được khởi dựng từ những hạt khác nhau, và được bồi đắp bằng lý trí hiển hiện qua từng giai đoạn thời gian, họ có chung một thứ mà tôi không tài nào đoán được là do quá trình bồi đắp hình thành hay có sẵn ở trong hạt ngay từ khi mới sinh ra, nó chính là cái đã kéo họ đến ngôi đền ấy, hai tay chắp lại thành một đóa sen phẳng trước ngực, chân cuốn lại như những dây tầm gửi uốn éo quanh thân cây, mắt nhắm và lắc lư theo tiếng hát khi cao khi thấp của các cô đồng. Trên khuôn mặt họ một sự thanh tịnh sánh ngang với sự thanh tịnh mà tôi cố công vun vén trong suốt những năm tháng qua bằng những giả dối vĩnh hằng đã kéo một đường duy nhất từ con mắt bên này sang con mắt bên kia, giữ chúng lúc nào cũng nhắm tịt và một nụ cười thỏa mãn nở trên môi. Trong mùi nhang bay xuống chân đồi luôn luôn quẩn quất những thứ mùi khác nhau nữa mà tôi không tài nào phân tách nổi.

Thường thì khi những ý nghĩ của tôi đang ở đoạn cao trào thì bóng mẹ tôi đang gù lưng đạp xe lên con dốc cao này cũng xuất hiện trong tầm mắt. Tôi đưa tay lên một cái thật nhẹ nhàng và vẫy vẫy như chú chó con vẫy đuôi mừng chủ về. Tôi không vui mừng gì với chuyện bà đi chợ về, đương nhiên, nhưng từ trong thâm tâm tôi cho rằng hành động này là cần thiết để duy trì mối quan hệ ở chừng mực nhất định, và đặc biệt hơn giữ cho mẹ tôi được thăng bằng trên sợi dây gắn kết vốn đã rất mỏng manh ngay từ khi sinh tôi ra. Ánh mắt bà mẹ tôi không nói được nhiều điều như ánh mắt những người khác trong gia đình, bà luôn luôn là một kẻ lạc lõng vì hai lý do: một là bà không rơi đúng vào điểm rơi của tầm mắt hai cha con tôi, hai là chúng tôi không thấy được gì sau hai con mắt bà. Một mối quan hệ qua lại biện chứng rõ ràng như thế, chẳng trách được nếu giữa chúng tôi luôn luôn có một rào cản ngăn cách cả cái gọi là tình mẫu tử hay ruột thịt. Mẹ tôi đạp xe đến cửa nhà, thì tôi cũng vừa mở cổng bê chiếc ghế nhựa vào, đứng nép sang một bên để bà vừa thở vừa đẩy xe đạp vào sân. Lúc này trong nhà bố tôi hẳn đã thức dậy và vào phòng làm việc từ lâu, dưới tầng một lạnh lẽo như cái nhà mồ, không có một tàn dư của hơi ấm tỏa ra từ sự hô hấp của con người. Tôi và mẹ xách những túi đồ đi thẳng vào trong bếp. Đằng sau căn bếp cũng có một ban công nhìn xuống căn nhà phía sau nhưng tầm nhìn bị hạ xuống chỉ còn ngang hàng với nóc nhà phủ đầy lá mục của những cây ổi, cây lê ki ma, cây xoài... Mẹ tôi chăm chỉ trong việc nấu ăn như cha tôi chăm chỉ trong việc nghiên cứu của đời ông. Bà dường như biết làm tất cả các món ăn trên thế giới này. Còn tôi và cha tôi, hai kẻ đồng lõa với nhau trong việc biểu hiện một thứ vị giác dở ẹc thấy món nào cũng có một cảm xúc như nhau, không thể phận biệt nổi vị của phở với của mì gạo nếu như hai thứ ấy không có hình dạng khác nhau. Mẹ tôi chẳng lấy điều ấy làm bận tâm, bà chuyên cần với nhưng món ăn của mình và trân trọng chúng ngang bằng với trân trọng tình cảm bà dành cho chúng tôi nếu không nói thứ tình cảm ấy chỉ ngấp nghé ở mức nếu ăn không hết thì sẵn sàng đổ đi. Tôi thì thấy việc ấy là quá rõ ràng, một người mẹ thích nấu ăn giống như một gia đình cần phải sống ở bên nhau cho đến hết đời, và đôi khi tôi thấy vui lây cho cái niềm vui nấu ăn của bà, chẳng phải vì những thứ đồ ăn ê hề bày ra trước mắt mỗi bữa ăn, mà vì người phụ nữ trung niên ấy ít nhất cũng có một thứ gì là của riêng mình sau khi không thể hiểu thấu được linh hồn hai người gần gũi nhất với bà.

Mỗi khi nhìn món ăn mẹ tôi mang ra, trong tôi lại ào lên một thứ cảm giác vô bờ bến sóng sánh như khi người ta bê một chậu nước đầy,cái cảm giác ấy giống như sự cảm kích,nhưng lại gần với một cơn thỏa mãn tức thì. Tôi hiểu ngay điều ấy là từ đâu ra, và tôi cầm đũa lên và mỉm một nụ cười bình thản để giấu đi những cảm xúc của mình cho lòng tự trọng của mẹ mình không bị tổn thương, cho nỗi chán chường âm ỉ trong bà không bùng phát. Nhưng khi nhìn vào mặt mẹ mình, tôi lại thấy thêm một sự đố kị cùng cực và ích kỉ độc ác bùng cháy lên khiến mười đầu ngón tay đang cầm đùa và thìa của mình nóng ran. Tôi không biết cha mình có giữ cùng những suy nghĩ như của mình không, nhưng sự bối rối trong ánh mắt ông mỗi khi biết mẹ đã chuẩn bị kĩ lưỡng như thế nào cho mỗi món ăn lại khiến tôi như vừa bắt gặp một người đồng minh, muốn kêu a ha lên một tiếng để chiếm lĩnh lấy khoảnh khắc này, nhưng trên hết, vẫn là sự đau xót cho lòng tự trọng chỉ cần sơ xảy một chút là tổn thương của mẹ tôi, chúng tôi vẫn giữ kín sự ích kỉ của mình.

Mặc dù nấu ăn ngon và yêu thích nó, mẹ tôi cũng chưa bao giờ lộ ra một nét gì rằng bà muốn dạy cho tôi- đứa con gái duy nhất của bà những điều ấy. Hẳn là cũng dễ hiểu thôi vì bà không tin tưởng sau này tôi có thể trở thành một người thích ở trong bếp hơn ở trong phòng làm việc, ngoài ra, hơn thế nữa, với hiểu biết hình thành từ những năm tháng dài ở bên cạnh nhau, bà thừa biết sự không ăn khớp giữa tính cách hai con người chúng tôi cũng giống như hai miếng răng cưa trong một bộ phận, chỉ cần không khớp một cái là toàn bộ chiếc máy sẽ bị sụp đổ. Chúng tôi đã duy trì hoạt động của cái máy thật tốt bằng sự vắng mặt của những người còn lại đến độ chưa bao giờ một trong hai chúng tôi có ý định xâm nhập vào đời sống tinh thần riêng tư của nhau. Tôi trân trọng điều tế nhị này trong suy nghĩ của bà mẹ tôi.

Cuối cùng hè cũng đã trôi qua thẳng tắp với những ngày chia ra làm hai phần, một cho ngắm nhìn ngôi Đền trên đỉnh đồi, một cho ngắm nhìn căn nhà phía sau, tôi đi học. Năm nay là năm cuối cấp hai, tức là lớp chín, tôi từ nơi khác chuyển đến phải thông qua một kì thi để xem mình sẽ học ở lớp A hay lớp B. Ngôi trường cấp hai này mỗi khối chỉ có hai lớp, A và B. Sức học của lớp A nhỉnh hơn một chút, gọi là lớp chọn. Tôi vượt qua kì thi vào lớp A một cách dễ dàng, trở thành một gương mặt mới của cả ngôi trường vỏn vẹn chỉ có 8 lớp học và hơn ba trăm học sinh này. Thực ra trong thị trấn còn có một trường cấp hai khác, nhưng đó là trường cấp thấp hơn, tức là không có nhiều học sinh giỏi, giáo viên cũng không xuất sắc bằng, nhưng học sinh đông hơn, nhiều lớp hơn và khuôn viên rộng hơn. Cha mẹ tôi cũng như cha mẹ bao người khác muốn con mình lúc nào cũng phải ở vị trí đứng đầu nên không cần đến một suy nghĩ thứ hai, lập tức đăng kí cho tôi thi vào lớp chọn ở trường chọn. Tôi không phản đối gì.

Mới bước vào lớp tôi đã thấy những ánh mắt cười cợt của lũ thanh niên sắp thành bạn cùng lớp của mình. Chúng là con những cư dân thị trấn, học hành khá hơn, trông sáng sủa hơn, và gia đình có điều kiện hơn. Chính cái điều kiện quá ư thuận lợi giữa một thị trấn nhỏ với một số ít người hình thành nên ở lũ vị thành niên mà suy nghĩ còn bị chi phối bởi sinh lý này một tính cách không kiêng nể, một thứ ta đây hoạnh họe mà sau này sớm muộn cũng bị vùi lấp ở một thành phố lớn đông đúc nào đó. Nhưng trước mắt, tôi hãy còn một chặng đường dài để đi mới thấy những thứ đáng buồn cười ấy ở lũ bạn học này bị dẫm nát. Tôi im lặng theo sự chỉ đạo của giáo viên chủ nhiệm ngồi vào cái bàn thứ ba dãy bên trái. Ngồi cùng bàn tôi có hai đứa nữa, một trai một gái. Đứa con trai ngồi ngay cạnh tôi trong có vẻ hiền lành, đứa con gái bên ngoài thì tôi không đoán nổi tính cách thông qua cái nhìn của nó.

Khi vừa đặt mình xuống cái ghế băng nhỏ xíu và lạnh toát, nhét cặp vào ngăn bàn sau khi lôi một cuốn vở trắng tinh và cuốn sách số học ra thì tôi nhận thấy ngay sự hiền lành của thằng bé bên cạnh toát ra từ đâu, chính là từ cái cổ áo sơ mi trắng hoen một vệt tròn màu vàng của nó. Cái sự hiền lành của thằng bé bỗng nhiên trở nên dễ hiểu, ở một nơi không thuộc về mình, người ta trở nên dễ bảo. Tôi lén lút ngắm nhìn khuôn mặt thằng vừa trở thành bạn cùng bàn với mình, với khoảng cách gần thế này, nó ắt sẽ trở thành đứa bạn đầu tiên của tôi trong môi trường mới này. Hai con mắt nó trũng sâu xuống khiến ánh sáng lọt qua từ khe cửa sổ làm chúng tối om, nhưng ở một vị trí gần như của tôi thì không có gì lọt ra khỏi tầm quan sát, ánh mắt nó luôn luôn ở góc độ nhìn lên, tức là kể cả khi nó đứng cao hơn người khác một cái đầu thì ở nó người ta vẫn không thấy gì ngoài một cái nhìn rụt rè yếm thế. Trong đám bạn bè của cha tôi cũng có một vài người có ánh nhìn ấy, họ đến nhà chúng tôi trong một bữa tiệc rồi rời đi êm ả như phong cách của những tên trộm, những người mà nỗi sợ hãi cả thế giới bao phủ lấy khoảng không gian mà cơ thể chiếm được, cằm luôn luôn gục xuống ngực trong mọi cuộc tranh luận, không cả nhấc tay mình lên cao một cách thoải mái khi muốn vuốt mái tóc. Trong không gian có quá nhiều người, họ lại càng sợ hãi, chỉ muốn nuốt chửng lấy toàn bộ cơ thể mình, để nó biến mất vào trong hư vô, hoặc trở nên tàng hình, hoặc bất cứ kiểu dạng khác, miễn sao không ai thấy được họ. Cha tôi không bao giờ kể cho tôi nghe về những người như thế, hoăc giả ông không lấy làm hứng thú với những bản chất trái ngược hoàn toàn với ông, mà cũng có thể ông quá bận bịu với những dự án và những mối quan hệ xây dựng trên nền tảng mang lại giá trị riêng nên đã bỏ qua những cá thể đặc biệt ấy. Nhưng tôi thì không, trong các bữa tiệc khi trên người diện bộ váy màu trắng đẹp nhất mà mẹ tôi chọn ra, ngồi im trên một cái ghế đẩu ở phía đầu bàn ăn, tôi quan sát hết từng gương mặt. Có một số người nhạy cảm, ánh mắt của tôi đâm vào da họ khiến cơn ngứa nổi lên, họ giơ tay lên má gãi, rồi day ra phía điểm bắt đầu của ánh nhìn, nhưng khi nhận ra chỉ là một đứa bé con, họ thôi không gãi nữa, cười mỉm, hoặc lướt qua tôi, rồi tiếp tục vai diễn của họ trong bàn ăn.

Tôi không thích bất cứ ai trong cả dãy bàn ăn đầy ắp những người bạn của cha tôi. Họ là những chính trị gia, nhà khoa học, các nghiên cứu sinh, đôi lúc có cả mấy người cấp cao trong quân đội. Nhưng người mà tôi quan sát tỉ mỉ nhất vì ở họ có cái gì khơi gợi lên trong tôi một tia bốc đồng ngạo mạn và còn hơn thế nữa, thứ mà tôi không bao giờ có dịp phân tích kĩ càng vì hẵng còn bận để mắt mình la liếm lên mọi cử chỉ của họ. Những người ấy chính là giống thằng bạn cùng bàn mới của tôi bây giờ, một cái gì thụt lùi đi trong cá thể cần phải tiến hóa, một cái gì giống như bản năng tự vệ, cấu trúc cơ thể dễ dàng bị rã rời cũng y hệt như những phân tử li ti của não bộ họ. Đôi khi tôi thấy thương hại, đúng, chính thế, một sự thương hại âm ỉ mà tôi muốn phỉ nhổ, vứt vào họ những câu nói thâm độc nhất mà một đứa sắp thành niên có thể nghĩ ra, giống như một sự bùng nổ của những đứa trẻ quyết chí bỏ nhà ra đi, cái mà tôi mong muốn là ném khăn ăn vào mặt họ, phun đống thức ăn đang nhai thành một mớ hỗn độn về phía ấy, hét lên rằng đồ ngu, đồ dối trá,đồ yếu đuối. Ánh mắt tôi lúc phải nuốt cái cơn thịnh nộ ấy lại chắc phải mãnh liệt lắm, nhưng sự trong trẻo của một đứa trẻ chưa hoàn chỉnh khiến nó không thể hiện được cái mà nó muốn thể hiện. Người ta nhìn lại tôi, bằng ánh mắt thương hại gấp ngàn lần của một cá thể mà bản thể đã hoàn thiện, giống như ánh mắt của người hàng xóm khi nhìn thấy con chó nhà bên bị bạo hành. Tôi những muốn in cái sự thương hại hãy còn non trẻ của mình lên một tờ giấy, đưa thẳng vào tay họ mà chờ đợi sự hiểu thấu, nhưng ơ kìa, tôi hãy chỉ còn là một đứa trẻ, và tình cảm mà tôi biến thành hành động hãy còn một sức mạnh tiềm ẩn của bản năng và sự tích cực, tôi muốn biến sự thương hại của mình thành một động lực thúc đẩy về phía trước cái tôi hoàn thiện của những con người ấy, chứ không phải làm họ trở nên kì cục với cái khăn ăn vặn vẹo trong tay, trong khi miệng nở nụ cười như đang mếu trước những câu chuyện không ăn nhập một chút nào với đầu óc tủn mủn của họ. Ấy là cái kiểu thương hại của riêng tôi khi mới vừa bước qua tuổi mười lăm được vài tháng, sau này khi lớn lên, tôi có xu hướng quên bẵng đi tất cả những thứ không ảnh hưởng đến giá trị của mình, giống như cha tôi, tôi lạnh lùng với tất cả các cảm xúc không xuất phát từ bản thân tôi, và giống như cha tôi, tôi lặng lẽ đặt mình lên ví trí dẫn đầu của cả một thế hệ tôi.

Cậu bạn ngồi bên cạnh không đưa mắt sang nhìn mặc dù tôi biết cái nhìn lấm lét của tôi có tác động đến cậu vì đuôi mắt bên phải của cậu ta giật nhẹ một cái. Tôi đã đoán trước được điều này, những con người như cậu ta sẽ không bao giờ quay sang hai bên để khẳng định lại sự vật, vì bị cái ý nghĩ "điều đó vượt quá khả năng hành động của mình" chi phối, điểm nhìn chỉ có ở phía trước, nhưng không bao giờ cơ thể tiến về phía ấy. Tôi chán nản quay về phía bàn học, cô giáo dạy môn Số học đang viết cái gì lên bảng, đằng trước mặt tôi là lưng ba người học sinh nữa hai nam một nữ, dáng vóc đều nhỏ như nhau.

2.

Khi học đến tuần thứ ba, trong lớp vẫn không có lấy một người bạn nào nói chuyện với tôi. Tôi biết cái thứ khiến sự xa lánh xảy ra ấy xuất phát từ chính bản thân tôi,nhưng đấy là điều tôi không muốn thay đổi. Việc học hành vẫn tiến triển tốt, tôi được thừa hưởng trí thông minh của cha mình và tính nhẫn nại của mẹ mình. Trong lớp ngoại trừ các tiết học, giờ nghỉ giữa giờ tôi thường lôi theo một cuốn sách rồi vùi mình vào đấy, bỏ quên cả thời gian cũng như các gương mặt cười đùa cứ lả lướt xung quanh.

Đến một hôm, cậu bạn ngồi bên cạnh mà giờ tôi đã biết tên là Văn đã day qua tôi khi ấy đang đọc cuốn "Ác quỷ Nam Kinh" và nói:

" Cho tớ muốn cuốn ấy khi cậu đọc xong được không?"

Tôi đã ngạc nhiên vì câu nói của cậu ta trong một giây đồng hồ. Vì cái cách cậu ta bắt chuyện với tôi, vì những cuốn sách hấp dẫn cậu ta, và vì cách xưng hô ấy - tớ là đặc điểm của những đứa trẻ chuyển về từ thành phố lớn.

"Tất nhiên là được"

Nghe xong câu trả lời Văn liền mỉm một nụ cười rất khẽ, rất nhanh rồi quay đi, mặt lại cúi xuống vở bài tập Toán như mọi khi cậu ta vẫn làm, tôi không biết cậu ta nhìn vào đó để làm gì. Việc cậu ta có những sở thích riêng, những cá tính và hành động theo suy nghĩ không phải là điều gì lạ lùng, tôi chỉ muốn đánh giá đúng người khác thông qua tất cả những thứ được bộc phát ra thành hành động và tình cảm, chứ không phải từ những cái nhìn chằm chằm vào một cuốn vở nào đó. Tôi thử tưởng tượng ra cảnh cậu ta ở nhà, đang hét vào mặt người mẹ nông dân của cậu ta rằng cậu ta không muốn ăn thứ rau như cỏ nát này nữa, mà cậu ta muốn ăn bánh ga tô (chẳng hạn), cậu ta chán ngấy cái cảnh nhà này lúc nào cũng tẻ ngắt và thiếu thốn đủ thứ, còn cha cậu ta thì chẳng bận tâm vẫn ngồi vót tre ở ngoài đầu ngõ. Nếu mà tôi có được nhìn cảnh ấy thật thì tôi sẽ lấy làm hãnh diện hơn cả khi phải đối mặt với một cậu bé mười lăm đầu tóc gọn gàng, áo dù đã ngả vàng nhưng sạch sẽ luôn luôn không biểu lộ một tình cảm gì.

Khi tôi trở về nhà tôi đã muốn nói chuyện với cha mình về vấn đề này, nhưng cha tôi đã đóng kín cửa phòng làm việc, còn mẹ tôi thì vẫn cứ im lặng chạy như con thoi từ bếp ra lò nướng, từ lò nướng ra bàn ăn, rồi từ bàn ăn ra bồn rửa bát. Tôi vất cặp mình lên giường, xuống nhà bắc cái ghế ra trước hiên rồi ngồi ngơ ngẩn nhìn về phía ngôi Đền trên đỉnh đồi. Ngôi đền vẫn như hôm qua, hôm kia và sẽ ở đó mãi cho đến tương lai. Đền nhỏ, chỉ có một gian nhà, tôi đoán vậy vì những lùm cây phía trước che khuất gần hết hình dạng của ngôi Đền. Xây với gạch, vữa và xi măng sơn trắng đúng kiểu truyền thống của các căn ủy ban nhân dân huyện thời nay, duy chỉ có mái của nó là được thiết kế đặc biệt hơn cho ra đúng hình dáng một ngôi Đền với tứ phía cong lên ở cuối trạm hình đầu rồng. Hình trạm rồng bằng gỗ được làm khá tỉ mỉ và duyên dáng. Nhưng tôi không biết đền thờ mẫu và đầu rồng ngậm ngọc thì có liên quan không nên bữa trưa hôm ấy tôi đã hỏi cha mình, ông khi này hãy còn bận ngậm cơm và đọc một bản báo cáo, trả lời ậm ừ cho xong : "đúng rồi đấy con ạ! Muốn tìm thêm thông tin thử đi thư viện xem". Tôi thôi không hỏi nữa quay trở về với ngôi đền, không giống như các ngôi đền khác phải sơn son thếp vàng, quét vẽ lên những bảng màu và chữ Hán xanh đỏ, ngôi Đền này có cái vẻ tiêu điều đến kì lạ, lớp sơn bong tróc của nó đã phủ một lớp rêu xanh bám chặt lấy tạo nên những mảng đối nghịch nhau trong góc ánh sáng mặt trời. Lớp cũ kĩ thổi ra ngoài hình dáng một cái tinh thần bền vững mà không tài nào tôi nghĩ con người có được, đặc biệt ở phụ nữ. Gia đình tôi không sùng đạo nào, nhưng cũng không phải tôi chưa bao giờ được đi đến Đền thờ, Chùa chiền hay nhà thờ. Tất cả những nơi ấy đều mang lại cho tôi cảm giác không tốt, giống như tâm can mình không bị ai nhìn những vẫn phơi bày ra trước toàn thể không gian, và cái áp lực đè nặng lên một bản thể không hoàn chỉnh với những tội lỗi xuất phát từ hạt bên trong và lớp bồi đắp bên ngoài của những ý nghĩ. Không phải nỗi sợ hãi làm tôi chán nản, nhưng ở những nơi như thế con người mang trong mình cái vẻ lòe loẹt đột nhiên nở bung trong tầm mắt tôi thành những muôn ngàn sắc tía, chơi vơi và giả tạo, không giống như thứ mà tôi chờ mong ở một xã hội đang chờ đón tôi bước ra. Từ những con người ấy, mùi vị của xác thịt, của ham muốn và của những hào hóa bốc ra, ươn ươn như mùi cá thối, hòa vào trong bầu không khí ngập ngụa mùi nhang khói và những lời rì rầm thoát ra từ những cái mồm ươn ướt mấp máy khiến tôi buồn nôn. Những lúc ấy,nước mắt khẽ rơi ra từ khóe mắt tôi hòa lẫn sự kích động trong tâm trí khiến vẻ mặt tôi khó coi và đỏ ửng lên không khác gì một kẻ sùng đạo thật sự.

May mắn thay ngôi Đền trước mặt ngôi nhà chúng tôi lại khoác lên mình một vẻ ngoài nhẫn nhịn không thường thấy ở những nơi có cùng tên gọi. Điều ấy khiến tôi cảm kích mỗi lần ngước lên ngắm nhìn ngôi Đền theo cảm hứng cần có một thứ gì để ước vọng chứ không phải kiểu tha thiết một niềm tin để bấu víu, tôi vẫn còn quá trẻ để tìm kiếm những thứ dễ dãi không tồn tại trong hiện thực này được. Không, tôi không băn khoăn về vấn đề tôn giáo, đó là một phạm trù nằm ngoài khả năng gợi hứng thú đối với tôi, cái tôi muốn tiếp nhận ấy là thứ gì nằm trong sinh hoạt vật chất của con người mà nuôi dưỡng đủ khả năng vượt ra khỏi hiện thực thực tế và nuôi dưỡng linh hồn con người trở về với bản chất tự nhiên của nó. Giống như đứng trước mặt trời chói chang ta vội cụp mắt lại, những sắc màu có hình dáng của những đốm tròn cứ nhảy ra trước mắt ta chơi vơi giữa ranh giới thực và ảo, giữa cái có và cái không, giữa những vật chất ở bên trong và ở bên ngoài. Trong khoảnh khắc ấy tôi cứ nghĩ mình chỉ cần tập trung là sẽ nắm bắt được ý niệm mà nó muốn truyền tải giống như cứ tự nhìn sâu vào trong cơ thể mình trong một thời gian thật dài thì tất cả những tạp niệm luẩn quất rồi cũng sẽ hiển hiện ra trước mắt, nhưng không, nó trôi tuột ra khỏi tầm tay với mà biến mất, để lại một màn đen trong suốt, xuyên ra ngoài kia vẫn còn là ánh sáng của mặt trời chói lóa.

Tôi ngấu nghiến đọc xong cuốn sách với một tốc độ thần kì khiến câu chữ vừa vào đã bốc hơi đi mất không đọng lại một chút nào trong đầu, nhưng tôi có một mục đích, và nó không nằm ngoài phạm vi ảnh hưởng của thằng Văn - thằng bạn cùng bàn của tôi. Tôi muốn tiếp cận với nó thêm một lần nữa, để bắt nó mở miệng, bắt nó nhìn thẳng vào mắt tôi và bắt nó phải ngẩng khuôn mặt của nó lên khỏi trang vở đầy chữ xấu xí của nó. Tôi không còn nhớ khi mình xây dựng kế hoạch của mình (- mà cho đến bây giờ tôi đã xấu hổ vô cùng cực khi nghĩ đến cảnh nảy sinh ra cái ý tưởng hành hạ một sinh vật tự thân thấp kém cho cái trò chơi lạc thú của mình) , tôi có giữ được một tâm niệm tốt đẹp hướng đến sự tích cực là muốn đem thằng bạn ngồi cùng bàn trở lại thế giới của loài người, hay là chỉ đơn giản như muốn nó phải bị ê hề, phải thấy tủi nhục như những gì nó xứng đáng phải nhận thậm chí trước cả khi nó quyết định rút lại trong vòng khiên bảo vệ mình, quyết định vứt bỏ đi thứ vũ khĩ mà đáng lẽ nó sẽ phải dùng như một vật bảo vệ bản thân cũng như một gút thắt để nó vượt lên trên cao tất cả những thứ sinh vật khác. Đêm trước khi đi ngủ, tôi trằn trọc như sắp có bài kiểm tra vào sáng hôm sau, những cơn rùng mình mà tôi không bao giờ dám tự thừa nhận nó gần giống với khoái cảm cứ ve vuốt lấy sống lưng và hai bên mạng sườn , khiến tôi như con thú nằm trên đống dục vọng của mình rên lên thành từng tiếng i ỉ, không khác gì những cô gái đang gần đến kì kinh, ẩm ướt và đam mê. Tôi đã ôm giấc mộng ấy mà ngủ một giấc không tròn đến 6 giờ sáng và bật dậy với tấm thân ướt đầm, thậm chí cả mái đầu cũng nhờn nhờn những dầu bết lại dưới từng chân tóc. Tôi không thể quay trở lại giấc ngủ đành đi đến nhà tắm, dùng xà phòng bánh gột rửa toàn thân, kì cọ kĩ từng ngóc ngách của cơ thể như một kẻ tội đồ muốn rửa sạch tội lỗi của mình với nước. Phòng làm việc của cha tôi đã sáng đèn tự bao giờ khiến tôi cảm thấy an tâm vì tôi không chỉ có một mình. Nước lạnh dội từng gáo lên đầu nóng bừng và bết lại của tôi, len lỏi trong các chân tóc khiến tôi thêm một lần nữa rùng mình, cơn mê đêm qua tràn về trong đầu óc vừa được gột rửa. Tôi đê mê trong nước mát và trong những kí ức âm ỉ về dục vọng. Một dòng máu đỏ chảy ra theo làn nước mát. Tôi không lấy làm bất ngờ vì mấy ngày gần đây cơ thể tôi có những thay đổi nhỏ nhắt nhưng khác thường, tôi chú ý,nắm bắt tình hình và chờ đợi. Cái gì đến rồi cũng phải đến, ấy là cái điều mà mọi đứa con gái trong vòng từ mười ba đến mười lăm chờ đợi: kì kinh đầu tiên của thiếu nữ - phản ứng sinh học luôn bị đẩy vào giữa những băn khoăn của mong muốn và không mong muốn. Tôi biết bước tiếp theo của quá trình này là gì, nhưng có một điểm gì níu kéo tôi lại trong bồn tắm này, không động đậy. Tôi lấy một bộ đồ bẩn mặc quýnh quáng vào người, chui ra khỏi phòng tắm, tiến về phía phòng ngủ của cha mẹ mà lúc này hẳn chỉ còn mỗi mình mẹ tôi. Tôi không gõ cửa, cứ thế ẩn cửa phòng tiến vào, quỳ xuống chân giường, dùng hai tay lay vào bờ vai của mẹ mình đang nằm im lìm trong một tự thế thẳng đờ như bộ mặt của bà trong các bữa tiệc tiếp đón bạn bè của cha tôi. Hai bờ mi của bà mỏng và ngắn, giống y như của tôi, đang khép hờ khiến một đường viền đen chạy từ bên khóe mắt này sang khóe mắt kia, giống như người ngủ giả vờ. Cái lay của tôi khiến bà hấp háy mắt, tôi vội nói"mẹ, con đến kì"; mẹ tôi giọng còn ngái ngủ hắt mu bàn tay về phía tủ quần áo của bà: "băng vệ sinh ở trong tủ đồ lót", rồi quay lại cơn mê mẩn của mình không thêm một lời nào nữa. Tôi không biết giấc ngủ chưa trọn của bà đã xâm chiếm cái ý nghĩ về lần đầu tiên hay chính cái quan điểm chẳng có gì là quan trọng của bà mới là thứ khiến tôi buồn đến thế. Tôi không thất vọng, đây là câu chuyện được dự báo trước trong tôi, tôi vốn biết thế. Nhưng cái sợi dây mỏng manh gắn kết giữa hai tâm hồn phụ nữ rung lên mách bảo tôi phải làm chuyện này, phải nói với mẹ mình trước tiên về cái mốc kỉ niệm đánh dấu của cuộc đời một phụ nữ này, tôi không mong đợi chuyện bà sẽ hào hứng với thứ đó, đây vốn không phải các bộ phim Mỹ mà người mẹ run lên vì hạnh phúc với những thay đổi nhỏ trong cơ thể con cái mình. Tôi tôn trọng mẹ mình, cũng như bà tôn trọng và thấu hiểu rằng tôi là một đứa trẻ có khả năng tự xoay sở kể cả không cần kiến thức của người mẹ như bà, chính những suy nghĩ song song giữa hai chúng tôi khiến tôi không thể không đi đến phòng bà mà nói với bà rằng tôi vừa có kì kinh đầu tiên của cuộc đời mình. Nó chỉ đơn giản là thế, nghĩa vụ của một đứa con và bản năng của một người mẹ. Không, không phải chỉ có vậy, tôi với bà trên hết là hai tâm hồn đồng điệu đến độ có thể không cần phải nói cũng hiểu người kia nghĩ gì, và không cần phải hành động để cho người kia biết bản thân tôi có màu sắc như thế nào. Tất cả là thừa thãi trong mối quan hệ này, duy chỉ có cảm xúc buồn là còn lắng lại.

Tôi đứng lên đi về phía ngăn tủ đựng đồ lót của bà, lấy ra gói băng vệ sinh mà tôi đã nhìn thấy hàng ngàn lần. Mở một chiếc ra trong toalet và tôi sử dụng chúng đúng cách, đúng quy định như tôi đã dùng nó một tháng một lần suốt mười lăm năm trước đó. Tôi không cần phải bày ra trước mắt mọi người sự bối rối trẻ con nũng nịu hỏi ai đó phải làm thế nào với cái này, tôi chỉ là để cho bản năng của mình chi phối tất cả những hành động khác. Mẹ tôi tự có những phiền muộn của riêng bà, cũng nhiều ngang bằng với chúng tôi và cũng phải loay hoay tự tìm cách giải quyết lâu như chúng tôi. Tôi chợt nhận ra dù mình có già thêm hai mươi tuổi nữa, thì những chiều hướng trong suy nghĩ của mình cũng sẽ mãi mãi ở cùng một vạch xuất phát và đến cùng một dải băng kết thúc, không ai chiến thắng trong cuộc đua này cả, chỉ còn lại hai thứ, ấy là thời gian và sự lựa chọn.

Tôi mang cuốn sách đã đọc xong đến lớp, cơ thể tôi cương lên vì những thứ tôi phải mang theo người: những cảm xúc mới mẻ về một thế giới mới chờ đón người phụ nữ tiếp theo của toàn thể nhân loại, một kế hoạch âm thầm để giết chết sự tẻ nhạt của người bạn cùng bàn, và cả về thứ vật chất giữa lớp áo quần và cơ thể cứ phồng lên khiến cách ứng xử đi đứng của tôi trở nên kì cục. Khi này tôi không biết một con người có thể mang nặng đến từng nào, vác theo bao nhiêu xúc cảm cả tích cực và tiêu cực, nhẩm tính trong đầu được bao nhiêu kế hoạch cùng một lúc để sự hưng phấn chèn ép lấy thành não bộ, nhưng sau này khi lớn hơn, tôi biết khả năng mang vác của con người mới thật kì vĩ, cộng với khả năng chịu đựng giữ cho cơ thể không bị nổ tung trước những xung động cảm giác còn kinh khủng hơn nhiều.

Khi vừa xong tiết Kỹ thuật, chúng tôi có năm phút nghỉ giữa giờ. Tôi lôi trong cặp mình ra cuốn "Ác quỷ Nam Kinh", đặt nó trên mặt bàn mình sao cho cậu bạn nhìn thấy, tôi đưa cho cậu một ánh mắt thật nhanh và mạnh mẽ cho cậu hiểu đến giờ rồi, tôi đã đọc xong cuốn sách, rồi lúi húi cất vở này đi, lấy vở khác ra, đóng cặp, nhét cặp vào ngăn bàn. Động tác của tôi chậm chạm như kéo dài hàng thế kỉ đối với người bên cạnh vì tôi biết mái đầu cậu cứ rung rung không yên trên cuốn tập của mình. Cái cổ áo trắng hoen ố của cậu ta đôi lúc tôi có cảm tưởng nó run lên như cánh bướm đang chưa biết nên đậu hay nên bay, lấp lóa trong khóe mắt tôi như con ngươi bị nắng phản chiếu tạo thành một chùm bông tỏa ra tứ phía. Nắng ở cửa sổ rưới vàng một góc bàn, chính là góc tôi đang ngồi, thẳng lên đỉnh đầu và đùi tôi đang duỗi ra. Tôi nhấn nhá quay ra cửa sổ để nắng chiếu thẳng vào mắt mà nhắm mắt lại, tưởng tượng ra thứ vật chất đang nằm một cách xộc xệch giữa hai chân, trong hai mí mắt mỏng dính, một màn ảo giác các điểm sáng bắt đầu chuyển động lộn xộn như muốn xộc ra từ miệng, từ hốc mắt, hốc mũi. Tôi quay phắt đầu lại, một tay đặt lên cuốn sách, tay kia làm như vô tình chạm vào tay áo được là thẳng thớm của cậu bạn:

"Này, tớ đọc xong rồi! Cho cậu mượn!"

Điều tôi mong chờ, điều tôi nghĩ đến cả đêm hôm qua, hiện giờ ngay trước mắt tôi. Ánh mặt của sinh vật mỏng manh trước mặt tôi khi tôi không đẩy cuốn sách sang phía cậu ta, mà dùng tay nhấc hẳn lên, khiến đầu cậu ta nhất định phải quay sang phía bên tôi. Tôi không thả tay ra ngay khi cậu ta đã giơ tay nhận, mà vẫn còn giữ lấy cuốn sách chờ cậu ta mở lời. Tôi muốn một ánh mắt thẳng tắp, tôi nhận được nó. Tôi muốn một cánh tay đưa ra, tôi nhận được nó. Tôi muốn một lời cảm ơn, tôi cũng nhận được nó. Tất cả như trong kế hoạch. Nhưng cái hạt trong tôi ngọ nguậy khước từ tất thảy những thứ ấy, nó rung lên tiếng chuông cảnh báo như tiếng lanh canh của những viên đá trong cốc thủy tinh. Mỗi một âm thanh phát ra là một từ có những chữ cái quen thuộc, đầu tiên là H, rồi đến O,A và kết thúc là N .Mỗi một âm tiết phát ra như tiếng thìa gõ vào cốc thủy tinh rỗng không : tinh - H, tinh- O, tinh - A, tinh- N khiến tôi không kịp chiêm ngưỡng hết thành quả của kể hoạch mình nung nấu đã bị bể tung ra thành một khối bất động trong cái nắng tĩnh lặng của không gian. Tôi thấy mình như hóa đá trước khi kịp hiểu ra chuyện gì đang xảy ra. Một đôi khi tôi ngồi nghĩ lại kí ức buổi sáng hôm đó như một nỗi buồn về sự kiêu căng độc ác trong bản tính một con người, kể cả khi người ta được nuôi dưỡng để trở thành một cá thể tốt đẹp có khả năng đứng vững trong một cộng đồng tập thể. Tôi còn phát hiện ra được khả năng lớn hơn nữa của cái thiện mỹ đã ập đến như một bóng lưới bủa vây lấy thói hợm hĩnh ấy, mà ngay trong cơ thể tôi, ngay trong cái hạt nhỏ bé của tôi một nguồn sức mạnh khủng khiếp mà tôi chưa bao giờ được biết nó ở trong đó đã mở tung ra như khi người ta giật nắp chai sâm panh. Tôi ngạc nhiên là cơ thể mình đã không có bất cứ một phản ứng nào trước đó, cái thứ mầm mống ấy vượt ra khỏi sự kiểm soát của não bộ và nhận thức để giành quyền điều khiển cơ thể dù chỉ trong một vài giây ngắn ngủi. Nhưng chính từ cái giây phút ấy mà tôi cũng nhận ra rằng mình hãy còn là một con vật chưa được hoàn chỉnh về nhân cách lẫn bản tính, hãy chỉ còn là một đứa trẻ vừa mới có kì kinh đầu tiên, và trong cái tương lai mập mờ trước mặt, tôi có thể sẽ trở nên một cái gì đẹp đẽ nhưng không thể nào hoàn thiện, nhưng chừng đó cũng sẽ đủ để tôi đi đến hết cuộc đời mình nếu như tôi không nảy ra cái ý định điên rồ là tự khóa mình trong căn phòng suốt phần đời còn lại. Hoặc, tôi sẽ chết trước khi hoàn thiện bản thân mình thì điều đó mới thật là tiếc nuối cho toàn thể nhân loại vì tôi đang tiến thêm một bước trong quá trình hoàn thiện nhân cách con người nói chung, và nhân cách một cá thể nói riêng. Tính từ giờ phút ấy trở đi, tôi biết con đường mà tôi chắc chắn sẽ bước vào mà không cần một giây suy nghĩ, ấy là con đường hướng tới cổng thiên đàng, nơi mà những tâm hồn khác hàng ngày vẫn cầu nguyện trong ngôi Đền nhỏ trước nhà tôi để được tiếp nhận mà không một ai nghĩ rằng điều đơn giản ấy ở ngay trong chính mỗi con người họ.

Phải, trong cái giây mà cơ thể tôi réo vang tín hiệu báo động ấy, con ngươi của thằng bé bên cạnh đã nhấc cao lên một phần năm so với tầm nhìn của nó trước đây, nó đã nhìn vào khuôn mặt tôi bằng ánh mắt phản chiếu bóng nắng, và nó đã đưa cánh tay vẫn đặt trên mặt bàn của nó về phía tôi. Tôi đọc được tất cả cảm xúc đang sống động chạy qua thành từng hàng trong hai con mắt nó, giống như đọc những trang giấy in đầy những chữ thẳng tăm tắp. Chính thế, tôi đã thấy được kế hoạch của mình mới hoàn hảo làm sao, mới thấy mình cao siêu làm sao. Tôi đã đạt được đến đỉnh cao khoái cảm của mình trước sinh vật nhỏ bé vừa ngẩng đầu nhìn về phía tôi bằng ánh mắt của hạnh phúc. Tôi, chính tôi là người đã ban phát cho cậu ta những xúc cảm mạnh mẽ như thế, và tôi thậm chí kiểm soát được hành động của chính mình cũng như phán đoán chính xác được những thứ xúc cảm ấy, tôi đã thấy mình như con mãnh hổ trong rừng rậm, thứ tự cao đáng khinh đã tôi đã vô cùng đau khổ trong suốt những đêm còn lại của năm lớp 9, sau khi phải đối mặt với những tình cảm ngày càng thân thiện hơn của cậu bạn và cảm xúc xuất phát từ lòng hối lối của tôi đối với cậu mà sau đã biến thể thành một thứ gì khác xinh đẹp và tươi tắn hơn. Tiếng réo báo động lôi toàn bộ những giác quan của tôi ra khỏi cái hão huyền của mình để trở lại với bản chất thật và hiện thực quá đỗi khác xa. Nó réo gọi mỗi chữ cái trong tên của tôi như một cách chắp nối lại những mảnh hạt đang dần tan vỡ ra của tôi sau khi tôi hành xử một cách vô ý thức đối với bản thân cũng với người trước mặt. Mỗi một tiếng tinh vang lên là một cái tát nhẹ vào mặt tôi, cảm giác mát lạnh chảy xuống từ chân tóc tôi sáng nay khi tôi gội đầu trong nhà tắm hiện ra rõ mồm một. Cảm giác thật lạnh lẽo, tôi như kẻ bị đẩy ra khỏi căn buồng ấm áp của mình và đang đứng giữa hòn đảo băng lạnh giá mà không một thứ áo quần nào bảo vệ được. Tôi run rẩy trong ý nghĩ của mình về sự cô độc và hình thái mới về nỗi buồn dần dần hình thành trong óc tôi, xòe bàn tay năm ngón ra giữa không gian để nhìn thẳng vào từng đường rãnh tạo thành các đường chỉ tay chằng chịt. Có một người bạn cha tôi trong một lần đến nhà đã cầm lấy bàn tay nhỏ xíu của tôi mà phán rằng cuộc đời tôi rồi sau này sẽ khổ sở với đôi bàn tay khô và chằng chịt những đường vân như thế này, nhưng ông cũng nói thêm như an ủi cha mẹ tôi, rồi nó sẽ thay đổi theo thời gian thôi, đừng lo lắng. Hiển nhiên cha mẹ tôi không lấy làm bận tâm đến những lời như thế, còn tôi thì lại càng không. Từ nhỏ đến giờ tôi chưa một lần phải vất vả nếu như sự vất vả chỉ tập trung ở những sinh hoạt thường ngày ăn, kiếm sống, ngủ nghê,học hành,...Không, tôi không có bất cứ nỗi vất vả nào ở trong những thứ kể trên, chỉ duy một lần duy nhất, ấy chính là khi tiếng rung báo động ngân vang trong cơ thể đang bất động của mình, tôi mới biết thế nào là nỗi khổ sở. Nỗi khổ sở không nằm ở ngoài mà nằm ở chính ngay giữa ranh giới giữa cái đúng và cái sai, giữa cái nên tồn tại và cái không nên, giữa những đòi hỏi và những yên bình,...nó là những mối quan hệ qua lại chống lại nhau nhưng nâng đẩy nhau lên, một mối quan hệ như cha tôi vẫn thường nói : biện chứng, và dưới sự tác động của các mối quan hệ biện chứng ấy, tôi đã lớn lên mà khổ sở như lời vị xem tướng tay ấy nói, tôi đã không thoát khỏi nổi số phận, không vượt quá được bức tường cao ngất do cái tư tưởng mỗi ngày một lớn của mình xây nên. Sự khổ sở bắt đầu từ hôm tôi đưa cuốn sách ấy cho đứa bạn cùng bàn, và thật nhanh chóng, nó lớn lên như quả bóng bơm ô xi, ôm trùm cả lấy khoảng không gian chứa cơ thể vật chất của tôi.

Sau buổi học hôm ấy tôi về nhà với nỗi thất vọng lớn lao hơn bao giờ hết, nó hiện rõ trên gương mặt tôi đến độ mẹ tôi cũng không cầm được mà hỏi con mệt à?, cha tôi thậm chí còn rời mắt ra khỏi bản báo cáo mà nhìn tôi chờ đợi câu trả lời, tôi nhìn vào mặt mẹ tôi với cái nhìn cương nghị mà bố tôi đã truyền lại cho tôi, một ánh mắt thẳng và lột tả dữ dội như thể tôi không có gì giấu diếm cả, tôi là thật, và anh hiểu được điều ấy, mẹ tôi như chợt nhớ ra điều gì, liền bảo : "ồ, mẹ hiểu rồi! Con nên nghỉ ngơi mấy ngày này!"

Đấy cũng là điều tôi mong muốn mẹ nghĩ đến trước bộ mặt bày ra này của tôi, cảm giác chiến thắng vừa chợt nảy lên lại bị dập tắt ngay bởi ảo ảnh của tiếng vang lanh canh buổi sáng hãy còn chưa biến mất hết. Trưa đó tôi không ngủ, ra khỏi nhà và bắt đầu bước những bậc thang đầu tiên tiến về phía ngôi Đền trên đồi.

Giữ Đền là một người phụ nữ quá bốn mươi tuổi, vẻ mặt khó đoán sau lớp son phấn và mái tóc được uốn xoăn quá mức cần thiết. Bà ta có một ngôi nhà nhỏ ngay dưới chân đồi, tức là cách nhà chúng tôi khoảng ba bốn căn. Hôm nay bà ta không có mặt ở trên Đền.Có một con đường đắp đá trắng thành những bậc thang kéo dài từ chân đến đỉnh đồi, nơi ngôi Đền ngự trị. Những bậc thang nhỏ chỉ vừa đủ cho hai người đang lên xuống tránh nhau, hẳn cũng đã được xây lên từ lâu nên những viên đá mòn nhẵn,lộ ra những vết trắng của lớp vôi phía bên trong, trời mưa thì chắc trơn trượt khủng khiếp. Tôi men theo những bậc đá tiến lên cao hơn, phía dưới cảnh vật trải ra thành một lớp phẳng lì tưới đẫm nắng, con huyện lộ kéo dài xa tít tắm, những ngôi nhà san sát nhau cùng một kiểu cách xây dựng nhưng đứng uốn éo, cao thấp và màu sắc khác nhau khiến chúng trông như một bức tranh vẽ dở của đứa học sinh cấp một. Tàng cây bàng trước sân nhà tôi mở ra thành một cái dù che mất một góc lớn, ngọn cây bị chặt cụt đi đế những thân cây phát triển hơn, tạo bóng mát hơn. Tôi không biết ai đã làm thế với cây bàng ấy, hẳn là trước cả khi chúng tôi chuyển tới đây vì không ai trong nhà tôi lại nảy sinh ra cái ý nghĩ chặt ngọn cây đi cả. Tôi tiến lên cao hơn nữa, xung quanh là đất đồi trồng những thứ cây xấu xí mà chủ yếu là bạch đàn thân trắng bé tí, những lùm cây dại nham nhở như mái đầu kẻ điên, nở những bông hoa héo quắt đi dưới cái nắng cuối hè, bụi cây chó đẻ thân xốp nhiều đến độ vươn cành liếm cả vào chân khách bộ hành đang bước trên những bậc thang đá. Cảnh tượng này chẳng lấy gì làm hứng thú, ấy là đặc điểm của núi đồi ở miền Bắc đất nước này.

Đón tôi ở cổng tiến vào phía sân Đền là hai cây hoa đại thân nhỏ như vừa được trồng cách đây không lâu, cành sà xuống thấp, lá cũng không có nhiều, hoa lại càng không. Tôi thở dài tiến sâu vào trong sân Đền.Trước mặt là một cái Điện thờ nhỏ xíu ngoài trời bày đầy những hoa quả, oản hương và một cây đèn dầu có cái chụp đèn bảo vệ bằng thủy tinh đang cháy. Tôi ngửi thấy một mùi nhang rất mảnh phả ra từ phía một cây nhang duy nhất đang cháy gần hết ở phía điện thờ ấy. Không có tượng mẫu, tượng thần gì trưng bày ở đó.

Sân trước ngôi Đền im ắng phả lên hơi nóng hấp thụ từ mặt trời đang đứng thẳng giữa đỉnh đầu tôi. Cái sân bê tông được trát cẩn thận ra đến tận mép dốc xuống của quả đồi khiến tôi hơi hoang mang, nhưng chính sự im lặng của nó lại làm tôi trở nên vững vàng trong cuộc khám phá của mình. Tôi không mong muốn được nhìn thấy một thứ bóng lộn kì công ở nơi này, với tôi những thứ như thế còn lâu mới tiến lại gần được với cái đẹp, cái tôi tìm kiếm chính là màu sắc của sự yên tĩnh và sức mạnh an ủi tâm hồn con người mà những nơi thiêng liêng thường đem tới mặc dù tôi không hề có khái niệm cần tìm kiếm những thứ như thế ở ngoài con người mình. Tôi tự mình đi lên đây, tự mình nhìn vào hết thảy những thứ mà ba tháng nay tôi chỉ nhìn ở một khoảng cách nhất định, nó thấp thoáng phía sau những bụi cây dại không tên tuổi thành một bóng hình mờ ảo, chỉ có những đầu rồng uốn cong phía góc nóc Đền mới là chạm được đến mắt tôi. Nhưng tôi không biết mình sẽ làm thế nào để được truyền cái sức mạnh mà mọi người vẫn nói đến ấy ở nơi này, chính giữa nơi mà tôi đang đứng, thanh lọc cơ thể đang bừng bừng của tôi và để nó trở lại nơi nó đáng lý phải như thế. Tôi tắm mình trong không khí trên cao và nhìn ra xa, cảnh vật không có gì hấp dẫn, cả ngôi Đền cũng vậy. Thân thể tôi bắt đầu bứt rứt ở một điểm mà tôi chưa bao giờ hình dung được, có cái gì thôi thúc tôi phải hành động. Tôi tảng lờ nó, ngồi xuống giữa cái sân bê tông nhỏ, xếp bằng và hướng mắt mình về phía những đầu rồng ngậm ngọc trên mái Đền. Mảng tróc ố màu thời gian của lớp sơn ngoài nóc mái giống như những vết thương lở loét ngay trong cơ thể tôi lúc này. Mới có một thời gian ngắn mà tôi cảm thấy mình như một con hủi đã đến kì không nên tiếp xúc với thế giới bên ngoài nếu không muốn bị ném cho những ánh mắt kinh tởm. Tôi tự thấy mình như thế, tự ném cho mình những ý nghĩ kinh tởm về bản thân mình, mình tàn héo, và tróc ra từng mảng. Màu xanh của rêu chạm vào những vết thương khiến chúng nảy lên vì xót, vì buốt, và rồi rêu nằm ở đấy, mãi mãi, che đi cái màu da thịt tróc lở kinh tởm mà tô lên chỉ một màu xanh nhờ nhờ. Những gì tươi mới nhường chỗ cho sự cũ kĩ và ẩm mốc. Bốn bức tường của ngôi Đền giấu kĩ trong sự ảm đạm của nó, phơi mình ra trước cái nắng trưa chỉ là một sự câm lặng vĩnh hằng, giống sự cam chịu hơn là một nỗi thanh thản. Nó không khoe ra những gì bên trong nó, hay nó chỉ không muốn cho tôi thấy, ấy là quyền của nó, tôi nghĩ, nhưng cái tôi yêu cầu từ phía nó, nó cũng không cho tôi, mặc dù tôi không phải là một thành phần ngoan đạo , nhưng tôi cũng tự cho phép mình có cái hạnh phúc được nhận một liều thuốc từ phía nó!. Ngôi Đền vẫn lặng thinh trước chất vấn của tôi, sự xanh xám của bức tưởng bủa vây lấy câu hỏi của tôi mà nuốt chửng, dùng ánh mắt chỉ một màu nhờn nhợt của nó mà giương về phía đối phương đang ngồi chịu trận giữa khoảng sân bé con. Ấy là tôi của một ngày trong quá khứ bắt đầu trương lên dưới cái nhìn của những vết ố.

Sau khi rời khỏi nơi ấy trở về nhà, vết thương trong lòng tôi không những không được chữa khỏi mà thậm chí còn đau buốt hơn. Tôi bỏ cơm tối nằm ủ trong chăn, cha mẹ nghĩ tôi chỉ bị hành hạ bởi cơn đau mà kì kinh đầu tiên mang lại nên cũng không hỏi gì nhiều.

3.

Sau vụ tôi cho thằng Văn mượn cuốn sách, nó bắt đầu thân thiện với tôi hơn. Nó nói nhiều hơn với tôi, ban đầu chỉ là những chuyện vặt vãnh trong lớp, về những đứa không liên quan, về các môn học và các giáo viên, sau nó còn bắt đầu hỏi về tôi, và nói về nó. Một dấu hiệu tốt mà tôi đồ rằng sẽ là một khởi đầu mới cho cuộc sống của nó sau này, khi mà nó quyết định sẽ đi học đại học ở một thành phố lớn hơn và làm quen với những con người đầy đủ cảm giác hơn nó, học hỏi những thứ mà ngôi trường này và gia đình đã không dạy nó. Cái đấy nằm ngoài kế hoạch nho nhỏ của tôi, cũng nằm ngoài khả năng suy đoán của tôi, nhưng cái vẻ mặt dễ chịu của nó mỗi ngày đến lớp khiến tôi cũng an tâm hơn phần nào, và làm cảm giác tội lỗi của tôi về hành động sai trái của mình trước đây bớt dày bì lên trong cuống họng mỗi khi nói chuyện với nó. Tôi còn phát hiện ra khi nó cười, hai bên khuôn miệng nó tạo thành hai đường rãnh sâu, duyên dáng đến độ tôi bị lóa mắt như khi phải nhìn thẳng vào mặt trời. Nó không đẹp, thậm chí nhiều đứa trong lớp ác ý còn nói khuôn mặt nó giống như con dơi quắt lại, nhưng ở nó toát lên một sự sạch sẽ trắng bóc mà không đứa nào trong lớp với đống bộn tiền của cha mẹ nó mang lại. Tôi ưa thích cái sự sạch sẽ của nó đến độ sau này khi đã sống cách xa nhau hàng trăm ngàn cây số, tôi vẫn bị ám ảnh bởi sự sạch sẽ ấy đến độ chỉ tìm những người đàn ông sạch sẽ mà yêu thích.

Nó ham thích sách như tôi nhưng không đủ khả năng chi trả cho việc đó. Thư viện thị trấn bị nó cày nát hết cả nhưng sách ở đó chỉ có hạn, còn lâu mới sách bằng cái ham mê trong việc đọc của nó. Chính thế nó lại càng quấn quít tôi hơn. Tôi chẳng có gì trong ngoại hình cũng như trong tính cách hấp dẫn nó ngoại trừ tủ sách của cha tôi. Và tôi sẵn sàng đưa cho nó bất cứ cuốn sách nào nó yêu cầu kể cả cuốn sách cha cấm tôi được đụng vào, thay cho một lời xin lỗi, mọi thứ tôi làm đều muốn bù đắp cho nó giống như tình cảm người mẹ yêu thương dành cho đứa con vì đã không cho nó được một cuộc sống đầy đủ hơn. Tôi sẽ hỏi cha mình về bất cứ vấn đề nào mà Văn băn khoăn trong các cuốn sách rồi sau đó giải thích lại cho nó. Nó hâm mộ cha tôi vì sự uyên bác của ông, hâm mộ mẹ tôi vì tính cách lặng lẽ của bà, hâm mộ tôi vì tôi là con hai vị đó. Một lần tôi bảo nó về nhà mình ăn cơm vì mẹ tôi lộ ra ý lo ngại với cha tôi rằng tôi không hòa đồng được ở trường nên có thể không kết được đứa bạn nào. Văn khiến cha mẹ tôi khá hài lòng với cái vẻ mặt cam chịu và những nụ cười gượng gạo khi phải ngồi trên bàn ăn mà ăn cơm. Tôi giải thích cho cha tôi rằng nó thích những cuốn sách, ba tôi liền hỏi nó đã đọc những cái gì vì theo ông một con người dễ dàng được đánh giá qua những thứ mà họ chọn đọc.Văn liền kể ngay không vấp váp tất cả những tiêu đề trong tủ sách của nhà tôi và cả trong thư viện. Cha tôi gật gù tỏ vẻ đồng ý, như thế nghĩa là ông thấy Văn cũng là một người bạn "khá được", còn tôi thì biết chọn bạn mà chơi. Cha nói với Văn nếu có bất cứ vấn đề gì cứ tìm ông, còn mẹ tôi nói cứ đến đây bất cứ khi nào cháu thích. Cha mẹ tôi từ trước đến nay chỉ đưa ra những nhận xét về những người bạn mà không hề áp đặt lên tôi việc không được hay được phép chơi với một người nào. Họ để tôi có quyền lựa chọn và tự đưa ra cách đáng giá của mình, điều này tạo dựng nên trong tôi một lớp kính tuy hãy còn khá mờ nhưng sau này sẽ giúp đỡ tôi trong việc chọn lọc các mối quan hệ của mình.

Sau bữa tối, tôi chỉ cho nó ngôi Đền trước mặt ngôi nhà, nói với nó rằng tôi đã đến đấy một lần nhưng cảm giác hoàn toàn sai khác. Nó không nói gì, chỉ gật gù và bảo ngôi đền ấy đối với người trong thị trấn này rất thiêng liêng. Rồi hai chúng tôi chia tay nhau để nó ra về vì đường về nhà nó xa và tối tăm, nó phải đạp xe đạp (cái xe có cái ngạnh ngang trước yên xe như của mẹ tôi nhưng rỉ sét và thường kêu kẽo kẹt theo mỗi lần bánh xe quay một vòng) gần một tiếng mới về được đến nhà. Từ đó cuộc sống có thêm một người bạn của tôi dễ chịu hơn, đến lớp trao đổi bài vở và sách, ra về. Mỗi sáng đi học tôi đều tự cuốc bộ vì chỉ có một đoạn ngắn, nhưng gần đây Văn hay cho tôi quá giang vì nó muốn đến trường phải đi qua nhà tôi. Bọn cùng lớp bình thường không để ý đến hai chúng tôi, nhưng chuyện hai đứa tôi đèo nhau đến trường khiến chúng tò mò, từ đó nổi lên cái tin đồn rằng hai đứa chúng tôi yêu nhau và cả lũ ngạc nhiên khi thấy cha mẹ tôi không hề có ý kiến gì về việc ấy. Với chúng, những đứa trẻ mới lớn bắt đầu có những tình cảm riêng tư, xây dựng các mối quan hệ giữa nam và nữ chỉ dựa trên một điều duy nhất ấy là cái cảm giác hứng thú về nhau, bố mẹ chúng ngoài việc tạm gác công việc riêng lại khoảng năm phút để răn dạy về những yêu đương tuổi mới lớn ra thì không còn thời gian cho chúng nữa. Tôi đã rất ngạc nhiên suốt cả khoảng thời gian ấy về chuyện một đứa con gái trong lớp, thuộc loại khá xinh xắn, da nó trắng hồng lên dưới lớp áo đồng phục, còn phần chỏm má dưới hai con mắt to tròn lúc nào cũng ửng đỏ, có cảm tình với một thằng con trai học trên một cấp. Thằng con trai thì tôi không biết gia đình nó có ngăn cấm gì không, nhưng đứa bạn cùng lớp ấy bị bố mẹ nó cấm không được đi ra ngoài đường sau buổi học, đi học cũng có người đưa đón, và chỉ cần một dấu hiệu nhỏ tỏ sự lơ đãng là nó sẽ bị cô giáo báo cáo ngay lại với bố mẹ nó. Thế là từ một lẽ tự nhiên trong quá trình phát triển tâm sinh lí cần phải trong sáng, những thứ tình cảm ấy bị vùi lấp đi trong vòng gọng siết chặt của những người lớn - những người cho rằng không thể quản được thì cấm. Tôi nói chuyện với bố tôi về vấn đề này vài lần, ông với tư cách là một người cha có kinh nghiệm, đã bỏ ra hẳn một buổi chiều ở phòng khách, để phân tích cho tôi nghe tâm lí của những người làm cha mẹ:

"Con không hiểu, vì sao phải cấm đoán?"

"Ấy là vì ngay từ đầu người ta đã không giáo dục con cái ở mức độ mà đến tầm tuổi này, chúng có thể tự lập trong suy nghĩ được ! Ấy là một quan niệm hết sức sai lầm nhưng lại rất dễ bắt gặp. Con cần phải mở to mắt mình và nhìn vào các vị ấy, con có thấy trong ánh mắt họ có sự dễ dãi vì được nhàn nhã không? Ở một nơi như thế này không làm việc thì không có cái ăn, và muốn có một ngôi nhà khang trang với xe cộ và con cái được học đại học thì phải làm việc thật lực. thế nên người ta quên luôn cái việc phải giáo dục con cái ra sao, mà cũng chính vì một thế hệ đi trước chưa cho các bậc phụ huynh của thời đại này hưởng một nền giáo dục an toàn nên họ lại lặp lại điều ấy, con hiểu không?"

"Thế nên tụi con không thể yêu nhau ư?"

"Trước hết, con gái, nghe cha nói, con được phép yêu, cha mẹ không thể kiểm soát tình cảm của các con. Nhưng cái tình yêu mà con nói đến có thể đẹp, có thể không, là dựa trên góc độ và suy đoán của chính bản thân các con. Vì thế mới nói chuẩn bị cho các con những kiến thức chắc chắn là cần thiết, để các con vẫn cảm thấy tự do nhưng mãi mãi về sau này sẽ không hối hận về chuyện tình cảm trẻ tuổi này."

Tôi suy nghĩ về những điều cha nói:

"ĐỨa bạn cùng lớp con bỏ nhà ra đi vì nó nói nó không chịu được sự quản lí của bố mẹ nó.."

"Điều ấy là tất nhiên rồi.." Cha nhún vai và mỉm cười khi nhìn vào mắt tôi. Tôi biết ở tôi có cái gì làm ông tin tưởng, vì những lý thuyết đã ngấm vào máu tôi kể từ khi tôi bắt đầu nhớ được sự việc, hay từ những thứ mà ông cho rằng tôi đã tiếp thu được ở một nền giáo dục lạc quan của môi trường thành phố hiện đại?, cha mẹ chưa đẩy tôi đến độ nảy ra một ý nghĩ muốn bỏ nhà ra đi, hay tôi cảm thấy căm ghét chính cha mẹ mình. Họ để tôi vùng vẫy trong vùng không gian riêng tư của mình và chắc chắn rằng tôi sự tự tìm được một con đường sáng để đi, họ chỉ ghé mắt vào nếu tôi im ắng quá lâu, điều này tôi rất cảm kích.

"Vậy con được phép yêu chứ?"

"Chữ yêu cha nghĩ hơi nặng nề trong trường hợp này, nhưng tất nhiên, đấy là quyền tự do của mỗi con người"

Tôi nhận được câu trả lời như tôi mong muốn, quá đơn giản, quá thẳng thớm, khiến tôi càng trở nên băn khoăn với những mong muốn cực đoan của các bậc phụ huynh khác. Tôi không bao giờ, không bao giờ quên được cái ngày cô bạn xinh xắn có đôi má ửng đỏ trèo xuống khỏi xe của mẹ mình, chạy vào lớp và òa khóc trên đôi vai của cô lớp trưởng cũng là bạn thân của cô ấy. Tôi thầm một lần nữa cảm ơn cha mẹ mình vì đã có những suy nghĩ tích cực về cái cách mà trẻ vị thành niên được lập trình để học những điều mới mẻ trong cuộc sống. Tôi chợt nghĩ về Văn, thằng bạn cùng bàn, yêu sách và có chiếc xe đạp cũ mèm thường đón tôi khi tôi vừa ra khỏi cổng nhà. Tôi định hỏi nếu cha rằng lỡ tôi thích Văn thì sao, nhưng ông đã rời khỏi bàn uống nước và leo lại vào phòng làm việc của mình. Mẹ tôi ở bếp vẫn không ngừng chạy đi chạy lại giữa bếp ga, bồn rửa bát, tủ lạnh....

Bị bọn bạn trong lớp nói tôi và Văn là một cặp yêu nhau không làm tôi bận tâm lắm, nhưng điều tôi ngạc nhiên hơn cả là chính Văn cũng không phản ứng gì trước lời đồn ác ý của lũ bạn. Nhìn mặt nó mỗi khi dừng xe trước cổng trường, đặt chân xuống đất chờ cho tôi xuống hẳn mới dắt xe vào bãi gửi xe thản nhiên đến độ như chuyện ấy là điều mà mỗi ngày nó đều phải làm. Đôi khi lũ bạn ở trong lớp cố tình nói lớn để chúng tôi và giáo viên nghe thấy, rồi cười những tiếng lảnh lót, với tôi những tiếng ấy chỉ giống như những lá tre mảnh và nhọn, rơi ra khỏi thân tre rồi theo gió xoáy tròn, chạm vào mặt đất rồi nằm im ở đó cho đến khi mục nát, không hơn. Tôi có lần thử nhắc tới chuyện lũ bạn trong lớp thì thầm với cậu ta thì cũng chỉ nhận được một cái nhún vai "kệ chúng nó". Bố mẹ Văn là những nông dân thực sự, dù tôi chưa bao giờ đến nhà nó chơi nhưng tôi cũng tưởng tượng được gương mặt bố mẹ nó nhăn lại như hai quả táo tàu, hai cơ thể nhỏ bé rúm ró trong bộ quần áo đã không còn ra màu gì. Nụ cười của họ mỗi lần nở ra chỉ như cái bóng nắng chiếu lệ đầy những miễn cưỡng. Họ hẳn chưa bao giờ học đến quá lớp cơ sở, và móng tay móng chân lẫn đầu tóc lúc nào cũng là một sự bí ẩn đen sì. Nhưng Văn lại không bị tác động bởi lệnh cấm trong giai đoạn của sự phát triển sinh lý này, hoặc như cậu ta bỏ ngoài tai lời răn đe của bố mẹ cậu?, tôi chắc không đời nào Văn không nghe lời bố mẹ mình, vì hai gương mặt khắc khổ ấy đã nói thay hết những lời phải nói.

Tôi cho rằng quá lý lẽ mà cha mình đưa ra không còn cơ sở đứng vững trong trường hợp của Văn, bố mẹ cậu ta bận bịu đến độ không có cả thời gian để cấm, và từ đó cậu ta tự thân tạo dựng được cho mình một bản thể riêng biệt nhờ ý thức được thế giới bên ngoài mài dũa, từ điểm đó, tôi thấy mặc dù hai chúng tôi có những hoàn cảnh và trường hợp khác nhau nhưng ở một góc độ nào đó, cái cách mà chúng tôi tự xây dựng nên bản thể tự thân của mình thì hoàn toàn giống nhau, và dù cho mỗi con đường hai đứa đang đi có khác nhau và nhiều đổi thay thì chắc chắn ở điểm dừng của chuỗi phát triển chắc chắn sẽ vẫn chỉ có một kết quả. Điểm này chính là lí giải cho việc mối quan hệ của chúng tôi phát triển thành tình bạn mà theo tôi biết quan hệ kiểu này xuất phát điểm là từ những thiếu sót của hai bên được bù đắp, hoặc từ chỗ sự ngang bằng nhau về mặt tính cách. Từ đó trở đi tôi không còn nhìn Văn với ánh mắt mà tôi thường dùng nữa, cái ánh nhìn ở phía dưới và gương mặt với hai hốc mắt chìm sâu vào trong bỗng trở nên méo mó với những lẫn lộn giữa những trạng thái mơ hồ trong suy nghĩ của tôi, mọi thứ không còn bị trọng lực hút nữa mà bay lơ lửng trong không gian không theo bất cứ khuôn phép nào và nằm ngoài tầm kiểm soát của bản thân tôi. Cái bóng của nó giờ lớn và đậm hơn, đứng bên cạnh cái bóng của tôi nó hoàn toàn là một cá thể độc lập và có suy nghĩ riêng được bản thân tôi thừa nhận và tiếp thụ. Tôi học cách bày tỏ mình ở một nấc thang khác, cao hơn trong thế giới mà tôi chưa từng nghĩ mình có khả năng bộc bach. Tôi không tìm được một trật tự để sắp xếp cái phát hiện mới mẻ của mình để nó khớp với cảm nhận ban đầu của tôi về người bạn cùng bàn, điều ấy làm tôi thêm một lần nữa bứt rứt vô cùng và kí ức về vụ cuốn sách "ác quỷ Nam Kinh" lại hiện ra rõ mồn một, cùng theo nó là cảm giác tội lỗi bức bối mà tôi tưởng như đã quên được nó nay lại bùng kèm theo những tiếng lanh canh.

Tôi đang ngồi trong phòng mình khi những ý nghĩ ấy vừa mon men ngoi lên, nhưng một chuyển động từ ngôi nhà phía sau thu hút sự chú ý của tôi khiến tôi tạm gác nó sang một bên. Đó là người đàn bà giữ Đền, bà ta vừa tiến vào sân trước ngôi nhà thấp hẳn xuống phía dưới so với nhà tôi, xe ga màu đỏ chói lựng lên y như màu môi tô đậm của bà ta. Mái tóc ngắn uốn xoăn quá đà nổi bật lên trên nền mặt dậm phấn trắng toát thành một thứ điểm tô kì quái, như con búp bê bị người ta trang trí để hù dọa lũ trẻ con trong những cơn mơ dữ dằn. Từ góc độ này tôi thấy rõ mọi động tác vành vẻ của người phụ nữ ấy, cái cách bà ta mỉm cười, cách bà ta nhấc một chân để bước xuống khỏi yên xe, cách bà ta rút chìa khóa khỏi ổ. Căn nhà vẫn vắng lặng không có một tiếng động chứng tỏ có người ở nhà, nhưng bà ta cứ thế tiến vào như biết rõ tất cả mọi thứ bên trong. Ngôi nhà hút lấy người phụ nữ đánh chụt một cái, nuốt luôn cả nụ cười mà ngay khi vừa bước chân tiến vào bà ta đã nở ra, rồi nhả ra quả bóng lừng lững của sự vô thanh. Bầu trời ngả dần về tối khi mẹ gọi tôi xuống ăn cơm mà chiếc xe máy của bà ta hãy còn ở sân trước, im lìm.

Ở khối lớp Tám có một đứa con gái cùng làng với Văn, thi thoảng khi cho tôi đi nhờ đoạn đường đến trường, cô bé ấy vẫn đạp xe bên cạnh nói cười vui vẻ. Cái không gian chung giữa ba người này luôn khiến tôi có cảm giác bồn chồn không yên, nhưng có vẻ hai người kia hoàn toàn không cảm thấy có điều gì bất thường trong chuyện này. Mỗi khi ngồi đằng sau nhìn gương mặt của hai người cười nói vui vẻ, kể cho nhau nghe những thứ xung quanh họ, nhưng thứ mà tôi không thể hiểu nổi về cây lúa, về chuồng trâu, về thức ăn cho lợn hay về đi rừng...gương mặt tôi lại bị một bóng đen chiếm lấy khiến hai tai ù đi, miệng lạo xạo những viên sạn nhỏ xíu không biết từ đâu chui vào, còn chân tóc thì ngứa râm rẩm như đang bị xâm hại bởi hàng ngàn con chấy nhỏ. Câu chuyện giữa ba chúng tôi chỉ thực sự bắt đầu khi Văn thấy sự im ắng đằng sau lưng của nó biến thành một cái gì cũng bứt rứt không kém, đành phải hỏi tôi vài câu cho phải lẽ, nhưng những bánh răng trong cái máy bỗng dưng lệch lạc và chậm chạp, khiến mọi thứ cứ vỡ vụn ra như mẩu bánh bích quy đã khô rạn. Những điểm chung giữa hoàn cảnh hai con người đang gò lưng đạp vào cái bánh xe mòn vẹt bỗng dưng biến thành một quả cầu chứa đựng những sắc màu thiêng liêng mà không phải ai cũng có thể thèm khát và tự bước vào, chất nhựa chảy ra từ quả cầu ấy nó có mùi hắc ín và in lên thành não bộ những kẻ không quen một sự thật buồn tẻ sắp trào lên thành cục trong cổ họng. Tôi luẩn quẩn trong cái ý nghĩ về quả cầu, hình dung mình như cô Alice nhỏ chơ vơ giữa một thế giới hỗn mang giữa thực và ảo, những giá trị bị đảo lộn và tâm thế chuyển đổi vần vũ thành những vầng hào quang tròn xoe tỏa ra từ giữa trung tâm của sự sống. Tôi không bận tâm đến sự thật rằng tôi khoong biết một chút nào về thế giới của người bạn nhỏ ấy, nhưng cái tách bạch giữa hai chúng tôi bỗng trở nên rõ ràng và biến cái bóng trải dài của Văn thành một tấm lưới không an toàn mà tôi của thể bám vào như trước. Mỗi khi bất đắc dĩ phải ở bên trong cái quả cầu phả mùi hắc ín của Văn và cô bé lớp dưới tôi đều phải dùng sức mạnh của tâm tưởng và lắc đầu mình thật mạnh để từ đó bật ra một khái niệm mới về sức mạnh tinh thần, chỉ có nó mới giúp tôi đứng vững trong cái mối quan hệ nhằng nhịt chính là nơi khởi nguồn của mọi tình cảm khó vượt qua ấy. Tôi nửa muốn tiếp thu, nửa lại giằng co với bản thân để dứt ra khỏi nỗi ham muốn ấy. Văn đã tác động lên tâm trí tôi một lực phát mạnh mẽ, nhưng âm thầm và không gây đau đớn, đến độ cho tới khi tôi nhận ra nó là cái gì, thì mọi thứ đã quá muộn, tôi đã không còn ở nơi có thể tiếp nhận và trao đổi nó tới người cần được tiếp nhận nữa. Tôi không bao giờ ghen ghét với hai khuôn mặt mà từ đó một làn hơi tươi mới phả ra của họ, chính tôi cũng không biết nếu không vì lí do ghen ghét thì tại sao tôi lại bối rối khi phải đối diện với nó, có thể chính cái lúc ấy, cái tôi của tôi bị đánh gục chỉ lớn hơn thân cây gãy sau trận bão một chút, nên tôi thấy mình bị loại bỏ, thừa thãi trong làn hơi tươi mới ấy. Hoặc, những thứ ấy đã không chấp nhận tôi như một phần của nó,khiến tôi tự cảm thấy điều nó muốn tôi thấy, để nó không phải trực tiếp ra tay với tôi.

Dù gì chặng đường ba chúng tôi đi chung cũng chỉ có hạn, đến trường, nơi những đứa còn lại đang chờ đón bằng những nụ cười mỉa mai dành cho nhóm bạn kì cục, họ liền rời xa nhau trở lại vị trí của mình, Văn đứng cạnh tôi, cô bé đi về lớp học của cô, làn tươi mát của họ tự lúc nào cũng biến mất. Tôi lấy lại vị thế của suy nghĩ của mình, dành nó tập trung cho buổi học và đầu tư một chút vào không khí trong lành của bầu trời. Những lần đầu chịu đựng cảnh ba người đi chung một đoạn đường tôi đã không kiểm soát được mình, bỏ chỗ ngồi của mình để vòng ra phía sau sân trường, là một khu vườn trồng rau ăn và một số loại cây thân nhỏ. Tôi ngồi đó ngắm nghía bầu trời và vườn rau, định hình lại những tình cảm, rồi mới có đủ can đảm đối mặt với Văn. Tôi thích cây cối, đặc biệt là những loại cây có tác dụng cụ thể, và hoa. Khu vườn này cũng do học sinh canh tác trong các giờ lao động tập thể, nhưng là nguồn rau cung cấp cho các bữa ăn của giáo viên trong trường. Chúng tôi không bao giờ phàn nàn gì về việc ấy, đó là một lời cảm ơn mà chúng tôi dành cho các giáo viên đã mài mòn năm tháng của mình ở nơi chán ngán này để lặp lại hàng ngày những câu nói, cử chỉ và biểu hiện của mình. Vườn rau chia thành các luống không thẳng hàng, trồng một số cây rau cơ bản dễ lớn như rau cải canh, rau xà lách, rau dền lẫn trong mấy dây leo rau mồng tơi, mấy cụm rau ngót đã bị tuốt đến tận gốc.... Chúng mơn mởn dưới cái nắng nhiệt đới, nhưng mát và khô ráo. Ở một số chỗ cây rau cải bị ngắt sót còn ngẩng đầu khoe lên cao hẳn những cái hoa màu vàng rung rinh. Trong góc vườn còn có mấy cây ổi và thân chuối thấp nhỏ. Một cây hoa đại lạc loài trong vườn rau cũng vừa kịp trổ một chuỗi hoa vàng rồi giữ nó im lìm trên cành. Các lớp học im ắng, thi thoảng tiếng của một giáo viên nào cất lên cao hơn hẳn so với sóng âm thanh truyền đi trong không khí mới vẳng lại được phía vườn sau này. Tôi bó gối nhìn những cái dập dờn của đám rau khi một cơn gió lẻ loi vừa chạy qua, quệt một đường thẳng tắp. Lòng tôi chùng xuống trong một cơn buồn ngủ bất ngờ, như khi đầu óc đã hoạt động quá công suất của nó.

Những lần sau mọi chuyện đã đỡ khó xử hơn, tuy những khó chịu trong tôi vẫn còn đấy nhưng tuổi trẻ luôn luôn được bồi đắp trong hàng ngàn kiến thức hiện thực tươi mới, khiến cho mỗi ngày đều là một ngày bận rộn, không chủ đích những suy nghĩ trong tôi cũng tự động lui về nơi thiếu ánh sáng, mặc dù Văn cũng có một vài lần hỏi tôi về sự im lặng của mình khi cả ba người đi chung, tôi quá quấy bảo với nó rằng tôi chỉ ngại vì phải nói chuyện với người lạ thôi. Tôi không nói dối, tôi chưa bao giờ thấy hứng thú khi phải nói chuyện với người lạ, bắt đầu một mối quan hệ lâu dài (kể cả sau này này cũng thế) luôn luôn là một trở ngại, nhưng trong câu chuyện với Văn, đấy chưa phải là tất cả. Tôi không phủ nhận những yếu tố tốt đẹp của Văn tác động lên tâm hồn tôi như làn gió tác động nâng đỡ cánh bướm, nhẹ nhàng nhưng hữu ích, nhưng một đôi khi ở một thế ngược lại, tôi không chắc những tác động của mình lên nó có mang lại hiệu quả tích cực?, sau những suy tư không có nguồn gốc và hồi kết mà tôi giữ cho riêng mình để tránh một hiểu lầm không đáng có giữa ba chúng tôi, tôi cảm thấy có những điều mà thực chất tôi không thể nào chia sẻ với người ngoài, thậm chí là Văn đi chăng nữa, nó cũng không thể nào động tới được một phần riêng biệt đó của tôi. Đấy không phải là tín hiệu đáng mừng hay gì cả, đối với tôi xây dựng bản thể mình hoàn chỉnh có một mục đích rõ ràng, nhưng quá trình thì phức tạp và gây cho tôi không ít những bất ngờ, có chuyện hay, có cái lại dở, nó ảnh hưởng đến tâm lí và cái nhìn của mình đối với những người xung quanh, từ đó tạo cảm giác không chắc chắn về sự tồn tại và lí do tồn tại hoặc lí do tác động của mình lên người đó. Sau chuyện lần này tôi hiểu thêm về mình, và cũng hiểu thêm về sự khác biệt trong giới hạn của tình bạn giữa tôi và văn. Nó cũng không bận tâm nữa, để những tháng ngày của nó trôi đi êm ả bên cạnh những băn khoăn của tôi.

4.

Thị trấn Mát chỉ vỏn vẹn 20km2, trải ra hai bên của trục đường chính mà nhà tôi nằm ngay đầu con đường. Thị trấn nổi tiếng nhờ những cây long não cổ thụ ở hai bên con huyện lộ trải nhựa đường thẳng tắp . Trải qua những lần chiến tranh thuộc loại khốc liệt nhất thế giới nhưng hai hàng cây vẫn đứng sừng sững ở đó tự bao giờ, giơ những cái thân xù xì ùn lên những mấu, những cục vì năm tháng hiên ngang chọc lên bầu trời. Những tán cây lớn rợp bóng cả con đường khiến thị trấn tự gọi mình là Mát vì cứ đến mùa hè những mái nhà hai bên đường, những người đi dưới bóng cây đều không bị ảnh hưởng bởi cái nắng chói chang xứ này. Hơn thế nữa, cây long não cổ thụ có một thứ mùi rất riêng biệt vừa giống như trầm hương lại vừa giống như mùi cỏ mát, cứ mỗi mùa trổ hoa lại len lỏi vào trong tâm trí cư dân ở đây để lại dư vị không thể nào quên.

Thị trấn nhỏ nên ai cũng biết nhau, tạo nên một cộng đồng nhỏ thân thuộc đến từng thói ăn ở đi lại của nhau. Từ sự hiểu nhau quá rõ ấy, mọi người trong thị trấn vừa thông cảm, vừa sẻ chia dễ dàng hơn, nhưng từ đó cũng xảy ra nhiều chuyện rắc rối.

Trước hôm thi học kì một, một chuyện đã xảy ra trong xóm tôi. Vừa lúc tôi đi học về thì thấy một nhóm người lớn xúm đông lại trước cửa nhà người phụ nữ trông coi ngôi Đền, một tiếng cao vút và ồn ã cất lên giữa những tiếng lao xao nhỏ hơn ở chung quanh. Tôi không ý thức được mình đã thấy mình len lỏi vào giữa đám đông lố nhố những cái đầu cao hơn tôi đến mười phân. Giữa vòng người là một người đàn bà đang quỳ dưới sân trát xi măng tuy thẳng thớm nhưng đã ngả màu cũ kĩ. Khi này không khí đã ngả lạnh cái lạnh ê ẩm âm thầm của mùa đầu đông nhưng người đàn bà chỉ diện độc một cái áo cánh với chiếc quần âu cũ kĩ. Nhìn dáng điệu cũng đủ biết bà ta là người làm việc ăn lương nhà nước, đầu tóc không tỉa tót, không nhuộm màu, chỉ đơn giản buộc bằng một cái dây chun màu đen. Khuôn mặt bình thường không có vẻ gì nổi bật của bà ta đang nhăn nhúm khổ sở trong làn nước mắt chắc đã trào ra từ lâu lắm. Nếu gặp người đàn bà này trong một hoàn cảnh khác thì tôi chắc chắn sẽ có cảm tình với sự sạch sẽ tỏa ra từ mùi nắng trong thứ phục trang trên người, giống như Văn, dù không phải đồ mới cáu cạnh nhưng lúc nào cũng sạch sẽ. Nhưng giờ đây hai chỗ quần ở đầu gối bà ta xộc xệch những vệt trắng do ma sát với bề mặt bê tông, hẳn da thịt ở phía trong cũng không được yên lành, nhưng bà ta không để ý, bà ta hãy còn bận giơ hai bàn tay mình lên cao rồi đập xuống hai bên đùi tạo ra tiếng phành phạch, đen đét phụ họa cho màn khóc lóc thảm thiết mà phần nhiều là tôi nghe thấy là mấy chữ "ối giời ơi". Tôi tập trung thính giác của mình để không bị xao nhãng bởi cảnh tượng trước mắt, tôi dần hiểu ra những lời bà ta nói và những lời người xung quanh đang rầm rì chỉ trỏ. Có người nói bà này làm việc cho một công ty bảo hiểm nhỏ ở phía cuối thị trấn, làm kế toán ăn lương, chồng hay đi mỏ quặng, gia đình bình thường. Nhưng đột nhiên hôm nay bà ta phát hiện ra thằng con trai mình mới hơn mười tuổi bị xâm hại, mà thủ phạm không ai khác chính là người phụ nữ tóc ngắn có gương mặt lúc nào cũng trang điểm đậm ở cách nhà tôi ba căn này. Nghe xong câu chuyện, tôi tự nhẩm lại thành tiếng hai chữ "xâm hại" để nó thấm vào đầu mình, lúc này tôi vẫn chưa kịp hiểu mức độ nghiêm trọng trong hai chữ ấy, định bụng để về hỏi ba, đành trơ mắt nhìn tiếp cảnh tượng đập phành phạch tay vào đùi và gào khóc của người đàn bà trước cái cổng sắt trơ tráo cứ đóng im ỉm. Tôi không biết chủ nhân ngôi nhà có ở trong không, bà ta có nhìn thấy hai đầu gối người phụ nữ này phủ đầy những đường vân trắng không, thấy những giọt nước mắt mà tôi không hiểu vì đau buồn, tức giận, hận thù hay bất lực hay tất cả chúng cộng lại đang chảy tràn ra trước toàn thể những người không liên quan này hay không,..nhưng trong không khí ảm đạm của những người đứng xung quanh, tôi bỗng thấy mình đột nhiên nhỏ lại chỉ bằng một con côn trùng, hai bên miệng tôi là hai cái răng vừa dài vừa quặp đen trũi mở sang hai bên mép, hai cái răng đánh vào nhau thành những tiếng bép bép, hai cánh tay tôi trở thành đôi cánh mỏng dính có thể nhìn xuyên thấu qua đang xòe lên trong tư thế sẵn sàng bay. Tôi đưa mắt về phía nơi có tiếng động lớn nhất phát ra là cái trung tâm của vòng tròn người, chuẩn bị vỗ đôi cánh mỏng bay đến đậu lên vai áo của người đàn bà, rồi tôi sẽ xoay một vòng trên những cái chân mình, để bà ta cảm nhận thấy chuyển động đang bao bọc thứ dư vị mà tôi muốn truyền đến, để người ấy tạm quên đi việc khóc lóc và đập tay vào đùi, thay vào đó dùng tay đập bẹp cái thứ đen sì là tôi đang bậu trên vai. Nhưng một cánh tay kéo giật tôi ra khỏi những ý nghĩ, đó là mẹ tôi, bà xách một bên tay mà vừa nãy còn là cái cánh mỏng có thể nhìn xuyên qua được của tôi kéo về phía nhà, rời xa đám đông hãy còn ồn ào và rời xa tiếng vọng ra thảng thốt của người phụ nữ áo cánh. Tôi chỉ vừa kịp nhận ra mẹ đang kéo lê tôi đi trên vỉa hè, kêu lên một tiếng A thảng thốt, đã thấy mẹ đóng hai cánh cửa lại. Cha tôi đang ngồi ở xa lông , một việc mà hiếm khi ông làm khi chưa tới giờ ăn cơm. Mười ngón tay ông đan vào nhau, cùi trỏ đặt trên mặt phẳng của đùi, người ông gập hẳn về phía trước, tựa vào hai điểm đỡ duy nhất ở trên đùi. Tôi bấm những đầu ngón tay vào hai quai ba lô đang đeo trên lưng, dồn toàn bộ sức lực vào đó để tránh bật khóc. Tôi không biết vì sao cơn thổn thức lại xô đến lúc này, sau tất cả những gì vừa chứng kiến, tôi cứ tưởng tượng ra cảnh thức của việc "xâm hại"" mà vẫn không tài nào nắm bắt được ý nghĩa thực sự của nó. Chính vì thế mà tôi muốn khóc ư?, không, không phải như thế, có cái gì nữa hơn thế sâu trong tôi hiểu hết tất thảy những thứ đó, và nó lớn lao đến độ vượt quá phạm vi diễn đạt bằng cảm xúc và hành động của một đứa con gái mười lăm tuổi, nên trào dâng thành cơn nức nở của sự uất ức. Tôi quyết chí không thể rơi một giọt lệ nào trước mặt cha mình, người đang ngồi kia dù không cần nhìn nhưng cũng biết tôi sắp sửa bật khóc. Mẹ tôi nhìn thấy những nếp hằn hai bên khóe môi tôi đã chạy vào trong bếp, như tất cả mọi lần khác bà chạy trốn khỏi tôi. Chỉ còn cha tôi là ngồi kia đợi tôi đi tới. Đột nhiên tôi nhớ ra hình ảnh người phụ nữ tóc ngắn ấy đã có lần đi xe máy đến ngôi nhà ở phía sau nhà chúng tôi, nụ cười mà bà ta nở ra khi bước vào phía trong căn nhà quả đã thức dậy trong tôi một số suy nghĩ tồi tệ, nếu như trong đó cũng có một đứa trẻ mới mười tuổi, nếu như trong đó có hai đứa trẻ mười tuổi, nếu như bố mẹ chúng đi làm đến tối mới về?, nếu như mọi thứ chỉ là suy đoán không có kết quả. Tôi mím chặt môi mình hơn, tiến lại gần phía hơi ấm tỏa ra từ người cha mình, tôi ngồi xuống ghế xa lông với cái cặp vẫn còn ở đằng sau. Cha ngồi thẳng dậy ,vòng tay qua vai tôi rồi giữ như thế thật lâu. Hơi ấm từ cánh tay dài của cha truyền vào vai tôi, qua lớp vải dù của cái ba lô hãy còn nguyên trên vai. Tôi cảm nhận được từ hơi ấm ấy không chỉ là một sự nhắc nhở về sự hiện diện của nó, mà còn là một cái vuốt ve bao dung từ người chia sẻ chung một dòng máu với mình. Cơn nức nở của tôi dần dần bị quên lãng đi trong không khí im lặng nhưng ấm áp này, tôi đứng lên, mỉm cười với cha trong khi xoay vai đi thẳng lên phòng mình.

Khi đã yên vị trên giường của mình, kéo chăn đến tận cằm, hình ảnh ngôi Đền đến với tôi trong một bức tranh sáng tối rõ rệt. Tôi đứng ở bên sáng, còn ngôi Đền ở bên tối với những gian nhà có lớp sơn bong tróc nhưng vững chãi, hình dáng của nó khiến tôi liên tưởng đến bộ mặt của những lạc đà trong bão táp giữa sa mạc với đôi mắt nhắm tịt lại, cái miệng trề ra, đương đầu với những trận gió lớn cuốn theo những hạt cát sắc cạnh cứ thế mà phả vào mặt chúng. Nhìn từ xa cả đàn lạc đà đứng chôn chân trong cơn cuồng phong có cái tư thế nhẫn nại và trơ tráo đến không ngờ, qua bao nhiêu thời gian đi chăng nữa thì nó vẫn cứ giữ một dáng vẻ như thế. Với dáng hình như thế tôi đã không nghĩ được rằng ngôi Đền sẽ xử trí thế nào với tội lỗi của người canh giữ nó, nhưng nếu ngôi đền là một sinh vật sống thực sự, có khả năng phán xét thì mọi chuyện bỗng trở nên đơn giản hơn rất nhiều, và tôi e rằng sẽ chẳng có ai dám mang thân mình quỳ trước cửa sân Đền mà cầu xin được phán xét. Không tôi lại đi quá xa trong trí tưởng tượng của mình rồi. Ngôi đền trong bóng tôi không hắt được cái ý niệm của nó về phía tôi đang đứng giữa ánh sáng, tất cả những thứ mà nó làm để tác động được đến tôi chỉ là sự im lặng của nó. Dưới bốn góc sàn nhà tỏa ra một thứ màu tối hơn cả màu đen của bóng đêm, tạo thành những góc 90 độ cứ run rẩy, run rẩy trong ánh sáng tù mù của mấy cây đèn cầy có nắp chụp bằng thủy tinh. Những bóng đen nhảy múa trên bức tường lở loét, không đếm xỉa gì đến vẻ run rẩy của bốn đầu rồng ngậm ngọc trạm trên mái nhà. Những đầu con rồng ấy bỗng nhiên trở nên bé tí, rồi biến mất ngay trước mắt tôi, thay bằng đầu của người phụ nữ có mái tóc ngắn uốn xoăn, cặp mắt bà ta chỉ hé được một phần vì phải căng miệng mà ngậm viên ngọc bằng gỗ. Cửa ngôi Đền mở ra một lỗ đen ngoác rộng chực cười phá lên. Tôi lùi lại và chìm hẳn vào trong một giấc ngủ sâu.

Sáng hôm sau đến lớp tôi kể lại cho Văn sự việc mà tôi chứng kiến ngày hôm trước. Lúc ấy cũng có mặt cô bé lớp dưới cùng làng với Văn mà khi này tôi đã biết tên cô là Thi. Một cái tên nhẹ nhàng và phù hợp với khuôn mặt nhỏ nhắn của cô. Khi này tôi chưa biết đến sự ghen tị, nếu không sự ghen tị về vẻ xinh xắn và nụ cười trên đôi môi nhỏ của cô sẽ giết chết hết những bản chất tốt đẹp mà tôi cũng như cha mẹ tôi cố công gầy dựng. Sau này Văn với cô bé cũng có một thời gian yêu nhau, nhưng rồi sự lại chẳng đi đến đâu. Lúc biết tin hai người chia tay, một tôi hai mươi lăm tuổi đang ở cách xa hàng trăm ngàn cây số bỗng dưng trào lên một cảm giác thỏa mãn ích kỉ, ấy chính là cái tôi nói về sự ghen tị của con người. Tôi căm ghét nó, nhưng nó vẫn ở trong tôi. Nhưng lúc tôi mười lăm tuổi, cảm xúc này chưa hiện rõ thành hình hài, nên khi nhìn thấy khuôn miệng và đôi mắt cô bé Thi bày tỏ một cảm xúc kinh hãi trước câu chuyện tôi vừa kể, tôi lấy làm thích thú lắm. Văn nghe xong không nói gì nhiều, cậu chỉ lắc cái đầu sang hai bên, rồi lại im lặng đạp bánh xe quay vòng như thể để tiếng kẽo kẹt của nó nói thay lời. Tôi cũng không biết mình có nên bày tỏ cảm xúc của mình hay không, đành im lặng tiếp tục cuộc hành trình tới lớp. Chỉ đến khi giờ ra chơi 30 phút Văn mới quay sang tôi mà nói:

"Tớ nghe nói bà ta có hành động này từ lâu rồi. Kiểu như ai cũng biết nhưng chẳng ai nói gì ấy"

"Thật thế ư? Như vậy không chỉ mỗi cậu bé kia là nạn nhân ư?"

"Hiển nhiên là thế! Cậu có nhìn đôi mắt bà ta mỗi khi bà ta đứng cầm hương trong một buổi lên đồng chưa?"- hiển nhiên là tôi chưa được nhìn nên Văn nói tiếp, "mắt bà ta mở to và trâng tráo, không như những người khác đang lim dim trong cái không khí thiêng liêng gì đó mà tớ chẳng hiểu được, tớ chỉ nhìn ra sự khác biệt trong con mắt bà ta. Nó chứa đựng một cái gì làm tớ rùng mình, không lộ liễu nhưng làm tớ rùng mình, cậu cảm nhận được không?..." - tôi gật đầu bừa, "đấy, thế nên tớ biết chắc bà ta không thể nào không làm việc gì xấu. Bởi một người hầu hạ thánh thần như bà ta phải là người hiểu rõ nhất ý nghĩa của từ xấu xa chứ"

"Tớ không biết nữa. Ngộ nhỡ nó chỉ là sự hiểu lầm?" - tôi hay như thế, đang phán xét đột nhiên xoay ngược chiều vị trí của mình, nói với đối phương tất thảy những điều ngược lại. Tôi đã không biết lí do vì sao mình hay làm thế cho đến khi lớn hơn, khi tôi chấp nhận sự im lặng là tố chất để giữ chặt sự ngu dốt, thì tôi mới nhận ra việc đảo ngược ấy xuất phát từ hạt của mình, từ nơi sâu thẳm luôn coi mọi thứ trên thế gian là tốt nhất. Tôi đã đứng về phía người xấu, trong một khoảnh khắc.

"Tớ nói cho cậu biết một chuyện nhé, khuôn mặt người ta thay đổi theo từng năm tháng. Cậu có tin không? Chính tà niệm và thiện niệm trong một con người làm người ta thay đổi. Một người có thể xinh đẹp, có thể phúc hậu, có thể tàn bạo và nhẫn tâm, đều thể hiện ra trên khuôn mặt họ. Cho đến một thời điểm nhất định nào đó, sau khi đã trải qua quá trình chuyển đổi, những đặc điểm ấy cố định trên khuôn mặt họ, nó phản ánh chính xác bản chất được hình thành vững chắc ở bên trong. Mà người phụ nữ ấy là ví dụ điển hình, gia đình tớ ở đây lâu đến độ tớ hiểu hết những con người sống trong đó. Và tớ, cũng như nhiều người có ý thức khác, không thích gương mặt của người phụ nữ ấy."

Tôi đã suy nghĩ về cảm nhận chủ quan của Văn về ý nghĩ gương mặt thay đổi trong suốt cả quãng đời mình, đôi lúc tôi chấp nhận nó, đôi lúc tôi lại không, nhưng cứ mỗi khi nghĩ về gương mặt người đàn bà có mái tóc ngắn xoăn cầu kì ấy, là tôi lại bất giác rùng mình trong một giây mơ hồ về sự vận hành của thế giới.

Thay vào đó, cô bé Thi lại bày tỏ quan điểm của mình về vụ này theo một cách khác, cô kể cho chúng tôi nghe một câu chuyện mà chính cô từng trải qua:

"Hồi mới vào lớp 8, em luôn luôn nghĩ thế giới xung quanh là phản ánh của tâm hồn em, chính bởi vì trước đó em chưa từng gặp chuyện gì thật là xấu xa và kì lạ. Mới vào lớp em chơi thường xuyên với một cô bạn khác, cứ cho cô này tên A đi, nhưng sau bọn em tự xa dần nhau ra,có lẽ do cách sống, tính cách hoặc một tỷ thứ khác không k phù hợp, nhưng chúng em vẫn là bạn, không có sự thù địch. Rồi một hôm cô ấy nói với em rằng cậu bạn xinh trai nhất lớp, đứa mà tất cả bọn con gái trong lớp đều để ý, thích cô ấy và mỗi ngày đều gọi điện thoại cho cô ấy, đến độ mà bố mẹ cô ấy phát bực vì điện thoại bàn ngày nào cũng kêu vài bận. Em đã dành hết tình cảm trân trọng và vui sướng của mình để đi khoe với đứa bạn học cùng lớp khác, tên B, mà giờ là bạn thân của em về chuyện A được để ý bởi cậu xinh trai ấy. Thế là cái B nó không tin vì nó cho rằng A không xứng đáng, nó liền đi hỏi thẳng cậu bạn kia, và tất nhiên cậu ta phủ nhận chuyện đó. Anh chị có biết em đã thất vọng như thế nào về chuyện này không, mặc dù em vẫn còn nói chuyện với A nhưng sự tôn trọng em dành cho nó, cũng như sự tự tin với thế giới tươi đẹp của em hoàn toàn biến mất. Em chưa bao giờ hiểu được tại sao con người ta lại hành động theo bản tính phù phiếm, mặc kệ những thứ ấy chỉ là ảo tưởng của bản thân mình? Rồi em chợt nhận ra, ngoài A ra, cả thế giới đầy rẫy những kẻ như thế. Em mất một thời gian để hồi phục cái nhìn của mình với thế giới, tuy giờ sự cân bằng đã trở lại nhưng đôi lúc em vẫn lo sợ về những người xung quanh mình chẳng vì lí do gì. Chuyện về người phụ nữ mà chị kể khiến em buồn chút ít, nhưng không còn sự ngạc nhiên".

Chia sẻ của cô bé Thi khiến tôi có cái nhìn khác hẳn về cô, về những thứ mà tưởng chừng như không đúng, lại xảy ra ở một cá thể đơn độc trong một cộng đồng to lớn nhưng không có điều kiện để phát triển yếu tố ấy. Tôi không được bảo bọc trong thế giới trắng trong như của cô, không được dung nạp thứ ánh sáng sáng màu hắt lên từ đôi mắt của một người có tâm hồn màu trắng, tôi là bản sao thu nhỏ của một xã hội với những biến động khoanh vùng trong các mối quan hệ của cha và mẹ mình, ở đó đầy rẫy những cạm bẫy và đủ các thứ xấu xa, cũng như bản tính lơ đãng, tôi thừa hưởng ở cha mình cả cái tinh ý trước một nụ cười, một khóe mắt bất thường. Và chính thế, chính cái ý nghĩ của em khiến tôi suy nghĩ về việc xảy ra ngày hôm qua với một lăng kính trong sáng hơn, nó gạn lọc đi những bụi bẩn đã làm rúng động toàn bộ giác quan của tôi ngày hôm qua, biến tôi trở lại thành con bọ cánh cứng với đôi cánh mỏng dính có thể nhìn xuyên qua được, nhưng không tự chạy vòng quanh trên những cái chân của mình nữa. Nó không còn chỉ là một điểm duy nhất nữa, mà là toàn bộ câu chuyện, cái chính là chúng ta có đứng ở vị thế có thể thấy toàn bộ không, và có mở to mắt mà chấp nhận toàn bộ điều đó không? Tôi bất chợt thấy mình quả là đã quá thiếu sót khi duy trì một ánh nhìn hạn hẹp về mọi vật như thế từ trước đến nay, và nó ảnh hưởng đến tôi không ít thì nhiều, về đáng giá của riêng mình với cả thế giới. Tôi mở to nhãn quang trong mình, nhìn thật sâu vào sự việc hôm qua, nhìn vào gương mặt hãy còn in hằn lên trong kí ức về người phụ nữ vỗ hai tay vào đùi và kêu lên những tiếng ối giời ơi, trong mắt bà ta dấy lên một cái gì hơn là sự thù hằn, nó vang xa hơn cả nỗi giận dữ, và đau đớn hơn nỗi bất lực, có thể nào ấy chính là tình yêu bị thiếu sót của bà ta đang tự lên án bản thân nó, sự quan tâm cho đứa con không đủ tinh tế để nhận ra bản thân mình đã vô tình đẩy nó đi xa đến chừng nào, có thể nào đó chính là sự tức giận mà bà ta tự trút vào bản thân nhưng thể hiện ra bên ngoài như những đay nghiến dành cho người chịu trách nhiệm?... Tôi đã nghĩ mình thấy được nhiều điều hơn là chỉ một sự giận dữ đơn thuần trong người phụ nữ ấy, người phụ nữ mặc độc có chiếc áo cánh trong cái lạnh đầu đông, và tôi thấy nhiều hơn cả sự im lìm nơi cánh cửa sắt trước mặt đám đông. Tôi đã quá thiếu sót, quá ngu ngốc, quá tầm thường...

Thi và Văn ngồi bên cạnh tôi nhưng cũng chìm đi với những suy nghĩ riêng tư của mình mà tôi cá là đều xoay quanh câu chuyện vừa xảy ra hôm qua. Khuôn mặt hai người họ trong dù tưới đẫm nẵng nhưng vẫn không tránh nổi sự tím tái của đôi môi, ánh mắt phủ trong bóng râm của hàng mi dài, có cái gì quá ư chân thiện ở hai con người này, có những thứ có lẽ không cần phải trải qua thời gian vì nó vẫn luôn ở tận sâu, sâu thẳm trong hạt nhân của một cá thể, nhưng nó lại chính là thứ mà chúng ta đánh đổi để được vươn tới những tầm cao mới, những tầm cao mà tôi chưa bao giờ hiểu hết được những giá trị cụ thể của nó, để rồi sau đó người ta lại lên án chính việc đánh mất nó, và kêu gào phải phổ cập những thứ ấy đến các cá nhân khác. Những giá trị truyền thống bị lãng quên như người ta lãng quên ảnh hưởng trong việc tồn tại của mặt trăng, như người ta vẫn hàng ngày quên mất mình thực ra vẫn chưa là một cá thế hoàn chỉnh, nhưng lại đặt ra một hệ thống để tiến hóa dựa trên cái tôi ham muốn, cái tôi thỏa mãn, thế là thế giới của một con người cứ xoay quanh một điểm không phải là trục chính, lao đi trên đà phát triển và sản sinh ra những lớp tiếp nối u mê trong mê cung của trò chơi vô hình. Chỉ riêng hai người này, hai con người lang thang trong cái ranh giới của kiến thức nhưng vẫn chưa nhấc hẳn một chân kia của mình ra khỏi cái bên khơi sinh, bên khởi thủy của bản tính con người, vì thế nên gương mặt họ vẫn còn giữ được nét hài hòa của tính hướng thiện, của gò má tròn bầu bĩnh và của cặp mắt hãy còn độ sâu. Sau này, tôi không muốn nhắc tới hai chữ ấy, vì thời gian chết tiệt sẽ bào mòn cái chân thiện còn sót lại ở họ, đá họ chỏng chơ vào thế giới của những thói ưa thích vớ vẩn, và phủ lên họ một tấm màn mờ đục của bầu không khí đã bị nhuốm bẩn. Nhưng tôi, tôi biết ở một dạng thức tiến những bước lùi trong sự tiến hóa, cái chân thiện ấy sẽ còn được giữ lại và tiếp nối ở những thế hệ tiếp theo mà khởi nguồn là từ chính hai người trước mắt tôi đây. Tim tôi đập rộn ràng trong những ý nghĩ của mình về một tương lai như thế, cái rộn ràng mà tôi không còn cơ hội kiểm chứng nếu nó là hồi hộp hay chỉ còn là một nỗi thất vọng mơ hồ. Trong buổi sáng ngày hôm đó, khi ngắm nhìn gương mặt của hai người bạn dưới bầu trời xanh ngắt, tôi bỗng thấy mình thật nhỏ bé.

Câu chuyện về người phụ nữ trông Đền bùng lên ở thị trấn bé nhỏ bao quanh bởi những dãy núi này như một đốm lửa nhỏ. Ngày càng có nhiều người hơn đứng lên tố cáo những hành vi sai trái của bà ta với con cái họ. Tôi dùng từ "đứng lên" khi kể với các bạn mình, là bởi những bậc phụ huynh đáng kính kia dường như biết chuyện con cái mình bị lạm dụng một thời gian dài nhưng giấu nhẹm đi, một phần không tin rằng người đàn bà đứng chắp tay nơi cửa Đền lại có những hành động như vậy, một phần không muốn người ngoài biết chuyện con cái họ đã bị lạm dụng để rồi trở thành nguồn cơn của những bàn tán mà từ xưa nay luôn khiến họ khiếp đảm. Họ đã "đứng lên" trong một chuyện tưởng chừng như đơn giản, nhưng đối với những cái đầu chỉ dùng cho việc thu lợi nhuận trong cuộc sống, thì thành ra một cái gì to lớn như khi người ta vùng dậy đòi quyền tự do. Đây là cuộc chiến tinh thần của chính những bậc phụ huynh ấy, cất tiếng nói bênh vực một lẽ phải dễ bị thù hằn và xa lánh, bênh vực một khía cạnh đáng lí phải được bày tỏ như bao khía cạnh khác nhưng nó chỉ hiện ra ở những câu từ mập mờ lại như vừa muốn xóa tan ranh giới của việc cụ thể hóa hành động. Cha tôi nói chuyện với tôi về vấn đề này, rằng ông có thể thấu hiểu cái nhìn của các bậc phụ huynh ấy, cho rằng tôi nên đừng đánh giá họ tiêu cực nữa, hãy tập nhìn cái nhìn tổng thể mà theo cha được biết con đã học được ấy, để xem xem con đã đi xa được chừng nào trên chặng đường của mình. Cha tôi giỏi ở khoản ăn nói, sao cho không chỉ một quan điểm được đưa ra, mà tất cả những khía cạnh khác đều được đề cập đến trong một lời nhắn nhủ vô thanh, tôi cũng không giỏi thuật lại những câu chữ của cha mình, nhưng ý chính và tất cả các ý phụ của ông thì tôi đều nắm bắt được.

Tôi suy nghĩ thật kĩ trước khi tiếp tục câu chuyện với cha mình, cuối cùng tôi nói:

"Điều ấy hẳn là rất khủng khiếp phải không cha? Nếu chuyện đó thực sự xảy ra với con, thực sự ấy, thì điều con làm đầu tiên ấy là tự dằn vặt bản thân mình, con sẽ vắt kiệt mình như mẹ vẫn vắt những nửa quả cam vì cái ý nghĩ ghê tởm bản thân. Bị lạm dụng khiến con cảm thấy mình bị ô uế, thấy mình bị vứt ra ngoài thứ ánh sáng đáng lẽ phải chiếu sáng xung quanh mình như nó vẫn chiếu sáng trên lũ bạn bè mình, mà những thứ như thế thường sẽ chẳng chia sẻ được với ai. Những nạn nhân sẽ chịu sự hành hạ về tâm thần, sự phán xét, và sự lừa dối của chính bản thân mình trước tiên, vì sao ấy ạ, có lẽ vì đầu óc họ chưa đủ lớn để hiểu, hoặc vì họ không có đủ sức mình để chống lại tất cả những giới hạn mà họ cho là đã vượt xa nhiều đối với họ. Con hiểu rồi, cha ạ! Chính sự đau đớn phát ra từ tâm hồn những nạn nhân mới là thứ dằn vặt những bậc phụ huynh ấy."

"Con gái, con đã bắt đầu suy nghĩ theo chiều hướng đúng đắn hơn, nhưng cái mà con nói về đầu óc và tư duy, nên nhớ đó chỉ là những đứa trẻ mới qua cái ngưỡng mười tuổi một chút. Nhưng con cũng không sai, cái đó nằm ở bản chất, và thông thường, không ai phân tích bản chất như cách con đang làm ở một đứa trẻ mười tuổi, bản chất ở lũ nhóc ấy được biểu hiện ra giống bản năng, hay dễ hiểu hơn, là phản xạ. Con cứ tiếp tục suy nghĩ theo chiều hướng ấy rồi con sẽ tìm thấy nhiều thứ hơn là con mong đợi.Cha tin ở con"

Ông mỉm cười, vứt sang bên tờ báo từ trước khi bắt đầu cuộc trò chuyện ông vẫn giữ trong lòng bàn tay. Cha đứng lên, xoa đầu tôi bằng bàn tay to bè của ông, cử chỉ ấy với tôi có ý nghĩa rất lớn, vượt xa cả một sự ngợi khen, thế rồi ông trở lại phòng làm việc của mình.

Những diễn biến tiếp theo của câu chuyện lạm dụng vẫn được người ta nhắc tới hàng ngày, nào là về lá đơn kiện, nào là về hàng đống tiền được ai đó chi ra, nào là về một tờ báo lớn đã đăng tin về nó, nào là về vị chủ tọa quan tòa là người rất duy tâm... Rồi như dòng nước chảy trôi về phía biển, câu chuyện chìm đi trong một câu chuyện khác, ấy là chuyện của gia đình tôi. Những chuyện xảy ra khi gia đình tôi dọn đến thị trấn Mát đã đem lại cho tôi những biến chuyển trong mặt nhận thức, và tôi cho rằng mình đã làm rất tốt, mình sắp đến đích rồi, nhưng không, sự kiện xảy ra với gia đình khiến tôi nhận ra sự to lớn của thế giới nhận thức, còn tôi thì chỉ là một cô thực tập sinh vừa lơ ngơ bước vào. Song song với phát hiện ấy, tôi còn nhận ra cơ thể mình cũng có những chuyển biến lạ kì mà không có báo hiệu sẽ ngừng lại trong tương lai : sự ra đi của mẹ và tâm hồn thiếu sót của tôi

Mẹ tôi do dạo gần đây bụng liên tục đau mà không rõ nguyên nhân, bà đòi cha tôi đưa đi khám ở bệnh viện Huyện, cha tôi miễn cưỡng đứng lên khỏi cái ghế bọc da trong phòng làm việc, thay cái quần vải lanh ở nhà thành cái quần âu, khoác thêm chiếc áo gió rồi đèo mẹ tôi đi bệnh viện. Ở nhà chỉ còn lại mình tôi, trưa hôm ấy đi học về tôi tự rang cho mình bát cơm từ cơm thừa hôm qua với trứng và thịt rang cũng là đồ thừa từ hôm qua, vừa ăn vừa chờ cha mẹ mở cửa cổng rồ ga phi chiếc xe máy Simson cũ mèm vào. Háo hức chờ bao nhiêu thì thất vọng bấy nhiêu, hai người mãi cho đến khi tôi quá mệt mỏi với những bài tập về nhà của mình chuẩn bị lên giường đi ngủ mới chịu lạch xạch mở cổng, bật tứ tung đèn dưới nhà lên trong một cơn sóng ngầm im ắng đánh lên tận nơi tôi vừa chui vào chăn. Tôi bật dậy chạy xuống nhà để chào cha mẹ, nhưng hai gương mặt bạc đi chỉ trong vài tiếng đồng hồ khiến tôi hơi chùn bước, tiếng chào chưa kịp cất lên đã chui tọt lại phía trong. Cha vẫy tôi ngồi vào ghế xa lông bên cạnh ông, cốc nước vừa rót đầy bị uống cạn đặt trước mặt ông, một giọt nước lăn từ thành cốc xuống mặt bàn thủy tinh, đọng lại ở đấy. Mẹ tôi vẫn đang loay hoay trước tủ lạnh, bóng lưng bà quay về phía tôi bảo với tôi rằng bà đang không có tâm trạng để nhìn mặt tôi. Cha cuối cùng cũng cất tiếng nói:

"Bác sỹ nói mẹ con bị ung thư dạ dày!"

"Ung thư dạ dày?" - tôi nhắc lại gằn từng tiếng để chắc mình có thể hiểu từng từ trong bốn chữ ấy, thật nực cười, tôi nghĩ, người như mẹ tôi lại bị ung thư, mà còn là ung thư dạ dày?- "Có điểm gì đó không đúng,cha ạ!" - tôi nói sau gần ba mươi giây.

"Ừ, thế nên ngày kia cha mẹ sẽ đi xuống Hà Nội, để xem xem mẹ con thật ra là bị làm sao. Con cứ yên tâm, chắc không có vấn đề gì lớn đâu. Giờ thì đi ngủ đi, cha mẹ cũng mệt rồi!" - ông lại một lần nữa xua xua tay nhưng giống như đang xua đi sợ mệt mỏi hiện lên trên vầng trán ông thì đúng hơn.

Tôi về phòng, tôi nhìn lên trần nhà khi cuộn mình kín mít trong cái chăn mùa đông, tôi không hiểu một người quan tâm đến sức khỏe của hai cha con thông qua việc chăm sóc các bữa ăn, là người am hiểu tất cả các loại đồ ăn trên đời này, là người chưa bao giờ hút thuốc hay uống rượu (trừ những lúc bạn bè của cha tôi ép uống một chén lấy lệ), không có bất cứ thói quen xấu nào ảnh hưởng đến sức khỏe, lại bị mắc cái bệnh ngặt nghèo là ung thư dạ dày. Giống như trò đùa của ai đó bày ra để cười vào mặt người phụ nữ luôn coi trọng sức khỏe hơn hết thảy ấy. Tôi vẫn chưa hết ngạc nhiên với sự trớ trêu ấy để mà chuyển sang lo sợ cho mạng sống mẹ mình, cũng như nghĩ đến cảm nhận của bà khi vừa bị tuyên bố dính vào căn bệnh quái ác ấy.Còn có điều gì buồn hơn khi phải chứng kiến người thân của mình mắc những căn bệnh gây đau đớn đến chết?

Ngày hôm sau tôi hỏi cô giáo dạy sinh vật của mình về căn bệnh này. Đáng lẽ tôi có thể hỏi cha mình, nhưng có cái gì ngăn cản tôi lại trước cửa phòng làm việc của ông, tôi biết hôm nay ông ở trong đó nhưng không đọc bất cứ thứ gì. Tôi chỉ nghĩ được có thế, cô giáo dạy sinh vật, cô dạy chúng tôi về cơ thể người, về sự vận hành và một vài đặc điểm khác ở cơ thể con người, ngoài cô ra tôi chẳng tìm được ai để hỏi. Tôi bắt kịp cô khi cô vừa ôm cặp mình di chuyển trên sân trường từ khối lớp 8 sang khối lớp 6, tôi chào cô và mặc kệ cho trí nhớ của cô vẫn còn đang loay hoay lục tìm tên tôi trong gần ba trăm gương mặt học sinh ở trường này, tôi hỏi :

"Thưa cô, cô có biết gì về ung thư dạ dày không ạ?"

Cô giáo có gương mặt hãy còn trẻ, nhưng những mảng nám lớn choán lấy hai bên gò má cô khiến cô trông già hơn trước tuổi, một nét bối rối chạy ngang qua mặt cô khi nghe thấy câu hỏi của tôi khiến những đốm nám ấy sậm màu hơn nữa. Ở ngôi trường này, không, ở tất cả các ngôi trường khác nữa, chúng tôi không có thói quen nói chuyện với giáo viên của mình, mặc dù họ là giáo viên "của chúng tôi" trên danh nghĩa, nhưng chẳng phần nào trên cơ thể họ, trong tâm trí họ thuộc về chúng tôi. Chính thế nên khi bỗng dưng nhận được một câu hỏi nằm ngoài bài giảng của mình ở trên lớp thì giáo viên sinh vật của tôi bỗng nhiên lúng túng, cô hẳn chưa bao giờ chuẩn bị cho một câu hỏi đột ngột như vậy. Nhưng sau một vài giây lựa chọn từ ngữ, cuối cùng cô cũng nói:

" Cô không nghiên cứu về những thứ sâu như thế em ạ, nhưng để nói về bệnh ung thư thì cũng không phải khó khăn..." - cô lấy lại hơi thở và giọng nói giảng bài của mình, cô tiếp - "em học lớp 9A đúng không?, vậy chắc em nhớ tháng trước chúng ta có học về gene, và các tế bào cùng với sự phân chia của nó. Các tế bào ở một người bình thường phân chia có trật tự và có tổ chức, nhưng ở người ung thư nó phân chia không có tổ chức và không thể kiểm soát được, ở một số điểm tế bào này đáng lẽ phải chết đi thì vẫn sống, tế bào cần được thay thế lại không được thay thế. Từ một điểm các tế bào bệnh tụ tập lại rồi tiêu diệt những mô bình thường khác rồi di chuyển sang các chỗ khác nữa. Cơ bản là như thế. Còn cụ thể về ung thư dạ dày hay bất cứ bộ phận nào khác thì cô cũng không rõ nữa. Nếu em muốn biết thêm có thể hỏi các bác sỹ hoặc những người có kiến thức về y học."- cô mỉm cười khi vừa kết thúc bài học của mình - "thế vì sao đột nhiên em lại muốn hỏi về căn bệnh này vậy?"

Tôi đã không để cô giáo sinh vật có câu trả lời cho câu hỏi của cô. Tôi không muốn tiết lộ bất cứ thứ gì, tôi thỏa mãn với câu trả lời đơn giản của cô cũng như chấp nhận chuyện các tế bào phân chia theo cách của nó.

Tối đó trước khi đi ngủ, cha vào phòng tôi, ông nói với tôi rằng mai hai người sẽ đi bệnh viện lớn hơn để kiểm tra lại, nhưng chắc kết quả cũng không thuộc loại khả quan, và chúng tôi sẽ phải trải qua những ngày đầy khó khăn phía trước, nhưng tôi đừng lo lắng, vì tôi phải học cách chấp nhận một tương lai bất trắc vì điều ấy bồi đắp một con người. Tôi im lặng trước những lời cha nói, khi ông dừng lại thì tôi thấy mình đang nhìn chằm chằm vào móng tay của mình. Lúc ngẩng đầu lên thì ông đã ra khỏi phòng từ lúc nào. Tôi chui vào giường, kéo chăn lên tận cằm và ngước ra phía cửa sổ, từ giường tôi nằm vẫn có thể nhìn thấy một phần bầu trời dù tối tăm nhưng vẫn giăng đầy những đám mây màu trắng. Trong đêm những đám mây di chuyển rõ rệt hơn, tôi thậm chí có thể nhìn thấy hướng mà chúng bay đến và đi, nhìn thấy cả hình dạng của chúng xuyên qua màu đen mờ nhạt của bầu trời. Chúng làm tôi liên tưởng đến những tế bào đang phân chia trong bài giảng nho nhỏ của cô giáo sinh vật sáng nay, những tế bào với đủ các hình dạng trong đêm tối làm công việc của nó, tách thành năm bảy ngàn mảnh nhỏ hơn, giống như giọt sương ban mai đọng trên những chiếc lá dong to bằng quyển vở mọc thành cụm ở sau vườn trường, tôi dùng ngón tay gạt một đường ở giữa giọt sương, thế là nó tách thành hai phần tròn và rung rinh theo chuyển động của chiếc lá. Những tế bào mang trong nó những chuỗi gene của mẹ tôi đã chuyển sang tôi, hiện tại tôi có cùng những chuỗi gene như của bà trong một số các tế bào cũng giống y hệt. Nói một cách khác, tôi giống một tế bào mà mẹ tôi đã phân chia thành, một tế bào nhỏ hơn nhưng cũng có những điểm chính của chuỗi gene ấy, và tôi, tồn tại thành một hiện vật có hình dáng nằm ngoài tế bào mẹ. Tôi bất chợt nổi loạn, tôi không nghe lời mẹ mình nữa, tôi cảm nhận sự ngột ngạt đang chèn ép nhân của mình, tôi muốn gào lên và vượt ra khỏi con đường đi đáng lẽ mình phải tiến tới. Như những đứa con gái mà hàng ngày cha mẹ nó phải đèo nó tới trường, mẹ cố kiểm soát tôi, nhưng bà quá yếu, bà đã để đầu óc mình chạy ra khỏi những suy nghĩ tiềm ẩn trong tôi, bà biết mình không thể khống chế được đứa con mà chính cơ thể máu thịt của bà phân tách thành, bà đầu hàng. Thế là tôi – cá thể được phân chia từ một cá thể khác dọn quang được con đường của mình, chạy băng băng xông vào những đớn đau, tôi tự phân tách mình, tự sửa đổi những chuỗi gene, tự sản sinh ra hàng loạt, hàng loạt những tế bào khác không nghe lời và hư hỏng. Chúng làm tôi đau đớn một thì làm mẹ tôi đau đớn mười. Ấy là nỗi đau mà không một ai có thể cảm nhận và ngăn chặn được, chỉ có thể chứng kiến nó sưng tấy lên thành những khối u đỏ hỏn và sần sùi. Khi này tôi đã hối hận, nhưng không có cách nào quay đầu, tôi thúc giục những chú lính canh bạch cầu làm nhiệm vụ của nó nhưng không còn có tác dụng nữa, các chú ấy cũng mệt và ốm yếu như chính bản thân tôi và mẹ mình, chúng tôi hiện giờ chỉ còn thoi thóp trong chính cơ thể mình chờ cái chết giáng xuống. Tôi đã không lường trước được kết cục này, kết cục mà không chỉ có mẹ tôi, các tế bào phân chia của tôi mà thậm chí cả tôi cùng phải chung nhau gánh chịu. Chúng tôi không giống như những đám mây có một đường thẳng để mà đi mà co cụm lại một chỗ, thậm chí còn không giữ được màu sắc chính xác mà gene đã quy định, chúng tôi tái nhợt và run rẩy, không có một chút khí lực nào nhắc cho những người khác rằng chúng tôi cũng từng là những người trẻ tuổi.

Tôi lo lắng vì nỗi đau mà mình gây ra cho mẹ bao nhiêu thì càng không thể nào nắm bắt được nỗi đau ấy bấy nhiêu. Cứ mỗi lần tôi tưởng mình sắp chạm được vào nó, vì tôi cứ nghĩ chỉ cần mình chạm được vào đó thì mình sẽ có cùng một cảm nhận như mẹ, và nỗi đau mà mẹ phải chịu đựng dù ở mặt tinh thần hay thể xác đi chăng nữa, đều sẽ được chia đôi, nhưng nỗi đau lại vụt biến mất, chui sâu hơn vào trong cơ thể bà. Sau nhiều lần thất bại trong việc chụp lấy nó, tôi biết nó không phải dành cho tôi, mà dành cho người phụ nữ thầm lặng trong ba người chúng tôi. Cái gia đình của chúng tôi vốn khép lại chỉ có ba người, một con số ít ỏi với mong muốn duy trì được sự ấm áp thông qua những sẻ chia và thông cảm, nhưng không ai ngờ rằng sự chia sẻ ấy không có tác dụng trong cơn bệnh hoạn này. Tôi không thể tưởng tượng được những thứ mà mẹ sắp phải trải qua, đặc biệt là thứ mà mẹ cảm nhận khi vướng chân phải nó, nên tôi hoang mang trong chính cơ thể mình, tôi không biết nỗi đau không thể nào truyền qua được bằng sự di truyền gene cho các tế bào con, tôi cứ mãi để đầu óc mình lạc đi trong câu chuyện về không gian của nỗi đau. Sau này, khi những cơn đau đã chỉ còn là một kí ức, đôi khi tôi vẫn tự dằn vặt mình về những thứ mà tôi không làm được cho mẹ mình, cho mình và cho vòng ấm áp quay trong gia đình mình.

Câu chuyện nỗi đau làm tôi nhớ đến một câu chuyện hoàn toàn khác, nhưng nó luôn đem lại cùng một cảm giác, ấy là hối hận. Một câu chuyện ở một không gian khác, một thời điểm khác, chỉ duy có một thứ tương đồng, ấy là tôi. Khi này tôi và cha đã chuyển đến Mỹ, tôi có những buổi học tiếng Anh ở một cơ sở miễn phí dành cho người Việt. Một người đàn ông bằng tuổi cha tôi nhưng có gương mặt bảnh bao, một cơ thể dẻo dai so với tuổi của ông tiếp cận tôi, ban đầu với những ý nghĩ hãy còn trong sáng, tôi chấp nhận việc đánh bạn với một người hơn tuổi trong sự kính trọng mà tôi dành cho cha mình. Nhưng không lâu sau ông tỏ tình với tôi, rằng ông muốn có tôi, chỉ cần những cái nắm tay, thế là đủ cho ông, và ông sẽ đền đáp cho tôi những thứ khác. Tôi tất nhiên đã nói không ngay trước khi kịp suy nghĩ về việc ấy, đó là cái hạt của tôi nói, không phải tôi. Chính điều ấy làm tôi suy nghĩ rất nhiều, rằng nếu tôi đồng ý bán mình, nếu tôi tự tạo cho bản thân một số giá trị có ý nghĩa vật chất, thì liệu tôi có vui sướng với cuộc sống của mình hơn?, và nếu lúc ấy tôi có đồng ý đi chăng nữa, thì cái tôi của hiện tại có chấp nhận cái quá khứ ấy,à không, nói chính xác là hạt của tôi có chấp nhận thể xác và suy nghĩ đã qua một đợt mua bán của mình không? Cái tôi muốn nói đến là sự hối hận, sự hối hận vì đã trở thành tế bào nổi loạn khiến vật chủ là mẹ tôi bị thảm thiết trong nỗi đau, và sự hối hận vì những thứ mình chưa làm, không làm gần giống như nhau, cùng có một cái tên, cùng để lại một vệt cảm giác. Tôi biết chính xác mình nhận được gì sau khi "hối hận" đủ, ấy là một cảm giác trống trải, một cái hũ như hố đen trong không gian hút chụt lấy cơ thể này, vần vò nó bởi những va đập vào các khoảng trống khác, mài mòn đi cái ý chí được sống tốt đẹp. Tôi thậm chí sợ hãi ngay cả cái ý nghĩ về việc hối hận, nó rạch vào trong đường chỉ tay của tôi những đường khác, đậm hơn vì khi này tôi đã không còn nhiều cơ hội để sửa chữa, và đồng thời làm mờ đi những đường vốn là con đường của sự tốt đẹp, khi ấy cuộc đời tôi sẽ rẽ sang các hướng khác nữa mà tôi không lường trước được. Đơn giản như vậy, hối hận liếm láp vết thương tôi trong một thời gian dài, kể cả khi người ta nói thời gian sẽ chữa lành vết thương.

Trong thời gian mẹ tôi từ chối các đợt hóa trị, xạ trị, quyết định về nhà sống nốt những ngày còn lại của mình trên giường của bà, đi lại trong căn bếp của bà bằng chính đôi chân trần, tôi đã để ý đến bà nhiều hơn. Tôi để ý đến từng đường nét trên gương mặt bà, khi bà bị một cơn đau đột ngột xẹt qua, khi bà không tìm thấy hộp đồ ăn, khi bà cố vươn tay lấy một lọ gia vị ở tít trên tủ bếp cao và một cơn đau lại ập đến trả giá cho sự cố gắng. Những đường nét ấy khi bà còn khỏe mạnh tôi đã không bao giờ để ý đến, vì với tôi nó giống như một tấm áo choàng phải mặc lên hàng ngày, nó không làm bận tâm nhiều khi người ta biết rằng nó vẫn sẽ ở đó ngày mai, ngày kia, nhiều ngày sau nữa,... Nhưng chuyện đổi khác khi những nét mặt ấy dù cố gắng vẫn phảng phất một nỗi buồn, một nỗi buồn thực sự. Tôi đồ là mẹ mình luôn mang trên mặt một nỗi buồn khi bà hãy còn khỏe mạnh, hoặc một cái gì tương tự thế, có phần hơi giống với mặt nước lặng gió nhiều ngày nên hòa vào cảnh vật buồn chán. Gương mặt bà cũng giống như cái hồ nước im lặng ấy, không gì làm nó rung động được, đôi lúc nó làm tôi chán nản, và làm cha tôi cựa mình trong một mối u sầu riêng, nhưng nó ở đó, trên gương mặt của mẹ tôi, nên chúng tôi chưa bao giờ phàn nàn. Nhưng nỗi buồn có biến thể của nó, và khi nó đã trở thành một điểm rõ ràng và dễ nhận thấy thì có còn đáng sợ hơn cả nỗi đau. Nó lừng lững hiện ra khi mẹ tôi cố gắng cười, nó ở đó khi mẹ tôi thái thịt và rau, khi mẹ tôi phơi quần áo, khi mẹ tôi thiêm thiếp ngủ trên ghế sô pha...Nỗi buồn mà tôi cứ tự cho rằng vì bà lo sợ cuộc sống của hai chúng tôi khi bà đã rời khỏi hơn là bà đau nỗi đau của riêng bà, cái ấy là đặc quyền của một người mẹ : lo lắng. Tôi thông cảm với bà, dù cố tỏ ra mọi việc vẫn diễn biến theo nhịp điệu hàng ngày của nó, còn bà thì vẫn là mẹ tôi khi bà ốm đau cũng như khi bà khỏe mạnh, khi bà lo cho chúng tôi một bữa cơm đủ đầy cũng như khi bà đang đợi nồi nước sôi lại ngủ thiếp đi vì một cơn đau nuốt mất sự tỉnh táo cuối cùng trong ngày..., tôi theo dõi tất cả những sự ấy trong một niềm hồi hộp thầm lặng, rằng chỉ cần tôi rời mắt đi là bà sẽ ngã xuống, hoặc chỉ cần tôi quá căng thẳng là bà sẽ nhận ra mà lại bùng lên trên gương mặt một bất lực đáng thương. Khi bà ngủ tôi sẽ lấy chăn cho bà, tôi xào nốt rau, bắc nồi nước đã sôi ra khỏi bếp, phơi nốt đống quần áo dang dở, quét nốt cái nhà, ...rồi lại im lặng chui về phía góc kín của mình tiếp tục theo dõi. Cha tôi thì khác, tôi không muốn nói ông đang trốn tránh nhưng ông dành nhiều thời gian của ông hơn trong phòng làm việc, để mẹ tôi tự xoay sở với nỗi đau của mình. Hẳn ông cho rằng như vậy thì mẹ tôi sẽ vẫn nhận thấy sự hiện diện của bà, cũng như tác động của bà lên hai người là chồng và con bà, bà sẽ thấy mình vẫn y như khi khỏe mạnh chăng?, tôi đã cho rằng cha mình sai, sai hoàn toàn, đấy không phải là cách mà một người chồng hành động khi biết vợ mình đang bị bệnh, không phải là cách một người yêu thể hiện tình yêu, không phải là cách người trong gia đình quan tâm một người khác. Tôi bỗng ghét cha mình vô cùng, tôi đã không nhận thấy bấy lâu nay mình luôn tự hào rằng mình giống cha ở tính cách hơn là giống mẹ là một sai lầm, tôi không muốn thể hiện ra cái thái độ như thế, tôi không muốn giống ông ở điểm này. Khi tự hào về điều đó, tôi đã đẩy mẹ mình ra xa hơn ở nấc thang xếp hạng thành viên gia đình, tôi đứng ở một phía với cha mình, còn mẹ tôi thì ở riêng một phía. Tôi đã vô tình xúc phạm tình mẫu tử thiêng liêng của bà cũng như tình yêu vô điều kiện bà dành cho chúng tôi, tôi biết bà buồn nhưng tôi quên ngay, tôi bận bồi đắp sự sống cho tâm hồn mình để rồi khoe khoang với tất thảy thế giới là cái hạt của tôi thật đẹp. Nhưng đến khi bà giữ mãi một nỗi buồn trên gương mặt ốm yếu của mình, và đến khi cứ ngày hay đêm tôi đều trông chừng bà như khi bà trông chừng tôi hồi còn đỏ hỏn mà không hiểu điều ấy xuất phát từ đâu, thì tôi mới biết lỗi lầm của mình nặng nề đến chừng nào. Buổi sáng là không đủ cho những canh chừng của tôi, đêm khi đi ngủ, dù yên tâm với sự có mặt của cha mình bên cạnh mẹ cả đêm, thì tôi vẫn cứ một đêm bật dậy hai lần đứng trước cửa phòng bà lắng nghe hơi thở đều đều của hai người, rồi mới quay trở lại giường mình. Tôi không đặt báo thức cho hai lần thức giấc ấy, không tự nhủ mình cần phải làm điều ấy trước khi chìm vào giấc ngủ, nó cứ đơn giản là tôi bật dậy, rồi trước khi lí trí kịp trở lại thì tôi đã đứng trước cửa phòng cha mẹ mình. Tôi cho rằng chuyện này lại cũng là do hạt của tôi làm, và cũng như bao lần trước, nó bộc phát ra bằng hành động suy nghĩ tự thân của nó, suy nghĩ của nó và của tôi là hai thứ hoàn toàn độc lập dù rằng chung một cơ thể, trong khi tôi là tạp chất của nhưng u ám bao quanh bởi những góc nhìn, những tâm niệm và kiến thức của toàn thế giới, bao gồm cả điều tốt và xấu (có lẽ xấu nhiều hơn một chút, nhưng chỉ có xấu xa mới mang đến những lợi ích riêng); thì nó – hạt của tôi, thứ ở trong tôi trước khi ý thức của tôi hình thành, thì luôn luôn là một điểm sáng chiếu trên một đường thẳng, cái gì ở đó từ lúc nó xuất hiện, thì vẫn sẽ ở đó ngay cả khi nó chết đi. Chính nó là cái cần điều khiển, là kim chỉ nam cho mỗi bước đi trong cuộc đời mình, giống như khi người ta muốn làm một cái gì đấy, phải mở cuốn sách chỉ dẫn ra để xem mình có phạm luật không, xem mình có đi đúng đường không, để rồi mới quyết định có làm hay không. Hầu hết ý thức của tôi kiểm soát tôi, nhưng một vài lần, khi mọi chuyện quá dễ dàng để quyết định nhưng ý thức lại cần cân nhắc trước những hậu quả và lợi ích nên mất quá nhiều thời gian trong mê cung suy nghĩ, hạt tự quyết định thay, vì như đã nói nó chỉ di chuyển theo một đường thẳng. Cái hành động thức dậy trong đêm để đến bên phòng cha mẹ mình hẳn là do hạt điều khiển. Tôi cảm kích nó, không chỉ vì chuyện này, mà còn vì những lần nó cướp quyền kiểm soát nữa, như khi tôi từ chối có một mối quan hệ với người đàn ông lớn tuổi, như khi tôi hối lỗi vì đã lên kế hoạch kiểm chứng tâm tư của cậu bạn Văn, như khi tôi quyết định lắng nghe cô bé Thi,...

Mẹ tôi không đồng ý hóa trị nên bà vẫn giữ được mái tóc đen dài của mình chứ không như những người ung thư khác. Trước đây bà vốn rất yêu mái tóc của mình, (tôi vẫn cứ nghĩ bà từ chối điều trị vì bà muốn giữ mái tóc ấy), bà nói khi còn là thiếu nữ, chính mái tóc đen dài của bà đã làm cha tôi phải lòng bà, tôi luôn giữ câu chuyện ấy như một minh chứng cho tình yêu cha mẹ mình, như tình yêu họ dành cho tôi. Bây giờ khi bệnh ngày càng nặng, mái tóc bà cũng trở nên xơ xác và cồi cồi như không phải tóc người. Nhưng mỗi ngày bà đều ngồi trước gương mà chải nó hàng tiếng đồng hồ, rồi vấn nó lên thành một búi phía sau gáy, xiên vào giữa một cái trâm bằng ngà ngắn và đơn giản, sau đó mới bắt tay làm những việc thường ngày. Khi bà nằm nghỉ trên xô pha, vì quá mệt nên không để ý đến mái tóc mình, để búi tóc lệch hẳn sang một bên, rồi mắt nhắm hờ lại. Tôi phải nhẹ nhàng rút cái trâm ra vì sợ vô ý sẽ chọc vào gáy bà, rồi để nghiêm cẩn sang phía bàn, nơi mà khi bà dậy, chỉ cần với nhẹ tay là chạm vào nó. Có một lần khi nhấc nó ra khỏi búi tóc, những sợi tóc xổ tung ra thành một màn đen trên chiếc đệm màu trắng, tôi chạm vào tóc bà, cảm giác ran rát khi ấy xuyên vào cơ thể tôi, rồi ở mãi trong ấy cho đến tận những ngày sau. Tôi mân mê chiếc trâm nhỏ, ấy là một chiếc trâm đơn giản quá đỗi, không có chút hoa văn trạm trổ nào,màu ngà hơi ngả màu cánh gián, bèn bẹt ở phía cuối, bóng bừng lên khi chạm vào da tay người. Tôi đồ rằng đây lại là một vật mà cha tôi từng tặng cho bà khi hai người còn là những thanh thiếu nữ. Tôi không bao giờ hỏi ông về việc đó sau này, và tôi cứ giữ cái ý nghĩ ấy mãi cho riêng mình. Khi mẹ bệnh nặng hơn, chỉ nằm được ở trên giường, đến thở cũng làm cho bà đau đớn,y tá đề nghị chúng tôi cắt mái tóc bà ngắn đi để dễ bề chăm sóc hơn. Tôi chỉ dám cắt khi bà đã ngủ thật say mới dám dùng cây kéo sắt cắt phăng đi mái tóc bằng một đường duy nhất, rồi lấy một sợi dây vải đen buộc đám tóc lại rồi để trong ngăn kéo đầu giường, tôi nghĩ vật yêu quý của bà nhất thiết phải ở bên cạnh bà trong tất cả những giờ phút này.

Lúc này Văn đến nhà chúng tôi thường xuyên hơn. Giống như một thành viên trong gia đình, cậu ta đến mỗi buổi sáng, đón tôi đi học sau khi đã vào phòng chào mẹ tôi, rồi chỉ rời đi khi đã đưa tôi về đến tận cửa. Những ngày cuối tuần cậu ta ở lỳ cả buổi chiều với chúng tôi. Trước đó tôi đã không nói với cậu ta về tình trạng của mẹ tôi, vì nhiều lý do khác nhau, nhưng tôi không giấu được trạng thái bồn chồn của mình, cậu ta gặng hỏi, tôi đành nói. Mẹ tôi khi còn khỏe rất yêu quý cậu bạn này, không phải chỉ vì cậu ta là người bạn tốt đầu tiên của tôi ở nơi này, mà ở cậu ta có cái gì thánh thiện trong sáng thu hút mẹ tôi, giống như cái hạt của cậu ta điều khiển cậu ta nhiều hơn là ý thức điều khiển. Chính thế nên khi nghe tin mẹ tôi bị bệnh nặng và không có cơ may qua khỏi, câu ta cũng giống như tôi, buồn nhiều ngày, nhưng sau một thời gian buồn bã, cậu ta xin phép bố mẹ mình bớt chút thời gian làm việc nhà để đến với nhà tôi. Tôi không biết vì sao một cậu bé như cậu ta, sống ở một môi trường như ở thị trấn này, lại có những ý nghĩ người lớn và hợp lý đến như vậy, giống như cậu ta được nuôi dưỡng ở ngay trong cuốn "Giết con chim nhại" chứ không phải ở môi trường thực tế bên ngoài. Tôi và mẹ đã không lầm khi yêu thích cậu ta.

Thời gian Văn dành cho gia đình tôi khiến tôi dễ thở đi rất nhiều, vì cuối cùng thì cũng có người để tôi tâm sự những thứ vị thành niên sau những mệt mỏi trong suy nghĩ mà người ta hay nảy ra trong cùng một trường hợp của tôi. Văn cùng tôi ngồi trong góc kín trông chừng mẹ tôi, hoặc khi tôi muốn ra ngoài hít thở không khí thì cậu tat hay tôi trông chừng. Chúng tôi bàn bạc về tình trạng của mẹ, về những nét đau đớn mà gần đây mẹ tôi không tài nào che giấu nổi nữa, bàn bạc về hành động của cha tôi, và nhiều lần cãi nhau vì điều ấy. Tôi cho rằng cha tôi đã hành động không đúng và tôi thấy ghét ông, còn Văn thì ngược lại, cậu ta nói cha tôi hành động chính xác và không có lí do gì để tôi phải căm ghét cha mình. Cậu cho rằng giữ vẻ bình thản trước cơn đau của mẹ tôi là cha tôi đã giữ thông thoáng cho đầu óc của bà, để bà không cảm thấy mình vô dụng và bất lực, rằng ngay cả khi mẹ tôi ốm yếu thì ông vẫn cần sự chăm sóc của bà. Và ở một điểm nào đó, ông thầm nói với bà rằng kể cả khi bà không thể ở đây nữa, thì tinh thần của bà vẫn ở lại không gian này vẫn là cần thiết cho cả hai người, cho cả ông và cả tôi. Ông thay tôi làm cái việc lờ đi bệnh tật của bà, để bà thoải mái với không gian của mình. Hơn thế nữa, ông để thời gian để tôi chứng mình cho mẹ mình thấy rằng mối quan hệ của hai người vẫn ở một cung bậc thiêng liêng mà không ai có thể làm lấn chiếm nó, kể cả mối quan hệ của tôi với cha mình.

Tôi sau khi nghe những lời phân tích của Văn thì đâm ra lúng túng, ý nghĩ rời rạc thành từng đoạn như trong một chuỗi gene bị đứt gãy, tôi cũng từng nghĩ đến những giả thuyết như của Văn về tình cảm của cha mình, nhưng tôi lại hoàn toàn gạt nó ra như gạt một hạt nước đọng vào mắt kính của mình, tôi làm như thế là có lí do, một lí do sâu xa mà ngay cả bản thân tôi cũng không muốn nghĩ đến nó, che mờ nó đi trong những thù ghét, việc này giúp cho tình cảnh của hai mẹ con tôi dễ chịu hơn, cuộc giằng co giữa bờ vực bên này và bờ vực bên kia có một điểm nhấn, giữ vững sự kiên định trong lòng tôi. Chuyện này chắc chắn là ý thức hệ của tôi xây dựng nên với sự khuyên can không được của hạt nên nó đành nhượng bộ ru ngủ tôi đi trong một niềm thù ghét không gây thương tổn lớn lao. Tính trẻ con hãy còn sót lại trong một đứa con gái gần mười sáu tuổi là nguồn cơn cho mọi cơ sự này, mà sau này khi tôi đã lớn hơn mới nhận thấy điều ấy và tôi thừa nhận nó như một lời bào chữa. Nó là nguyên nhân của lòng hận thù đối với cha mình trong một khoảng thời gian không dài nhưng cũng đủ làm cho tôi tự phải xấu hổ với bản thân mình và với Văn - đứa trẻ có tâm hồn thánh thiện vô cùng. Tôi đã từng nhiều lần đề cập đến lòng thù ghét của mình với cha tôi trong tương lai, nhưng ông thường xuyên gạt đi bằng cách nở một nụ cười nhàn nhạt và nhìn chằm chằm vào khoảng không đằng sau tôi, tôi chắc ông cũng như tôi, cảm nhận được sự thù ghét bản thân khi phải hành động như một người vô trách nhiệm. Điều ấy không giúp lòng tôi thanh thản, mà khiến tôi càng đau buồn hơn nữa, khi nhìn người mà tôi hằng tôn kính trăn trở trong nỗi chán chường bản thân mà ông phải hy sinh để dạy đứa con ông một bài học của hoàn cảnh. Ôi, khi nhận ra điều đó tôi đã chuyển lòng thù hằn đối với cha mình vào bản tính cố chấp trẻ con của mình, nhưng có một ai hạnh phúc khi thù ghét chính bản thân mình kia chứ?, tôi thấy những đường hằn trên bàn tay mình càng rối rắm và mờ nhạt hơn bao giờ. Tôi bảo Văn hãy cứ ngồi trong này mà đọc sách, tôi ra ngoài hít thở một chút rồi trở lại ngay. Nó không nghi ngờ gì, cắm cúi đọc nốt cuốn sách mà nó hỏi mượn tôi từ mấy hôm trước.

Tôi bước ra hiên nhà, dù rằng trong nhà không có mùi thuốc men như nhà những người bệnh khác nhưng nó vẫn cứ trĩu nặng bênh tật không chỉ xuất phát từ cơn đau cụ thể của mẹ tôi, mà từ cả ý thức trong hai cha con chúng tôi. Cái thứ ẩm thấp ấy không tránh được dù rằng cả ba chúng tôi đã cố giữ gìn bầu không khí chung của ngôi nhà trong vòng bảo vệ bí mật mà kiên quyết, trong sự câm lặng đồng tình của tình yêu mến. Bây giờ đã là đầu tháng 2, chuẩn bị bước sang năm mới, thời tiết lạnh càng lạnh hơn khi gió phả ra từ các dãy núi bao quanh thị trấn một thứ không khí bị giam hãm lâu ngày trong những vách đá vôi trắng toát, buốt đến tận mang tai. Tôi khép vạt áo bông của mình lại,dúi cằm và miệng của mình vào trong cổ áo, kín mít đến tận nhân trung, chỉ để hở hai lỗ mũi vừa đủ để hít vào mùi giá rét của núi rừng, tôi men theo những bậc thang đi lên trên Đền. Chắc hẳn các mùa cũng có màu của nó nên người ta mới nhìn ra mùa đông chỉ toàn một màu xám như thế, không phải chỉ duy các cành cây và cỏ úa dưới chân mới là nơi tụ tập điểm sắc xám ấy, mà ngay cả bầu trời, khoảng không gian dưới bầu trời và trên mặt đất, và cả mặt đất, đều duy chỉ một màu xám. Xầm xì và dữ dằn, như miệng con thú chực xồ ra cắn xé, không đám mây trắng nào phản chiếu ánh mặt trời, không một hiện vật tươi tắn đủ nào dũng cảm khoe mình. Ngôi Đền cũng như thế, khi tôi đứng từ dưới hiên nhà ngước lên nhìn, nó giống như một tàng cây rụng hết lá chỉ còn trơ lại những xương sống và xương sườn, những bức tường của nó tan vào làm một với hiện thực bầu trời như trong suốt đến độ mắt thường cảm tưởng như màu xám ở mặt này cũng chính là màu xám ở mặt bên kia. Duy chỉ có bốn phía mái cong lên với những con rồng ngậm ngọc là vẫn thế, chắc bởi màu sắc của chúng dù cho mùa xuân, mùa hè, hay mùa thu đều chỉ là một màu xám nên vẫn giữ ngyueen được sắc thái và cường độ của mình. Tuy nhiên sự dữ dằn của bốn đầu rồng dưới sự tăng cường ánh sáng xám trở nên mạnh mẽ hơn, hai hàm răng nhe ra trên dưới hòn ngọc to hơn, vững chãi hơn và đôi lúc còn nhỏ vài giọt nước như nước dãi của con thú. Ánh mắt không tròng nhìn chằm chằm lên bầu trời mở rộng ra trong một tầm nhìn vô bờ bến. Nhưng sự dữ dằn của nó không tác động được đến tôi, tôi cứ thẳng bước mà tiến về phía nó, đứng dưới ánh mắt bốn con thú, không còn nỗi sợ hãi nào hành hạ được tôi.

Sau cuộc kiện tụng ầm ĩ giữa người đàn bà trông Đền và những bậc phụ huynh tố cáo con em họ bị lạm dụng, người ta (chính xác là ai thì tôi không rõ) chuyển người phụ nữ đến một ngôi chùa khác, thay vào đó là một người đàn ông béo tốt thường ăn vận đồ bà ba màu nâu bóng, những cử chỉ và gương mặt tươi tắn lúc nào cũng dặm phấn nói cho người ngoài biết giới tính thật của ông ta. Phải chăng tất cả những người trông coi những ngôi Đền chùa đều không thuộc tầng lớp người bình thường?, ở họ lúc nào cũng toát lên cái vẻ đồng bóng lâu đời, không biết có từ khi mới sinh ra hay qua quá trình luyện tập. Tính cách ấy dễ dãi hơn những ham muốn cứng nhắc của người bình thường, như cha tôi, nhưng cũng vì phần đỏng đảnh mà nó làm phiền nhiều người ở thế trung gian hơn mức bình thường. Khuôn mặt họ lúc nào cũng toát lên vẻ sơn son thếp vàng như không khí tỏa ra từ các thần điện, không nghiêng về một tính toán chính xác nào, nhưng cảm nhận chung của mọi người tiếp xúc đều là thế. Với những người tin và theo tôn giáo này, họ nuông chiều những bộ mặt như vậy giống như bộ mặt của những người đưa tin, của kẻ truyền giáo, tuy nhiên họ vẫn đối xử với chúng ở một mức độ vừa phải, có thể chấp nhận được. Như đã nói gia đình tôi không theo đạo giáo nào, nhưng chúng tôi cũng có những cảm nhận của mình về từng môn phái và ở một khía cạnh nào đó, một nếp gấp sâu thẳm nào đó, tôn giáo cũng tồn tại như một vật kín bất li thân.

Buổi hôm nay cũng như nhiều buổi bình thường khác, ngôi Đền không có dấu hiệu của sự sống ngoại trừ hai ngọn đèn dầu vẫn luôn được giữ cháy ở trên ban điện ngoài trời. Người coi đền mới hẳn đã chứng tỏ uy quyền mới của mình bằng cách thay đổi vị trí của cây đèn dầu và thêm vào một cây nữa, nhưng cũng vẫn cùng một cung cách, luôn giữ cho nó cháy bất kể ngày hay đêm.

Tôi bước qua thần điện, tiến hẳn lên bậc thềm của ngôi Đền mặc dù những cánh cửa gỗ của nó vẫn đóng im ỉm, tôi chỉ muốn chạm tay vào những bức vách trong suốt của nó để xem nó có mang đến cho tôi một tín hiệu, một cảm nhận hay bất cứ một cái gì khác với những cái đã có sẵn trong tôi tự đời nào. Tôi muốn những mảng màu rêu xanh giờ cũng đã ngả xám của nó chạm vào da thịt mình, mọc rễ và phân chia lại một phần ở đó, giống như các tế bào bệnh trong cơ thể mẹ tôi, chúng sẽ giữ cho tôi một niềm đau đớn giông giống với niềm đau của mẹ tôi, và khi những cái rễ nhỏ ngọ nguậy dài ra, cơ thể tôi sẽ chống lại chúng bằng tất cả sức lực của nó, bằng cả ý chí của ý thức tôi lẫn ý chí của hạt trong tôi, để xem, trong cuộc chiến giữa thực và ảo, tôi hay mẹ tôi sẽ chiến thắng. Nhưng cái ý nghĩ đen tối trong đầu tôi không sống được lâu quá hai phút sau khi tôi chạm tay mình vào bức tường và những mảng rêu bám ấy. Tôi bắt đầu sợ hãi, cơn sợ hãi không giống như khi nhìn vào vẻ hung dữ của bốn đầu rồng trên đỉnh mái, mà cơn sợ hãi này xuất phát từ phía trong nhân của các tế bào đang phân tách, từ trong hạt của tôi, và từ trong ý thức của tôi. Cơn sợ hãi bấu những móng tay sắc nhọn vào trong thành ruột tôi khiến chúng quặn lên, chèn ép vào phổi và tim khiến cử động hít thở trở nên khó khăn hơn bao giờ hết, mà không thèm nói một lời giải thích nào về nguồn cơn của nó. Tôi đổ bừa cho khát vọng sống, khát vọng được có một tương lai, nhưng tôi lại lắc đầu rũ cái khát vọng quái quỷ ấy ra, ai chẳng có một tương lai, ngay cả mẹ tôi - người đang nằm thoi thóp trên giường của bà cũng có một tương lai. Tôi phì cười vào cái ý nghĩ vớ vẩn khát vọng gì đó ấy, và rồi lại tiếp tục sợ hãi trong cơn mê màng của mình. Mặt trời đổi hướng khiến toàn thể bóng của ngôi Đền chụp lên tôi, bịt lấy mắt tôi và cái xuyên thấu nhanh chóng tắt đi không cần một tiếng động nhắc trước. Cái bóng của ngôi Đền hỗn loạn mọc ra đầy những tay, những chân và những con mắt quấn quít lấy nhau thành một mớ hỗn độn không tài nào gỡ nổi, chúng nắm lấy cổ chân tôi, nắm lấy bàn tay tôi, dí hai con mắt vào trước hai con mắt đang bị bịt kín của tôi mà run rẩy, truyền cái run rẩy ấy đến tận giác quan sâu cùng nhất của tôi, chọc ngoáy vào các bộ phận trong cơ thể và bắt đầu kêu lên những tiếng tinh tinh không dứt. Những khấc nối bóng đen với tay chân của ngôi Đèn bắt đầu rên lên thành từng tiếng xin xít, ken két như khi người ta cào cái thìa vào thành nồi nhôm khiến chân răng tôi bắt đầu tê buốt, và từ hai bên khóe mắt đang giật giật của mình, nước mắt chảy ra thành từng dòng. Nỗi sợ hãi cứ thế theo hai dòng nước mắt mà chảy ra ngoài, giữ những điểm thanh tịnh vừa bị khuấy động kết tụ lại thành một chỗ, như khối u bắt đầu sưng lên, đỏ tấy và lở loét, nhưng nó giữ cho tôi cảm giác yên bình.

Tất cả chỉ như một giấc mộng trong cơn thiêm thiếp của mẹ tôi, cái bóng của ngôi Đền nhanh chóng trở lại thành cái bóng in dài từ góc các bức vách đến một nửa sân trước, nhốt tôi ở trong. Tôi đã lấy lại bình tĩnh và nhìn thẳng vào nó, không còn những tiếng vặn vẹo, những nút thắt, mà thẳng thớm và mờ mờ trong cái xám ngắt của không gian. Hơi thở của tôi trở lại bình thường, tôi quay bước trở ra khỏi cái bóng, đứng ngắm ngôi Đền thêm một lúc nữa, rồi trở về nhà, nơi mẹ tôi hãy còn đang say trong giấc ngủ không mấy bình yên.

Văn đợi tôi quay lại rồi mới chào từ biệt để về. Quyển sách nó vừa đọc hãy còn để trên bàn, mẹ tôi vẫn ngủ, một cốc nước khác được thay vào cốc nước cũ hãy còn âm ấm bốc một làn hơi khói lên. Trời tối dần, tôi chuẩn bị bữa tối phòng trường hợp mẹ tôi muốn ăn gì đó.

Năm mới đến, ngôi nhà của ba chúng tôi cũng trang hoàng những cành đào và cây quất do bạn bè cha gửi từ khắp nơi đến. Họ cũng đã biết tin người phụ nữ thường tiếp đón họ nhiệt tình và chu đáo mỗi bận đến thăm cha tôi đã ngã bệnh - một thứ bệnh không hề tầm thường, nên thay vì đến tận nơi tặng chúng tôi những ánh mắt thương hại thì họ gửi những cành nở hoa hồng, những chậu kiểng thế đắt đỏ... Tôi thấy mỗi cánh hoa nở ra, mỗi chiếc lá rụng đi trên những cành cây ấy đều đang diễn nốt vai trò của mình trong cuộc đời nó, vì chỉ một tuần nữa thôi, một tuần sau Tết, những cái cành cây bị cắt lìa khỏi thân cây sẽ phủ phục đi trong sự cố gắng cuối cùng khoe sắc của mình, rồi bị vứt thẳng ra xe chứa rác, thế là xong đời, giống như mẹ tôi, bà nằm thoi thóp hướng ra phía cửa sổ phòng mình, dùng con mắt đã mờ đục nhìn về phía ấy như thể chờ đợi một trần cuồng phong tới. Tết này không còn giống những cái Tết xưa, tôi bỗng dưng mang trong mình trọng trách dọn dẹp và trang hoàng nhà cửa, chuẩn bị các vật dụng và đồ ăn cho tuần tới,..- trọng trách mà bình thường chỉ có mẹ tôi mới tìm thấy niềm vui trong đó nay chuyển giao cho tôi, khi tôi còn chưa bước sang tuổi mười sáu đã thấy mình đứng trong vị thế của một người phụ nữ đổ bóng xuống nền nhà, nửa tôi lấy làm khó chịu, nửa nhỏ hơn lại vênh váo vì mình đã có cái quyền lớn ngần ấy. Nhưng nửa vênh váo mau chóng bị dập tan khi tôi phải lau hai tầng nhà bao gồm các chi tiết cửa nẻo, các con tiện ở lan can, bàn thờ một năm không dọn, những cửa kính bụi mờ...,thậm chí việc thằng Văn mang đến cho nhà tôi mấy cái bánh chưng mẹ nó gói với vài cây mía mập và đẹp cũng không làm tôi vui lòng. Thời gian làm tất thảy những chuyện ấy khiến công việc canh chừng mẹ có phần xao lãng, ấy mà chỉ độ một tuần khi vào phòng bà để mở cái cửa sổ đón chút gió mới thì gương mặt bà đã ngoặt hẳn sang một bên, dù còn thở nhưng vồng ngực nhô lên của bà làm tôi khiếp hãi. Tôi đã quen với hình dáng mẹ mình gầy đến độ những góc cạnh của gương mặt lồ lộ hiện ra ngay sau lớp da, tóc dính vào da đầu nay chỉ còn vài sợi nham nhở, đôi môi bà không còn màu sắc nào nữa như được gắn lỏng lẻo như cái phẹc mơ tuya quần bò, nhưng hôm nay dưới ánh sáng của cả đất trời sắp chuyển giao sang một thời gian mới thì tôi mới thật sự nhìn thấy sự kinh hãi của mình dành cho hình hài hiện tại của bà. Tôi đã không khi nào nghĩ được rằng một con người với đầy đủ da thịt lại có thể chuyển biến thành một thứ vô dụng với toàn những xương và da nằm một đống trên giường, không thể nào nghĩ được rằng những suy nghĩ trong khối óc ấy, tình yêu thương trong con tim ấy bay biến đi đâu khi cơ thể không còn sức chứa đựng?, có lẽ nào chúng cũng bị thứ không khí ẩm ướt ở thế giới này hút bay lên trời như những phân tử nước ?. Tôi trở lại giường mẹ mình - người cả tuần nay đã không còn dùng ánh mắt để giao tiếp được nữa, chạm tay vào tóc mẹ mà vuốt ngược lên như bà làm khi bắt gặp một đứa trẻ con. Bà không phản ứng gì, mẹ tôi thậm chí không còn sức để tỏ thái độ khó chịu. Phía bên trong bà các tế bào hiện giờ có phân chia nữa không?, hay chúng cũng bị sự công kích của chính mình đánh gục?.

Tôi nằm xuống bên cạnh bà, cái giường hãy còn rộng đủ chỗ cho tôi có được một tư thế nằm thoải mái, nhưng tôi rúc đầu về phía bắp tay mẹ, để im ở đó đợi chờ sự phản ứng của các tế bào trong cơ thể. Từ chỗ tôi nằm không nhìn được ra phía cửa sổ, nên tôi đành ngắm trần nhà. Một cái hố như bị ai đục chỉ bằng đầu ngón tay nằm ngay chính giữa trần nhà, không biết mẹ mình khi mở mắt có nhìn nó không. Tôi thử đưa ngón tay trỏ của mình đặt vào chỗ ấy, nheo một mắt tôi làm ra vẻ như vị họa sĩ đang dùng đầu bút chì căn chỉnh góc độ. Rồi bỗng nhiên chuyện đó xảy ra, ầm vang trấn động như tiếng ngôi Đền rền vang trong những đêm đỏ đèn : tôi không thấy đầu ngón tay trỏ của mình đâu cả. Nó biến mất hẳn một đốt trong câm lặng, không báo hiệu, không đau đớn, không máu chảy...chỉ đơn giản là nó không có ở đó - một đốt ngón tay trỏ. Tôi không tin vào mắt mình, giơ cả hai bàn tay lên mà ngắm ngía, các ngón đều đủ đốt, chỉ duy có một ngón trỏ bàn tay phải là ngắn hơn các ngón khác một chút. Tôi quay về phia mẹ cố tìm một câu trả lời, nhưng mắt bà vẫn nhắm tịt, vòm ngực nhô lên, rồi hạ xuống, tiếng khò khè phát ra như động cơ bị hỏng chức năng. Không khí bên trong và bên ngoài phòng quá êm ắng đâm ra tôi nghi ngờ nhãn lực của mình, tôi định kiếm cha để hỏi ông có nhìn thấy ngón tay trỏ của tôi ở đâu không thì một cái gì níu lấy cổ chân tôi. Lưỡi tôi tiết ra thứ dịch đăng đắng bắt đầu lan dần về phía cuống họng, ấy thế mà tôi lại có cảm giác như vị của đốt ngón trỏ. Tôi bị sự êm ái của chiếc gối và chăn với sợi dây ấm nóng của các tế bào đang liên tục cọ xát trong cơ thể của mẹ tôi truyền qua mảnh da đầu tôi ghé vào sát bắp tay bà ru đi trong một cơn mơ màng, tôi không thể định hình được cái đốt ngón trỏ ấy như thế nào nữa, những điểm không chắc chắn xồ ra phía trước chắn lấy bán cầu não đang rung lên như sắp bị đè bẹp. Trong giây phút ấy ngôi Đền đột ngột hiện ra trước mặt tôi, với người đàn bà tóc ngắn có khuôn mặt trang điểm đậm đứng bên cạnh, một người một vật cứ thế phình to cái hố đen là miệng ra nuốt chửng lấy toàn bộ những thứ thuộc về nó, hoặc chẳng may rơi vào trong nó. Sự nuốt diễn ra mà không một tiếng động nào thoát ra ngoài, như thể cơn ám ảnh bóng đè chèn lên ngực con người sự hãi hùng mạnh mẽ và to lớn đến độ không có đường nào trên cơ thể đủ rộng để thải nó ra ngoài, chỉ vừa kịp phồng lên ép vào các mạch máu khiến cả cơ thể đỏ rực rồi bất chợt tan biến sau một tiếng "bụp" như tiếng nổ của thiên thạch trong không gian. Xung quanh tối sầm đi và tôi chìm dần vào trong giấc ngủ vừa kịp chờ tới.

Khi tôi thức dậy cũng đã gần đến giờ đón Giao Thừa. Mẹ tôi vẫn nằm trong cơn mê mải của bà và thở ra những làn không khí đậm hơn bình thường. Tôi quên không đóng cửa sổ, cái lạnh tràn vào chiếm đoạt lấy không gian và cơ thể của người phụ nữ đã bị ru ngủ trong sự trường tồn của thế gian. Tôi nắm lấy bắp tay hở ra khỏi chăn của mẹ mình mà lay, bà vẫn không có một cử chỉ đáp lại. Chuông đồng hồ vừa điểm mười một giờ. Cánh cửa sổ phòng đột ngột bị một cơn gió hất tung lên xoay theo chiều bản lề đập trả lại bức tường. Sự giận dữ của ngôi nhà dành cho tôi ư? Đứa con gái vừa phát hiện mình không còn đốt ngón tay trỏ, hay là chính cái giấc ngủ yên bình của mẹ tôi làm nó ghen tị?. Những phán đoán của tôi về thời tiết, về cánh cửa và về không gian ngay lúc này chẳng có ý nghĩa gì ngoài việc lấp cho đầy não bộ không được thông tuệ, giống như con thú quằn quại trong cơn đói, tôi cố gắng gạt bỏ mình ra khỏi những lo toan thường ngày mà bây giờ bỗng trở nên có ý nghĩa với tôi hơn hết thảy. Cái này không gì hơn là một sự bối rối, bối rối cho mâu thuẫn giữa bên ngoài và bên trong của cùng một cơ thể, khi mà ta vừa mở mắt ra đã phát hiện mình không còn là một mảnh toàn vẹn. Tôi lửng lơ trong căn phòng lạnh giá mà không khí bên ngoài tràn vào mà vẫn không thể toàn tâm tập trung cho việc lý giải sự đột ngột ra đi của một đốt ngón tay, nó giống như chuyện vốn là vậy cả trăm năm nay, đột nhiên có người tới đòi lí do và đền bù.Trong một giới hạn nào đấy tôi vẫn tin tưởng vào cái mà mình có thể định nghĩa chứ không phải vào những thứ vừa bị đánh cắp đi bằng tâm tưởng và ý chí của một thế lực nào khác. Tôi không lo sợ, vì tính cách ương bướng và trẻ con hãy còn là bản tính chủ yếu trong cái tuổi này, không thể nào cơ thể người có thể tan vào không khí như a xít chuyển hóa kim loại, không, nó làm tôi liên tưởng đến hình ảnh của nàng tiên cá đang tan thành bọt biển hơn. Tôi không giống như nàng, tôi có ý chí của riêng mình, có sự dung hòa giữa tâm thể và bản thể, sự dung hòa ấy khiến tôi luôn giữ được bản thân mình đứng vững trước bất cứ sóng gió nào, và giúp tôi quên ngay những vấn đề không đáng được giữ lại ở trong mình. Sự dung hòa ấy nhiều lần cứu tôi khỏi những đau khổ, cả bây giờ và sau này, cứu giúp tôi ngay cả khi tôi không tự ý thức được mình cần sự cứu giúp, giống như thời gian, nó ở bên tôi, sát cánh với tôi ngày qua ngày và già đi cùng tôi, nhưng tôi không cảm nhận được hiện diện của nó, không chạm được vào hình dáng nó, không nhìn được tới bản chất thật của nó, tác động của nó lên tôi là tác động một chiều, tôi không cần trả giá, không cần đền bù. Nhưng lần này với một đốt ngón trỏ biến mất vào trong không khí thì tôi không tìm thấy sự hiện diện của sự dung hòa trong tôi, mà biến thể của nó bằng sự sai lệch đi một li đã trở thành mâu thuẫn , sự thuận hợp biến mất, sự đồng nhất biến mất, sự hòa giải biến mất, cái còn lại là những đối trọng không cân sức lao vào nhau trong một cuộc chiến vô nghĩa không hồi kết. Tôi ngạc nhiên với những gì đang diễn ra trong mình, ngạc nhiên như thể đốt ngón trỏ của tôi biến mất theo cái cách mà tôi có nó, như thể ai đó vừa chợt nghĩ ra "ôi mình cần một đốt ngón trỏ" thế là mau mắn nhấc nó ra khỏi ngón tay tôi. Chuyện này phần nào trong cơ thể tôi mách bảo chỉ có mẹ tôi mới giải đáp được, như cái cách tôi đã nhận được các tế bào phân chia của mẹ, và chuyển hóa nó thành của mình để biến mình thành một cơ thể mang mã gene na ná. Tôi cần phải được nói chuyện với bà, nếu được thì đây sẽ là cuộc nói chuyện đầu tiên của chúng tôi, cuộc nói chuyện đánh dấu cái phát triển lên bậc cấp cao nhất của tình mẫu tử, hay đúng hơn là quan hệ gắn kết chặt chẽ giữa các đoạn gene và tế bào. Bà chính là vật mẫu đã nuôi dưỡng tôi, cung cấp cho tôi tất cả những thứ vật chất mà tôi cần, không một lời ca than hay hỏi vì sao, bà truyền cho tôi năng lượng của mình từ trong cơ thể bà. Tôi không tự giác ngẩng đầu về phía mẹ mình, nhưng cặp mắt băng giá và đôi môi càng lúc càng đen thẫm lại của bà không có ý muốn trả lời. Tôi để ngón tay thiếu một đốt lên bụng bà, nơi từ đó tôi đã được nuôi dưỡng, khoảng không trống rỗng trên đầu ngón tay náo loạn, các hạt nguyên tử ở đoạn cần phải có cọ xát vào nhau nóng dần và truyền lại hơi nóng ấy về phía hai đốt còn lại, nhanh chóng toàn bộ bàn tay tôi ấm lên, rồi cả cánh tay, bả va, cổ, ngực..đều nóng lên. Cái nóng ấy cũng được truyền sang cơ thể mẹ tôi, khiến bà ngọ nguậy cái đầu vào một tư thế khó chịu. Ý chí bà không cảm nhận được nó.

Cơn nóng vô tình nói với tôi rằng nó vẫn ở đó,đốt ngón trỏ của tôi vẫn ở chỗ nó phải ở, các hạt vật chất vẫn làm đúng cái nghĩa vụ của nó, tức là nếu tôi muốn bóp cò một khẩu súng thì không có cách gì ngăn cản được ngón trỏ của tôi quặp vào đó mà ấn chặt, tức là tôi vẫn có thể dùng bàn tay mình như một cái lược hãy còn đầy đủ răng mà chải tóc cho mẹ tôi, tức là tôi vẫn còn cảm nhận được cái nóng ở đầu ngón tay trỏ của mình. Nhưng ở một không gian khác, trong một thời điểm khác, kể từ khi không gian và thời gian là hai thứ gắn kết với nhau thì ngón tay trỏ của tôi không tồn tại, không còn hình dáng cũng như cảm xúc, tức là bàn tay tôi có một ngón ngắn hơn các ngón khác. Không gian ấy chỉ được nhận ra khi mẹ tôi hãy còn tồn tại, vật chủ của tôi, nơi đã phát triển từng dạng thức của tôi trong thời gian hơn chín tháng, và đó là thời gian thuận hợp để sản sinh ra một tôi thiếu đốt ngón trỏ bàn tay phải. Và một khi mẹ tôi biến mất khỏi không gian này, thì không có gì ngăn cản tôi bị thiêu đốt trong ngọn lửa của sự mất mát các bộ phận cơ thể, tôi tin nó chỉ dừng lại khi bản thân tôi kịp hoàn thiện mình. Nhưng cũng như ý nghĩ của Thượng Đế khi đặt loài sinh vật không thể thở dưới nước vào một hành tinh 70% là nước, tôi sẽ tan biến trước khi mình kịp hoàn thiện, ấy là điều tất lẽ xảy ra, không ai hoàn thiện được bản thân cả.

Sự lí giải ấy phù hợp đến độ sự dung hòa trong tôi lập tức trở lại, chạy thành dòng bên cạnh ý thức hệ của tôi, thuận hợp và can đảm, như từ xưa vẫn vậy. Thời khắc chuyển giao giữa năm mới và năm cũ điểm tanh tanh thành từng tiếng trên đồng hồ ngoài phòng khách, tôi nghe tiếng cha mình trở người trong phòng làm việc, tiến về phía bàn thờ tổ tiên, thắp lên những nén hương đã được tôi chuẩn bị sẵn. Mùi hương lẩn quất trong sự rùng mình của ngôi Đền phía đối diện, ai đó dùng dùi đánh vào quả chuông vô hình lơ lửng trong không gian, đủ mười hai tiếng với các sắc thái đỏ khác nhau. Tôi ngọ nguậy ngón trỏ bàn tay phải một lần nữa cảm nhận sự hiện hình của vật chất nơi đốt đầu tiên, rồi giữ nó chặt trong lòng bàn tay trái cố truyền cho hai bàn tay một sự hài hòa về tổng thể, để chúng rời xa nhưng ganh ghét đố kị, quay trở lại với bản chất thật mà tôi gắng điều hòa trong thời gian qua. Sự vật xung quanh bỗng trở mình nổi lên thành một vòng tròn xung quanh tôi, đưa tôi vào thế giới của một cái gì đó vừa trỗi dậy ngay bên trong mình. Thời khắc này, giữa các tế bào đang phân chia, các chuỗi gene của tôi thay đổi hạt nhân của nó - tôi trở thành một tôi mới.

Tôi đồ rằng cha mình có lường trước được sự việc này, chính vì ông đã chủ động để cho tôi thời gian một mình với mẹ mà chôn mình trong phòng làm việc lâu hơn hẳn tất cả những ngày khi mẹ tôi hãy còn khỏe mạnh. Ông đã nhìn thấy sự rùng mình biến động trong cơ thể tôi, đã đoán trước khi nào thì nó sẽ xảy ra và tôi sẽ tự tìm kiếm được câu trả lời ở cơ thể mẹ mình, thế nên ông không nói không rằng, chuyển mọi tình cảm và đau thương của ông dành cho mẹ mà đáng lẽ phải biến thành hành động sang cho tôi. Tôi không biết trong những đêm ông ở bên cạnh bà ông có kể cho bà nghe sự biến đổi từ từ này, hay xin lỗi bà về việc ông phải làm, vì trong khuôn mặt mẹ tôi dù đã chìm vào trong sự kiểm soát vô thức cũng không hề để lộ ra bất cứ một điểm trách cứ chồng mình - người mà con gái bà những tưởng ông vô tâm đến độ không đếm xỉa gì đến giấc mộng đớn đau của mình. Tôi nghĩ đến những lời Văn nói, nghĩ đến những ngày qua, nghĩ đến bóng lưng ông còng còng bên ánh đèn làm việc,...tất thảy những thứ ấy, hiện giờ đã trở thành kí ức, và khi mùi hương của nhang tan đi, cũng là lúc một ngày mới thức dậy nơi đỉnh cao của những ngọn núi bao quanh thị trấn này.

Ba tuần sau năm mới, mẹ tôi chết. Tôi không có nhiều thứ muốn nói về đám tang của bà, nó xảy ra như hàng ngàn đám tang bí ẩn khác mà tôi không bao giờ hiểu được tất cả những quy trình đó lấy ở đâu ra và ai là người điều khiển nó diễn ra trơn tru như vậy. Tất cả những gì tôi làm là nhìn bà nằm trong quan tài gỗ sơn màu khó chịu nhức nhối với những khảm vàng trông giả tạo hết sức đang say sưa trong một giấc ngủ thiếu những hơi thở khò khè của động cơ hỏng. Tôi lén thay chiếc gối có sẵn trong quan tài bằng chiếc gối của riêng tôi, đặt mái đầu bà lên trên nó, vuốt lại mái tóc cho thẳng thớm. Người ta (tôi không biết là ai) trang điểm gương mặt bà hồng hơn, môi bà thắm hơn, nhưng lại quên không vuốt lại mái tóc cho bà. Tôi đặt trong bàn tay bà mớ tóc tôi cắt và buộc lại vẫn để trong ngăn kéo đầu giường hàng ngày, giữa đủ những thứ vàng xanh bằng giấy mà người ta đặt vào. Rồi tôi đậy nắp quan tài, gương mặt bà giờ chỉ còn nhìn thấy qua một ô cửa kính nhỏ. Người ta đem bà thả xuống hố đất đã đào sẵn. Cái lạnh mùa đông cắt vào da thịt những người đến dự đám tang một cơn buốt giá biến thành cái rùng mình chạy dọc sống lưng. Mẹ tôi, trong cái khoảng khắc xẻng đất đầu tiên hất lên quan tài của bà, đã mở hé một nửa phần mắt, và nhìn về phía đốt ngón trỏ bị thiếu nơi bàn tay phải của tôi, và thả ra một tiếng thở dài, rồi mọi việc lại theo tuần tự của nó, bà nằm im ắng dưới tàng đất sâu.

5.

Ở trường vẫn không có gì khác biệt, vẫn là những bài giảng cũ, những con người cũ theo đuổi nhưng tâm tư cũ...Chỉ riêng có Văn là có chút thay đổi, kể từ lúc tôi hôn cậu ta trên đồi thông gần nhà mình trước khi mẹ tôi mất. Dù cả hai đã cố tỏ ra bình thường nhưng một cái gì lơ lửng trên đỉnh đầu như lưỡi hái tử thần chỉ chực chờ xuống cắt đứt sợi dây giả dối vốn đã mỏng manh. Chuyện xảy ra khi Văn đến nhà tôi thăm mẹ tôi, nhưng cha tôi đã đưa bà đi bệnh viện theo đợt khám định kì, chúng tôi quyết định đi dạo một vòng ở ngọn đồi thông cách nhà tôi độ một cây số. Đồi thông không cao, các cây thông cũng không giống như trong cách bức ảnh và trong tưởng tượng: thân thông thấp, vòm lá mỏng và màu đậm, quả thông chỉ to bằng hai ngón tay chụp lại. Chỗ chúng tôi dù khí hậu có mát hơn nhưng cũng không phải là điều kiện lí tưởng cho cây lá kim phát triển ở trạng thái thể lực tốt nhất, bất quá cũng chỉ sống được thôi. Và tôi không biết ai nảy ra cái ý định trồng cả một rừng thông ở đây. Nhìn ở mặt tích cực, rừng thông đối với chúng tôi - những đứa trẻ sống ở một thị trấn chẳng có gì để khắc phục những tổn thương tinh thần vẫn xảy ra hằng ngày thì có một rừng thông trông tạm được để thỉnh thoảng đi dạo cũng là khá lắm rồi. Chúng tôi chẳng mong ước gì hơn.

Bầu trời hôm nay xanh như hôm đầu tiên tôi đến thị trấn này, nhìn từ dưới những gốc thông trông nó càng vòi vọi hơn nữa. Tôi mang theo một cái chăn cũ để trải xuống đất với một bình nước lọc hứng ngay từ vòi có mùi rờn rợn để giải khát. Chúng tôi nằm trên cái chăn cũ, cỏ dưới lưng chọc vào ràn rạn, ngắm nhìn bầu trời trong xanh không một gợn mây phía đỉnh đầu. Ban đầu hai đứa nói những câu chuyện hết sức bình thường như tất cả bọn trẻ chúng tôi thường hay nói: về trường lớp, về các bạn học, đánh giá từng đứa, rồi chuyển dần về gia đình và cuộc sống trong tương lai. Chúng tôi chưa bao giờ phải cố gắng trong việc tìm một đề tài để nói chuyện, khi không cần phải nói, sự im lặng giữa hai đứa cũng dễ chịu và thoảng mùi thơm chứ không gay gắt như những lần im lặng mà sau này lớn lên tôi nhiều lần nếm trải. Trong khi chúng tôi đợi chủ đề tiếp theo tự nhiên đến, mùi hương phát ra từ Văn khiến tôi hơi có phần xao lãng, xáo trộn thính giác thính giác của tôi. Văn luôn luôn có một mùi rất riêng biệt, có thể do cậu ấy quá sạch sẽ, quá trắng trẻo nên mùi hương bám lại lâu hơn người khác chăng?, và thứ mùi đặc trưng của cậu ta lúc nào cũng gợi lên mùi của nắng: cái áo sơ mi trắng (luôn luôn là áo sơ mi trắng) có mùi nắng khô mùa đông nhẹ như giọt nước rơi vào chảo dầu , vành tai sạch sẽ dưới mái tóc cháy mùi nắng (vì cậu ta phải giúp bố mẹ trong việc đồng áng) tỏa mùi ngây ngấy giữa cháy và vừa chín tới, bộ ngực mỏng manh dưới lớp áo là mùi nắng ấm ngày xuân đong đầy hương cây cỏ dại, hai bắp chân cậu ta hãy còn vẳng lên tiếng kẽo kẹt của bánh xe đạp guồng lên màu vàng dại.. Mùi hương xen lẫn tiếng văng vẳng của nhạc hầu đồng đang diễn ra trên Đền khiến tôi bỗng thấy nao nao lòng, như người chuẩn bị xa quê. Tôi biết một khi mẹ tôi mất đi, mà cũng chẳng còn bao lâu thời gian nữa, cha tôi sẽ rời đi mang theo cả tôi, đến một vùng trời cách xa ngọn đồi thông này, cách xa ngôi trường có sân sau trồng đầy rau, và cách xa cả Văn - cậu bạn nắng của tôi. Lòng tôi dâng lên một nỗi bồi hồi xanh như màu lá thông, nước mặt chưa kịp trào ra đã bị Văn nhìn thấy, cậu ta bật dậy hỏi tôi có chuyện gì, vì lo lắng cho mẹ ư?, tôi cũng ngồi dậy theo phản xạ xoa tay quanh mắt lấy lại thế chủ động. Cái dụi mắt quá mạnh làm hai mắt tôi tối sầm và những đám mây sao hiện ra lấp lóe trước mắt, một cảm giác thoải mái thay vào nỗi bồi hồi ban nãy xâm chiếm khuôn mặt tôi. Tôi mỉm nụ cười khi hạ tay xuống, và nhắm vào miệng cậu bạn đặt một nụ hôn. Tôi chỉ có ý nghĩ rằng tôi đang cưng nựng con búp bê cưng của mình trong buổi diễn trà chiều trong căn phòng nhỏ của mình, hay đang âu yếm đứa trẻ con má phúng phính của nhà hàng xóm mà hồi nhỏ nhiều lần tôi xin mẹ mình xin nó về nuôi. Ngoại trừ cảm giác ấy ra, một thứ dục vọng nhỏ hơn bị dìm lại trong cơn say đắm không phải là lí do chính đáng để tôi hành động như thế. Hai chữ dục vọng vừa làm tôi kinh sợ vừa làm tôi rối trí. Ngoại trừ giữ cho mình một đầu óc cân bằng, ở nơi này tôi còn phải thể hiện mình sao cho mãi mãi giống một đứa trẻ mười tuổi. Chính thế hai chữ ấy có sức mạnh khiến tôi, ngay cả khi đã bước sang tuổi hai nhăm và sống ở một đất nước hoàn toàn tự do về mặt sinh lý, vẫn không tài nào thoát khỏi cái ý nghĩ đấy là điều xấu xa. Khi mới chỉ mười sáu tuổi, dứt ra khỏi cơn choáng nắng của mình và nhìn thấy đôi mắt đong đầy bối rối của cậu bạn đối diện, tôi mới nhận ra mình vừa làm điều khủng khiếp gì. Hình ảnh ngày hôm đó sẽ mãi đi theo tôi cho đến tất cả những năm về sau của cuộc đời ngắn ngủi này. Tất nhiên không ai trong hai chúng tôi nói được gì cho đến khi nắng đã hạ xuống một tông và bầu trời đã không còn màu xanh mát rượi của nó, cái lạnh phả ra từ mặt đất và không khí bắt đầu ngấm dần vào da thịt của chúng tôi. Hai đứa không ai bảo ai thu dọn đồ đạc rồi đi về. Tất cả những hành động ấy đều được thực hiện trong cơn mê mải chạy đuổi theo những suy nghĩ riêng tư của mỗi người, thật may sao bầu không khí rời rạc này không có đứa nào cảm nhận được.

Tôi không nhớ gì nhiều về cảm giác khi môi mình chạm môi Văn, nó giống như ăn một miếng thạch,đã trôi tuột xuống cổ họng trước khi nhận ra nó có vị gì, vì thế khi phải nhớ về nụ hôn đầu, tôi chỉ có thể kể ra khung cảnh xung quanh và mùi nắng tỏa ra từ cậu ta, thế thôi, không vị giác, không thính giác, không gì cả. Nhưng có lẽ như thế cũng đủ tối hôm đó và nhiều hôm sau nữa, khi đang trông chừng giấc ngủ mẹ mình và giấc ngủ của chính mình, kí ức vừa hiện ra loáng thoáng là bụng tôi đã xoắn lại trong một cảm giác hút tụt vào bên trong, vừa âm ỉ lại vừa đê mê, không, tất nhiên nó không phản ánh dục vọng, tôi không nói về dục vọng ở một cô gái mười sáu tuổi, mà có thể nó phản ánh sự yêu thích. Tôi muốn nói với mẹ về tình cảm của mình dành cho Văn đột nhiên biến đổi lên thành một thứ gì kì lạ và rạo rực trong mình, trước đây những chuyện như thế này tôi luôn nói với cha mình, nhưng lúc này, người tôi muốn tâm sự nhất lại là mẹ. Tuy thế, cái gì cũng có thể nói được, duy chỉ có chuyện này, kể cả khi mẹ tôi mãi nhắm đôi mắt và thở khò khè trong cơn khó chịu của giấc ngủ không đều, tôi cũng cứ ngập ngừng nửa muốn nói nửa lại thôi. Nửa giữ tôi ngậm miệng ấy cũng không phải là thứ có ở trong tôi từ lâu, nó mới xuất hiện thôi, nên tôi không tài nào định nghĩa được nó, cảm giác giống xấu hổ như vừa bị bắt gặp làm việc xấu, lại như chột dạ vì sợ làm sai. Tôi cứ mãi ngắm khuôn mặt mẹ mình rồi quyết định giữ nó cho riêng mình.

Tôi nhớ đến cô bạn xinh gái học cùng lớp, cô mà có làn da trắng muốt và đôi má luôn ửng đỏ vì cha mẹ bắt gặp cặp kè với cậu thanh niên học cấp ba nên cho đến tận giờ vẫn bị đưa đón ngày hai buổi tới trường, tôi tự so sánh tình cảnh của cô ấy với mình, để xem xem những thứ đang diễn ra trong tôi mấy ngày gần đây có điểm nào khác biệt minh chứng cho sự thật, nhưng việc ấy vốn chỉ như nhìn vào những ngọn sóng ở biển, không tài nào phân biệt được cái nào cao cái nào thấp, cái nào mang nhiều phân tử nước hơn cái nào. Tôi hoàn toàn rối trí, hơn nữa, bầu không khí giữa Văn và tôi khi ở lớp vẫn không được cải thiện gì hơn so với hôm ở đồi thông, gượng gạo và khô khan, đến độ có hôm bé Thi hỏi chúng tôi đang giận nhau đấy ư?, và tôi đã không trả lời được câu hỏi ấy.

Ở phía Văn, tôi cảm nhận được dòng chảy mát mẻ trong veo của nó cũng có sự xáo trộn, nhưng theo chiều hướng có lợi cho tôi, có lợi cho sự phát triển tình cảm mới mẻ đang xảy ra trong tôi. Tuy nhiên nó cũng bối rối hệt như tôi, khi cả hai đứa còn quá nhỏ và quá thiếu kiến thức để tìm hiểu xem chúng tôi sẽ làm gì với thứ tình cảm này. Thế nên để nó trôi qua ngày qua ngày trong cơn mơ hồ là lựa chọn của chúng tôi, không đứa nào phàn nàn hay thấy mệt mỏi, cuộc rượt đuổi tiếp diễn cho đến tận ngày mẹ tôi mất đi, và đến tận ngày cha tôi nói chúng tôi phải rời khỏi đây.

Cha tôi sau đám tang của mẹ tôi trở nên hoạt bát hơn, ông vẫn tiếp tục duy trì công việc nghiên cứu của mình, đồng thời dành cho tôi nhiều thời gian hơn. Mỗi buổi tôi tan trường về đã thấy cơm trưa dọn sẵn, cha ngồi đợi tôi trên bàn ăn. Buổi tối trước khi đi ngủ ông ngồi nói chuyện với tôi về nhiều vấn đề, trong đó có cả chuyện về mẹ tôi. Nhưng kể từ khi tôi phát hiện ra một đốt ngón trỏ của mình biến mất, và có một thứ tình cảm khác lạ đang nảy nở trong tôi thì tôi thích tự khép mình vào thế giới riêng hơn, không còn hứng thú với những câu chuyện của cha mình nữa, hẳn ông cũng tự nhận ra điều ấy nhưng vẫn không ngừng nói chuyện với tôi. Cho đến một hôm, ông thông báo:

"Có chuyện cha cần nói với con,con gái. Một trạm nghiên cứu ở Mỹ mời cha về làm việc, và cha nghĩ đó là một cơ hội rất tốt cho sự nghiệp của cha."

"Nghĩa là chúng ta sẽ chuyển đến Mỹ sống ạ?"

"Con gái, cha đang hỏi ý kiến của con. Nếu con không muốn, con biết đấy, mẹ con vừa mất, ta cũng hiểu tình cảm con dành cho mẹ, nên nếu con không muốn, chúng ta sẽ không đi đâu hết."

Cha tôi nhìn thẳng vào mắt tôi khi nói câu ấy, và tôi cũng thế, trong mắt ông không chỉ có sự mong chờ, mà còn là ánh lửa dù đã cố giấu đi những vẫn rực lên của niềm khao khát. Tôi không biết câu ông nói có chút nào ý nghĩa với chính bản thân ông không. Tôi chán chường trả lời:

" Con sẽ suy nghĩ rồi trả lời cha sau nhé!"

Đôi lúc, tôi ích kỉ ghê gớm, không chỉ với bản thân mình mà còn với tất cả những ý định của những người xung quanh. Nhưng lần này, ngay khi mẹ vừa mất, ngay khi tôi hãy còn chưa định hình được bản thân mình trong cuộc rượt đuổi với Văn, ngay khi tất cả mọi thứ hãy còn đang dang dở, cha tôi lại định chạy trốn. Tôi biết, ông cũng yêu mẹ nhiều như tôi, nhưng ở ông có xu hướng thoát ngay ra khỏi mớ rắc rối nếu nó làm ảnh hưởng đến cái mà ông gọi là sự nghiệp của mình, và chính điều này làm tôi rất buồn. Vì tôi đặt ra một sự so sánh, giữa tình cảm và cuộc đời, giữa những cái có và cái không, giữa thứ nên duy trì và thứ không thể duy trì,...nó nằm ngoài những quy luật phát triển của cuộc sống,với một số người nó chỉ có tính chất mỹ thuật, nhưng với tôi, với đứa con gái vừa phát hiện ra bản thân mình chỉ là một tế bào phân chia, nó là tất cả. Ấy thế mà cha tôi lại bắt tôi phải đặt lên bàn cân hai thứ ấy, chỉ bởi mục đích cá nhân của mình. Tôi đã biết câu trả lời của mình trước cả khi cha nói câu thứ hai, nhưng ở một mặt nào đấy, tôi lại cũng cảm thấy không phải với cha mình nếu cứ thế mà đứng dậy và bỏ ông lại với một sự nghiệp dở dang. Với cha, nghiên cứu khoa học là sinh mạng, mẹ tôi là tình yêu, nhưng cái gì đã mất, và cái gì còn tồn tại thì rõ ràng như lòng bàn tay, chỉ là tôi tức giận đến độ không muốn thấy nó mà thôi. Tôi mất cả đêm để tự làm mình nguội xuống, chứ không phải để nghĩ về việc tôi quyết định như thế nào. Sáng hôm sau tôi nói với cha trước khi đi học, rằng chúng ta nên đi Mỹ.

Quyết định của tôi giống một quyết định rút quân của kẻ bại trận, không sao tránh được cái cảm giác thất vọng và não nề mà nó mang lại, tôi chỉ còn biết ủ rũ nói lại với Văn rằng chúng tôi sẽ chuyển đi vào tháng sau. Cậu ta với gương mặt hết thảy thất vọng, miệng trễ xuống để hở một khe nhỏ giữa hàm răng. Tôi dám chắc lúc này cậu ta suy nghĩ về nụ hôn của tôi kiểu như một dạng thể hiện tình cảm lần cuối trước khi rời đi, hay cái gì đại loại như vậy, nhưng tôi không muốn cậu ta nghĩ về nó theo cái cách như thế, tôi nói tiếp rằng cha vừa bảo tôi tối hôm qua và tôi đã đồng ý. Văn thôi không diễn cái hành động như vừa nãy, ánh mắt cậu ta trùng xuống giống trong sự chấp nhận, việc này nằm ngoài quyền kiểm soát của cậu ta, và tôi lấy làm vui lòng vì biểu hiện ấy.

Cuộc chia tay của chúng tôi không đẹp như cách các câu chuyện khác thường diễn ra, nó nhạt nhòa và khô cứng, đấy là kết quả của một khoảng thời gian mê mải theo những ý nghĩa riêng của mỗi đứa mà nguyên nhân bắt nguồn từ cơn bột phát ở đồi thông của tôi. Văn cũng đến vào ngày tôi và cha leo lên chuyến xe khách với hai vali to đùng, cậu ta đã không nói được một câu gì cho tử tế, tôi cũng vậy, đành chỉ nhìn nhau khi xe lăn bánh và vẫy tay. Dáng hình của cậu ta lùi lại dần dưới bóng đen thẫm của ngôi Đền trên đỉnh đồi. Ôi, tôi cũng đã không từ biệt ngôi Đền cho cẩn thẩn, tôi đã không dám tự mình bước lên đó và đặt tay lên những tấm vách ngả màu cũ kĩ nhưng mát lạnh ấy, không dám nhìn thẳng vào những con mắt không tròng của bốn con rồng ngậm ngọc trên mái nhà. Vì tôi biết rằng chính trong cái tiềm thức sâu xa của ngôi Đền, hay là chính một phần của tôi, sẽ bung ra thành từng hạt bụi khi nhìn sâu vào đó, sự dũng cảm này sẽ bay biến hết đi để trơ lại bộ xương trắng với mái tóc chỉ còn một nửa. Bóng đen của ngôi Đền phủ xuống giống như một tấm màn chết, một tấm màn đen tối chuẩn bị sẵn cho tôi một khi tôi chùn bước, một khi tôi thả lỏng bàn tay đang giữ chặt trái tim khóc thầm của mình, tôi sẽ bị chụp vào trong, bị cái bẫy giăng sẵn ấy dày vò cho đến hết cuộc đời, và linh hồn của mẹ tôi sẽ than khóc vì đã không bảo vệ được con gái bà. Tôi cứ ngoái đầu lại nhìn bóng Văn nhỏ xíu đựa vào ngọn đồi cho đến khi một cơn chuếnh choáng cướp đi nốt mảnh lí trí cuối cùng của mình.

Năm tiếng sau chúng tôi có mặt ở sân bay quốc tế, chuẩn bị cho chuyến bay đến một đất nước xa vời mà chính cái khoảng cách vô cùng là tấm màn ngăn trở hoàn toàn tôi với những dạng thức suy nghĩ và tình cảm cũ. Tôi với một đốt ngón tay trỏ biến mất, tiếp tục tồn tại ở một nơi khác trong một quãng thời gian khác dù rằng không hề có một quãng ngắt ở giữa.

Lúc mẹ mất tôi đã không nhỏ một giọt nước mắt, ấy thế mà khi ở trên máy bay, khi tất cả mọi người đều mơ màng trong giấc ngủ lơ lửng giữa không trung, tôi trốn vào phòng vệ sinh và khóc nấc một mình, không cả tìm hiểu xem nỗi bứt rứt và tủi thân này là từ nguyên nhân nào, nước mắt cứ tràn ra ngập bờ mi.

6.

Sau ba mươi tiếng đồng hồ với đủ các thủ tục và di chuyển mệt mỏi , hai cha con tôi đã hạ cánh an toàn ở Mỹ, một thế giới mới mở ra trước mặt chúng tôi như quyển sách mở ra những trang cuối cùng mà lại cũng là những trang đầu tiên trắng toát và lộng lẫy, thu hết những cảm giác khác trừ loại cái chuếnh choáng như con ong mật bay ngang qua mặt trời. Thiếu ngủ khiến đầu óc tôi không phân định được ranh giới của ngày và đêm cũng như giữa mơ và thực, cha kéo tôi về phía chiếc taxi màu vàng đỗ ngay cửa ra, nhét hai chiếc vali vào trong cốp xe và đọc địa chỉ bằng thứ tiếng Anh vững chãi mà tôi không hề biết ông có thể nói. Người tài xế trắng toát như vị thiên thần gác cổng thiên đàng gật đầu và bắt đầu lái xe rời sân bay, hướng về thành phố hãy còn chìm trong cơn mê của buổi ban mai đọng đầy sương tuyết. Xung quanh cái trắng lạnh của người tài xế là một viền lân tinh bao bộc, ánh sáng của nó rưng rưng trong xung động của buổi sáng sớm có nắng chiếu xiên qua cửa kính chưa kịp kéo hết lên. Mùa đông ở đây không giống như mùa đông ở nơi cũ, nó trắng toát - đến độ phản chiếu màu xanh của bầu trời trong ánh mắt mỗi con người. Thi thoảng cũng có sắc xám, nhưng phần lớn đều có cường độ tươi mới và nhẹ nhàng hơn. Tuy thế, nỗi buồn của tôi quá mạnh đủ để bao trùm lên toàn bộ cảnh vật. Thông qua khung cửa kính trên xe taxi và cái màng chắn của cơn mơ màng, thành phố cứ mỗi lúc một hiện rõ hơn, nhưng nó chưa kịp định hình trên thành giác mạc của tôi thì đã bị hút tụt về phía sau. Không giống như H.C được miêu tả với những tòa nhà chọc trời có những cửa sổ san sát mở ngỏ xuống đường lớn với những bóng người đan vào nhau như đàn ruồi làm việc trong cái tổ của nó, thành phố này êm ái và thấp hẳn xuống so với cái ảo tưởng về nơi không thuộc về mình của tôi. Những khung cửa kính ở các hàng quán được lau sáng bóng lên trong buổi sớm mùa đông hãy còn đọng hơi nước, phản chiếu hình ảnh chiếc taxi màu vàng mà bên trong bao lấy hai cha con chúng tôi, truyền cho chúng tôi hơi ấm từ bộ phận sưởi của nó như cánh tay vỗ về những người xa lạ. Thi thoảng khi xe đi chậm lại, tôi nhìn thấy khuôn mặt mình lấp lóa giữa những bàn ghế và nến thơm, giữa những cốc cà phê nghi ngút khói và những cái bánh vòng đủ màu sắc, nhưng khuôn mặt tôi lại mang linh hồn của một kẻ không cam chịu và đầy đớn đau, trái ngược hoàn toàn với vẻ lạnh lẽo của không gian cũng như con mắt xanh của hàng rào người đang chờ xếp hàng mua đồ ăn sáng. Tôi đặt bàn tay mình lên cửa kính xe trong khi mắt vẫn không ngừng nhìn sâu vào trong từng cảnh vật đang trôi vù vù, không phải tôi muốn được nhìn những thứ ấy gần hơn, mà vì bàn tay tôi với một đốt ngón trỏ bị thiếu, nhắc tôi nhớ về nơi tôi từng thuộc về, nhắc tôi rằng tôi đã chấp nhận từ bỏ để đồng hành cùng cha tôi bước ra ngoài thế giới, và nó, sự thiếu sót của tôi nhắc tôi rằng tôi chính là một phần của thế giới này - kể từ giây phút này.

Bỏ qua tâm trạng của tôi, cha tôi nhiều lần huých vào vai tôi vì muốn chỉ cho tôi những tòa kiến trúc lộng lẫy mà tôi chỉ được chiêm ngưỡng qua những cuốn sách và những lời văn miêu tả. Tôi không còn tâm trí để ngạc nhiên, tôi biết mình hãy còn nhiều thời gian ở đây để làm điều ấy, tôi hướng ánh mắt uể oải theo ngón tay cha tôi chỉ: con đại bàng tung cánh trên nóc ngôi nhà, những cái cột kiến trúc La Mã cổ, những bậc thềm cao và rộng trước tòa thư viện thành phố tượng trưng cho lí tưởng của một đại nhân vật, màu trắng của sự sạch sẽ (khiến tôi liên tưởng đến Văn) hiện diện khắp nơi trên bằng lớp sơn trên các tòa nhà. Điểm này, khiến tôi thương xót bốn bức vách nhỏ xíu và mốc những rêu của ngôi Đền trước ngôi nhà cũ, nơi mà tôi bỏ đi khi không nói một lời từ biệt, nơi mà sự hiện diện của nó như một sinh vật sống khiến tôi hoảng sợ nhưng cũng an ủi một vài thời điểm trong những tháng ngày đã qua. Nỗi nhớ của tôi dù không có cơ sở những cứ tiếp tục tràn về, cha tôi biết thế nên càng không để tôi ngồi im trong nỗi cô đơn này.

Cha con chúng tôi được cấp cho một căn hộ nhỏ ở phía Bắc thành phố, lầu năm, không thang máy, không camera chống trộm, có một ban công hướng ra đường lớn, bỏ đầy những chậu cây đầy đất xám và thân hoa héo rũ chết từ lâu. Căn nhà nhìn xuống đường lớn, nơi mà một tuần đầu tiên tôi dành ra tất cả các thời gian rỗi trong ngày để nhìn chằm chằm xuống những mái đầu tóc đủ màu và sắc thái di chuyển đơn độc trên đôi chân của mình. Từ đó tôi cũng thấy được những nóc nhà nhấp nhô ở ba hướng bên phải, bên trái và đối diện, những căn hộ cũng có những ban công chìa ra dùng vào đủ thứ việc tùy theo sở thích của chủ nhân nó. Những ngôi nhà cũng sơn một màu trắng toát, cầu kì hơn thì có những bức tượng đặt hai bên chái nhà, hoặc đơn giản chỉ là những hoa văn chạy dọc theo những đường viền cửa. Trong ngày đầu tiên tôi ngắm khu vực mà mắt tôi có thể bao quát được, đã phát hiện ra bốn căn hộ trống, mười một căn hộ có trẻ nhỏ và hầu như căn hộ nào cũng nuôi một chú chó. Hơi chếch xuống ban công về phía tay trái là một gia đình có ba người, cô con gái nhỏ của họ nuôi một chú chó mà tôi nghe thấy họ gọi tên là Ham - chú chó lai có bộ lông màu nâu đất và đôi tai nhọn hoắt lúc nào cũng ngoáy rất tợn. Các buổi chiều khi đi học về, cô chủ nhỏ của nó thường ngôi ngoài ban công phơi nắng và ăn bánh trong khi nâng niu chú cún con, liên tục dùng tay gãi hai bên tai và bụng khiến nó nằm im, đôi mắt lim dim hưởng thụ. Cứ đúng giờ cô bé ra ban công, là tôi nép mình vào những chậu hoa héo khô mà ngó xuống, tôi thấy ghen tị và thèm muốn cái hạnh phúc bé nhỏ của cô. Tôi nhớ rằng mình cũng từng có lúc ngồi nhâm nhi thức ăn vặt mẹ làm trong cái ngập tràn của buổi ban ngày mà không hề bận tâm một chút nào về những u ám phía trước, thứ đã kéo tôi xuống hố đen tuyệt vọng của hiện tại. Tôi không nhìn thấy bản thân mình trong cơn tuyệt vọng của thời điểm cuộc đời tôi đảo lộn từ trên xuống dưới như thế, nhưng cho đến tận những năm sau , cảm giác về sức sống bị cạo ra khỏi cơ thể lúc ấy đã trở thành nghị lực đẩy tôi tiếp tục tiến về phía trước mà không một lần quay đầu cho sự nghi hoặc.

Căn hộ của chúng tôi có hai phòng ngủ và một phòng khách thông với bếp. Phòng cha tôi có bàn làm việc và một cái giường đôi, nơi mà trong một lần vào dọn dẹp, tôi thấy chiếc gối của ông đặt hẳn sang bên trái, nhường một phần bên phải cho ai đó , hoặc thứ gì đó - luôn thích nằm gần cửa sổ.Tôi đã bị kích động khi nhìn thấy chiếc gối cô độc lệch về một bên giường của cha, tấm rèm cửa sổ bay dang ra như cánh bướm phủ lên màu hoài niệm khiến nó càng lẻ loi. Tôi tưởng tượng ra cha tôi , thân hình cao lớn của ông cuộn tròn trong chiếc chăn dày quay về phía bên phải, nhìn vào nửa kia chiếc giường chờ đợi một bàn tay đặt lên mái tóc đã bắt đầu hoa râm của mình, nhưng tất cả chỉ là một khoảng trống - trên chiếc giường và trong trái tim ông. Có thể tôi hơi cả nghĩ, đánh đồng nỗi nhớ thương của mình với của cha mình, bằng chứng là tất cả những hình ảnh tưởng tượng ấy khiến tôi chao đảo, nhưng cũng có điều tốt lành đã xảy ra khi những ảo ảnh đó khiến tôi nhận ra tôi đang không là chính mình, đang mải mê chìm đắm trong một nỗi buồn vô căn cứ để rồi dằn vặt cả bản thân cũng như người bên cạnh mình. Ở ngoài kia, cách một lớp màng mỏng, có một người khác mang cùng một nỗi buồn nhưng luôn luôn cố gắng giấu nó vào trong để truyền cho tôi - con gái ông một nghị lực để tiếp tục. Tôi đã không chấp nhận nó như mình đáng lẽ phải thế, tôi từ chối ngay cả cha mình , từ chối chia sẻ nỗi buồn với ông và từ chối chia sẻ nỗi buồn của ông.

Cha tìm cho tôi một lớp học tiếng Anh miễn phí do cộng đồng người Việt đứng ra tổ chức, mỗi ngày bốn tiếng, từ 10 giờ đến 2 giờ chiều, sau đó bắt tay vào làm việc ngay khi ông vừa nhận căn hộ chưa đầy hai bốn tiếng. Ngày nào ông cũng rời khỏi nhà từ 8 giờ sáng đến 7 giờ tối. Chỉ còn lại một mình tôi trong căn hộ nhỏ và dùng toàn bộ thời gian để ảo tưởng lấn át lí trí của bản thân. Cha chán nản tính trẻ con ương bướng của tôi, hoặc là ông đã nhận ra cách chữa căn bệnh này là để người bệnh tự chữa lành nó, nên ông đã không còn quan tâm. Cha nhìn vào mắt tôi và ra lệnh cho tôi phải chăm sóc nhà cửa, phải tự tìm lấy đường mà đi học, tự mua bán và nấu ăn. Tôi không có lí do nào để từ chối, dù sao cha cũng bận cả ngày ở cơ quan, hơn nữa việc đánh lạc hướng tâm trí mình một thời gian cũng không phải là điều gì tồi tệ. Tôi bắt đầu bằng việc dỡ đồ đạc trong vali của mình, vì khối lượng hành lí mang theo có hạn nên tôi chỉ mang những gì mà tôi cảm thấy không thể rời xa nó. Nhưng thực ra không có gì nhiều trong những thứ như thế, trừ quần áo vài bộ ra thì chủ yếu là sách, một quả thông tôi nhặt trên đồi gần nhà, cái lược chải tóc của mẹ và một hòn sỏi trắng tôi nhặt trên một bậc thang dẫn lên Đền. Tôi không biết vì sao tôi muốn giữ nó, cái viên sỏi ngả vàng lóng lánh những hạt cát ấy, dường như quá đỗi kì lạ ở nơi chứa đựng những linh hồn cũ kĩ, Nhưng tôi đã mang nó theo, nhấc nó ra khỏi vali và đặt ngay ngắn nơi bàn học, ngay chỗ tôi có thể nhìn thấy từ trên giường. Tôi đi siêu thị, chọn hai bộ ga màu xám, một cho tôi, một cho cha - cái màu nhắc tôi đến mùa đông ở nơi cũ, thứ mùa đông mịt mù như tình cảnh của mẹ tôi lúc bấy giờ. Tiến ra đến bếp, tôi dọn rửa tất cả những bát đĩa mà người chủ cũ đã để lại cho chúng tôi, bằng cảm giác mẹ sẽ thích, tôi sắp xếp chúng như cách bà thường làm rồi mới yên tâm xào một chút rau vừa mua ở siêu thị, ăn quấy quá cho qua bữa.

Những ngày sau tôi nghĩ cách trồng lại những chậu hoa ngoài ban công. Tôi hỏi cha những kiến thức cơ bản của gieo trồng, rồi tự tay nhổ bỏ những thân cây héo rũ và khô cứng vứt đi, tưới đẫm nước cho đất xốp ẩm rồi xới tơi lên. Tôi gieo vào đó những hạt giống hoa mà một cửa hàng hoa ngay đầu phố tôi có bán, những loại hoa xứ hàn đới tôi chưa bao giờ nghe tên, chưa bao giờ được tận mắt chứng kiến nhưng mang trong mình hy vọng, hy vọng được nảy nở, sinh sôi và tràn đầy nhựa sống của cả hai chúng tôi.

Bận rộn khiến tôi an tâm một thời gian, nhưng chính nó lại làm nổi lên một cơn hoài niệm xưa cũ rằng tôi đã hoàn toàn thay thế hình ảnh của người phụ nữ trong gia đình, hình dáng của mẹ tôi vừa mới biến mất trong cuộc sống này, và tất nhiên cần có một sự thay thế, không ai khác là chính tôi - tôi trở thành kẻ xâm lăng nhưng đồng thời tự tuyên bố quyền hành của mình trong câm lặng, nhưng điều đau đớn là không ai lên tiếng cho sự bất công đó, kể cả tôi.

Tôi dành thời gian đi dạo quanh thành phố , học cách đi xe bus và tàu điện ngầm. Lần này, với một thái độ bình tĩnh và con mắt tỉnh táo tôi nhâm nhi vẻ đẹp của thành phố như nhâm nhi một li rượu vang, không vội vàng, từng chút một và cảm nhận vẻ âm trầm của nó qua mùi vị. Ở đây không có những ngôi nhà cao tầng chọc mũi nhọn của mình lên bầu trời, cũng không có những cột khói phả ngập màu đen một vùng, càng không có những vụ tắc đường mà người ta thường nhắc tới ở những thành phố công nghiệp lớn hơn. Chúng tôi mặc dù có tất cả những thứ mình cần, nhưng cũng không phải hấp tấp chạy đuổi theo chúng, đấy là một điều tuyệt vời mà không phải nơi nào cũng đáp ứng được. Tôi ngắm nhìn những tòa nhà cổ kính xây theo phong cách Phục Hưng, một số lại theo phong cách Tây Ban Nha, số khác là kiểu Tân Cổ Điển,...cuốn hướng dẫn của tôi nói như thế. Tất cả chúng tạo nên một quần thế sống động giữa hiện đại và cổ điển, giữa lịch sử và tương lai mà điểm giao của nó chính là thời gian tôi đang đứng trong. Đứng giữa thành phố đầy vẻ đẹp ám ảnh ấy, tôi thấy mình may mắn theo một khía cạnh nào đó khi được chứng kiến những tác phẩm nghệ thuật có giá trị như thế này, trong thời điểm này, và với con mắt thẻ hiện một tâm hồn hãy còn tươi trẻ. Sau này, thời gian dần dần bào mòn mỹ cảm trong tôi, xóa nhòa đi ranh giới giữa hiện thực và tính tượng trưng, những tác phẩm kiến trúc ấy chỉ đơn giản là ngôn ngữ phát ra từ miệng tôi, hoàn toàn không phải từ trái tim tôi, cũng giống như những con người hàng ngày vẫn bước qua nó với ánh mắt thờ ơ muốn trốn chạy hiện thực nhưng không nhìn thấy được sự hoàn hảo của cánh cửa dẫn tới thiêng đường. Ngay lúc tôi đặt mình ngồi xuống bậc thang của tòa thư viện thành phố, nơi mà cha đã cố chỉ cho tôi thấy vẻ đẹp của nó trong lần từ sân bay về căn hộ, tôi đã ngước mắt nhìn về phía mái nhọn hướng lên trên bầu trời của nó, và thấy trong đấy trái tim mình mềm nhũn ra trước sự chinh phạt của Cái Đẹp thần thánh. Cảm giác này trái ngược với cảm giác khi tôi nhìn lên bốn góc mái cong vút trạm đầu rồng của ngôi Đền trước nhà cũ, một thứ gì đó trong tôi đã bị khuất phục, và tôi dâng mình lên vòm miệng của sự hoàn mỹ. Những bậc thang rộng và cao đến độ tôi tiếng bước chân của mọi người bị gió thổi tản mác vào không khí trước khi kịp truyền tới tai tôi. Những người khác chủng tộc nhưng có cùng một thứ máu đỏ, sự đối lập giữa hai sắc thái trắng và vàng trong khối óc tôi dần bị giãn ra dưới sức nặng của khối kiến trúc , dù rằng sự hiện hữu của tôi ở nơi này lạc lõng là thế, nhưng chẳng đem lại cảm xúc gì cho những người xung quanh. Trong mắt họ tôi ngoài là một con người, thì chỉ là một cô gái nhỏ, không hơn, dù cho tôi có đang phải gồng mình gánh một nỗi buồn to lớn thì tôi cũng sẽ chỉ tồn tại trong một thời điểm này mà thôi. Sự tương phản trong màu sắc của bóng tôi đang đổ xuống những bậc thang với cái bóng khổng lồ mang màu nhạt hơn của thư viện thành phố làm nổi lên một cơn sóng lòng, nó thúc vào tôi những giục giã mà rằng thời gian đang chảy qua vai còn tôi thì đang lãng phí nó. Hình bóng của hai chúng tôi đè lên nhau trong khoảnh khắc này, nhưng tôi sẽ tan biến chỉ trong một thời gian ngắn nữa, còn nó - ngôi nhà đồ sộ của tri thức, kho tàng nhân loại sẽ còn mãi với thời gian. Gió mát mẻ thổi qua lớp sơn trắng mang theo những cái nhìn sắc lẹm của những con thú khắc trên những bức tường chiếu thẳng vào vầng trán nóng hầm hập của tôi, mặc kệ cho mái tóc đen với những sợi cứng cáp giống y hệt của mẹ chảy dài xuống vai.

Tôi phát hiện ra một công viên nhỏ ngay gần khu nhà tôi ở trên đường từ thư viện trở về nhà. Bên trong công viên có một thảm cỏ xanh mướt và một hồ nước bé - đủ để gạn lọc những tinh chất của không khí mà hòa vào thêm những hương vị của thiên nhiên. Tôi không suy nghĩ nhiều bước vào trong, chiếm một chiếc ghế gỗ có lưng tựa thoải mái, ngồi hết một buổi chiều, suy nghĩ về những thứ tôi đã bỏ lở vì sự vô tâm của bản thân. Một cơn mệt mỏi khủng khiếp ập xuống đè lên đôi vai tôi, tôi thảng thốt nhận ra mình đã phải chịu đựng tất cả những thứ này trong thời gian dài như vậy mà vẫn sống sót được ư?, và rằng cha tôi đã buồn như thế nào khi nhìn thấy tôi như vậy nhưng tôi cố tình lờ ông đi. Tôi vô tâm và ngang bướng, để được gì?, không gì bù đắp nổi chỗ thiếu sót mà tôi gây nên ấy nữa rồi - tôi mân mê ngón tay trỏ ngắn hơn những ngón khác của mình - "hẳn mẹ cũng đang đau buồn khi nhìn thấy tôi chìm trong nỗi đau khổ tự mình gây ra". Tôi đứng phắt dậy, phủi tay vào quần, rồi trở về căn hộ, nơi cha tôi đang đợi cho bữa tối.

Từ đó, cứ sau giờ học ở lớp tiếng Anh là tôi mang sách và một mẩu bánh mì cứng ra đó để tập đọc tiếng Anh trong khi rải những mẩu bánh ra đất cho lũ chim. Những chuyện bận rộn đó khiến tôi lấy lại được sức lực mà tôi cứ ngỡ mình đã mất đi, những nỗi nhớ, những thứ dang dở, câu chuyện trường lớp vừa hôm qua hãy còn nay đã ở xa vời,...Đối diện với thiên nhiên (dù chỉ là thứ thiên nhiên trong lồng kính), tôi thấy mình bỗng dưng lớn vượt lên, cả về tâm thần cũng như ngoại hình cơ thể. Tôi cao hơn trước phải đến cả năm phân, mái tóc dài ra, luôn sà xuống bàn ăn mỗi khi tôi lóng ngóng dùng dao nĩa. Ngoài ra tôi còn tập thức dậy vào một giờ khác muộn hơn, tập uống cà phê và trà, tập ăn bánh mì thay vì dùng cơm, tập làm quen với những nghi thức và câu chuyện xoay quanh những con người nơi này. Ngực tôi bắt đầu nhô dần lên, sự phát triển ấy khiến tôi đau đớn hơn mình tưởng tượng, chỉ một cử động nhẹ cũng khiến toàn bộ phần ngực rung lên như có ai quất roi điện vào người. Cái đau có lẽ bắt đầu từ trước kì kinh nguyệt đầu tiên nhưng thời gian đó tôi quá bận rộn với việc phải trông chừng mẹ nằm trên giường nên không cảm nhận được nó. Chỉ khi tất cả thời gian trên đời thuộc về tôi thì tôi mới nhận ra mình đã đau đến chừng nào. Ngực tôi phát triển trong giai đoạn thiếu người dẫn đường và những kiến thức lượm lặt không đủ để tôi chọn cho mình một chiếc áo ngực đúng cỡ. Có thể đấy cũng là lí do tạo nên ngoại hình xộc xệch của tôi khi người đàn ông già ở lớp tiếng Anh muốn dùng để tiếp cận, hẳn ông ta bị hấp dẫn bởi bộ ngực mới nhú nhấp nhô sau lớp áo. Ông ta tên Kiên - doanh nhân trong nghành cổ phiếu, thường xuyên đi lại giữa Mỹ - Việt Nam vì con gái ông đã lập gia đình và định cư ở đây. Một hôm sau buổi học, ông mời tôi uống cà phê ở một tiệm nhỏ, tôi với lòng kính trọng của mình đã đồng ý không một chút mảy may.

"Cháu cảm ơn chú!"- tôi nói khi ông đưa cho tôi ly cà phê nóng hổi.

"Ở đây đừng gọi ta là chú, hãy gọi ta là anh." Giọng nói vang lên trên nền khuôn miệng cười, hở ra những chiếc răng bóng loáng.

Thời tiết hôm nay tuy lạnh những vẫn nắng chói chang, chúng tôi chọn một cái bàn ở ngoài trời giữa một vùng nắng chiếu vào. Qua vai ông Kiên tôi thấy những người công nhân đang khuôn những bao tải gạch vụn từ một căn hầm để xe của tòa nhà đối diện. Họ mặc những bộ áo liền quần màu xanh với găng tay trắng, tất cả đều bám bụi khiến thân thể những người công nhân ánh lên những hạt lấp lánh như người bước ra từ các bữa tiệc đêm. Khi ông Kiên nói câu đó với tôi - đứa con gái vừa tròn mười sáu tuổi, những cái chuông cảnh báo nhỏ xíu giấu trong thân thể tôi rung lên tiếng động leng keng của nó, kéo ánh mắt của tôi từ những người công nhân diện bộ đồ xanh quay trở lại phía đối diện. Làn khói từ hai cốc cà phê nghi ngút khiến tôi không nhìn thấy rõ ánh mắt của người đàn ông, thế nên không thể dùng ánh mắt của mình để trả lời cho câu nói đó, tôi đành im lặng.

"Anh biết em có những dự định và đang bấp bênh trong cuộc sống. Anh nói này, anh thích cái cách em thương lượng với thế giới, nó thấy anh nhớ về những ngày ấu thơ của mình. Anh nói thật lòng đấy, thế nên anh sẽ rất vui lòng nếu được ngồi cạnh em mỗi ngày như thế này, chỉ cần nhìn vào mắt nhau thôi, có được không, em?" - ông ta nói với giọng chân thành đến độ tôi nghĩ mình sắp bị thuyết phục đến nơi. Những đoạn ngắt câu, ông ta thường nhấn nó bằng một từ âm vực cao vút, rồi lặp lại điều ấy ở câu tiếp theo. Những câu nói chậm rãi nhả ra như con cá thả bong bóng ra trong lòng hồ, vừa nói ông ta vừa mân mê ánh mắt của tôi, cố tìm ra một tia cảm xúc.

Khi tôi mười sáu tuổi, tôi cho đó là một câu tỏ tình thuộc hàng khá khẩm từ góc độ một thiếu nữ, nhưng lại xuất phát từ một người đàn ông mà thái độ của tôi dành cho chỉ là sự tôn kính vì vẻ ngoài già dặn như của cha tôi, thì ngoài ra không gì nữa. Nhìn ông ta mà xem, một gương mặt sáng sủa dưới mái tóc hoa râm, ông ta có chiếc mũi cao và một khuôn miệng vừa phải, điều ấy làm cho ông ta giữ được vẻ hấp dẫn nhất định trong độ tuổi của mình. Nhưng thứ tôi nhìn thấy khi ông mở lời nói chuyện với tôi trong tư thế ngang bằng, ấy là cái cằm xệ, hai bên mép trễ nải và những nếp nhăn ở khóe mắt. Tôi không chê ông già, không, không hề, tôi chưa từng nghĩ theo kiểu ông ta không xứng với tôi vì sự chênh lệch tuổi tác giữa hai bên, tôi chỉ đơn giản nghĩ, mình không sinh ra để đánh đổi bản thân cho một tình yêu miễn cưỡng, đặc biệt là vào lúc tôi còn chưa có cơ hội được nếm trải vị của của thứ trái cây màu nhiệm ấy.

"Em nghe này, ta chỉ cần ngồi với nhau thế này là đủ. Ta không cần tất cả những thứ khác ở em, những thứ ấy ta không thiếu" - tiếp tục trong cơn mơ hồ về sự chấp thuận của tôi, ông ta hắng giọng - "biết đâu đấy ta lại có thể giúp được em những thứ mà em cần. Đầu tư cho một cái gì đó, xây dựng một cái gì đó,... cho tương lai chẳng hạn" - tôi không thấy sự ngập ngừng trong câu nói đó, phải chăng ông ta nói nhiều lần những từ ngữ y chang?

Cái giọng thẳng thớm của ông ta đến giờ phút này khiến tôi thấy mình vừa bị rơi vào một cái hố giăng sẵn, như con chim chưa chữa lành vết thương của mình đã rơi tiếp vào cái bẫy khác, mà kẻ thủ ác không ai khác chính là đồng loại của nó. Tôi cảm thấy bị tổn thương mà mất hết bình tĩnh, tay tôi run lên trước cơn giận dữ với bản thân. Những thứ tốt đẹp đến với mình chẳng phải là mình nên tự xây dựng nên sao ?, chính cha mẹ trong quá trình giáo dục đã dạy tôi thế, và rằng con người ta sẽ hạnh phúc khi biết rằng công sức mình bỏ ra thật xứng đáng. Còn ở đây, mọi giá trị đảo lộn trong cái nhìn và tư tưởng của những người khinh rẻ thành quả của những thứ nên được xây dựng một cách chậm chạp để chủ nhân nó có thời gian hưởng thụ niềm vui trong lao động , mà điều ấy sao dễ dàng với họ đến độ chỉ cần thông qua lời nói của sự ham muốn? Nhưng cái tôi không thể chấp nhận nhất, ấy là bản thân mình không chắc nếu việc bán rẻ những giá trị của mình sẽ khiến mình vui. Liệu con chim trong tôi sẽ vẫn cất lên tiếng hát như cũ khi nó rơi vào cái bẫy và nhận lấy những vết thương, hay liệu tôi có còn là mình với những thay đổi trong tư tưởng? Tôi run run khi phải vật lộn trong những suy nghĩ mà người đàn ông trước mặt reo giắc vào đầu, khi ấy tôi hãy còn quá nhỏ để hiểu hết những hiện tượng tự nhiên phát sinh từ phía xã hội loài người đang hưởng thụ, nhưng ít nhất vụ việc ấy cũng đã khiến tôi phải tập trung suy nghĩ về những thử thách tôi sẽ phải đương đầu trong tương lai phía trước. Nhưng trước khi nghĩ cho thông suốt vấn đề ấy, những chiếc chuông tí hon trong người tôi đánh lên bài hát của mình tạo thành những rung động vô hình tác động vào hạt nhân của tôi, và nó quyết định nắm quyền kiểm soát mà lên tiếng thay cho chủ nhân của nó, đến khi tôi lấy lại được nhận thức thì đã thấy mình đang bước những bước thật dài như trốn chạy, để lại phía sau người đàn ông với gương mặt có những tình cảm khó giải thích.

7.

Ở lớp học tiếng Anh có đủ các loại người, cả già cả trẻ, nhưng đa phần đều vừa mới từ Việt Nam sang nên đều chưa sõi tiếng. Với những hoàn cảnh riêng biệt, họ đến với nhau và tụ thành một cộng đồng nhỏ bé giữa thành phố rộng lớn này. Có thể sau giờ học,mỗi người phải tiếp tục lo những nỗi lo của riêng mình, nhưng khi tới lớp, những con người ấy mới thoải mái làm sao, cứ như thể vừa được giải phóng khỏi những cơn kiềm chế và áp lực, họ nói, họ cười bằng thứ ngôn ngữ mẹ đẻ mà ở những nơi khác không ai chấp nhận.

Mỗi khi nhìn vào cộng đồng co cụm lại ở một nơi xa lạ này tôi lại thấy mình còn lạc lõng hơn cả khi một mình đối diện với cả thành phố, cảm giác khác hẳn với những người kia, vì tôi không phải lo mưu sinh cho cuộc sống chăng? Ở đó, tôi chỉ thấy mình là một phần nhỏ của một tảng băng nhỏ trong đại dương bao la, trong khi cái tôi thuộc về là cả một đất nước, một dân tộc, một lịch sử trường kì - cảm giác ấy khiến tôi không sao dứt ra được những muộn phiền đã ở sẵn trong mình. Những khi chứng kiến mọi người nói cười, ngắm những hàng lông mi mỏng và thưa ở gương mặt những người cùng chủng tộc, tôi lại thấy tảng băng mà mình đứng trên đang nứt ra những vệt ngoằn ngèo chỉ thiếu chút là đứt tung sợi liên kết. Không phải là không có những người muốn lại gần tôi trong cộng đồng bé nhỏ ấy, ở họ có cái gì nồng cháy và đượm mùi thân thương, kiểu như mong muốn được chia sẻ bằng thứ tiếng mẹ đẻ, lại cũng giống như đang rạng ngời vui vẻ vì một tương lai tươi sáng, nên lòng từ bi của họ bỏ qua cho khuôn mặt và tính cách lầm lì của tôi, muốn được đón tôi vào thế giới của họ, nhưng tôi nhất quyết đẩy họ ra, không một lời giải thích, không một tín hiệu vui mừng, thế là những con người đáng kính ấy chán nản và bất lực,đành trả lại tôi cho thế giới của riêng mình. Tôi ôm vào lòng hình ảnh ấy như một minh chứng cho nỗi cô đơn dường như không có lối thoát, thế nên tôi đi đến một quyết định, xin cha cho mình rời khỏi sự bấu víu cuối cùng trên tảng băng này, dứt đứt những sợi dây cuối cùng còn gắn kết, để hy vọng về một nơi sẽ chấp nhận bản thân mình. Quyết định này cũng giống như quyết định tôi tự cô lập hoàn ra khỏi thế giới ấm êm vẫn cưu mang mình, để làm gì ư?,tôi cho rằng tôi đã muốn trả thù cuộc trốn chạy của mình, để tôi giữ miệng tôi chặt lại, để tôi không còn phải nhìn thấy những thứ thân quen nhưng xa cách, và để tôi khỏi nghĩ đến vết thương trong lòng tôi.

Tôi xin phép cha để mình được đến một ngôi trường thực thụ bao quanh bởi những người đến từ nhiều nơi khác. Cha tôi có đủ tiền để chi trả cho việc học ấy, chỉ là ông sợ tôi cô đơn nên mới chọn cách để tôi học ở lớp toàn người Việt, ông nói điều ấy qua ánh mắt khi ngồi đối diện với tôi trên bàn ăn, khi tôi nói mình cần được học ở một nơi khác.

"Con ghét việc phải nghe thấy người ta nói rằng "ôi, từ này trong tiếng Việt nói thế nào ý nhỉ?", con cho rằng đấy là thói hợm hĩnh của một số kẻ không biết coi trọng những giá trị truyền thống" - tôi nói với cha khi ông đang nhìn tôi chờ đợi một lý do thích đáng hơn. Chuyện những người trong cộng đồng của tôi dùng từ ngữ lẫn lộn giữa hai ngôn ngữ đúng là làm tôi khó chịu thật, nhưng không phải lí do bao trùm của việc tôi muốn chuyển chỗ học. Tuy vậy cái cách mà người ta chọn cho mình vị trí đứng và công nhận nó như một thành tựu đáng tự hào của bản thân khiến tôi không thấy thoải mái, từ nhỏ cha đã dạy cho tôi sự khiêm tốn chính là nền móng để xây dựng lên một ngôi nhà đẹp của riêng mình, và tôi không bao giờ quên điều đó.

"Con gái, cha không có ý phản bác lại ý kiến của con. Nhưng con phải nhớ rằng con người là một giống loài phức tạp, không thể đánh giá một con người dựa trên góc nhìn chủ quan. Có thể con không thích điều ấy, cha cũng thế, nhưng cha không lấy nó làm mục tiêu đánh giá. Con có nhớ cuốn Hai vạn dặm dưới đáy biển- cuốn sách mà con rất thích hồi nhỏ, khi một thành viên trong con tàu gặp nạn và câu cuối cùng ông ấy thốt lên là tiếng Pháp, tiếng mẹ đẻ của ông ta, chứ không phải thứ ngôn ngữ chung mà người ta quy định ở trên tàu..."- ông dừng lại, nhìn về phía tôi, chờ đợi.

Tôi hiểu cha mình mong chờ gì ở mình, và tôi cũng biết câu trả lời của ông từ trước khi ông bắt đầu. Nhưng tôi cố ý xây dựng một bức tường bảo vệ luận điểm của mình, để che chắn đi sự hờn dỗi của mình đối với cha, cũng như vuốt xuôi lại những cọng lông đang dựng lên của tôi muốn bảo vệ một nỗi nhớ. Cách cha tôi mập mờ và dông dài làm tôi băn khoăn nếu như ông nhìn thấu được ý định của mình và đang cố không làm con gái ông tự ái.

"Ai cũng có thứ mà con có đối với quê hương mình. Rồi con sẽ thấy, khi con quen thuộc với ngôn ngữ này, con sẽ thấy con cũng yêu nó như con yêu nơi con sinh ra, cha cam đoan."

Ông kết thúc bài phát biểu mà tôi cho rằng ông lo sợ nó làm tổn thương tôi nhiều hơn là ý muốn của ông, tuy vậy ông đã không từ chối chuyện chuyển trường. Ông biết cái gì là cần thiết và ông tin tưởng ở tôi, một điều mà tôi mong muốn tất thảy các bậc phụ huynh trên thế giới này có được. Tôi đã đạt được mục đích của mình bằng cách chuyển trường ngay trong tuần tiếp theo. Cha tôi được một đồng nghiệp người Nhật giới thiệu cho ngôi trường đạo tạo chủ yếu là ngôn ngữ dành cho học sinh nước ngoài. Ông hoàn tất các thủ tục một cách nhanh chóng. Thứ hai tuần sau tôi đã ngồi trên tàu điện ngầm để tự đến trường. Ngôi trường chỉ vỏn vẹn có một tòa nhà nằm trong khuôn viên trồng nhiều cây xanh, nằm về hướng Tây Bắc thành phố, nghĩa là mỗi ngày tôi sẽ mất gần 30 phút để tới trường. Sau giờ học tôi vẫn giữ thói quen đi ra công viên đọc sách, ngắm những con chim bồ câu trắng đậu thành bầy, từ từ là phẳng những vệt nhăn nhúm là vết sẹo của nỗi buồn thành những phẳng lặng trên tấm vải tâm hồn mình.

Ngày qua ngày, chẳng mấy chốc mùa hè lại đã nhón bước chân đầu tiên của nó vào thành phố này bằng việc để những chậu hoa của tôi nở bung trên ban công ngoài phòng khách. Những chậu tu lip trắng, chậu thủy tiên tím hồng, cẩm tú cầu đỏ và cả những loại hoa không tên tôi mua bừa trong những lần đi siêu thị. Chúng dập dờn như những cánh bướm đủ sắc màu, như lòng tôi đã thôi không còn chán ngán, thôi không còn duy trì nhịp độ của một màu xám ngắt hãy còn lưu lại từ mùa đông năm ngoái ở quê hương. Nỗi nhớ về những giờ canh chừng giấc ngủ của mẹ, về nụ hôn đầu, về người bạn quý giá nguôi ngoai dần sau mỗi bận tưới các chậu hoa vào ban sáng trước khi đi học. Cha tôi vào một buổi sáng quyết định tới Viện trễ hơn hàng ngày, ngồi ăn sáng và uống trà với tôi ngoài ban công, ông ngắm nhìn những đóa hoa do tôi trồng và nói :

" Từ lúc con xới đất cho những chậu cây này, cha đã thấy niềm tin của mình ở những sắc màu"- câu nói ấy ông dành cho tôi dù ông không nhìn vào mắt tôi.

Tôi và cha vẫn thường chia sẻ quan điểm và suy nghĩ của mình với nhau, nhưng chưa lần nào tôi thấy cảm kích ông như lần này. Chính là niềm tin và sự chắc chắn được bao bọc bởi tình yêu thương của ông dành cho tôi là món quà quý giá nhất sau những thành tựu mà tôi đạt được cho đến nay. Ông đã luôn ở bên tôi ngay từ lúc mẹ mất, nhưng chính cái âm thầm trong tính cách của người cha giúp tôi tự học được cách phải đứng vững trên đôi chân của mình và điều hòa sự cân bằng trong con người mình để có thể tỏa sắc như những đám hoa tháng Năm.

Tôi cũng quen dần với nhịp độ học tập của ngôi trường mới, học phí cao là cái giá xứng đáng để được chào đón ở một nơi xa lạ. Tôi bắt đầu có những người bạn mới, nhiều hơn hẳn tổng số bạn bè mà tôi từng có ở quê cũ. Nhưng thứ tình bạn ấy, hoàn toàn không giống tình bạn giữa tôi và Văn, nó cheo leo và đơn độc ở phía bên ngoài của mỗi tâm hồn, khi người ta sử dụng thứ tiếng thứ hai để kết bạn, nó chỉ bộc lộ được những cái cơ bản và nông cạn , mọi người đều giấu đi bản chất phức tạp ở tận phía trong sâu cùng của đáy cơ thể, nơi mà không một thứ ngôn ngữ nào ngoài ngôn ngữ cảm xúc và một trái tim chân thành đào tới. Trái ngược với cái nhìn tổng thể là bài học mà cô bé Thi dạy tôi ngày nào, tôi chỉ có thể nhìn thấy từng phần từng phần ở những con người ấy. Một phần này hiện ra, một phần khác lập tức bị lãng quên bởi não bộ không đủ sáng tỏ để duy trì việc vừa dịch thuật vừa phán xét. Cái nhìn từng phần ấy giúp tôi chỉ nhìn được những thứ tốt đẹp ở một người, lại vừa chỉ thể hiện ra cái tốt đẹp của tôi với mọi người, một sự may mắn có giá trị cho tôi khi chỉ muốn lãng quên đi những thứ đã bỏ lại phía sau. Tôi tin khi mình đã cắm rễ của hạt nhân vào sâu trong mảnh đất này hơn, bộ máy ngôn ngữ và dịch thuật sẽ dần được cải thiện, và tôi sẽ nhìn thấy được nhiều thứ cùng một lúc hơn, khi ấy những người xung quanh sẽ bớt tốt đẹp và ngay cả bản thân tôi trong mắt mọi người cũng như thế, nhưng hãy còn một chặng đường dài để đi, tôi cứ an hưởng thú vui được nhìn đời bằng sự may mắn này trước đã.

Ở trường, tôi học cách nắm bắt các trạng thái tâm lí một cách chủ quan, tức là tôn trọng ý kiến cá nhân và bỏ qua những giá trị truyền thống cũ mà ở trường cấp hai người ta cố dạy chúng tôi thông qua các bài học đạo đức. Mỗi người thể hiện quan điểm của mình theo những cách khác nhau, và dù nó có đúng hoàn toàn đi chăng nữa, tôi vẫn có quyền bác bỏ nó và giữ ý kiến của mình.Đôi lúc việc phải cố gắng bảo vệ luận điểm của mình là tôi đau đớn, ở nghĩa đen, tức là tôi phải dùng hết sức mạnh của trí óc mình để xây dựng bức tường xung quanh nó. Lúc này tôi được làm quen với máy tính và mạng internet ở trường. Ở nhà cha tôi cũng mua một bộ máy tính để bàn và lắp internet để làm việc vào những lúc ông không phải đến Viện. Tôi cũng được dùng nếu như tôi có lí do chính đáng. Cha dạy tôi cách tìm kiếm thông tin, cách liên lạc với mọi người qua email và một vài phần mềm liên lạc khá tiện dụng. Vì có chúng, thi thoảng tôi cũng nói chuyện với vài người bạn cũ ở trường cấp hai. Dù mới đi xa được gần nửa năm nhưng sao tôi thấy mình đã trở thành quá khứ ở nơi tôi dành cả tuổi ấu thơ để vui đùa và học hỏi. Những người bạn cũ có những niềm vui và mục đích riêng khiến tôi không khỏi chạnh lòng, tôi nghĩ nếu mình hãy còn ở đó thì chúng tôi sẽ chia sẻ được mục tiêu chung ấy. Có đôi lần tôi hỏi họ về Văn, tôi biết cậu không dùng máy tính, với gia đình cậu thứ này quá xa xỉ. Những người bạn nói với tôi cậu vẫn bình thường, hoặc họ đã không để ý gì đến cậu - người luôn luôn giữ gương mặt bình thản trong lớp. Tôi hơi buồn khi không biết được Văn có buồn không khi tôi rời đi, và không có tôi thì cậu có còn vui vẻ. Tôi đã không nghi ngờ gì cuộc sống của Văn trước tôi hoàn toàn là cuộc sống của một cậu học sinh bình thường, nhưng tôi cứ giữ cho mình cái niềm tin rằng không có tôi Văn sẽ rất buồn, vì tôi, không có cậu đã đau khổ đến chừng nào. Tôi đã luôn tự dằn vặt mình về cuộc chia tay nhạt nhẽo của chúng tôi, không ai nói được ra những lời đáng lí phải được nói, không một ánh mắt, không một tình cảm đến đúng nơi nó phải đến. Nếu không có nụ hôn bất ngờ của tôi, liệu rằng tình bạn của chúng tôi sẽ êm đẹp và trôi chảy như cách nó vẫn vậy?, nếu không có nụ hôn của tôi, liệu tôi có hối hận vì mình bỏ ra đi mà không để lại vệt màu nào trong kí ức của người ở lại?

Có một lần Văn dùng máy tính ở nhà một người bạn cùng lớp, cậu nghe thấy bạn ấy nói rằng tôi đã hỏi thăm nên đã ngỏ lời mượn máy tính để nói chuyện với tôi một lúc.

"Cậu có khỏe không?" - Văn đánh những dòng chữ này thật lâu, tôi tưởng tượng ra mười ngón tay sạch sẽ của cậu lóng ngóng gõ vào bàn phím kêu cách cách. Tôi không nhìn được khuôn mặt cậu lúc cậu đang ngồi trước màn hình máy tính ở 'phía bên kia của quả địa cầu, lúc này là 9 giờ tối, còn ở phía Văn là gần 8 giờ sáng. Chúng tôi giống như hai đứa trẻ chơi bập bênh ở hai phía kim đồng hồ, một người rơi xuống, một người cao lên, khi ánh sáng chiếu lên nửa kia địa cầu thì màn đêm chụp xuống phía bên này; phải làm sao để có thể gặp nhau ở điểm trung tâm nỗi nhớ để thấy được ánh sáng chiếu lên khuôn mặt Văn màu của hừng đông?

" Tớ khỏe" - tôi trả lời không chút ngập ngừng.Tôi đã muốn nói rằng không, tớ không khỏe, tớ đã nhớ cậu biết chừng nào, và tớ thực sự muốn xin lỗi vì đã ra đi mà chưa kịp để lại một lời từ biệt tử tế, nhưng tất cả những gì tôi đáp trả là hai chữ "tớ khỏe". Tôi không muốn Văn bị ảnh hưởng bởi cái bóng trong quá khứ của một người bạn không còn ở bên, tôi tiếp - "cậu thế nào? Mọi chuyện đều ổn chứ?"

"Ừ, mọi thứ đều ổn. Thi hỏi thăm cậu. Bọn tớ sắp thi cuối cấp, rất bận rộn!"

Tốt, tôi nghĩ, bận rộn là tốt, sẽ không có nhiều thời gian cho nỗi nhớ như tôi. Cái cách Văn đánh những chữ thật cẩn thận, ngắn gọn, rõ ràng như đang chơi trò truyền tin khiến tôi phiền muộn một cách lạ lùng. Nếu như tôi ở đó, nếu như chúng tôi được nói chuyện trực tiếp, mặt đối mặt và trao đổi với nhau bằng giọng nói, bằng hơi thở và cảm xúc thì tôi sẽ hài lòng hơn. Nhưng đây là tất cả những gì tôi có, và nó đã làm việc rất tuyệt rồi.

"Tớ cũng bận học quá! Cha tớ cũng hỏi thăm cậu. Phải giữ gìn sức khỏe nhé!"

Tôi bị nhiễm cái cách gõ chữ truyền tin của Văn, để giấu nhẹm đi cái cảm xúc của mình: tớ quá bận không có thời gian để nhớ nhung nữa. Cách này quả là có hiệu quả

"Tớ mong cậu vui vẻ. Phải đi rồi, trả máy tính cho H. Nhớ cậu!"

Văn không để cho tôi trả lời cậu rằng tôi cũng thế. Tôi cũng mong cậu ấy được vui vẻ, và nhớ cậu ấy. Tôi đã khóc ngon lành trước màn hình máy tính khi đọc ba chữ "phải đi rồi" của Văn, ở đó có cái gì chới với và trống vắng, có cái gì xót xa như con ong vừa chứng kiến tổ của mình bị người ta dỡ hết mật, đôi cánh của nó đập trong không trung những tiếng rười rượi mà chỉ có tôi - người có chung một cái tổ bị dỡ mật mới cảm nhận được. Văn vẫn là Văn của tôi y như hôm nào.

Từ sau cuộc nói chuyện ngắn ngủi ấy chúng tôi không có cơ hội liên lạc nữa. Tôi có vài lần muốn viết thư cho cậu ta, nhưng việc viết thư cho Văn khiến tôi cảm thấy không đúng, nếu cậu ta có địa chỉ của tôi liệu cậu ta có viết?, tôi không bao giờ khám phá ra được chữ nếu ấy vì tôi đã không cho cậu ta cơ hội để viết. Còn về phần mình, sau bao nhiêu ngày đắn đo, tôi cũng bỏ qua ý nghĩ ấy, tôi cho rằng cậu ta sẽ vui sướng sống cuộc đời của riêng mình hơn là vẫn bị ảnh hưởng trong phạm vi mang hình hài tôi. Nụ hôn của tôi dành cho cậu ta, sau khi quyết định không viết thư tôi đã nghĩ, sẽ trở thành món quà chia tay, cũng như một kỉ niệm đẹp mà cậu ta xứng đáng được nhận từ một cô bé đủ dũng cảm trao đi một mảnh tâm hồn mình. Ý nghĩ ấy khiến tâm trạng tôi phần nào vui lên và nụ hôn không vị ấy cũng trở nên đậm đà hơn, tôi tự cho phép nó có vị của những quả táo ta: nhỏ và xanh, giòn và mát; sau này mỗi khi nghĩ về nó, lâu dần thành ra tôi cứ cho rằng nó đã có vị như thế ngay từ ban đầu.

Cái cảm giác Văn vẫn nhớ đến tôi khiến tôi nguôi ngoai dần trong sức mạnh ý chí về sự vững chắc của tình bạn, từ đó tôi tập trung mình vào những bài học trên lớp và tạo dựng các mối quan hệ. Tôi giữ thế chủ động trong các cuộc trò chuyện, nói nhiều về bản thân mình , đồng thời cũng lắng nghe các bạn khác. Việc tạo dựng các mối quan hệ giữa trên ngôn ngữ khiến tôi vẻ vẻ hẳn lên trong một thời gian, giống như đang học một dụng cụ nhạc mới, hoặc đang đi khám phá ở một địa điểm hoàn toàn khác, tôi tiếp thu bằng tất cả sự hứng thú, và bày tỏ ra một bản thân năng nổ và sáng tạo - khía cạnh đối lập với cái tôi cũ. Tôi thường kể cho cha mình nghe những sự việc xảy ra ở lớp, về những người bạn mới, thầy cô giáo và những bài học. Cha tôi hoàn toàn ủng hộ phương pháp giáo dục đó, ông nói tôi đã có quyết định đúng đắn khi chọn một ngôi trường như thế.

8.

Công việc của cha tiến hành rất thuận lợi. Mỗi ngày ông về nhà với cơ thể mệt mỏi nhưng tinh thần hưng phấn chỉ mong ngày qua nhanh để tiếp tục công việc. Có một mục tiêu và được công nhận trong công việc là tất cả những gì cha tôi mong muốn kể từ khi dấn thân vào con đường khoa học. Ở đây, bên cạnh những người cùng chung chí hướng, được hỗ trợ bởi những công cụ tiên tiến, như cá gặp nước, cha tôi làm việc cần mẫn ngày qua ngày mà chưa một lời ca thán nào toát ra từ miệng ông. Dù vất vả nhưng gương mặt ông hiện tại phủ một lớp bóng loáng của niềm vui và mãn nguyện, làm đầy những nếp nhăn ở đuôi mắt cũng như ở trán ông mà từ lúc mẹ tôi bị bệnh, nó đã hiện diện ở đấy như những cái rãnh khô khốc nứt nẻ trên mặt đất thiếu nước. Cha tôi có dáng người cao và đầy đặn, ông luôn luộn bận áo sơ mi và quần âu vì ưa thích sự thoải mái và lịc sự mà chúng mang lại. Mỗi khi giặt đồ, tôi lại cẩn thận là hết một lượt quần áo của ông trước khi gấp gọn gàng. Tôi bắt đầu để ý đến áo quần của ông từ một lần cha dẫn tôi đi đến Viện khoa học của ông, trong lúc ông làm việc tôi có cơ hội được thăm thú khắp nơi, và khi đã chán nhìn những bức tường màu trắng với hàng tỉ thứ máy móc mà tôi không hiểu được,thì tôi ngồi trên hành lanh đối diện với phòng thí nghiệm mà cha và các đồng nghiệp đang làm việc. Có khoảng bảy người trong căn phòng đó, cùng diện những chiếc áo blu trắng dài, họ cao lớn và đĩnh đạc, cái nhìn trong mắt họ khi đang say mê trong công việc khiến tôi cảm thấy một sự chắc chắn và yên tâm, tôi nghĩ gia đình những con người này hẳn cũng có cảm giác giống như của tôi bây giờ. Bảy người đàn ông đều cao lớn và ngoài cha tôi có kết cấu gương mặt khác hẳn thì sáu người còn lại đều có những cái mũi cao và những đôi mắt sâu. Họ trắng toát như những thiên thần cần mẫn. Cha tôi đứng giữa những con người ấy bỗng nhiên cũng vụt biến thành thiên thần. Tôi ngắm nhìn ông, ngắm nhìn từng góc cạnh của khuôn mặt ông: đường lượn duyên dáng từ giữa trán đến sống mũi, cặp lông mày dày nhưng lộn xộn, khuôn miệng hơi trễ xuống biểu thị sự tập trung, hai con mắt với mí mắt dày nhăn nhăn khi nhìn vào một điểm...Tôi bỗng thấy từ ông toát lên một vẻ mà tôi chưa bao giờ để ý : sự cứng rắn và dứt khoát, thay vì luôn luôn mềm mại trong cung cách đối xử với hai mẹ con khi ở nhà. Bộ quần âu áo sơ mi của cha tôi đã mặc biết bao nhiêu lần, trong căn phòng trắng toát và giữa những vị trắng toát làm nó nổi bật lên vẻ xộc xệch và màu sắc không đồng đều - tôi bất chợt nhận ra lúc tiếp tục ngắm cha mình sau khi lén quay đi lau một giọt nước mắt xúc động. Kể từ đấy tôi dành nhiều thời gian hơn cho việc giặt giũ và sắp xếp áo quần cho ông. Tôi muốn cha mình có ấn tượng sạch sẽ trong mắt đồng nghiệp của ông, vì tôi biết ấn tượng đó có sức mạnh như thế nào :như hình ảnh của Văn trong mắt tôi.

Công việc của cha đem lại niềm vui cho ông. Bạn bè của ông có cùng một cái nhìn và một đam mê, điều ấy làm mắt ông có những tia nhìn khác lạ hơn hồi mẹ tôi còn sống. Ông bình thường không uống nhiều, luôn luôn giữ những chuẩn mực của riêng mình. Hồi còn trẻ, cha đã từng là một người lính. Đó là chuyện trước khi chiến tranh kết thúc và một bên đầu gối của ông bị chấn thương khiến cứ mỗi khi giở trời là lại trở nên đau nhức. Cha tôi từng tham gia quân đoàn đóng quân tại miền Tây Nam Bộ, khi cuộc chiến với các thế lực thù địch xung quanh đất nước lên đến cao trào, ông đã có mặt trong các trận chiến mà ông chẳng bao giờ kể cho tôi vì một lí do nào đó. Tôi chỉ nghe loáng thoáng trong những cuộc nói chuyện của ông với các bạn. Những chuẩn mực được hình thành từ thời còn tại ngũ, và ông cứ giữ nó cho đến tận bây giờ. Với tôi, cha mình luôn có hai nửa bên trong, một cứng rắn và kiên định, một lại tình cảm và khéo léo. Đối với tôi ông chưa bao giờ phải sử dụng nửa cứng rắn của mình, nhưng có vô số những lần tôi chứng kiến nửa ấy lồ lộ qua ánh mắt ông, khi mà người ta nói về những trận chiến, nói về đồng đội, nói về những cơn đói và thời gian trước sự hiện diện của ông. Mỗi khi nửa ấy hiện ra là tôi lại tưởng tượng rằng người cha đáng kính luôn nhẹ nhàng với tôi cũng từng có một thời tuổi trẻ gày gò, ốm tong teo trong bộ áo lính và chiếc mũ cối, tay cầm khẩu súng lớn hơn bắp tay mình, xông pha vào những trận chiến ác liệt để bảo vệ lập trường chính trị mà ông tin tưởng, bảo vệ quê hương, bảo vệ gia đình mình.

Ông bà nội tôi cùng hai chú nữa đã chết trong chiến tranh, nhưng ông không bao giờ kể với tôi về chuyện ấy, ông niêm phong nó trong bì thư mà ông giấu kĩ tận đáy lòng. Chiến tranh với ông bây giờ không có bất cứ điều gì đáng tự hào, ở ông người ta luôn thấy có một cái gì đã mất đi, đã thui chột, hoặc ông biết cách chôn giấu nó thật chặt. Tôi - đứa trẻ hãy còn tham lam với những kiến thức của cuộc đời có nhiều lần hỏi ông về thời gian ông tham chiến ở chiến trường miền Nam, vì những thứ tôi đọc được trong các cuốn sách, các tập tài liệu luôn luôn miêu tả những thứ vĩ mô to lớn khiến chiến tranh vừa mới đây thôi, mà tôi có cảm giác như đã xảy ra trước bao thế hệ. Tôi muốn có cái nhìn cận kề hơn nên đã bỏ qua ánh mắt của cha mình mà quyết tâm đào bới cho tận cùng. Tôi không bao giờ quên cái lần đấy, ông gắt lên với tôi bằng chất giọng cao vút mà tôi chưa từng biết nó tồn tại trong ông, đến độ mẹ tôi cũng phải từ bếp chạy lên xem đã xảy ra chuyện gì. Tôi vừa tủi thân vừa tức giận, đã bật khóc. Cha tôi đợi cho cơn nức nở của tôi lắng xuống, mới ôm lấy tôi mà nói:

"Con gái, đừng bao giờ hỏi một người lính đã giải ngũ về chiến tranh. Đối với ta, những thứ ấy quá đau buồn, hơn nhiều lần cách mà con có thể tưởng tượng được. Nó không cho ta thứ ta muốn, vậy nên càng không cho con thứ con muốn. Đừng khóc, cha xin lỗi. Cha đã chiến đấu để những người thân yêu của ta không bao giờ phải khóc, con gái ạ."

Tôi ngước lên nhìn cha mình, giọng ông hạ xuống ở mức bình thường mà tôi vẫn thường nghe, nhưng lần này có dư vị khác hẳn những lần trước: hình ảnh một cánh đồng mênh mông trải dài ra trước mắt tôi với những thân lúa dập dờn thành từng làn sóng. Đối với tôi, khoảnh khắc khi cha nói câu đó là khoảnh khắc cha thú nhận rằng trong ông có một lỗ hổng mà không bao giờ nó có thể được lấp đầy được.

"Con hãy để quá khứ trở thành quá khứ. Ta không bao giờ quên những giờ phút quá khứ ấy, con nhớ nhé, vì nó là công sức phải trả giá bằng máu thịt của những người đi trước" - ông nhìn lên đỉnh đầu tôi khi nói những câu ấy, tôi thấy một giọt đỏ loang ra trong mắt ông, đồng thời thấy cánh tay cha mình run rẩy - "nhưng cũng đừng lấy nó ra để làm niềm tự hào. Chiến tranh không có gì đáng tự hào cả. Cha đã mất rất nhiều thứ, nên cha cố gắng để thế hệ con không phải chịu đựng thêm điều ấy. Nhưng con gái ạ, cha không dùng chiến tranh như cái khiên chống đỡ cho sự thất bại của bản thân mình, không, không ai được phép thế. Từ những đau thương ấy, chúng ta sẽ xây dựng những thứ tốt đẹp hơn."

Cha tôi nói thật chậm chờ cho tôi ngấm những lời ấy vào tâm can mình. Khi đã sống ở nước ngoài một thời gian, người ta thường hỏi tôi là người nước nào, và khi nhận được câu trả lời Việt Nam, họ luôn luôn hỏi tôi về chiến tranh. Nhưng tôi mỉm cười, nhớ lại những lời cha mình nói trong quá khứ mà trả lời rằng "quá khứ đã là quá khứ. Chúng tôi hiện giờ không lấy nó làm điều tự hào".

"Có thể hiện tại nhiều phẩm chất và giá trị đã mất đi từ sau khi chiến tranh kết thúc, nhưng việc ấy không quan trọng, con phải luôn tâm niệm rằng giá trị đích thực nằm ở ngay trong bản thân con, chứ không phải ai khác. Đó là cuộc chiến của thế hệ con, hãy ghi nhớ điều đó."

Cha tôi nói những lời sau cùng về cuộc chiến của ông khi tôi hãy còn chưa hiểu hết những ý nghĩa trong đó, nhưng khi lớn hơn, chứng kiến sự đổi thay của con người, sự mai một và thoái hóa, không chỉ riêng đất nước mình mà toàn thế giới, tôi càng thấy sự cần thiết trong việc giữ gìn trước hết là giá trị của bản thân. Nhưng đó là chuyện vĩ mô và siêu hình mà tôi không thể nào sờ nắn hay cảm nhận được, nên tôi chỉ có thể chấp nhận nó trong tư tưởng của mình.

Từ sau cuộc nói chuyện ấy tôi không bao giờ hỏi cha về chiến tranh, cũng như cố tìm hiểu về giai đoạn tại ngũ của ông. Tôi chấp nhận nửa còn lại - nửa khéo léo và tình cảm như duy nhất có sẵn ở trong ông ngay từ khi ông sinh ra, kể cả các chuẩn mực ăn sâu vào trong tính cách ông mà không hề có một thắc mắc, tựa như tôi đang cố san sẻ bớt khoảng trống của cha mình, lại tựa như tôi đang cố gắng chuộc lỗi của mình trong cuộc nói chuyện ngày hôm đó.

Từ khi chuyển đến môi trường mới, những lề thói cũ không còn là con thác ghềnh ngăn cản giữa ông với sự tự do của thời đại. Cha tôi tụ tập với bạn bè cùng viện nghiên cứu mỗi khi hết giờ làm, rút bớt cà vạt và ngồi tán gẫu bằng những từ ngữ mà nếu còn ở tại cơ quan cũ ông không bao giờ dùng. Tôi đoán không chỉ có tôi học được những bài học, mà cha tôi cũng tự tìm ra những thứ khác trong cuộc đời mình. Tôi vui vì cha mình vui, khi người khác hạnh phúc, niềm vui ấy lây sang cả những người xung quanh.

Với sự giúp đỡ của bạn bè, cha tôi mua được chiếc xe đầu tiên - một chiếc Ford cũ. Ông đi thi bằng lái xe trước đấy nửa năm ở một trường đạo tạo. Khi ông lái chiếc xe về nhà, gương mặt ông mới mẻ và thơm phức một mùi kì lạ, như người thợ học việc vừa nhấc những chiếc bánh đầu tiên trong sự nghiệp bếp núc của mình ra giá chờ nguội, hít hà mãi hương thơm và ngắm nhìn mãi không chán màu vàng rộm của những chiếc bánh. Khi tôi chạy xuống dưới nhà để đón ông, thì đã thấy cha mình đợi ở dưới đường từ lâu, bước ra phía đối diện và nhìn về phía chiếc xe trong sự say mê của những người trẻ tuổi. Ông dùng bàn tay trần chạm vào thành mát lạnh sơn bàng bạc của nó, đứng im và nhìn về một hướng xa xăm. Cha dùng chiếc xe mới mua, chở tôi đi một vòng quanh thành phố. Hai con mắt của ông lấp lánh như hai bên đèn xe bật lên khi trời vừa ngả tối.

Chúng tôi ngắm nhìn những con đường trải dài phía trước, êm ả và bằng phẳng đang được chiếu sáng bởi những bóng đèn cao áp. Trên chiếc cầu bắc qua con sông giữa thành phố có nhiều xe nhưng thông thoáng ngay sau mười phút. Từ trên cầu tôi nhìn thấy mặt nước lấp loáng xa tít tắp phản chiếu ánh sáng của cả thành phố, nghiêng nghiêng sóng nước vỗ về những cột trụ phía trong mình. Ra gần đến ngoại ô, cha tôi ngước lên nhìn bầu trời và phát hiện ngày hôm nay không thể nhìn thấy vì sao nào, nhưng ông nói bằng một giọng vui vẻ:" đổi cái này để lấy cái kia, không có gì là mất đi cả, con gái". Sau đó ngước lên nhìn bầu trời dù tối nhưng vẫn quang quẻ, vẫn nhận thấy những đám mây trắng đang trôi dạt về một phía, cha im lặng trong cơn xúc động bất chợt. Tôi biết ông đang nhớ đến mẹ vì tay trái của ông đang để lên túi áo vest chứa chiếc ví trong đó có ảnh của mẹ. Tôi kiềm chế những giọt nước mắt xúc động vì không muốn phá hỏng giây phút đặc biệt này - giây phút mà tôi tự cho phép mình, một cách chắc chắn, vứt bỏ hoàn toàn những thứ cũ. Chỉ cần tôi thả bàn tay đang nắm ra, là chúng - những hạt bụi của kỉ niệm, sẽ tung bay theo gió không cần một giọt thương cảm nào từ tôi. Nhưng vì tính cố chấp, vì sự ích kỉ và một trái tim bị tổn thương, tôi cứ giữ lấy nó thật chặt trong bàn tay mình dù biết rằng nó hãy cứ rỉ qua lỗ hổng mà đốt ngón trỏ bị thiếu của tôi tạo ra, và càng giữ nó chặt thì tôi càng làm mình đau đớn. Tôi đã thả tay, trong ngày cha tôi đưa tôi đi dạo một vòng quanh thành phố trên chiếc xe của ông, và tôi để tất cả bay theo gió trước khi tôi bắt đầu một cuộc sống thực sự mới, bắt đầu một tôi thực sự mới. Cha tôi thì đã làm điều đó từ lâu trước đó, ông lúc nào cũng thông thái hơn tôi.

9.

Văn, một khi tôi có đủ thời gian để lấp đầy những khoảng trống trong mình, thì tôi mới dám nhìn thẳng vào nỗi nhớ dành cho người bạn ấy. Cậu ta giống như làn nước mát rửa trôi đi chất bẩn cặn bã ở khắp mọi nơi, mà cụ thể là tôi. Với Thi, cô bé cùng làng, hẳn cũng giống như vậy, nhưng cô bé không có khả năng nhìn ra vấn đề, cô bé chỉ nhìn lên Văn với ánh mắt ngưỡng mộ về một thứ mà cô không tài nào hiểu rõ, dung hòa nó vào với con người vốn đã giản dị mộc mạc của mình. Còn tôi, tôi đủ lớn và đủ chín chắn để hiểu rằng cậu ta có ảnh hưởng tốt đẹp lên những người mà cậu ta quan tâm. Tôi càng bị ảnh hưởng ấy rõ rệt hơn bất cứ ai khác, bởi tôi là cá thể dễ dàng bị tác động bởi tất cả mọi thứ trên đời, từ tốt đến xấu, và một khi đã bị tác động thì nó sẽ mãi mãi ở lại trong tôi bằng những vết xước mang hình hài thời gian. Nhờ có Văn và làn nước mát của cậu ta, tôi được gột rửa như con chiên thú tội trước Chúa, nói một cách khác cậu ta chính là giọng nói trong trẻo phát ra thay cho tôi những tâm tư thầm kín nhưng ở những góc nhìn nhân văn và đầy thiện chí - cái góc nhìn dễ thu nạp được sự chấp thuận của đám đông hơn là cứ thế xù ra những gai góc và yêu cầu người ngoài nhặt lấy những mảnh tươi sáng. Từ cậu ta, người ta sẽ chỉ nhận thấy tôi giống như mặt sáng của địa cầu, hiển hiện ra đầy những màu sắc tốt đẹp, nhưng không biết để có được muôn ngàn sắc tía ấy, tôi đã hấp thụ ánh sáng của mặt trời - ánh sáng Văn như thế nào. Đấy là điểm tôi tiếc nuối nhất sau khi phải rời đi, xa cậu ta chẳng khác nào tôi được tự do hoành hành thu hút toàn bộ những phẩm chất không cần thiết ở thế giới này vào mình, cũng có nghĩa tôi sẽ không thể trở thành một đứa con gái ngoan ngoãn và tốt đẹp như tôi hằng mong muốn. Tất cả những gì tôi làm sẽ là tiếp thu, tiếp thu không ngừng nghỉ, và biến nó trở thành mình, một khi đã tiếp cận những cái xấu xa (những thứ xấu xa luôn luôn có sự hấp dẫn của ác quỷ) thì tôi sẽ không dừng lại được, trừ phi, (một cái trừ phi vô cùng hạn hẹp) tôi gặp được ai khác có những tính năng gột rửa như Văn. Nhưng ở một quan điểm khác, sự dung hòa trong tôi không lấy làm bận tâm, vì rằng tôi có dung nạp bất cứ điều gì đi chăng nữa, tôi cũng sẽ chấp nhận bản thân mình y như cũ.

Ở năm lớp 12 tôi đã có người bạn trai đầu tiên và chính thức của mình. Khi này tôi đã chuyển đến một trường cấp ba công lập, học cùng các thanh niên bản địa và bị chậm hơn hai năm so với tuổi học cấp ba của mình. Bạn trai năm lớp mười hai của tôi là Jose, kém tôi hai tuổi, có mái tóc nâu mềm và đôi mắt xanh vừa đủ độ. Chúng tôi đến với nhau dễ dàng và đầy sức sống như tất cả các cặp đôi khác, thời gian này, khi sự phát triển sinh lí vừa đủ tầm để nhận biết và làm quen với cách thức cơ thể hoạt động, những đứa trẻ - người lớn như chúng tôi dễ dàng thấy điểm sáng ở người kia, dễ dàng nắm bắt được cái nào phù hợp cho mình, cái nào không. Hơn thế nữa, tri giác về cảm thụ trong chúng tôi cũng trong sáng và không nhiều toan tính, khiến vẻ đẹp bộc phát ra bên ngoài cơ thể như tấm voan trắng treo trên ghệ cửa sổ, chờn vờn trong gió và phảng phất màu nắng chiều. Hai cơ thể đẹp đẽ cuốn lấy nhau, ngoài ra không cần có một sự tính toán về mặt tình cảm hay vật chất, ấy là thế mạnh của thứ tình yêu non trẻ của tuổi thanh niên. Tôi nhận thấy ở người bạn trai của mình có chút ham muốn với kiến thức nhân loại, và sự yêu thích ấy thể hiện qua những động tác mạnh mẽ mỗi khi cậu ta bật nhảy và tung quả bóng vào rổ trên cao. Khi ấy mái tóc cậu ta sẽ xổ tung ra như chú chim vừa đủ đà tung cánh, ở một góc thích hợp, ánh nắng chiếu xuyên qua những sợi tóc mảnh như mây khiến nó bừng sáng, như đỉnh núi tuyết bao phủ cái chói lòa của ánh mắt trời. Cái đẹp nằm ở đấy, trong con mắt của người đang yêu, chứ không phải ở cái nhìn toàn diện nhưng hời hợt, tôi đinh ninh với mình như thế mỗi khi nhìn cậu ta chạy loăng quoăng trong sân bóng trong bộ đồ thể dục ướt đẫm mồ hôi. Sau cuộc thể thao, tôi giống như một người phụ nữ trẻ đã mang đức tính của bà mẹ mình, đem tới cho cậu ta cái khăn bông trắng muốt, cái mà tôi luôn giữ trong balo của mình và chỉ dành riêng cho cậu ta. Luôn luôn có cái gì quá ư tươi sáng trong mối quan hệ của chúng tôi, không, trong con mắt của tôi, rằng tôi đã xây dựng những năm tháng rực rỡ nhất của cuộc đời mình bên cạnh những năm tháng rực rỡ nhất của cuộc đời Jose. Giống như một bức họa, một bài thơ, hay một câu hát, hoặc tất cả cùng một lúc nếu như tôi tưởng tượng được thứ mầm sáng ẩn sâu trong con người hai chúng tôi đang vươn lên mạnh mẽ và trong quá trình phát triển của nó, nó đem theo những giá trị được tách ra khỏi lớp vỏ của thứ hạt bên tận sâu dưới đáy mà kể từ khi chuyển đến đây tôi chưa hề cảm nhận được sự sống của nó. Cả hai chúng tôi với thứ sức sống mãnh liệt luôn chỉ nhìn về một hướng phía trước ấy say mê khám phá nhau cũng như say mê khám phá thế giới. Như khi Hươu Chuông trao cho tôi những hạt giống hoa không có tên trong buổi hẹn đầu tiên vì biết tôi thích ươm trồng, tôi đã nhìn thấy nụ cười của mình ở trong đáy mắt cậu, và như khi tôi đặt vào bàn tay cậu ta bàn tay thiếu đốt ngón trỏ của mình, cậu đã bắt gặp được niềm hi vọng của tôi. Từ những hạt hoa mà Hươu Chuông tặng, năm loại hoa khác nhau đã nở rộ trên ban công nhà tôi, và mặc dù những sắc thái màu sắc vốn dĩ được định nghĩa rõ ràng, những mỗi buổi sáng tưới cây, tôi lại trông thấy từ những cánh hoa ấy nở ra một màu sắc mới.

"Cậu có thấy màu vàng nhạt ở giữa màu xanh lam trên bông cẩm tú cầu ấy không?" - tôi hỏi Jose sau khi bưng ra cốc trà vừa pha trong bếp và ngồi vào cái bàn nhỏ kê ngoài ban công. Jose đang đợi tôi bằng cách ngắm nghía say sưa một bông hoa vừa mới nở.

"Bông nào là bông cẩm tú cầu?" - Jose đứng dậy đỡ hai cốc trà nóng và hỏi khi không nhìn vào mắt tôi. Có điểm gì vừa dễ thương lại vừa thành thật trong câu hỏi của cậu ta khiến li trà suýt không để trúng chỗ cần để.

"Là bông hình tròn đấy. Cậu tặng tớ hạt của nó đấy"

"Để xem nào. Không, tớ chẳng nhìn thấy màu gì ngoài màu tím" - Hươu ra vẻ chăm chú ngắm bông hoa rồi mới đưa ra câu trả lời.

"Màu tím á? Cậu đang đùa phải không?" - tôi khẽ thốt lên.

Những câu chuyện cứ diễn ra đơn giản và dễ hiểu nhưng vô cùng có ý nghĩa trong những kí ức sau này. Tôi đơn thuần chỉ là một hình ảnh phản chiếu của những thiếu nữ cùng độ tuổi, biết làm điệu đúng mực và có giáo dục. Khi này tôi đã biết cách để mình nói nhiều hơn nhưng không cần phải thể hiện ra bản chất thật của mình - một việc vừa khó lại vừa dễ, giống như một mặt khác được nuôi dưỡng để duy trì bản thân tôi khi đứng trong hoàn cảnh này, một thứ trái ngược với cái cũ nhưng vẫn mang tính độc lập. Ở nơi cũ, tôi chưa bao giờ nói quá năm câu với những người mới quen biết, và không có hứng thú xây dựng một tình bạn dựa trên khoảnh khắc chớp nhoáng, cái tôi tìm kiếm luôn là sự khẳng định của thời gian và những liên kết chặt chẽ trong tính cách. Nhưng ở đây, tôi để điều ấy thoát ra ngoài, và như con kiến chúa xây dựng các tổ và binh đoàn xung quanh nó, tôi xây dựng những mối quan hệ cả dài kì và ngắn kì, tôi thể hiện ra là một cái tôi hoàn toàn khác, một cái tôi ưa thích giao tiếp và ưa thích sự hoạt bát. Điều đáng ngạc nhiên là tôi không nghĩ tôi có thể trở nên một con người như thế, hoặc tôi không nghĩ là có một con người như thế trong tôi. Khi này tôi bắt đầu chơi thể thao, thứ mà trước kia tôi không bao giờ nghĩ đến, và tôi thậm chí còn khá giỏi trong lĩnh vực này. Tôi trồng trọt và nấu ăn. Tôi nấu ăn như mẹ tôi thường nấu, chăm chỉ và đa dạng. Cha tôi thậm chí nhiều lần mời bạn ông đến nhà ăn những bữa cơm mà tôi chuẩn bị, họ khá thích nó.Tôi đã hoàn toàn biến đổi để trở thành một thứ khác, không biết nếu Văn nhìn thấy tôi lúc này thì cậu ta có nhận ra tôi?, nhiều lần tôi hỏi câu hỏi ấy, nhưng có cái gì trong tôi nói rằng, chỉ cần nói chuyện với Văn bằng tiếng mẹ đẻ của mình, thì tôi chắc chắn trở lại với con người lúc mười sáu tuổi.

Tôi gặp Jose - Hươu Chuông khi đăng kí tham gia câu lạc bộ bóng rổ. Biệt hiệu của cậu ta được hình thành khi hình dáng cao lớn đứng che hết tầm ánh sáng khiến tôi như bị hút vào hướng rực rỡ ấy. Tôi không cao và cũng chưa từng một lần chơi môn này, nhưng tôi thích nó, thích cái cách mà các cầu thủ đối diện nhau, nhìn thẳng vào mắt nhau trong một khoảnh khắc và di chuyển quả bóng sang hướng hoàn toàn ngược lại với trí tưởng tượng của đối phương. Hươu đứng đó- ở bàn đăng kí cho các học sinh mới, chúng tôi trao đổi với nhau vài câu trước khi tôi nhìn thấy cậu ấy vuốt mái tóc của mình bằng tay trái cho nó rối xù lên. Vào khoảnh khắc ấy, một cơn ngứa bất thần truyền đến não tôi mà xuất phát điểm là từ chỗ bị thiếu của đốt ngón trỏ. Tôi giơ bàn tay của mình lên để gãi nhưng suýt la lên vì kinh ngạc, đốt thứ hai của ngón trỏ biến thành các bong bóng nhỏ và tan vào không khí trong im lặng. Rất nhanh chóng đốt thứ hai đã không còn hiện diện trên ngón trỏ của tôi nữa, nhưng bàn tay tôi vẫn còn đấy, không có dấu hiệu tiếp tục của sự "tan vào không khí", Jose trước mặt vẫn nở nụ cười vì không nhìn thấy chuyện ấy xảy ra. Tôi bỏ tay xuống, viết nguệc ngoạc tên mình vào trong danh sách rồi nhanh chóng rời đi.

Sau cái chết của mẹ, tôi đã hoàn toàn quên khuấy đi sự bất thường diễn ra trong cơ thể tôi, quên đi cái những phần cơ thể của tôi ở trong không gian chứa vật chất của mẹ tôi thì hãy còn biến mất, thời gian ru ngủ trí nhớ của tôi khiến tôi tin rằng phán đoán của mình trước đây là hoàn toàn sai lầm, rằng sẽ chẳng có gì biến mất nữa. Nhưng chuyện đã diễn ra ngay trước mắt tôi đánh cho tôi một cú thật mạnh, mạnh đến độ kí ức của tôi hừng hực thức dậy xộc xạo tất cả các ngõ ngách trên cơ thể tôi. Dù rằng cuộc đời tôi ở không gian không mẹ này vẫn còn tiếp diễn như một người bình thường với những cảm xúc và hiện diện của cuộc sống thật xung quanh, nhưng ở không gian đã bị thời gian níu kéo ép lại thành một đường mấp mô thì tôi đang tan biến dần. Sự tan biến ấy diễn ra chậm chạp, hơn là việc nổi loạn của các tế bào phân chia không kiểm soát, nó không giết chết tôi ngay lập tức, không phải ngày mai, không phải tuần sau, không phải mười năm nữa, nhưng nó giết tôi từ bên trong. Không ai vui vẻ khi mỗi ngày thức dậy với một phần cơ thể biến mất và nỗi lo sợ về khoảng thời gian đếm ngược còn lại. Tôi cũng thế, tôi chỉ vừa mới biến đổi và bắt đầu tập làm quen với những thứ bên ngoài cuộc đời của hai cha con chúng tôi, và tôi sẽ còn lớn nữa và độc lập hẳn về mặt tinh thần. Nhưng nỗi buồn và hạn định về việc biến mất khiến tôi tan vỡ, như viên ngọc bị người ta đập nát bấy và lấy đi các mảnh vỡ mỗi lần quay trở lại. Tôi đã cứ ngỡ vật chủ biến mất, các tế bào trong tôi sẽ chỉ làm việc của nó như nó vẫn làm và không có bất cứ điều gì trên thế gian này có thể tác động được vào, nhưng tôi lại lầm, một lần nữa, ở một hình dáng nào đó, mẹ tôi vẫn có ảnh hưởng rất lớn đến cái tôi hiện diện nơi này. Tôi không trách bà, thậm chí cái ý nghĩ về sự tồn tại của bà khiến tôi còn vui mừng, vì một khi biết mình không lẻ loi như ánh sao ban ngày vì hãy còn sự bảo trợ của người cùng máu mủ thì tất cả những hành động và quyết định tiếp theo sẽ dễ dàng và dũng cảm hơn cho bản thân. Cái tôi hãy còn buồn ấy là sự mất mát về mặt vật chất, và sự khó khăn trong cuộc sống tiếp theo khi phải tìm cho ra một nửa nhìn thấy được sự mất mát ấy để mà cảm thông và chia sẻ. Bây giờ hãy còn sớm cho công cuộc tìm kiếm ấy, nhưng ắt hẳn một thời gian nữa, cái tôi muốn sẽ vượt ra ngoài phạm vi sức sống và vẻ đẹp của những thanh niên cùng tuổi.

Tôi hoàn toàn rối trí những ngày tiếp theo đó với ý nghĩ của mình, và không tìm ra cơ may để thổ lộ sự bối rối này với bất cứ ai, kể cả cha mình.Tuy vậy việc tập luyện chơi bóng trong câu lạc bộ bóng rổ và những cảm xúc đầu tiên hình thành nên một tổ hợp tình cảm đối với người khác giới khiến tôi trở nên bận rộn và nguôi ngoai dần. Tôi làm quen với Jose- Hươu Chuông như huấn luyện viên môn bóng rổ của mình, và từ đó cho đến nay tôi luôn tin rằng chuyện tình yêu 70% đều dựa vào ấn tượng ban đầu - khi hai chúng tôi đứng nhìn nhau trong buổi giới thiệu các thành viên mới. Chúng tôi thể hiện tình cảm của mình, ban đầu chỉ là những sợi dây mỏng rất nhẹ hệt như những sợi tóc của Jose, thông qua các cử chỉ và ánh mắt, những thứ mà chỉ có ý nghĩa với riêng hai chúng tôi, còn với người ngoài khi nhìn vào nó chẳng khác là mấy so với những cặp đôi thông thường đang trong thời kì tán tỉnh. Việc chúng tôi trở thành một cặp chính thức không làm ai ngạc nhiên, kể cả cha tôi - người vẫn được giáo dục rằng tình yêu ở tuổi học trò là điều cấm kỵ, ông hoàn toàn ủng hộ chúng tôi và thích được ngồi với Jose, mời cậu ta bia và bàn về các chủ đề chính trị lẫn kinh tế. Hồi tôi còn giao du với Văn, cha tôi chưa bao giờ nói chuyện với cậu theo cách mà ông đang làm với Jose, tôi không biết giữa hai người này sự ảnh hưởng của họ khác nhau như thế nào, nhưng đôi lúc sự so sánh ấy làm tôi không vui. Tôi nghĩ tham vọng về sự nghiệp của cha mình giống một tảng đá đồ sộ đổ bóng xuống cuộc đời của những thứ nhỏ bé phía dưới, nhưng trong chừng mực tôi có thể nắm bắt, tôi biết ông cũng ganh ghét với những thứ bé nhỏ dưới bóng mình, tuy không có một ước vọng cụ thể nhưng vẫn có một niềm hạnh phúc tuyệt đối, thứ mà người như cha tôi sẽ chẳng bao giờ hiểu được. Chính điều ấy khiến ông lo ngại Văn, lo ngại dòng suối mát có nụ cười sạch sẽ và rạng rỡ ấy của tôi chăng? Còn đối với Jose, khuynh hướng bày tỏ của cậu ta nhẹ nhàng hơn của Văn, sự khéo léo trong lối chơi thể thao cũng như âm thanh phát ra từ cổ họng của một người đàn ông sắp trưởng thành ở cậu ta duy trì sự tự hào trong tham vọng nghề nghiệp của cha. Ở hai người có một điểm chung, ấy là khát vọng tìm hiểu thế giới.

Khi tôi so sánh Jose và Văn, tôi không có ý định muốn tìm hiểu xem ai là người mà tôi thích hơn cả, tôi chỉ khó chịu vì thứ mà Văn không có được khi tiếp xúc với gia đình tôi, nó giống như sự thiếu công bằng mà cậu ấy xứng đáng được nhận, và để điều này xảy ra trước tiên tôi có phần lỗi lớn nhất. Nhưng tôi không muốn duy trì sự so sánh vốn đã không thực tế ở hiện tại, mà đối với tôi bây giờ Jose chính là hiện tại dù rằng tôi không thể phủ nhận tầm ảnh hưởng của Văn lên mình.

" Nếu như chúng ta không ở cùng một thời điểm, thì tớ sẽ không gặp cậu đúng không?.."- cậu ta ngậm ngừng chờ sự xác nhận trong câu trả lời của tôi, nhưng tôi im lặng nên Jose tiếp lời- "Tớ đã nghĩ nếu như chúng ta không cùng tồn tại ở một thời điểm, nhưng vẫn gặp nhau và đi bên nhau như thế này, thì cũng không có gì là không đúng cả, chỉ giống như chuyện di chuyển một thứ đồ đạc ra khỏi nơi nó thường ở. Trong không gian này, dù hơi sai lệch đi một chút và dù người này hay người kia có không phải là một cá thể hoàn hảo, ý tớ ở mặt vật chất ấy, thì cũng không có vấn đề gì to tát xảy ra như đột nhiên trái đất nổ bùm một cái. Cậu nghĩ thế nào về ý nghĩ lạ lùng của tớ?"

Jose nói như thế trong lần cậu đi cùng tôi về nhà sau buổi tập bóng rổ của cả hai. Lúc này trời đã tối nên tôi không nhìn thấy ánh mắt cậu sau câu nói ấy. Nó khiến tôi mất một lúc để định vị được hoàn cảnh của câu nói và miền mà cậu ấy đang nghĩ về. Ngày hôm nay đối với Jose là một ngày dài, cậu có một buổi thi đấu với trường cấp ba đối thủ và để lấn áp hoàn toàn trong cả trận đấu. Sau đó với tinh thần mệt mỏi và nỗi chán chường dâng lên tận vầng trán hãy còn lấm tấm mồ hôi, cậu đề nghị tôi ở lại sau trận đấu và cùng nhau tập luyện thêm. Tôi đã không nhận ra nỗi chán chường ấy xuất hiện từ trước khi cả nhóm thua trong trận đấu, nó bắt đầu từ lâu trước đó, từ lúc mà cậu ta từ chối đến các buổi diễn thuyết trong môn Triết học và sau đó luôn luôn mệt mỏi sau mỗi trận tập luyện.

"Có gì không ổn ư, Jose?" - tôi hỏi với ý định quan tâm thật sự, nhưng cái tôi nhận lại chỉ là một cái lắc đầu.

"Không! Tớ chỉ đột nhiên nghĩ đến nó. Cậu thấy nực cười à?"

"Nghe này,... -tôi nói sau khi suy nghĩ một lát, "tớ hiểu điều cậu vừa nói, nhưng theo một khía cạnh khác. Tớ không muốn khuyên cậu chuyện gì cả vì tớ biết chắc tâm trạng cậu không tốt để nghe tớ nói hết một câu khuyên bảo. Nhưng tớ cảm nhận được thứ làm cậu phân vân trong cả tuần nay cũng cùng là một thứ mà tớ đã từng đắn đo. Cho đến tận bây giờ tớ vẫn còn chưa tìm được lời giải đáp, và theo như tớ thấy, nó phức tạp hơn nhiều so với những gì mà chúng ta hiểu biết..."

"Vậy, cậu không thấy nực cười về ý nghĩ của tớ?" - Jose ngẩng đầu lên và cắt ngang câu nói của tôi, trong màn đêm, tròng mắt xanh của cậu ta bị che mất chỉ còn là hai điểm sáng lấp lóe.

"Không, tớ mà nói ra những suy nghĩ của tớ thì cậu mới thấy nực cười mất. Nhưng mỗi chúng ta đều có những bản thể khác nhau trong những không gian khác nhau, tớ tin điều ấy đến nỗi tớ luôn thấy ngứa ngáy ở ngón tay trỏ mỗi khi nhắc đến nó"

"Có phải cậu đang đi quá xa so với ý định ban đầu của tớ không?" - cậu ta mỉm cười.

"Đấy, thấy chưa! Tớ đã bảo là ý nghĩ của tớ còn nực cười hơn của cậu mà.."

Tôi vừa định nói tiếp thì ánh đèn xe ô tô trờ tới, đó là cha tôi cũng vừa đi làm về, ông tiện thể đón tôi và cảm ơn Jose vì đã đi với tôi đến tận đây. Chúng tôi chia tay và hẹn gặp lại vào ngày mai. Tối đến tôi suy nghĩ về ý nghĩ lạ lùng của Jose, tôi bất chợt nhận ra trong điểm này có cái gì đó vừa đúng lại vừa không đúng. Có thể nào con người, trong quá trình lớn lên của mình, không chỉ có tôi, đều đang mất đi một cái gì đó. Có người thì về mặt vật chất, có người thì mặt tâm sinh lí, có người lại về những thứ hoàn toàn khác mà không một cá thể nào có thể tưởng tượng. Một con người có thể tồn tại ở cùng một lúc trong nhiều không gian và thời gian khác nhau, dù cùng chia sẻ những bộ phận trên cơ thể và những ý nghĩ trong não bộ, và những bản thể khác nhau ở thời điểm khác nhau này đều đang phát triển theo cách tự thân của nó để rồi sau cùng hoàn thiện đồng nhất trong một không gian duy nhất. Nghe giống như một thứ viễn tưởng vô lí của cá nhân thích trò giải trí trong thế giới không có thực, đấy là cái mà tôi muốn nói rằng nó không đúng. Nhưng ở khía cạnh nào đó, ở một con người cụ thể nào đó, giống như tôi chẳng hạn thì điều đó lại hoàn toàn không có điểm nào lệch lạc, đặc biệt với ý nghĩ lạ lùng của Jose, chẳng lẽ cậu ta tự tưởng tượng ra. Tôi tất nhiên không thể khoe với jose rằng những ngón tay của tôi tự biến mất một cách kì lạ, kiểu "tan vào không khí", bởi cái mà cậu ta nhìn thấy là bàn tay tôi hãy còn đầy đủ những ngón tay khi vuốt lên má cậu ấy, hoặc khi đập bóng xuống sàn nhà; thế nên chắc hẳn Jose cũng không thể nào khoe với tôi sự biến chuyển trong con người cậu ấy. Chỉ đến khi mọi thứ đã hoàn chỉnh hoặc đã biến mất hoàn toàn thì chúng ta mới nhìn được ra quá trình ấy với con mắt đánh giá kĩ càng và hiểu biết. Đến giờ phút này, những điểm không đúng và đúng chỉ dựa vào nhận định của một mình tôi, trên cơ sở phán đoán mang tính chủ quan và tôi cũng không chắc trong tương lai nó sẽ được xác định và lập luận như một giả thuyết khoa học. Việc tôi chấp nhận giả thuyết ấy không đồng nghĩa với việc tôi phục tùng nó, giống như sự dung hòa trong tôi, chúng tôi sẽ sống với nhau hòa thuận và công bằng.

Trở lại với Jose và luận điểm của cậu ấy, tôi bày tỏ rằng tôi hoàn toàn đồng tình, nhưng mặc dù vậy nó không nằm trong khả năng kiểm soát của hai chúng tôi trong thời điểm hiện tại, nên chúng ta cứ để nó chảy qua mình như dòng chảy thời gian, và tôi tin rằng không có bất cứ điểm nào trong dòng chảy ấy có thể tác động mà làm đứt gãy bản chất của chúng tôi. Cuộc nói chuyện này tôi dành cho tôi nhiều hơn, thuyết phục bản thân mình tin vào sự không cần lí giải của việc "tan biến vào không khí" cũng như những thứ tuần hoàn trong không gian khác mà mẹ tôi tồn tại ở bất kỳ dạng thể nào. Tôi cũng thuyết phục được Jose không quá coi trọng nó mà tập trung xây dựng thứ dễ dàng nhìn thấy ngay trước mặt. Cậu vui vẻ vì tôi đã đồng tình với cậu ấy trong một ý kiến không dễ dàng được những đầu óc khác chấp nhận như vậy.

Từ đó Jose không nói về vấn đề ấy nữa mặc dù tôi biết nó vẫn dằn vặt cậu như nó vẫn đang dằn vặt tôi, nhưng cuộc sống của chúng tôi vẫn được duy trì ở những khía cạnh khác, gần gũi và dễ hiểu hơn một cách êm ả. Tôi vẫn còn nhớ sau cuộc nói chuyện đó, Jose nắm tay tôi thật chặt trong một ngày đẹp trời, đi dạo quanh công viên nhỏ gần nhà tôi, năm ngón tay cậu đan vào những ngón tay thiếu sót của tôi, cả hai chuyện trò về những thứ xung quanh mình.

"Lúc này cậu có thấy hạnh phúc không?" - tôi hỏi Jose khi chúng tôi đang ngắm nhìn bầu trời trong công viên nhỏ. Jose không trả lời tôi ngay, cậu mất một lúc để sắp xếp từ ngữ.

"Tớ thấy hài lòng. Với cậu, với bản thân tớ, và với tương lai"

Jose kéo mặt tôi lại gần và đặt vào trán một nụ hôn. Tinh thần Jose lấy lại nhanh như sức lực của cậu, điều ấy thể hiện ở bộ ngực ưỡn thẳng ra phía trước như quyết tâm đương đầu với cuộc sống của cậu. Khi tựa mái đầu mình vào bộ ngực ấy, tôi thấy hạt của mình nay đã mọc ra những chồi lá đang rung vẫy cánh tay là những chiếc lá mỏng. Tôi và Jose chia sẻ những cảm xúc của mình thông qua sự rung động của cơ thể, điền vào những chỗ trống của nhau những cảm xúc mà chúng tôi kết tinh được. Lần đầu tiên của tôi cũng là lần đầu tiên của Jose, có hơi muộn so với tuổi trưởng thành của một người đàn ông, nhưng ý kiến của cậu ta về vấn đề này khiến tôi thấy mình được cưng nựng. Khi hai cơ thể hòa làm một trong buổi chiều tối mùa thu ấy, Jose đã thở vào tai tôi một làn hương khiến tôi rùng mình, cái cảm giác toàn cơ thể xung động trong sự giao tranh mãnh liệt như in vào trong kí ức tôi. Chỉ cần nhớ lại khuôn mặt Jose và hơi thở của cậu là trái tim tôi lại chùng xuống một bậc, xúc giác mất đi trong một vài khoảnh khắc. Có cái gì rất đẹp, rất nên thơ trong lần đầu chúng tôi khám phá cơ thể của nhau, giống như giây phút cánh bướm vươn ra ngoài tổ kén của nó, đập hai chiếc cánh để cảm nhận luồng gió và không khí mà một cuộc đời mới đang chờ đợi. Tôi thấy mình như một lần nữa được yêu thương, một tình yêu thương khác xa với tình yêu của cha mẹ, tình yêu thương của những con người xa lạ, không cần hy sinh, không cần chế ngự.

Có một đôi lần trong những cuộc nói chuyện tràn đầy màu sắc tươi thắm ấy, tôi lại nhớ về Văn như một tượng đài của tuổi thơ đẹp đẽ và mát rượi, nhớ về lúc chúng tôi cũng nói chuyện về hàng tỉ thứ nho nhỏ giống như tôi đang nói với Jose bây giờ, và nhớ đến nụ hôn đầu tiên của tôi dành cho cậu ấy. Nhưng khác ở một chỗ, khi này tôi đã lớn lên đến chừng mực mà chính cha tôi - người vẫn thường xuyên quan sát con gái mình cũng phải ngạc nhiên, và tính cách của tôi xòe ra như con công khoe những cái đuôi của nó, tươi sáng đến độ ông phải lóa mắt. Trong khi Văn để tôi tự đối xử và nhận biết bản thân thì Jose dùng màu sắc của cậu ta để tô vẽ lên một tôi đa sắc, khiến tôi cũng thụ động trao cho cậu những sắc màu của riêng mình.

Thi thoảng tôi cũng để lộ màu xám u ám của mình ra với Jose, trong những ngày đột nhiên sinh lí tôi thay đổi, dễ nổi nóng và thích hét vào mặt người khác. Nhưng Jose không lấy làm bận tâm, cậu chấp nhận nó như chấp nhận những thứ đẹp đẽ khác trong tôi, vẫn nắm thật chặt tay tôi và kéo tôi đi hết những con đường trong khu số 9 ấy. Các nghiên cứu nói con gái trưởng thành nhanh hơn con trai, nhưng ở trường hợp tôi và Jose, cậu ta là người trưởng thành sớm hơn, còn tôi thì phải chờ mãi cho đến khi có kì kinh đầu tiên được ba năm mới bắt đầu trưởng thành.

10.

Thời gian tôi ở bên cạnh Jose cũng là thời gian tôi bắt đầu quen thuộc với thành phố mới, với cuộc sống mới, những mối quan hệ mới và thậm chí quen với cả sự tan biến của thân thể tôi.

Tôi đã không nghi ngờ gì việc một cá nhân bị lụi tàn đi theo thời gian mà những người ngoài cuộc không thể nào nhìn thấy được. Nó giống như một căn phòng bí mật mà mỗi người đều có cho riêng mình, ở trong đó họ được tự do thoải mái đánh giá những cá nhân khác, được trở nên xấu xa, được làm điều mình thích cũng như chôn giấu tất cả các bí mật. Tôi thường mở cánh cửa căn phòng mình để thả vào đó những giận dữ trong cuộc sống hàng ngày, những ý nghĩ xấu xa về một cá nhân nào đó, và cả những mệt mỏi vì phải cố gồng người lên để trở thành một người tốt trong cộng đồng người ngoài kia. Tôi không thể chia sẻ được những cảm xúc áp lực này với ai, nhưng điểm đặc biệt ở đây là chỉ cần người ngoài thực sự muốn vào bằng tình cảm quan tâm đến tôi thì họ sẽ vào được. Ở trong đó chúng tôi sẽ chia sẻ với nhau cho vơi bớt nỗi buồn, và để nhân lên niềm vui. Cha tôi là người hiểu tôi hơn ai hết, ông đã ở sẵn trong căn phòng bí mật của tôi từ khi tôi mới lọt lòng, nó giống như điều tự nhiên nhất trần đời. Càng lớn, những bức tường quanh căn phòng càng trở nên chắc chắn hơn, tôi giấu bí mật càng sâu hơn, nên càng ít người vào được trong đó. Nhưng cái tôi hiện tại thì chấp nhận Jose - bạn trai của mình, người cũng có những băn khoăn của riêng mình vào trong căn phòng đó. Trước đó là Văn. Tôi không chắc các cậu ấy có thể đánh giá đúng toàn bộ sự vật hiện diện trong căn phòng của mình, nhưng tôi thấy mãn nguyện vì sự đồng thuận duy ý chí của họ.

Duy chỉ có một điều là không ai có thể thấu hiểu ấy là việc tôi đang dần dần biến mất. So với những lo lắng khác xung quanh tôi thì việc này không quan trọng lắm, vì diễn tiến chậm chạp của nó nhiều lúc làm tôi quên khuấy mất việc nó tồn tại. Nó chỉ xuất hiện khi đột nhiên nó muốn thế, và tôi không có cách nào cưỡng lại được. Không giống như việc người ta già đi theo năm tháng, cơ thể tôi không bị chi phối bởi những tác động ngoại lai, nó có hệ ý thức của riêng nó, nằm ngoài quyền kiểm soát của bản thân tôi cũng như của thời gian. Những thứ như thế vốn đã khó giải thích, lại diễn ra chậm chạp như vòng quay của cuộc đời, khiến tôi mất hết hứng thú tìm hiểu ý nghĩa của việc đó, chấp nhận lời diễn giải của mình về việc đó ngay từ những giây phút đầu tiên, kể từ đó tôi và nó hòa vào nhau trong một không gian chung đồng thuận và vô căn cứ.

Mỗi khi ngắm nhìn những đóa hoa ngoài ban công, tôi đều có cảm giác sự rực rỡ của thời điểm nhất định rồi sẽ lụi tàn, như vòng luẩn quẩn của thời gian, nhưng lụi tàn không có nghĩa là chấm hết, mà là sự khởi đầu cho một vòng quay mới. Các tế bào trong tôi cũng giống như những bông hoa, phân chia, tồn tại rồi chết, mỗi một vòng đời là của chúng là một vòng tôi được gột rửa tinh tươm thành một cơ thể mới, giống như câu nói "không ai có thể tắm cùng trên một dòng sông", sự so sánh dường như khập khiễng nhưng lại có vẻ đúng đắn trong trường hợp này. Khi Jose nói với tôi về những ý nghĩ ám ảnh cậu ấy, tôi mơ hồ nhận ra sự giống và khác nhau giữa những cá thể, nhưng không bao giờ có thể chắc chắn về một điều như thế, chỉ có điều sự tái diễn những vòng lặp lại là không tránh khỏi ở bất cứ con người nào. Nhìn vào bàn tay khập khiễng khiến tôi nhận ra mình đã trải qua những thời gian nào phía sau, và sẽ còn phải tiếp tục với những thứ phía trước, mà không tránh khỏi việc tiếp tục thiếu đi các phần cơ thể. Cho đến giờ phút mà tôi hoàn toàn định lượng được giá trị của mình, thì tôi vẫn còn những phẩm chất mà thế giới cần, bất kể là ai cũng không có quyền xen ngang vào cuộc trao đổi của tôi với thế giới.

Trong một ngày cuối tháng mười hai, bầu trời xám xịt và nặng trĩu như thể chỉ cần giơ tay mình lên là có thể chọc thủng một lỗ cho những hạt mưa rơi xuống, tôi quyết định cắt mái tóc của mình. Từ lúc chuyển tới đây tôi đã luôn giữ mái tóc mình dài như giữ một thứ thiêng liêng trong mối liên hệ với người mẹ quá cố. Nhưng sau những ngày suy nghĩ, tôi quyết định rời bỏ nó như quyết định không còn căn vặn mình về những bộ phận đang dần biến mất nữa. Mái tóc giờ dài đến giữa lưng, hay phủ lên bầu ngực của tôi một màn đen nhánh. Có những thứ người ta không thể nào thay đổi vì nó đã nằm trong chuỗi gene quy định tít sâu trong các tế bào, như màu tóc đen, như con ngươi nâu và màu da vàng, giống như các phẩm chất có sẵn từ lúc mới sinh ra trong các hạt, nhưng thứ ấy theo thời gian được người ta cải tiến, nhưng không bao giờ mất đi vẻ thuần túy của nó. Người thợ cắt tóc dùng kéo cắt đi một khoảng tóc dài, trong khi xuýt xoa vì sao mà sợi tóc lại dày như thế được. Tôi cho rằng những con người sinh ra với mái tóc mềm như mây sẽ không bao giờ hiểu được kết cấu đen nhánh và dày dằn chính là thứ tạo nên vẻ đẹp của tôi, nhưng tôi đã không phản ứng gì vì cơn mưa chợt tới ngoài cửa như tiếc thương cho mái tóc vừa bị cắt đi. Tôi nhìn hình ảnh phản chiếu trong gương của mình, dám chắc rằng mình đã tự tay cắt bớt đi một phần cơ thể, góp phần vào vòng tròn đổi mới của bản thân. Những lọn tóc được tỉa mỏng đi trông hiện đại nhưng cũng không kém phần thanh thoát, tôi vừa lòng với quyết định của mình. Hóa ra dù vẻ ngoài có thay đổi, thì những thứ bạn cảm nhận được từ thế giới vẫn chỉ là một.

Jose và cha đều ngạc nhiên với mái tóc mới của tôi nhưng hai người thể hiện sự ngạc nhiên ấy theo hai cách khác nhau. Cha tôi có kiểu ngạc nhiên thú vị, ông mỉm cười và nói với tôi:

"Cắt đi sức mạnh tinh thần rồi đấy hả con gái!"

Tôi trả lời với ông bằng nụ cười, ẩn chứa câu nói "vâng, con quyết định dứt tung những cái rễ cuối cùng của gốc cây rồi". Còn với Jose, cậu hơi buồn vì nhìn thấy sự thay đổi trong tôi, cậu vẫn khen tôi trông dễ thương với kiểu tóc mới, nhưng mắt cậu thì nói khác, nó bảo rằng nền tảng của tình yêu giữa hai chúng tôi vừa bị tác động. Các giác quan của cậu đánh giá mớm ngửi thấy mùi của sự thay đổi trong không khí, mà cậu biết điểm xuất phát của nó không nằm ở phía bên mình. Để bù đắp cho điều thiếu hụt mà không ai trong ai chúng tôi thấy nhưng vẫn cảm nhận được, thì Jose càng yêu chiều tôi hơn. Cậu dành cả ngày của mình thay vì đi đánh bóng với đội của mình thì cậu ở bên tôi, cùng tôi chăm sóc những bông hoa, đi tìm những đĩa nhạc ở các hàng băng đĩa, nằm dài ở công viên nhỏ đọc những cuốn sách in bằng giấy vàng quăn queo mua ở các tiệm sách cũ... Có một lần khi nghe đến đĩa nhạc Tracy Chapman vừa mua, chúng tôi đang nằm trên giường, bên ngoài trời mưa khiến cả căn phòng tối sầm lại trong sự yên tĩnh, chỉ có đuôi những cái rèm trắng của cửa sổ phòng tôi đung đưa là thể hiện một sự chuyển động. Jose lấy tay vuốt ve lưng tôi đang để trần, cậu hỏi:

"Nếu như tớ có một chiếc Fast Car thì cậu sẽ cùng bỏ đi với tớ chứ?"

Tôi im lắng, lắng nghe bài hát tìm cảm xúc trước khi trả lời câu hỏi của Jose.

You got a fast car

I want a ticket to anywhere

Maybe we make a deal

Maybe together we can get somewhere

Any place is better

Starting from zero got nothing to lose

Maybe we'll make something

Me myself I got nothing to prove

Giọng trầm ấm mà mới nghe không ai đoán được là giọng phụ nữ của Tracy khơi gợi trong tôi một ngọn lửa của sự ham sống, của những sôi nổi đang chờ đón một tâm hồn hãy còn trẻ tuổi, nhưng ở đó - trong bài hát của bà, người con gái buồn bã có mùi hoa cúc đang hứng tóc mình bay bay trước chiếc quạt tầm thường khiến tôi ấn tượng hơn là mong muốn được thoát ra khỏi hiện thực của cô. Tôi không ở trong hoàn cảnh của cô, nhưng nỗi buồn và khát vọng của cô giống như cánh chim phủ kín toàn bộ những tâm hồn trẻ trung. Tôi yêu Jose, tôi yêu cái cách cậu vuốt ve lưng tôi bằng hai ngón trỏ và ngón giữa của mình, tôi yêu cách cậu ấy nghĩ đến tôi khi muốn vượt thoát ra khỏi cuộc sống hiện thực, và yêu cả những ý nghĩ của cậu. Nhưng bên cạnh đó, tôi cũng có những mong muốn của bản thân mình, mặc dù được xây dựng song song với Jose, nhưng có cái gì nói với tôi rằng nó không phải dành cho Jose. Tôi không biết nữa, nếu cậu muốn tôi đi cùng cậu trên chiếc xe của cậu, thì tôi có sẵn sàng?

"Tớ không quyết định được Jose ạ!" - tôi trả lời khi bài hát đi đến điệp khúc của kết thúc. Nhưng câu trả lời của tôi vốn sẽ đánh gục bất cứ người đang yêu nào vẫn phải cất lên bằng sự chân thật của nó, giống như tình yêu,tôi khẳng định với Jose - "Tớ yêu cậu, nhưng tớ không quyết định được."

"Tớ biết! Tớ cũng yêu cậu. Đừng lo lắng, chỉ là một câu hỏi tức thời thôi" - Jose vẫn không ngừng vuốt ve tấm lưng tôi, nhưng ở cái chạm giữa thể xác hai con người chúng tôi xuất hiện một luồng điện lạnh lùng dù rất nhỏ nhưng cả hai đều cảm nhận được. Jose nhìn bề ngoài giống một người đàn ông cứng rắn, nhưng bên trong cậu là một tâm hồn dễ tan chảy như thanh bơ cần phải để trong tủ lạnh. Đấy là cái mà chỉ có tôi mới nhìn ra, còn Jose thì đồng ý cho tôi nhìn vào một cách hoàn toàn.. Chúng tôi lại chìm trong yên lặng, chạy theo những suy nghĩ của riêng mình.

Mọi thứ tưởng chừng như đã được định đoạt trước cho hai đứa chúng tôi, nhưng cuộc sống có những lựa chọn mà chỉ đến khi nó bày ra trước mắt ta thì khó khăn mới ập tới. Chúng tôi chia tay nhau trong sự hụt hẫng và cả những luyến tiếc, nhưng cũng vì chia tay nên mối tình đầu của tôi mới giữ được hình ảnh của nó trong sáng như thế.

Năm học lớp 12 kết thúc đánh dấu cho một mốc mới trên thang phấn đấu của cả hai chúng tôi. Tôi đậu đại học nhưng không phải ở thành phố này, còn Jose thì được học bổng cho những thành tích của cậu ấy khi chơi bóng rổ ở một nơi còn xa hơn cả thành phố có trường đại học của tôi. Chúng tôi không còn cách nào khác phải tạm biệt nhau để đến nhưng nơi tương lai chuẩn bị sẵn ấy, khoảng cách làm trái tim xa xôi, mỗi người tìm ra được con đường và cuộc sống của riêng mình. Tôi không có nhiều điều để nói về giai đoạn thử thách tình yêu trong khoảng cách này, bởi vì nó diễn ra chậm chạp và hầu hết đều bắt nguồn từ những thứ nhỏ nhoi tấn công không trực diện khiến nó rạn nứt, để rồi chúng tôi kết thúc vào một chiều mùa thu, khi tôi hôn một anh chàng vừa hẹn hò trước cửa nhà mình, nơi mà Jose dễ dàng nhìn thấy từ phía cậu ta đang đứng sau khi ngồi trên máy bay bốn tiếng đồng hồ để tới gặp tôi với ý định nối lại những sợi dây đang đứt tung, nhưng kết quả của sự cố gắng lại là làm đứt tung nốt những mảnh lành lặn cuối cùng. Chúng tôi chia tay nhanh chóng và không ai trong hai chúng tôi nhỏ một giọt nước mắt. Nhưng cũng theo cái cách biến mất của tình yêu với Jose, sự tươi trẻ và sức sống hừng hực trong tôi cũng không còn, thay vào đó có cái gì dày dặn và vững chắc được xây dựng nên bằng những lượm lặt chậm rãi và siêng năng của chính tôi. Nó tan biến như các phần cơ thể tôi tan biến, không một dấu vết hay một cảnh báo trước, tất cả những gì tôi làm được chỉ là ngồi tiếc nuối sau khi nó đã biến mất.

11.

Có một việc xảy ra trong thời gian sau khi tôi chia tay với Jose khiến tôi đột nhiên bị hẫng vào trong trạng thái đối cực mà tôi vẫn duy trì hàng ngày kể từ khi theo cha đặt chân đến đất nước này. Chuyện là cô bạn thân của tôi trong trường đại học, từ trước vốn đã có xích mích với một cô gái khác, đến buổi học đầu tiên sau kì nghỉ đông thì họ lao vào nhau như hai con thú dữ mà không có cách nào cản lại. Bắt đầu bằng một câu nói khó chịu của cô gái kia dành cho người bạn tôi - người mà hôm nay tâm trạng cũng không được tốt lắm. Chúng tôi lúc này đang ngồi trong nhà ăn trong giờ nghỉ trưa, cô bạn của tôi - Alicia đã không giữ được bình tĩnh để mình rơi vào một cuộc đấu khẩu không hồi kết. Ở trường đại học, nếu không phải là những người có liên quan đến bạn thì chẳng ai quan tâm chuyện cãi nhau của hai cô gái, cùng lắm chỉ một số người đứng lại xem rồi cũng bỏ đi. Tôi là bạn thân nên hiểu đầu đuôi mối bất hòa giữa hai cô gái, dù chỉ là những thứ nhỏ nhặt nhưng một khi bạn đã không thích một ai đó thì tìm đủ mọi lí do để tiếp tục giữ thái độ ấy. Tôi chỉ còn biết đứng cạnh chứng kiến và thi thoảng giúi vào bắp tay Alice rồi kêu lên: "thôi nào! Đừng chấp cô ta!"

Nhưng có vẻ cả hai không muốn chuyện kết thúc tại đó, họ bắt đầu dùng những từ ngữ thô tục hơn, một số tôi còn không hiểu nghĩa là gì, trong khi dùng tay đẩy vai nhau. Khi tôi chưa kịp định hình lại tình hình thì đã thấy họ lao vào nhau trong tiếng hò hét của đám người xung quanh.

Khi nhìn cảnh tượng hai con người quần đảo trong một giây rất nhanh, màng não bộ của tôi bị chụp một thứ na ná như mặt nạ ô xi, kéo mức hô hấp của tôi xuống mức tối thiểu, và dòng thời gian của tôi bị đẩy ra một không gian khác chậm hơn. Tôi thấy mình đứng ở ngoài cuộc chiến, đứng ở bên cạnh hai thân thể đang quấn vào, cấu xé nhau như hai con thú dữ, nhưng đồng thời tôi cũng thấy mình đang ở giữa cuộc chiến đó và dùng móng tay và răng cố gắng cào xé gương mặt đối phương. Những lời chửi rủa dường như không phải xuất phát từ những cái miệng xinh xắn của con người trôi thành dòng ngang dọc không gian, chới với như trong những poster quảng cáo dán đầy bến xe bus. Mục đích của cuộc chiến đấu trước mặt tôi bị trôi dần vào trong kí ức của sự lãng quên như một dải lụa màu trắng phơi trong gió, như thể thời gian chậm chạp mới chính là thứ giết chết mọi thứ, để rồi tôi băn đầu băn khoăn sự hiện diện của tôi, cũng như của hai người bạn kia ngay lúc này. Tôi chùn chân trước sự tác động mạnh mẽ của thứ kì lạ vừa xảy ra khoảnh khắc ấy, và tôi đã không hề muốn lao vào giúp đỡ bạn - Alicia đang nằm dưới đất giãy giụa ôm đầu che những cú tát tàn bạo từ người phụ nữ ngồi trên. Có cái gì chậm chạp bò lết đi quanh đám đông đứng xem, và cười đùa, và hò hét xung quanh hai cô gái tạo thành một bức tường nhốt họ lại trong sự sống động của hiện thực, để đến nỗi tôi đã không còn nghi ngờ gì mà tin vào mắt mình là tôi đang đứng giữa thế giới con người. Sức mạnh thần bí nào đó gắn kết chúng tôi ở đây để làm tổn thương nhau, tự làm tổn thương chính mình, cũng chính lúc ấy, chúng ta tự tạo ra các sinh linh nhỏ bé hơn để chúng tỏa đi khắp không gian và tiếp tục công việc gây tổn thương ấy.

Sự nghi ngờ của tôi trong thời điểm này khiến tôi nhận ra khoảng cách mà những con người này tạo ra giữa chúng tôi, ở phía bên kia của cuộc đối thoại, chỉ có một mình tôi trơ trọi. Sự cô đơn nảy ra khi tôi chứng kiến hết thảy cuộc chiến đấu mà cô bạn của tôi sắp trở thành kẻ thua cuộc, có cái gì cản trở tôi được ở bên kia bờ vực để đứng chung cùng nhân loại, có cái gì khiến tôi phải quay đầu và thu mình vào trong cái hang lạnh buốt giữa bầu trời tuy của chung nhưng giờ chỉ còn một phần nhỏ là thuộc về tôi. Tôi không phải và cũng không muốn là kẻ có thể tuôn ra những từ ngữ như thế, tôi cũng không thể để mình cào vào mặt người khác những vết xước tướp máu, bởi vì những ngón tay của tôi không lành lặn, và một kẽ hở vừa nứt ra trong tôi đã nuốt chửng tôi vào đó. Tôi hoàn toàn bị cô lập trong cái thế giới hỗn loạn này, đột nhiên tất cả những màu sắc và âm thanh biến mất, một bộ phim đen trắng hiện ra trước mắt tôi, có một bàn tay đầy đủ ngón đang cầm cái cần quay, chầm chậm quay từng cảnh một. Hình ảnh ngôi Đền cũ hiện ra trong một cảnh bất tận nhưng nhàn nhạt như chỉ là hư ảo, ngay phía sau cuộc hỗn loạn của loài người, tỏa ra thứ hào quang lung linh mà tôi chưa bao giờ thấy ở nó. Giống như tôi hãy còn chìm đắm trong một giấc mơ, mắt tôi vượt qua những mái đầu để hạ cánh lên tầng chóp nhọn của ngôi Đền, vuốt ve bốn bức vách hãy còn ẩm ướt vì sương, mọi âm thanh chìm đi, chỉ còn mùi hương là lan tỏa. Tôi ngửi thấy mùi nhang vung ra bốn bề không gian, xuyên thẳng vào tâm trí tôi cái huyễn hoặc của vô tri khiến tôi bất động trong tư thế ngước lên hướng về phía thứ ánh sáng tỏa ra ấy. Tâm trí tôi bị lấn át thành một màu trắng nhàn nhạt của vỏ trứng, trơn tru và sạch sẽ, chạy băng băng qua tất cả những nẻo đường ở cả phía trước và phía sau. Những thứ đã ngủ quên trong tôi bừng tỉnh giấc trong sự nở độ của minh tuệ, có cái gì đánh thức chúng, ngay trong điểm chói của vầng hào quang tỏa ra từ ngôi Đền, tôi thấy mình được thanh tẩy. Tất thảy những thứ xung quanh đã không còn giá trị, tôi không muốn trở lại là mình ở thời điểm đứng giữa cuộc tranh giành của hai con người dưới kia, tôi không muốn ngang hàng với họ, không muốn biến thành những nanh vuốt mà họ đang giương ra. Có cái gì trong tôi sôi sục và kiên quyết, cố định sự cứng rắn của bản thân mình vào bản lề cánh cửa ngoài ngôi Đền. Tôi chưa từng bước vào trong ngôi Đền, cũng không có ý định ấy, nhưng một lực thúc nhẹ vào lưng khiến bàn chân tôi cất bước - tôi phải vào được trong ấy, có thứ đợi tôi ở đằng sau cánh cửa gỗ lâu ngày ngấm nước đen sì. Tiếng người hoan hỉ công kênh tôi lên một tầng ngay trên mặt đất, nơi tôi vừa mới đứng, khi này lực hút trái đất không còn kiềm hãm được cái ngông cuồng trong cơ thể đang tỏa ra thứ năng lượng gần như đồng nhất với vầng hào quang mà ngôi Đền tỏa ta. Bàn tay thiếu hai ngón của tôi giơ lên, ngang tầm với khuôn mặt và điểm phát ra thứ ánh sáng của ngôi Đền, rồi cả bàn tay hóa thành muôn vàn những hạt bong bóng nhỏ xíu cỡ mắt cá, sủi tăm và cứ thế nổ tan vào trong không khí.Nhưng tôi đã không còn giữ cho mình sự ngạc nhiên giống như những lần đầu tiên khi phát hiện cơ thể mình dần dần tan biến, lần này, một phần trong tôi toát ra vẻ sự thỏa mãn tột độ khi bàn tay mình tan vào không khí ngay trước mắt mình. Cảm giác như tôi vừa thực hiện một nghi lễ tôn giáo mà chỉ có bản thân tôi và vị thần của tôi chứng kiến, những dục vọng, những cao trào phun ra như miệng ngọn núi lửa lâu ngày lãnh đạm. Những mạch máu chảy trong huyết quả của tôi mang theo chất adrenalin hưng phấn chiếm lấy toàn bộ cơ thể khiến nó run rẩy như vừa đón nhận nước thánh người trên ban cho. Nhưng ở phần cục diện, tôi vẫn là người nắm giữ quyền kiểm soát mọi tình cảm ngông cuồng ấy, tôi biết vị thần của tôi không ở đâu xa mà trong chính tôi. Bản thân tôi là hạt giống nảy nở ra thứ tín ngưỡng kì quái mà đến nay tôi mới chịu khuất phục, mùi nhang của ngôi Đền đã đánh thức thứ đã ngủ quên dậy, cho nó ăn và âm thầm dưỡng nó lớn mạnh để đến bên tôi, nhận lấy những đồ hiến tế thần thánh. Thứ tôi đang nhìn vào giờ không chỉ đơn giản là hình dạng của ngôi Đền, mà nó là hình ảnh phản chiếu tâm hồn tôi, một bản chất duy vật nhưng kiêu ngạo tự đứng lên đòi hỏi sự hy sinh để tạo nên thánh tích. Tôi cứ thế chìm đắm trong cái ý nghĩ về bản thân mình cho đến khi một tiếng hét la lên làm tôi bừng tỉnh, ánh sáng phát ra từ ngôi Đền tắm ngấm. Alice bị cô gái kia quật ngã xuống sàn và đè lên người, cô ta nắm chặt mái tóc xoăn của Alice mà kéo mạnh. Tôi hãy còn lâng lâng trong khoái cảm như người vừa được khai sáng, chạy vào và hất cô gái ra. Cùng lúc đó các giám thị cũng tiến vào giải tán đám đông.

Sau đó, tất nhiên Alice giận tôi, cô trách tôi không bảo vệ cô trước cuộc tấn công của cô gái kia. Tôi không tìm được lời giải thích, đành buông xuôi trong tình cảnh ấy. Mối quan hệ của giữa tôi và cô, cũng như của tôi và Jose nhanh chóng tan biến vào trong hư vô, cái chúng tôi không tìm thấy ở nhau là sự chia sẻ và đồng cảm. Tôi không trách Alice vì đã không tiến sâu hơn vào cái tôi hiện hữu của mình, và thầm cầu mong cô cũng không oán trách mình.

Nhưng cũng từ đó cơn sóng ngầm trong tôi trỗi dậy như minh chứng của việc trưởng thành. Những màu sắc cũ và màu sắc mới hòa tan vào nhau thành một màu trầm hơn tuy hãy còn giữ được những sắc độ riêng biệt. Tôi không còn quan tâm đến cách người ta nhìn vào mình, hay người ta nhận xét về mình, tôi tự do thể hiện bản thân tôi như một tảng đá đã trải qua sự bào mòn của giông tố và mưa bão. Sự ưa thích tìm hiểu dần bị mất đi trong những sinh hoạt hàng ngày luôn đòi hỏi những kĩ năng khác nhau về sự khéo léo, tôi để mình vượt ra khỏi phạm vi của một thanh niên, tiến vào địa phận của những người đã thấy biết thế nào là đủ. Sự thay đổi diễn ra chậm chạp nhưng không phải là không thể nhận thấy, tôi dành thời gian để nghĩ về tương lai với sự lo lắng rất bản năng, hơn là nghĩ về những kỉ niệm cũ kĩ. Tuy thế,tôi lại thường xuyên nghĩ về ngôi Đền và cố tìm hiểu cái giá trị cụ thể của nó cũng như phạm vi ảnh hưởng của nó với mình. Với Văn, ấy là thứ ảnh hưởng tốt, còn với ngôi Đền, một thứ ám thị kì lạ mà tôi chưa từng nhận thức nó vẫn ngự trị trong tâm trí mình. Chỉ cho tới khi tôi nhìn thấy ánh hào quang của nó, tôi mới phát hiện ra rằng nó đã ăn sâu vào tiềm thức tôi và bắt đầu chôn những rễ của mình xuống dưới. Hình dáng của ngôi Đền - trong ý nghĩ của tôi giống như hình dáng được tạo ra để thu hút sự chú ý và niềm ngưỡng vọng của tôi, và ngược lại, chính bản thân tôi cũng thu hút ánh sáng của ngôi Đền ấy. Nó phản ánh trí nhớ của tôi về những đặc điểm mà đã gần 6 năm trôi qua những hãy còn như mới, dù cho sự khuất phục ở một thế giới mới đã chiếm ngự lấy tâm hồn tôi. Nhưng dáng vẻ của ngôi Đền dần trộn lẫn vào trong ý thức mà tôi muốn nó trở thành, còn chính tôi lại như những hạt sỏi dưới nền móng nâng nó lên trên tầm cao mà ngọn đồi không thể nào chạm tới. Dưới sức nặng của sự thành kính, tôi thấy mình lạc lối trong chính những thứ mà mình xây dựng, như hình ảnh của cha tôi, của Jose và của Văn - những người đàn ông của tôi trộn lẫn vào trong tất cả những ý thức còn sót lại thành những dải màu sắc. Thế giới trước mắt tôi bỗng nhiên mờ đi, các mảng màu bắt đầu rạn ra rồi rơi rụng lả tả, ánh sáng mặt trời chiếu vào chỉ đủ soi tỏ những đường nứt gãy xấu xí của nó. Một đường gãy lớn cắt ngang mặt phẳng chứa đựng tôi, cách li tôi với những phần còn lại, giống như tảng băng trôi giữa biển lạnh, gió cắt thịt thổi vù qua đỉnh đầu khiến cơ thể tôi đông đặc lại trong nỗ lực vùng vậy cuối cùng.

Thế là tôi thử tìm kiếm thứ mà tôi bỏ lỡ bằng cách đi tới các nhà Thờ, nhà Nguyện, mặc dù tôi và cha tôi không theo Đạo giáo nào nhưng tôi vẫn biết cách hành xử ở những nơi như thế. Khi ngồi một mình trong tiếng âm vang vẳng lại từ những hành động nhỏ nhất trong bốn bức tường cao vút của nhà Thờ, cái tôi tìm kiếm bỗng trốn biệt đi, tôi cố gắng tiếp cận nó, thuyết phục nó chấp nhận và nói chuyện với mình nhưng nó không còn ở đấy nữa. Sự kì vĩ và trầm lặng của nơi này không phù hợp chăng?, nhưng tôi không còn lựa chọn nào khác, vẫn một tuần đi tới nhà Thờ một lần để kiểm nghiệm và suy nghĩ về những thứ diễn ra trong mình.

12.

Lúc này tôi đã không còn ở với cha mình vì trường đại học của tôi không cùng một thành phố. Cha vẫn thường gọi điện cho tôi hàng tuần, hỏi han tình hình và nói nếu tôi thiếu tiền thì đừng ngại gọi cho ông. Các đồng nghiệp giới thiệu cho cha tôi một người phụ nữ là thư kí của Viện, tầm tuổi và chưa lập gia đình, hai người sau gần hai năm tìm hiểu, đã dọn vào ở chung. Tôi rất mừng vì đã có người chăm sóc ông thay tôi, hơn nữa người phụ nữ ấy cũng đáng mến, bà ta mến mộ kiến thức của cha và không để ý đến những khác biệt văn hóa giữa hai người. Hạnh phúc của cha là thứ mà tôi đặt lên hàng đầu trong cuộc đời này khi mà tôi chưa tự tìm ra được mục đích tiến bước của cuộc đời mình, đặc biệt sau sự nhận thức giữa trận ẩu đả của Alice và cô gái cùng trường, có cái gì trong tôi sống dậy nhưng đồng thời nó cũng lấy mất đi một vài thứ. Tôi bắt đầu tự hỏi những câu hỏi mà các triết gia trên thế giới này đều tự hỏi : tôi là ai?, tại sao tôi lại ở đây?... nhưng chính cái kết quả của việc tìm kiếm đã làm thất vọng họ, nó cũng đánh gục ý chí của tôi, ru tôi ngủ trong cái nôi trôi nổi giữa đám đông, tôi có cảm giác mình là một đứa trẻ chưa thôi nôi một lần nữa, không hiểu cả những thứ đơn giản xung quanh mình. Tôi đồ rằng mình đã tiến quá chậm trong quá trình tiến hóa, dù cho tôi già hơn những hai năm so với những người bạn khác, nhưng không có nghĩa là tôi tìm được đích đến nhanh hơn họ. Tôi cũng như họ, luẩn quẩn trong vòng cuộc sống học - ăn - làm việc-...mà nếu nó có kết thúc ngay bây giờ cũng không làm tôi thấy sung sướng. Tính tình tôi trầm đi, không còn là đám hoa nở trên ban công căn hộ hai cha con khi nào, nó là kết quả của sự xáo động giữa cái cũ và cái mới, tựa như tôi đã chán ngán trong cuộc cải cách mở rộng bản thân, giờ chỉ muốn giữ mọi thứ được cân bằng.

Tôi xin làm phục vụ ở một nhà hàng để trang trải tiền sinh hoạt phí, do đó tôi không cần phải xin tiền từ cha. Chuyện này làm cả hai dễ chịu hơn trong các cuộc nói chuyện và duy trì tính độc lập và ngang bằng trong một mối quan hệ như những người bạn. Cha tôi là một người cấp tiến, ông chấp nhận sự trưởng thành của tôi và tôn trọng nó, khiến tôi thấy an tâm hơn trong các cuộc tranh luận khi biết trước rằng ông sẽ lắng nghe ý kiến của mình một cách nghiêm túc. Tôi đi làm sau khi tan lớp học buổi sáng, 3 giờ chiều đến 11 giờ đêm. Điều làm tôi thích thú ở công việc này là tôi không phải thể hiện bản thân mình trong khi vẫn quan sát được những người khác. Dạo gần đây khi tôi nghĩ đến chuyện viết lách một cái gì đó, thì tôi nhận thấy mình cần phải dành thời gian để quan sát gương mặt những con người khác nhau, việc làm bồi bàn giúp tôi rất nhiều trong chuyện ấy. Khi tôi tan ca làm, ngồi trên tàu điện ngầm, tôi sẽ cố phác thảo lại những gương mặt tôi có ấn tượng trong ngày hôm nay bằng từ ngữ. Con người có rất nhiều kiểu thông minh, người thì có hứng thú với các con số, người lại có khả năng trong ngôn ngữ, người lại khá trong việc điều hòa từ ngữ. Tôi nhận ra mình hợp với các con chữ, và dùng thời gian vô hại của mình để trau chuốt nó. Mỗi khi đọc được trong một cuốn sách nào có một từ thật hay thì tôi ghi nhớ lại, hoặc chép ra một cuốn sổ tay để phòng trường hợp mình cần đến. Nó làm tôi xao lãng trong một cảm giác ấm êm giả tạo một thời gian. Chuyên ngành ở trường đại học vốn là kinh tế, những thứ quá hiện thực, quá chốc lát dành cho những cái đầu lạnh và những suy nghĩ mạch lạc. Nhưng chỉ khi trải qua những trải nghiệm thực sự của cuộc sống, mà bao gồm cả những suy nghĩ đến tự thân từ các sự kiện, dù rằng rất nhỏ thôi, nhưng tác động của nó lên một con người thì không thể nào đánh giá nổi. Và tôi muốn trở thành một nhà văn sau những trải nghiệm ấy. Nó giống như một cuộc trốn tìm của trẻ con, không dễ cũng không khó, chỉ cần đến trong thời điểm đúng là sẽ bắt gặp mái đầu của người đang trốn thò ra trông ngóng người đi tìm. Cái khó là khi có cơ hôi, các giác quan của ta có đủ mạnh mẽ và tinh tế để nhìn thấy nó hay không?, hay ta cứ lu mờ đi trong những kí ức vốn đã được sắp đặt cho một hiện thực và tương lai băng băng trên một đường thẳng. Tỷ dụ như nếu tôi không thay đổi những nơi chốn để tìm kiếm bản thân mình, thì tôi có tìm ra chính mình, hoặc giả cha tôi nếu không được hòa mình vào trong công việc nghiên cứu của mình, thì ông có thanh thản cho đến tận tầm tuổi này? Tôi cứ miên man nghĩ về hết những thứ giả thuyết nửa khoa học nửa triết lí ấy cho đến tận lúc về đến nhà trên chuyến tàu điện ngầm lúc 12 giờ sau giờ làm việc. Từ chỗ làm tôi chỉ mất khoảng hai mươi phút ngồi tàu cộng thêm 10 phút đi bộ là tới nhà. Tôi và bạn trai -Han thuê một căn hộ một phòng ngủ ở phía ngoài trung tâm cũng được nửa năm. Căn hộ rộng rãi và đầy đủ tiện nghi cho một cặp đôi.

Khi mở cửa để vào nhà, bạn trai tôi vẫn đang ngồi làm việc trên chiếc bàn ngoài phòng khách, anh ta là kiến trúc sư. Tôi đánh tiếng chào, Han ừm hữm trả lời không ngẩng lên nhìn.

"Trời mưa hả em?"

"Vâng, mưa chút chút! Nhưng cũng đủ làm 10 phút đi bộ trở nên ướt sũng!"

Lúc trước khi tôi xong việc ở quán còn không có một giọt mưa nào, ấy thế mà khi vừa bước ra khỏi tàu điện ngầm đột nhiên một cơn mưa ập đến chờ sẵn tôi để bắt tôi phải chịu đựng sự sỗ sàng của nó. Mưa không lớn nhưng dai dẳng và lạnh buốt, giờ đã là tháng ba nhưng thời tiết có vẻ như chưa muốn ấm lên.

"Em đi tắm đi không cảm lạnh"

Han nói mà vẫn không nhìn về phía tôi để xem bạn gái anh ta ướt thảm thương như thế nào, đấy là cái điều tôi vẫn không quen được khi ở bên cạnh anh ta, nhưng đồng thời cũng là thứ lôi cuốn sức chịu đựng của tôi. Han là người Trung Quốc nhưng sinh ra ở Mỹ. Gia đình anh ta chuyển đến New York từ những năm 70, nhờ buôn bán dần trở nên khá giả. Anh ta là con thứ trong gia đình, đi học đại học và làm việc luôn ở đây. Tôi gặp Han trong một buổi giao lưu các khóa học ở trường đại học, anh ta học trước tôi 5 khóa, ra trường từ lâu. Vì cùng là người Châu Á nên chúng tôi được bạn bè giới thiệu cho nhau, ngay lúc ấy ấn tượng của cả hai đều mờ nhạt nên không có chuyện gì sau đấy, chỉ đến khi Han tình cờ xuất hiện ở chỗ tôi làm thêm lần đầu tiên - phục vụ quán cà phê ở gần trường đại học thì chúng tôi mới thực sự bắt đầu một mối quan hệ. Han chỉ nhỉnh hơn tôi một cái đầu, nhưng trí tiến thủ của anh ta làm tôi kinh ngạc. Chưa bao giờ tôi gặp một người nào có lòng quyết tâm lớn đến như thế. Nói không chừng chỉ cần tôi- bạn gái của anh ta gây cản trở đến sự nghiệp thì anh ta sẽ đá ngay không cần thêm một lần chớp mắt. Ở bên Han, tôi không có cảm giác vui vẻ đầy màu sắc như khi ở bên Jose, vì cả hai chúng tôi đều đã trưởng thành trong cuộc sống chăng?, thi thoảng tôi có đem hai người ra so sánh trong thâm tâm, cũng như lúc tôi đem Jose mà so sánh với Văn. Hơn thế nữa, thứ cảm giác chông chênh đến từ phía Han luôn khiến tôi khổ sở, nhưng nó lại là nguyên nhân cho nguồn cơn quỵ lụy ái tình của mình.

Trong khi xối nước nóng vào người, những cơn ớn lạnh mới nãy còn nổi dầy lên dưới da tôi dần dần tan biến, tôi nghĩ về những khả năng mà mình muốn tiếp tục với Han. Lần thứ hai gặp nhau ở quán cà phê ấy, Han đã nhận ra tôi trước tiên. Ở trường đại học có khá đông người Châu Á, cùng một kiểu tóc đen mắt nâu và da vàng, nhưng người Trung Quốc, người Việt, người Nhật hay Thái Lan, Indo đều dễ nhận ra như người Châu Âu dễ nhận ra người Ý, người Anh, người Na Uy hay người Pháp. Khi Han bước vào cùng một người bạn, tôi không nhận ra ngay rằng chúng tôi đã được giới thiệu ở buổi kỉ niệm thành lập trường, tôi mang quyển menu ra mỉm cười chào họ và chờ đợi họ gọi đồ.

"Em là Hoàn - hôm thành lập trường chúng ta đã gặp nhau đúng không nhỉ?" - anh ta ngẩng lên nhìn thẳng vào mắt tôi không có một chút ngập ngừng trong giọng nói, khiến những người bạn đi cùng đều ngước lên nhìn tôi chờ đợi câu trả lời.

"Ưm....À, vâng, em nhớ ra rồi. Anh là Han học khoa kiến trúc đúng không?"

"Em vẫn nhớ nhỉ! Gặp nhau thế này hóa ra lại hay"

"Dù là người quen em cũng không giảm giá cà phê đâu nhé!" - tôi nặn ra một nụ cười điểm cho câu bông đùa nhạt nhẽo của mình, cố làm ra vẻ hấp dẫn trước mặt cả bốn người đàn ông.

"Ôi, thế cho anh một cốc cafe Americano đi, nhưng cốc nhỏ thôi, vì anh chẳng được giảm giá." - Han làm bộ mặt suy nghĩ, hùa theo câu đùa của tôi.

Hóa ra cả hai chúng tôi đều không có một chút nào khiếu hài hước, nhưng cũng may điều ấy không làm ảnh hưởng lắm đến chuyện sau khi kết thúc trò chuyện với đám bạn, Han trước khi rời đi cũng xin phép được lấy số điện thoại của tôi - "để em tiện liên lạc khi có cà phê giảm giá" - anh ta nói thế.

Han tỏ ra là một người khá khẩm trong việc làm tôi dễ chịu với những bài vở và cuộc sống riêng tư của mình. Nhưng tất cả điều đó không làm sao che giấu đi cái tính ngạo mạn kiêu căng của anh ta với cuộc sống và với những người xung quanh. Gia đình anh ta giàu có, cuộc sống anh ta đầy đủ và anh ta có năng khiếu trong công việc của mình là những nền tảng sắp đặt một vẻ ngoài hoàn hảo cho đối tác mới của tôi trong công việc tìm kiếm tình yêu. Trừ những lúc tôi quên mất tôi là ai, thì tôi thấy khó chịu trước những lời nhận xét của Han về người khác, cũng như việc anh ta dùng tiền của mình để mua chuộc những người bạn và cả tình yêu. Ở bên Han, tôi không thấy được mình là chính mình, nhưng cũng không sao tự thoát ra khỏi ràng buộc ấy. Tôi không cần tiền của anh ta, hẳn nhiên là thế, cũng không tôn trọng anh ta ở mức cần thiết, nhưng có cái gì cứ dán tôi chặt vào vòng luẩn quẩn ấy. Khi thì tôi da diết đến độ cứ giữ chặt lấy khuôn mặt Han mà đặt vào đó hàng ngàn nụ hôn, khi lại thờ ơ đến độ không cả nhận những cuộc gọi. Tôi không biết tất cả những điều ấy có làm Han bận tâm không vì anh ta vẫn ở bên tôi trong tất cả mọi hoàn cảnh mặc dù vẫn ném cho đối phương cái cảm giác anh ta sẵn sàng rời bỏ tôi bất cứ lúc nào.

Chúng tôi dọn về ở chung khi hợp đồng thuê nhà cũ của tôi tới hạn và người chủ nhà không muốn gia hạn hợp đồng vì sắp bán căn nhà đi. Khi tôi đang loay hoay với những thông tin cho thuê nhà thì Han đề nghị dọn đến ở chung với anh. Tôi đã không có lí do gì để từ chối mặc dù tôi không biết mình có thực sự muốn như thế.

Sau khi tắm, tôi ra bếp làm cho mình một cái sandwich, nhân tiện pha một cốc trà bạc hà đem ra chỗ sô pha Han đang làm việc đưa cho anh ta.

"Hôm nay của anh thế nào?"

Lúc này Han mới thực sự ngừng làm việc trên các bản vẽ, ngẩng lên nhận cốc trà tôi đưa và ngắm một lượt thân hình còn đang ướt nước của tôi.

"Hơi mệt! Dự án đã được chấp thuận. Tuần sau bắt đầu triển khai. Còn em, công việc thế nào?"

"Như mọi khi thôi: nhận order, bưng bê, dọn dẹp..." - tôi nhún vai trước khi bắt đầu tấn công miếng bánh của mình.

Với Han, việc như mọi khi của tôi chỉ có chừng đấy. Những thứ khác anh ta không quan tâm, hoặc cũng không có hứng thú. Tỉ như việc viết lách của tôi, tôi đã không nói cho bất cứ ai, bởi tôi biết cái người ta nhìn vào khác xa cái tôi muốn trình bày. Đặc biệt với Han, những ý định của tôi thường không được đánh giá đúng mức mà các cặp đôi khác luôn dành cho nhau cộng thêm cả tinh thần khích lệ. Với Han tôi chẳng là gì ngoài một cô gái bình thường, có công việc bình thường, học hành bình thường và có những suy nghĩ bình thường. Tất cả những thứ vượt ra ngoài phạm vi bình thường ấy chỉ còn là ý thích nhất thời và sẽ tan biến sau một thời gian. Còn đối với những đánh giá của người khác dành cho bản thân mình, Han yêu cầu nó luôn luôn ở ngưỡng xuất sắc, tất nhiên không ai đánh giá thấp anh ta, chính anh ta không cho phép bản thân tự đánh giá thấp mình và luôn tự hào về điều đó. Chính cái suy nghĩ ấy của Han là thứ đối nghịch với sự khiêm tốn mà cha tôi thường nói đó là nền tảng của một cá nhân tốt. Lẽ tất yếu là tốt không đồng nghĩa với kiệt xuất, nhưng cái mà không có tài năng nào chạm tới được ấy là một tổng thể Tốt. Cha tôi từng gặp Han khi ông tới thăm tôi trong lần đi công tác gần đây nhất của mình là khoảng bốn tháng trước, từ lúc chúng tôi vừa mới quen nhau. Sau đó trong bữa ăn tối riêng của hai chúng tôi, trước khi ông về lại thành phố của mình, ông nói khi tôi hỏi ông thấy Han thế nào:

"Cha đánh giá cao tài năng của cậu ta!"

Ý ông là ngoài tài năng ra thì cậu ta chẳng có gì. Tôi hiểu điều ông nói, chính tôi cũng đánh giá Han là người chỉ có tài năng, nhưng lời nói có sức mạnh của cha vẫn làm tôi băn khoăn mỗi khi tôi bị lung lay bởi ý chí của chính mình.

"Đừng để ý lời ta nói! Với kinh nghiệm ở bên con hơn hai mươi năm, ta tự tin khả năng của con ở tất cả các lĩnh vực" - cha tôi nói khi thấy khuôn mặt tôi bị lung lay trước câu nói ban đầu của mình. Ông còn nháy mắt và mỉm cười như phong cách một quý ông Mỹ khiến tôi bật cười.

Đúng là thế, tôi vẫn luôn tự tin vào cảm giác mà tôi bị ảnh hưởng bởi người khác, và từ những cảm giác ấy tôi biết được tôi cần gì ở ai. Điển hình như Văn và Jose, những người có ảnh hưởng tốt lên tôi, khiến tôi trưởng thành hơn và yêu họ theo những cảm giác khác nhau tuy cùng một cách thức. Tuy nhiên với Han thì hoàn toàn khác, có những thứ ở anh ta vừa khiến tôi ghê tởm lại vừa khiến tôi thích thú. Đấy có thể coi là tính hấp dẫn ở một người đàn ông chăng? Tôi biết có những người đàn ông có bản tính không tốt đẹp, có những người đàn ông xấu xí vẻ bề ngoài nhưng vẫn tỏa ra một lực cuốn hút mạnh mẽ với người khác giới. Giống như vậy, tôi bị Han hấp dẫn mặc dù cảm xúc của tôi luôn luôn bị tác động bởi những suy nghĩ tự hạ thấp bản thân. Với tôi, anh ta như vị vua ngồi trên ngai vàng của mình, giơ bàn tay cho kẻ đang quỳ dưới chân mình và kẻ đó - không ai khác chính là tôi giữ lấy nó xiết chặt như trái tim của mình mà hôn hít, mà thở vào đó những luồng khí đam mê.

Có đôi lúc, khi chúng tôi kết thúc một cuộc truy hoan xác thịt, một cảm giác kinh tởm như thứ nhầy nhụa trên da con cóc cứ bám dính lấy cổ họng tôi khiến nó không sao mở ra được. Cảnh vật xung quanh vốn rất đỗi quen thuộc cũng trở nên nhơ nhớp và bẩn thỉu, như cách yêu nhau trong mắt những kẻ cuồng tín hoặc những kẻ nghiện ngập trong các bộ phim của Quentin Tarantino. Cơ thể tôi trở nên kì lạ với chính tôi, tôi nhìn nó với cái nhìn của kẻ xa lạ và cảm giác muốn nhổ vào đó một bãi nước bọt cứ dâng lên trong tôi. Những bộ phận cơ thể thiếu sót - mà hiện giờ đã lan đến tận bả vai cứ hiện rõ mồn một ra trước thứ ánh sáng quái dị trong con mắt của kẻ thờ ơ. Tôi phải cắn chặt hai răng để kìm giữ một cơn nức nở cuộn lên từ chỗ nào trong sâu thẳm mà tôi không thể hình dung được. Cho đến mãi những ngày sau đó tôi vẫn còn không thoát ra được cảm giác nhớp nháp ấy.

Nhưng chỉ không đầy một tuần sau, cảm giác trống vắng trong tôi khiến tôi không tự chủ được bản thân. Tôi không gọi cho anh ta, thì anh ta cũng không cần biết đến sự tồn tại của tôi. Nhưng cái cách anh ta thờ ơ giống như một cơn gió mùa mát mẻ và dễ chịu, không cần phải cố gắng vì nó đã ở sẵn ở đó, và chính thế nó lại càng làm cho tôi phát điên lên trong sự tuyệt vọng, bởi khi tôi cố tỏ ra thờ ơ, thì ngọn lửa dưới đáy của nó càng trở nên điên cuồng hun cháy tất cả những cố gắng cho sự lãng quên. Thành ra, sau mỗi lần tôi lại là người chủ động liên lạc trước, nhưng khi nghe thấy giọng nói bình thản của Han : "em đấy à", cơn cuồng nộ với bản thân vừa bị dập tắt lại lập tức bùng lên không cách nào kiểm soát.

Trong thời gian trước khi dọn vào ở chung, tôi đã không làm được bất cứ thứ gì một cách tử tế vì cứ mãi bị đánh bật ra khỏi vị trí vững chãi của mình để quay cuồng trong trò chơi tình ái của chính mình. Tôi không hiểu vì sao một người lại có thể biến sự lãnh đạm của mình thành tình cảm ấm nóng cho một người khác. Tôi gần như tuyệt vọng với tình trạng của mình, nhưng những người xung quanh tôi không bao giờ nhìn thấy được điều đó. Đối với tôi, thứ tình yêu đó không phải là thử thách hay bức màn tuyệt đẹp mà người ta thường nói khi nói đến tình yêu nữa, nó giống như cuộc tra tấn thể xác lẫn tâm hồn dành cho những kẻ yếu bóng vía. Và tôi là kẻ đã quỳ gối chịu thua nó như một kẻ hèn nhát. Tôi ghét bản thân mình, ghét kẻ gây ra điều ấy, ghét cả cái thứ tình yêu quý quái đang diễn ra này. Các cô gái khi bị dìm cho tinh thần ướt đẫm nỗi cô đơn sẵn sàng bán rẻ lòng tự trọng của mình cho những kẻ xấu đến độ chấp nhận những cú đánh đập về thể xác, còn tôi, tôi cô đơn, nhưng vẫn tự coi mình là kẻ cao ngạo để không bước vào con đường cần bán rẻ bản thân mình. Nhưng tôi vẫn không sao thoát ra khỏi mối quan hệ dựa trên hai vật chất không cân bằng đến như thế! Tôi không còn cách nào khác ngoài tự trách sự yếu đuối của bản thân, và khóc thầm trong những đêm dài chờ đợi một sự biến chuyển mới trong mối quan hệ này.

Khi Han đề nghị tôi chuyển đến sống cùng anh ta, trái tim tôi như vỡ làm đôi. Có cái gì vừa đúng lại vừa không đúng trong lời đề nghị ấy. Nó vừa giống như cơn sét đánh tan chỏm núi hãy còn tươi xanh, tét đôi nó thành hai mảnh ngả về hai phía. Một bên trong tôi vui mừng đến phát khóc vì những lần hạ thấp bản thân cầu xin tình yêu của mình cuối cùng cũng cho ra một kết quả, một mặt khác tôi lại quá hãi hùng trước việc phải chung sống với kẻ thù của lòng kiêu hãnh. Tôi không biết mình rồi sẽ bước tiếp con đường nào, cảm giác của tôi sẽ nghiêng về phía bên nào nhiều hơn, tôi sẽ tiếp tục phục tùng ông chủ hay sẽ lật bàn mà trốn đi. Những ý nghĩ dồn dập đến trong khi mái đầu của Han xục xạo phía dưới cơ thể.

13.

Khi tôi làm chuyển sang làm phục vụ ở tiệm ăn này, tôi có cơ hội được tiếp xúc với đủ loại thành phần xã hội. Duy chỉ có một loại làm tôi thấy hứng thú hơn tất thảy, ấy là những cô gái mà thân mình toát ra làn không khí bất chấp tất cả mọi thứ xung quanh. Tôi đánh giá những con người xuất hiện ở nhà hàng của tôi dựa trên tiêu chí chủ quan, tức là dùng căn cứ của những nhận định được nhào nặn từ những góc nhìn thẩm mỹ, những kiến thức, sự giáo dục của gia đình, đặc biệt là cảm quan. Trên tất cả những thứ ấy là cái tôi cá nhân của một người phụ nữ, tôi thường chú ý đến những người phụ nữ và đánh giá họ đúng hơn là với đàn ông. Mỗi một kiểu tóc, một trang phục, cách mở miệng, cái máy mắt...cũng đều có một ý nghĩa nào đó trong tính cách cá nhân ấy. Chính thế nên tôi kết luận sau khi quan sát hết thảy các loại phụ nữ từng bước vào tiệm ăn này rằng loại phụ nữ mà tôi thích, đúng hơn là ngưỡng mộ vì tôi biết mình không bao giờ có thể trở thành, ấy là người khoe được sự thờ ơ của bản thân ra trước thế giới. Gương mặt của các cô ấy có thể xinh, có thể không, thân hình gầy mập khác nhau, nhưng đều có sức cuốn hút người khác phái mãnh liệt. Tất cả không nằm ở vẻ ngoài, cũng không nằm ở tâm hồn hay tính cách, nó nằm ở tinh thần của họ. Điều ấy làm họ trở nên đặc biệt và có cái gì quá đỗi quyến rũ đối với tôi - một cô gái ngày này qua ngày khác tự dằn vặt bản thân vì không biết rằng mình có hành xử đúng đắn khi chấp nhận ở bên một người đàn ông không đem lại sự tự tin cho mình. Tôi ngắm nhìn các cô gái ấy không chán mắt, tìm đủ mọi cách tiếp cận để được họ mở một lời. Nhưng cái ánh mắt chán chường đến độ không có thứ gì lọt vào tầm mắt họ vừa khiến tôi tủi thân, lại vừa khiến tôi vui mừng. Kể cả khi ngồi trước người yêu - người chồng, họ cũng chỉ tỏ một thái độ đó : "ôi, anh thì có gì quan trọng chứ! Tôi không quan tâm anh cũng như chẳng quan tâm cả thế giới này!". Tôi không biết thực sự trong họ đang nghĩ những điều gì, không biết họ có đau đớn vì tình yêu, vì việc kiếm sống mỗi ngày và vì những giây phút không vừa ý trong cuộc sống không, nên tôi cứ liều mà cho rằng họ là những kẻ vui vẻ hơn bất cứ ai trên hành tinh này. Thế đấy, tôi thích họ bởi vì tôi không thể nào tỏ ra mình không quan tâm, đặc biệt với những thứ xung quanh tôi. Tôi thích họ vì tôi - với tất cả những thứ nhạy cảm của mình, đã không chống đỡ được nỗi buồn của cả thế giới đổ ụp lên đầu tôi và tôi tự nhiên biến nó thành cơn đau buồn của chính mình, và chỉ riêng của mình. Tôi thích họ bởi tôi không thể nào bỏ qua quá khứ, cũng như nhìn về tương lai để xây dựng một sự nghiệp thích hợp, dạng như chung sống với một người đàn ông, sinh con và hưởng hạnh phúc, không, tôi cứ mãi dằn vặt mình về một sợi mỏng cảm xúc nào đó đã qua mà tôi còn không chắc đối tượng gây ra nó có cảm thấy nó. Tôi thích họ bởi dù cho cơ thể họ có tan biến thành từng phần như tôi đi chăng nữa thì họ cũng không có vẻ gì tiếc nuối chúng, còn tôi hẵng mãi mê mải với những hoài niệm và bi thương mỗi khi một phần nào đó biến mất. Cái làm tôi không giống họ chính là tôi cứ mãi quên bản thân mình cũng đang dự một phần vào trong thế giới này.

Nhà hàng tôi làm việc có không khí sang trọng với nhân viên mặc đồng phục đen trắng, luôn luôn mỉm cười khi kéo ghế cho khách ngồi. Tôi phục vụ bàn từ số mười hai đến số mười bảy. Đôi lúc khách đông thì chúng tôi hỗ trợ cho nhau. Nhân viên phục vụ trong quán chỉ khoảng bảy người, nên đôi lúc chúng tôi hơi bị quá tải, nhưng không ai phàn nàn vì lương tốt, môi trường sạch sẽ, thái độ của cấp trên cũng hoàn hảo - một nơi làm việc chuyên nghiệp. Nhà hàng khoảng 80m2, bốn bức tường sơn đỏ rực rỡ xen vào đó là những tấm rèm bằng tre làm giảm tối đa màu sắc rực rỡ ấy. Trần nhà cao được trang trí bằng những hoa văn kiểu Nhật Bản vừa cổ điển vừa hiện đại. Những dãy bàn ghế sơn màu trắng với bộ khung sắt màu nâu kiểu cách kê dọc theo những bức tường để khách hàng có thể vừa ăn vừa nhìn ra đường phố nhộn nhịp. Tôi thích những hàng lang dài phía bên cạnh khu phục vụ chính, nằm cuối hành lang là văn phòng và kho chứa đồ thực phẩm. Tôi thường lén đi dọc hành lang, ra phía cửa sau nơi con ngõ nhỏ trổ ra vài cửa sau khác của các nhà hàng, tiệm cà phê kế bên để hút thuốc khi vắng khách. Tôi sẽ đứng cạnh cái thùng rác lớn có nắp đậy, vừa thưởng thức điếu thuốc rảnh rỗi của mình vừa ngắm nhìn một bên thân thể thiếu sót và tự hỏi liệu tôi còn bao nhiêu thời gian nữa. Đôi khi một vài người đồng nghiệp cũng ra hút thuốc cùng, nhưng người tôi thích đứng cùng nhất là Jose- một người Nam Mỹ nhập cư, tuy tên anh ta cùng tên với người bạn trai cũ của tôi - chàng cao kều yêu bóng rổ ấy, nhưng cách phát âm thì khác hoàn toàn: Khô - Sê. Chính thế anh ta không làm tôi nhớ tới cậu ấy lắm. Làn da rám nắng và cặp lông mày rậm của anh ta khiến người khác nhận ra liền gốc gác ấy, thế nên anh ta yêu thích sự im lặng chăng?, ở một đất nước mà các dân tộc pha trộn vào nhau dòng máu và màu da, có lí nào anh ta lại lo ngại vì điều ấy?. Hoặc anh ta cũng như tôi, đang phân vân trước những phần cơ thể hàng ngày tự biến mất?. Nhưng dù sao khi chúng tôi đứng cùng nhau, chẳng ai nói câu gì lặng ngắm làn khói thuốc hững hờ bay thẳng lên trời trong khi đoán suy nghĩ của người kia. Thực ra lúc ban đầu đôi lúc chúng tôi cũng nói chuyện với các đoạn hội thoại kiểu như:

"Cô thế nào?"

"Vẫn như mọi bận. Anh thì sao?"

"Tôi cũng khỏe"

5 phút sau.

"Trời hôm nay lạnh nhỉ!"

"Vâng"

Sau những lần đối thoại ngắt quãng, hai chúng tôi ngầm đồng ý với nhau rằng không cần phải nói nếu không muốn nói, điều này làm cả hai như vừa trút được một gánh nặng. Thế nhưng hôm nay thì khác, Jose đột nhiên bắt đầu một câu chuyện bằng sự quan tâm thực sự, chứ không phải những lời vô thưởng vô phạt như chúng tôi đã quyết định sẽ không làm nữa với tôi. Trong khi vẫn còn ngạc nhiên quá đỗi trước câu bắt chuyện "Tôi thấy cô có vẻ quan tâm đến cái cô tóc vàng ngồi bàn 14 nhỉ?", tôi vẫn suy nghĩ làm sao để trả lời mà không bị anh ta coi là kẻ lập dị.

"Tôi đâu có! Chỉ vì cô ta yêu cầu nhiều thứ quá thôi." - một câu bào chữa tầm thường.

"Tôi lại thấy cô mới là người hỏi cô ta cần gì thêm nữa quá mức cần thiết chứ."

Tôi hơi cáu vì câu nói sỗ sàng như đang cố buộc tội tôi của Jose, sẵng giọng đáp : "thì dù có thế cũng có ảnh hưởng gì anh."

Jose xua tay như đang cố đuổi một con ruồi đi, nói bằng giọng cao hơn hẳn : "không, cô đừng cho tôi đang nghĩ gì không tốt. Tôi chỉ tò mò thôi. Thực ra..." - anh ta ngập ngừng như đang quyết định có nên nói tiếp với tôi đoạn sau "thực ra" ấy không, tôi hãy còn bực mình nên không để ý lắm - "Thực ra, tôi là người đồng tính. Tôi cứ nghĩ cô cũng..."

Khi nghe đến đây tôi không nhịn được mà thốt lên "ồ không phải". Chuyện giới tính khác biệt trong thế giới này vốn đã không còn là thông tin gì mới mẻ, mỗi ngày có hàng trăm cặp đôi nam -nam, nữ- nữ nắm tay nhau đi trên phố ngang qua cửa hiệu của chúng tôi. Nhưng có vẻ anh chàng Jose người nhập cư này có cái gì đó khó nói trong câu chuyện về giới tính của mình, nên đang tìm người để chia sẻ, mà tốt hơn hết là người đó cũng nên có giới tính giống anh ta.

"Vậy chắc tôi lầm. Thực ra, hồi nhỏ tôi nghĩ mình cũng bình thường. Nhưng kể từ khi...ừm, một câu chuyện khó nói,..Đại để là kể từ sau đó, tôi không còn cảm giác với phụ nữ nữa."

Tôi im lặng lắng nghe những tâm sự của người xa lạ, đến điếu thuốc còn không đưa lên miệng vì sợ đánh động đến tâm trạng người đàn ông đang dùng mũi chân di di đầu mẩu thuốc. Anh ta chắc cũng không có ý chờ tôi mở lời an ủi, có lẽ vì hiểu rằng một câu chuyện như thế rồi cũng không dẫn cả hai đi đến đâu.

"Ừm, dù sao thì cô gái tóc vàng đó cùng rất xinh xắn." - anh ta nói rồi quay lưng trở vào trong, bỏ mặc tôi đứng một mình với điếu thuốc cháy dở như những suy nghĩ chưa kịp chín của mình.

Kể từ sau cuộc nói chuyện ấy, tôi nhìn Jose với con mắt khác hẳn. Ở anh ta có cái gì nặng nề như bùn đen sau những trận mưa dầm tháng Sáu, nhưng không hề nguy hiểm, kiểu người cô đơn giữa nhân loại. Anh ta giống như một hòn đảo hoang nhỏ bé giữa biển khơi, chờ đợi một con thuyền có người cập bến - chỉ cần duy nhất một người, nhưng khi chiếc thuyền xuất hiện, anh ta lại giấu mình đi để cho kẻ trên thuyền không có cách nào khác tự mình phải định đoạt là nên hay không nên bước lên hòn đảo nhỏ ấy. Jose người tầm thước, nhưng chắc nịch. Dưới lớp áo phục vụ nổi cuộn lên những cơ bắp rắn chắc, mà tôi biết nó không xuất hiện nhờ luyện tập thể thao. Mái tóc anh ta đen dày, trên hai cánh tay áo xắn lên gần đến cùi trỏ cũng đầy những lông- một kiểu cơ thể đàn ông khỏe khoắn và luôn biết mình muốn gì. Nhưng ngược lại với cơ thể ấy, đầu óc anh ta trống rỗng và cô đơn. Anh ta không biết cách thể hiện bản thân mình cũng như cách để tồn tại trong xã hội giao tiếp này. Bản thân là một người đồng tính, nhưng có lẽ từ lúc đặt chân đến đất nước này, bắt đầu giao tiếp bằng thứ ngôn ngữ khác với ngôn ngữ mẹ đẻ của mình, Jose chắc chưa bao giờ có một người tình thực thụ - người để ngoài vuốt ve cơ thể của nhau ra còn để giãi bày những mỏi mệt cũng như hạnh phúc. Không, Jose không phải kiểu người như thế. Khi anh ta còn chưa mở miệng nói thì anh ta hãy còn là một người đàn ông hấp dẫn, nhưng một khi anh ta bắt đầu để lộ sự lúng túng qua ánh mắt, đối phương sẽ chỉ còn cảm nhận một sự thương cảm. Tôi cũng thế, kể từ khi anh ta để lộ điểm yếu của mình bằng cách mở miệng nói chuyện với tôi vì tưởng tôi cũng là người đồng tính ấy, tôi bắt đầu thấy thương hại anh ta - tuy không phải cách thương hại những kẻ hèn kém, nhưng vẫn là thương hại.

Mỗi khi chỉ còn hai chúng tôi ở ngoài hút thuốc, những cuộc nói chuyện không còn cảm giác tắc nghẽn khô khan nữa, thay vào đó những câu hỏi của tôi dành cho cuộc sống khiến Jose nhiệt tình trả lời. Người đàn ông này hẳn đã không được tâm sự với ai một thời gian rất dài rồi.

"Anh đến Mỹ bao lâu rồi?"

"Cũng gần năm năm rồi. Nhưng tôi chưa bao giờ ngừng nhớ quê hương của mình"

"Tôi cũng thế" - tôi trả lời thật lòng khi nhớ về quê hương của tôi - mảnh đất hãy còn chôn những mảnh xương của mẹ tôi, mảnh đất tôi đã bỏ lại sau lưng để cùng cha tiến tới một cuộc đời mới

"Vì sao cô hay thích những cô gái như thế?" - Jose đề cập đến chuyện này, vì ở cuộc nói chuyện lần trước tôi có tiết lộ cho anh ta rằng tôi bị tính cách của các cô đó cuốn hút.

"Cũng khó nói. Một số thứ cảm xúc của ta làm việc nhanh đến độ chính ta không hiểu nổi quá trình của nó để mà nói ra thành lời. Tôi thích vì tôi muốn trở thành họ"

"Tôi thấy cô cũng tốt mà. Tôi thích cô!"

"Cảm ơn anh. Anh thật tốt" - tôi thật lòng muốn cầm tay Jose mà nói như thế - "anh có gia đình chưa?"

"Tôi chưa. Tôi hiện vẫn sống với mẹ và em gái của mình ở một căn hộ ngoài thành phố. Họ đến sau khi tôi đã có đủ giấy tờ để tìm một việc làm."

"Tôi hiểu. Cuộc sống chắc vất vả lắm nhỉ." - tôi cảm thán, nhưng khi nói câu này tôi nghĩ về mình nhiều hơn, rằng hình như không phải ai cũng có một cuộc sống hạnh phúc. Hạnh phúc và vui vẻ là hai thứ dễ tìm thấy, nhưng cũng không dễ xuất hiện, vấn đề chỉ là ta có thấy nó trong thái độ của mình hay không thôi.

"Cũng bình thường. Hiện chỉ có mình tôi đi làm nhưng cũng đủ để trang trải cho cả ba. Tôi thích sống cùng họ."

Có một lần khi đọc truyện "Những đôi mắt ấy vẫn ở trên giường" của Yamda Ami - tác giả người Nhật nhưng từng sống ở Mỹ, tôi bất chợt nhớ đến Jose. Nhân vật nam Spoon trong truyện là một anh chàng da đen, tính tình nóng nảy và bất chấp, không có một chút gì giống Jose, nhưng sự liên tưởng đó làm tôi mất nhiều phút tự thuyết phục mình rằng nó không đúng. Jose - chàng Nam Mỹ đồng nghiệp của tôi có cái rắn rỏi của tinh thần nhưng tâm hồn giống nhân vật nữ phục tùng nhưng không kém phần dữ dội . Cái nữ tính ấy ở Jose không phải là khó hiểu, những thứ anh ta trải qua, cuộc sống của anh ta hiện tại, và cả những thứ đang chờ anh ta ở phía trước, đều khiến một con người cứng rắn dễ dàng tan chảy. Tôi thích nghĩ rằng Jose không lấy làm phiền với cuộc sống cho lắm, ở Jose - mọi thứ đều trượt ra dễ dàng như khi người ta lăn trái cầu trên một mặt phẳng nhẵn nhụi. Jose là hiện thân của tất cả những tình cảm thánh thiện trong thế giới hỗn loạn của anh ta, giống như vị thiên sứ đại diện của nhân loại, mặt tốt đẹp người ta vẫn bóng lên trong màn đêm nếu lập trường được giữ vững.

Tôi hay nói chuyện của Jose với cha mỗi lần cha đến thành phố này công tác, ông gật gù với một con người như thế, còn ngỏ ý nếu được hãy mời anh ta đi ăn cùng để cha được trò chuyện với một người đàn ông trong trắng như thế. Còn với Han, dù rằng mối quan hệ giữa chúng tôi đã lắng xuống và không còn mâu thuẫn gì kể từ khi tôi dọn đến ở chung, tôi cũng không có ý định kể chuyện của Jose cho anh ta nghe.

14.

"Tại sao cô không rời bỏ anh ta đi?" - Jose nói khi chúng tôi đang nghỉ ngơi trước giờ ăn tối.

"Để trả lời câu hỏi của anh chắc tôi phải bắt đầu từ lúc tôi được sinh ra như thế nào mất." - tôi cười, để điếu thuốc lên miệng và rít một hơi thật dài, một lúc lâu mới nhả khói ra để chất nicotin ngấm dần lên não bộ.

"Tôi thật sự muốn biết vì tôi chẳng hiểu gì cả."

Người mà Jose nhắc đến không ai khác chính là Han - bạn trai hiện giờ của tôi. Chúng tôi đã thân thiết đến độ kể hết về cuộc sống của mình cho nhau nghe. Tôi biết anh ta từng bị một người phụ nữ cưỡng ép quan hệ tình dục từ khi mới mười hai tuổi, còn anh ta biết tôi đang sống cùng với một người đàn ông mà ảnh hưởng không tốt lên tôi. Cuộc trao đổi có vẻ không công bằng, nhưng đấy là tất cả những gì thuộc về sự thực mà tôi có. Tôi vốn cũng muốn nói cho Jose nghe về chuyện mỗi ngày khi tôi tỉnh giấc, một bộ phận trên cơ thể tôi lại xủi bọt như mắt cua và vỡ tan vào không khí để cho xứng đáng với bí mật khủng khiếp của anh ta, nhưng tôi không muốn bị anh ta nghĩ là một kẻ loạn thần kinh khi tứ chi của tôi vẫn còn hiển hiện ra trước mắt người khác đầy đủ như thế này.

"Tôi nghĩ là chưa đến lúc. Chỉ cần đúng thời điểm, chẳng có gì ngăn cản tôi rời bỏ anh ta."

"Tôi thì nghĩ, nếu cô để chuyện càng lâu, thì cô càng khó dứt ra khỏi anh ta. Anh ta thật sự khó chịu ư?"

"Không hẳn. Cũng có lúc anh ta rất đáng yêu. Anh ta giúp tôi trong bài vở, hỏi tôi về công việc. Thi thoảng anh ta đưa tiền cho tôi để tôi tự mua cho mình một món gì đó."

"Tiền? Anh ta đưa tiền cho cô để cô tự mua một món gì đó? Thật là ngu ngốc."

"Tôi biết" - tôi thật thà. Han không có nhiều thời gian để mua quà cho tôi, anh ta còn một tá công việc ở công ty, rồi phải đi hiện trường, rồi còn đang trong quá trình tự xây dựng một công ty mới. Những thứ anh ta làm còn lâu tôi mới hiểu được, nhưng có một điều tôi biết là anh ta làm không phải vì yêu thích công việc của mình, giống như cha tôi chuyên tâm nghiên cứu, mọi thứ anh ta làm giống đang cố chứng minh sự tồn tại của mình hơn. Nhưng cái đó nằm ngoài tầm kiểm soát của cảm xúc tôi, tất cả những người bạn mà tôi quen đều không thích Han, nhưng tôi không có cách nào để thuyết phục họ, tôi còn bận thuyết phục bản thân.

"Anh ta làm cô mất trí rồi."

"Tôi nghĩ thế. Nhưng chẳng có cách nào bỏ anh ta khỏi đầu cả. Ước gì anh thích phụ nữ, tôi sẽ không bỏ qua cho anh đâu." - tôi huých cùi trỏ vào mạng sườn Jose

"Ừ. Thật tiếc cho cô quá. Nếu cô mà thành công thì chúng ta sẽ có những đứa trẻ da vàng mặt đầy lông ấy. " - Jose nháy mắt, đáp trả. Trước khi quay lại trở vào trong, Jose hãy còn lần chần muốn nói một cái gì đó với tôi. Tôi thấy gương mặt anh ta nhàu nhĩ trong cơn khổ sở, đành phải mở lời:

"Này, có chuyện gì muốn tâm sự với tôi sao?"

"Tâm sự thì không. Nhưng..." - Jose lại vần vò cái tạp dề đang đeo trước đùi.

"Không sao đâu. Cứ nói ra đi nào." - tôi lại hối thúc.

Jose thở dài, nói một lèo không kịp nghĩ.

"Thực ra tôi muốn nhờ cô một việc. Chẳng là mẹ tôi vừa tìm được việc làm, chăm sóc người già ấy mà. Nên sẽ chẳng có ai trông nom em tôi vào thứ Bảy lúc tôi đi làm. Cô biết đấy, nên tôi muốn hỏi cô liệu cô có thể trông hộ tôi độ mấy tiếng được không?Tuần sau tôi sẽ tìm cho nó một lớp học dành cho người nhập cư nên chỉ cần tuần này thôi. Con bé ngoan lắm, nó sẽ ngồi im một chỗ như con gà con."

Một lời nhờ vả như thế chẳng ai có thể từ chối, kể cả khi người nhờ vả sống cùng một gã đàn ông xấu tính nhất trần đời và cô ta không biết rằng liệu hắn ta có nổi điên lên khi thấy cô ta dắt về một đứa trẻ con không. Tôi gật đầu cố làm vẻ mặt như "không phiền hà gì cả, tôi rất thích trẻ con" để Jose yên tâm. Jose không kiềm chế mà thở ra một hơi như vừa trút được lo lắng, rồi kéo tôi vào trong bắt đầu ca làm việc buổi tối.

Hôm nay là thứ năm, tức là tôi chỉ còn ngày mai để nói với Han rằng thứ Bảy tôi sẽ dẫn về nhà vài tiếng đồng hồ một đứa trẻ con Nam Mỹ chỉ ngồi im như gà con. Tôi tưởng tượng ra khuôn mặt anh ta và cách anh ta sẽ phản ứng, nhưng tôi đã lỡ nhận lời với Jose và nếu như phải xin lỗi cậu ta về chuyện không thể trông đứa trẻ được thì cậu ta chắc sẽ bối rối lắm. Cả buổi làm việc tôi không sao tập trung được, đầu chỉ nghĩ xem làm thế nào để thuyết phục Han để đứa trẻ ở trong nhà vài tiếng đồng hồ. Khi gần hết ca làm cũng là lúc tôi hoàn toàn kiệt sức, không có cách nào khả quan nảy ra trong đầu, tôi chỉ còn biết than vãn một mình vì sao tôi lại ở với một người đàn ông như thế cơ chứ.

Thế là tôi đã không bàn bạc gì với Han cả. Thứ Bảy tôi qua chỗ Jose đón con bé em anh ta, rồi cả hai ngồi trên tàu điện ngầm về nhà tôi. Đứa bé đúng là rất ngoan, có thể vì tiếng anh của nó hãy còn chưa sõi, nhưng nó ngồi im suốt cả chặng đường, chỉ ngọ nguậy hai bắp chân bé tí nghịch với một con bọ trên nền tàu. Mẹ Jose bao nhiêu tuổi khi để đứa trẻ này?, nó mới mười tuổi trong khi Jose đã hai nhăm. Con bé có nước da nâu khỏe khoắn như anh nó, và đôi mắt to tròn tôi đồ rằng là giống cha vì có một lần Jose nói mắt anh ta giống mẹ. Mái tóc đen thẳng và dầy như tóc của tôi, được anh nó túm gọn gàng sau gáy và buộc lại bằng một cái dây màu hồng có gắn một cánh bướm bằng nhựa.

"Cháu tên là gì?" - tôi bắt chuyện với con bé khi nó đang chúm miệng cố với chân xuống đất để đá vào con bọ tội nghiệp.

Con bé ngửng đầu lên và nhìn vào mắt tôi, nhưng lập tức quay đi, tiếp tục trò chơi của mình rồi mới nói sau một lúc: "Cháu tên là Esperanza.."

Khi nó nói câu đó tôi chỉ thấy được một bên má phúng phính của nó đang lúng búng như ngậm nước trong miệng.

"Nghĩa là hy vọng ấy ạ" - nó nói sau khi suy nghĩ kĩ lưỡng xem có nên thân thiết với tôi không.

"Tên cháu hay nhỉ! Cô tên là Hoàn"

"Anh Jose có nói với cháu rồi. Còn nói cô là một người tốt. Tên cô có ý nghĩa gì ạ?"

Lần này Esperanza mới thật sự ngẩng lên để nhìn vào tôi, ý chừng muốn kéo dài cuộc nói chuyện thân mật. Tôi lâu lắm mới tiếp xúc với trẻ con nên lập tức có cảm tình ngay với một đứa trẻ kháu khỉnh có cái tên đáng yêu dường ấy. Hồi nhỏ thi thoảng tôi cũng hỏi cha mẹ mình rằng vì sao tôi không có anh chị em gì, nhưng cha nói mẹ tôi quá yếu để sinh đứa thứ hai nên tôi cũng không thắc mắc gì hơn nữa. Hiện tại tôi đã lớn đến độ có thể tự trở thành một người mẹ, chăm sóc những đứa trẻ và dành cho chúng tình yêu mà cha mẹ đã dành cho tôi. Khi nhìn Esperanza, trong lòng tôi trào dâng một cảm xúc ngọt ngào, đứa trẻ này hãy còn nhỏ, nhưng chỉ cần nó được nuôi dưỡng bởi những người tốt thì nó sẽ trở thành một người tốt, như cái cây được chăm sóc ngay từ khi còn nhỏ sẽ lớn lên tỏa bóng mát và đơm hoa kết trái. Mỗi một sinh linh bé nhỏ là một hạt mầm sẽ vươn lên trong tương lai, con bé làm tôi nhớ đến những bông hoa tôi ươm từ những hạt giống ở ban công ngày nào. Những hạt giống cứ mỗi năm lại cho những bông hoa đầy màu sắc và tươi tắn ríu rít lay động cả không gian và tâm hồn tôi một thời. Giờ tôi đã rời xa chúng, tâm hồn cũng đã bị bào mòn, bị hút cạn đi những màu tươi thắm ấy, nhưng ở bên cạnh tôi lại có một cái hạt bé xíu sắp trưởng thành, đáng yêu và đầy hứa hẹn. Tôi bỗng thấy mình già thêm cả trăm tuổi, ngứa ngáy ở phần cơ thể bị thiếu sót và bối rối trước đôi mắt trong veo của đứa bé đang ngước nhìn mình.

"Tên cô là Hoàn, Ngọc Hoàn, tức là một viên ngọc hoàn hảo. Cha mẹ đặt như vậy vì cô là thứ rất quan trọng đối với họ."

"Viên ngọc là gì ạ?" - Con bé nãy giờ vẫn chờ câu trả lời của tôi.

"Là thứ hình tròn nhỏ như thế này thôi..- tôi dùng hai ngón tay phác ra hình dáng một viên ngọc quý - "và rất quý giá. Người ta thường dùng làm đồ trang sức như nhẫn, khuyên tai, vòng..."

"Vậy chắc bố mẹ yêu quý cô lắm nhỉ?"

"Ừ. Cũng như cháu thôi, bố mẹ coi cháu là hy vọng của họ kia mà" - tôi nháy mắt, con bé mỉm cười. Esperanza có vẻ già dặn hơn so với tuổi thực của nó. Tuy rằng chúng tôi đều là những kẻ ngoại lai ở đất nước này, nhưng tôi được cha mẹ bao bọc trong vòng tay ấm của họ, còn con bé đã phải vất vả như thế nào mới đến được đây khi mới chỉ mười tuổi đầu. Dù cho ánh mắt nó hãy còn trong sáng như viên ngọc quý mà tôi cố gắng miêu tả, thì tâm hồn nó cũng đã bị bao phủ bởi một màn chụp mờ mờ của hiện thực. Mong rằng nó sẽ vượt qua được đoạn đời dài dằng dặc này mà trở nên một cái gì tốt đẹp hơn.

Khi về đến nhà, Han hãy còn đang ngủ. Tôi đặt bé Esperanza ngồi trên ghế sô pha, hỏi nó có muốn ăn một chút lót dạ không?, con bé không nói gì, thế là tôi tự ra tủ lạnh lấy một miếng bánh gato cùng một cốc sữa rồi để trên bàn trước mặt nó. Tôi quay đi trả vờ bận bịu một chút ở bếp để nó tự nhiên mà ăn uống. Lát sau khi con bé đã xắt miếng bánh thứ ba đưa vào miệng thì tôi mới nhẹ nhàng ngồi xuống cạnh nó, bắt đầu xúc miếng bánh của mình.

"Có ngon không? Cô tự làm để đãi cháu đấy."

"Ngon lắm cô ạ. Cháu thích vị socola, thích cả vị dâu, cả vị vani nữa."

"Vậy lần sau cô sẽ làm vị dâu với vị vani nhé" - tôi mỉm cười khích lệ và đưa một miếng bánh to vào miệng. Sau cuộc nói chuyện chúng tôi đã thân thiện hơn. Không khí giữa hai người trở nên hài hòa và mềm mại, như lớp kem socola tôi đổ thật dày lên bề mặt bánh.

Lúc này Han dậy, khi tiếng động cửa trong phòng ngủ vọng đến, tôi giật nảy mình.

"Có ai ở trong nữa hả cô?" - tôi quên mất chưa nói với Esperanza về Han.

"Cô quên không nói với cháu. Chú ấy là bạn trai cô"

Han bước ra phòng khách trên người chỉ độc một cái quần đùi. Anh ta cũng giật mình khi nhìn thấy đứa trẻ đang ngồi cạnh tôi. Con bé lúc vừa thấy người lạ vội cúi gằm mặt xuống , hai bàn chân cọ vào nhau trên mặt đất, tôi vừa tội nghiệp con bé vừa cảm thấy có lỗi vì đã không nói trước với nó.

"Ai thế?" - Han nhăn trán hất hàm về phía con bé và hỏi.

"Em một người đồng nghiệp. Cậu ta phải đi làm nên nhờ em trông giúp đến chiều." - tôi thành thật trả lời anh ta.

Một tia lóe lên trong mắt Han, những đường nhăn giữa trán vẫn còn hằn lên trên gương mặt ngái ngủ, anh ta không nói gì đi thẳng vào trong nhà tắm. Tôi thở ra một hơi, quay sang Esperanza căng thẳng cúi gằm mặt, xoa xoa bắp tay bé xiu của nó, nói:

"Cháu có muốn xem tivi không? Hay là đọc sách. Cô có một cuốn sách cô mua từ hồi cô mới học tiếng anh, có hình vẽ đẹp lắm."

Con bé từ từ ngẩng lên, thôi cọ hai bàn chân vào nhau : "nhưng cháu không biết đọc tiếng anh."

Con bé chắc chưa được đi học nên không biết chữ, nó chỉ nói được thôi. Tôi bảo với nó tôi sẽ đọc cho nó nghe bằng tiếng anh, và nhờ nó dạy cho mình vài từ tiếng Tây Ban Nha.

Khi tôi cầm cuốn sách ra thì Han đang tắm, nước xả ào ào ở trong. Tôi hy vọng khi trở ra anh ta sẽ bình tĩnh hơn, cho dù biết chắc anh ta sẽ chẳng vui vẻ gì khi nhìn thấy một đứa trẻ trong nhà, vì tuy là cuối tuần nhưng Han vẫn phải làm việc với những bản vẽ, những phần mềm phức tạp của mình.

"Ngày xửa ngày xưa, có một con hươu cao cổ và một con ngựa vằn là bạn thân với nhau." - tôi bắt đầu đọc trang đầu của cuốn sách khi hai chúng tôi tìm được chỗ ngồi thoải mái trên sàn phòng khác. Esperanza chăm chú ngắm những bức hình minh họa tô màu về con ngựa vằn và con hươu cao cổ là bạn thân.Tôi chỉ vào từng con vật trong hình nói bằng tiếng anh tên của chúng, cô bé thích thú vỗ hai tay nói con ngựa vằn trong tiếng Tây Ban Nha đọc là cebra và con hươu cao cổ là jirafa, "vậy thì không khác nhau lắm cô nhỉ!" - Esperanza kết luận.

"Ừ"- tôi nói - "nếu cháu có một cô giáo thật sự thì sẽ phát hiện ngay rằng tiếng anh còn dễ hơn tiếng Tây Ban Nha nhiều. Và cháu sẽ đọc được sách mà không cần cô giúp nữa."

"Vậy thì hay quá. Cháu sẽ xin Jose cho cháu đi học ở chỗ có một cô giáo thật sự. Cháu chắc là anh ấy sẽ đồng ý nếu cô giáo thật sự ấy không lấy của Jose nhiều tiền." - con bé dùng những ngón tay xoa vào trang giấy mượt mà, nó nói nhưng không biết lời nói của mình tác động đến người khác như thế nào. Tôi bỗng nhiên thấy buồn vô hạn vì cuộc sống của gia đình Jose đột nhiên hiển hiện ra trước mặt tôi như bức tranh theo phong cách Nhật Bản thể hiện sự trống rỗng và mệt mỏi trên gương mặt của các nhân vật. Mặc dù vẫn biết ở ngoài thế giới rộng lớn này hãy còn bao nhiêu người như thế, những kẻ trống rỗng và luôn luôn mỏi mệt, nhưng tôi chưa bao giờ tự mình nhìn sâu vào trong hoàn cảnh cũng như tâm trí của họ. Jose - mỗi khi anh ta ngồi bên cạnh tôi, mời tôi điếu thuốc lá rẻ tiền, tôi đều vui vẻ nhận lấy kể cả khi hai làn da chạm vào nhau tôi cảm nhận được sự thô ráp trên đôi tay ấy. Anh ta cùng tuổi với tôi, nhưng cuộc sống khắc vào khuôn mặt anh những vết hằn mạnh mẽ khiến anh lúc nào trông cũng già hơn tôi đến cả chục tuổi. Khi tôi ngồi bên cạnh một đứa trẻ ngây thơ như thế này, tôi đã biết tuổi thơ của mình may mắn ra làm sao. Đứa trẻ có mái tóc dày và đen này trong một chốc lát khiến tôi nhớ đến Văn, nhớ đến chiếc xe đạp cũ kĩ và chiếc áo có những vết ố. Cậu ấy dù sống trong hoàn cảnh nghèo khó đi chăng nữa, thì tâm hồn trắng trong của cậu ta vẫn sờ sờ ở đó, ở nơi dễ nhìn thấy nhất, nhưng cũng khó chạm vào nhất. Sự thanh cao của Văn, cũng như Jose và của đứa bé đang ngồi bên cạnh tôi đây là thứ mà tôi ngưỡng mộ, đôi lúc cảm thấy ghen tị vì nó. Khi người ta quyết định sẽ sống một cuộc sống tốt đẹp bất chấp mọi hoàn cảnh, tức là người ta có những thứ cần quan tâm, có những thứ như tình yêu.

"Cô chắc là cháu sẽ tìm được một cô giáo thực thụ thôi. Nào, chúng ta đọc tiếp nhé. Chú hươu cao cổ khoe với ngựa vằn rằng cậu ta có thể ăn được những chiếc lá ở trên tít cao, vì cậu ta có cái cổ rất dài.."

Hai chúng tôi mải mê đọc những cuốn sách mà tôi có. Tôi dạy cho cô bé những từ tiếng anh về động vật, còn cô bé dạy cho tôi những từ tiếng Tây Ban Nha. Giờ thì tôi có thể nói một cách lưu loát : Me llamo Ngọc Hoàn, tức là tên tôi là Ngọc Hoàn, và Soy una cebra, tức là tôi là một con ngựa vằn. Chúng tôi cười ngặt nghẹo với những bức hình ngộ nghĩnh được mô tả bằng ý tưởng của nhau, ví dụ như Esperanza nói cô bé là con hươu cao cổ với cái cần cổ dài, rồi tôi bảo cần cổ của cô bé có thể với tới các vì sao, Esperanza lại bảo cháu sẽ hái cho cô một ngôi sao, gắn lên trán cô để cô biến thành con ngựa vằn một sừng.

Kể cả khi Han bắt đầu ngồi làm việc, bỏ qua cả bữa sáng vì tức giận, chúng tôi vẫn không ngừng đọc và kể cho nhau nghe những câu chuyện, đến độ anh ta phải chạy ra phòng khách đến hai lần để quát chúng tôi cần phải trật tự để anh ta tập trung. Tôi và Esperanza mỗi lần bị quát và quắc mắt, liền nhìn nhau lè lưỡi, cố giữ giọng thật nhỏ, nhưng chỉ một lúc sau lại đâu vào đấy, những câu chuyện của cô bé quá thú vị khiến tôi quên mất mình là ai cũng như đang ở đâu. Tôi thấy mình là một đứa trẻ một lần nữa, dùng tay chạm vào các hình vẽ con vật trong sách, đọc những chữ cái thật to rõ ràng và lặp lại bằng tiếng Tây Ban Nha. Esperanza chạm vào tôi bằng bàn tay nhỏ xíu khi tôi nói sai một âm tiết : "không, không phải như thế. Cô nghe cháu, nói lại nào Corazón, nghĩa là trái tim. Lưỡi phải như thế này này....". Tôi cố bắt chước sao cho thật giống cái lưỡi đang thè ra ngoài của con bé, thế là cả hai lại lăn ra cười.

Chỉ đến khi Esperanza lăn ra ngủ trên chiếc ghê sô pha tôi mới có dịp nhìn nó thật kĩ. Tôi chống khuỷa tay xuống ghế, đỡ gương mặt mình trên hai bàn tay, say sưa ngắm nhìn đứa trẻ, cảm giác giống như hồi còn ở với cha, tôi ngắm cái nụ hoa đầu tiên nhô lên khỏi bề mặt chậu cây ngoài cửa sổ. Một cái mầm xanh non và mập mạp, chỉ duy một nó giữa chậu đất rộng nhưng tất thảy những mỡ màng và sức sống của đất đều thu hết về nó trong tiết trời tháng chuyển mùa năm ấy. Rồi nó sẽ lớn lên và trở thành một bông hoa đẹp nhất trần đời, cũng như Esperanza, mái tóc đen của nó rồi sẽ dài ra, gương mặt nó rồi sẽ nhỏ xinh đứng ngay ngắn trên cái cần cổ kháu khỉnh, và nó sẽ biết đọc biết viết không thua kém bất cứ người nào. Con bé không cần phải trở thành bất cứ một người nào, chỉ cần nó vui vẻ trong cuộc sống, thế là đủ. Mới mười tuổi nhưng nó đã biết nghĩ đến bao nhiêu là điều vì điều kiện thiếu thốn của gia đình nó, nhưng trong giấc ngủ, Esperanza bé nhỏ vẫn chỉ là một cái mầm cây kháu khỉnh. Tôi mỉm cười với chính mình khi nghĩ đến sự so sánh buồn cười về cô bé với nụ hoa ở ban công năm ấy.

Jose đến đón Esperanza lúc 8 giờ vừa lúc tôi cho bé ăn bữa tối. Tôi mời Jose vào nhà nhưng anh ta từ chối, chỉ thò đầu vào chào Han một tiếng rồi đưa Esperanza đi ngay. Khi chia tay, tôi và Esperanza luyến tiếc nhau đến độ ôm hôn đến ba lẫn vẫn chưa buông nhau ra. Tôi hẹn con bé một dịp khác sẽ đến thăm nó và đưa nó đi ăn kem. Lúc quay trở vào nhà, Han đã rời mắt khỏi máy tính, chuẩn bị cho một cuộc mắng mỏ ra trò. Tôi không vội vàng, đi vào trong bếp pha cho mình một cốc trà, rồi mới ra ghế sa lông ngồi xuống,

"Tại sao em không nói với anh trước về chuyện sẽ có ai đó đến?" - Han vừa mới bắt đầu đã dùng giọng cao vút

"Em thấy không cần thiết. Chẳng qua chỉ là một đứa nhỏ." - tôi nhấp một ngụm nước, với tay lấy điều khiển bật tivi.

Han giật cái điều khiển ra khỏi tay tôi, tắt tivi rồi ném nó về một góc ghế : "Cô nói chuyện kiểu gì đấy? Cô định chống đối tôi phải không? Sao không đi theo luôn cái thằng lùn tịt đầy lông lá ấy đi?"- giọng anh ta vang rền như vị thần đang hạ lệnh xuống trái đất.

Ầm một cái, sấm sét nổ xung quanh đầu tôi. Những mảng tối đen xuất hiện và chớp tắt như ngọn đèn hải đăng. Những chiếc chuông nhỏ trong cơ thể tôi rung lên loạn ngầu, hỗn loạn như khi thành quách bị địch tấn công. Tôi tối tăm mặt mũi, tay chân tôi run rẩy vì một cơn giận chưa từng trải qua. Tôi vốn là một đứa hiền lành, đôi phần nhút nhát, đặc biệt đứng trước người như Han, tôi càng thấy mình trở nên nhỏ bé mà hẳn là vì thứ tình yêu mù quáng mà tôi dành cho anh ta, hoặc tôi tự tưởng tượng ra. Nhưng lần này thì khác, có thứ gì trong tôi mở ụp ra như tấm lưới người ngư dân quăng lên mặt biển, chùm lấy lí trí tôi, tôi đã không còn nghĩ được gì khác ngoài cơn tức giận xám xịt này.

"Anh là đồ điên. Tôi sẽ dọn khỏi đây ngay lập tức."

Tôi chạy vào trong phòng giật lấy vài bộ đồ và cầm cái balo đi học chạy thẳng ra khỏi cửa. Han vẫn ngồi trên sô pha không phản ứng gì từ lúc tôi thét lên câu chửi rủa đến lúc tôi đóng sập cánh cửa trước mặt anh ta, chắc anh ta không lường trước được phản ứng của tôi. "Mình không muốn nhìn gương mặt ấy một giây nào nữa, mình sẽ giết chết chính mình nếu mình quay lại dưới chân anh ta và mặc cho anh ta chà đạp" - tôi lặp đi lặp lại câu nói ấy khi chạy về phía tàu điện ngầm. Cơn tức giận làm tôi khỏe khủng khiếp, cả đoạn đường ra bến tàu tôi không dừng lại lấy hơi một chút nào, cơn gió lạnh ở ngoài cũng không làm hạ nhiệt dòng máu đang sôi sục trong huyết quản của tôi. Tôi nhảy lên tàu và ngồi sụp xuống phía sàn cuối toa, dùng hai bàn tay ôm lấy khuôn mặt. Tôi để cơn giận dữ nổi đỏ thành từng vệt khắp người. Rồi tôi thiếp đi lúc nào không biết, trong đầu hãy còn đầy những hỗn loạn.

Trong cơn mơ màng, tôi có một giấc mơ ngắn ngủi đan xen giữa những người cũ và mới mà tôi từng gặp trong cuộc sống này. Mẹ tôi với gương mặt như trước khi bà mất vuốt ve mái tóc tôi, lau dòng nước mắt âm ấm đang chảy qua kẽ tay tôi. Còn Văn đứng ở đối diện, cứ mải nhìn tôi bằng đôi mắt tránh móc và buồn bã, không chớp mắt lấy một cái. Còn nhiều người nữa cứ thoắt ẩn rồi thoắt hiện ra trong giấc mơ, nhưng tôi vẫn biết bằng lí trí của mình rằng chẳng có gì là sự thật trong những ảnh ảo ấy cả, sự thật là tôi đang ngồi trên sàn tàu lạnh cóng và tủi thân với cơn giận dữ của mình. Khi tỉnh táo trở lại, tôi quyết định xuống chỗ gần trường học, thuê một khách sạn nhỏ nghỉ lại một đêm, rồi hôm sau sẽ tính tiếp. Giờ hãy còn sớm nhưng tôi không muốn làm phiền bất cứ người nào, kể cả cha tôi, Jose, những người bạn đại học mà chắc chắn nếu tôi yêu cầu sẽ cho tôi trú ngụ vài đêm. Không, tôi muốn được ở một mình để định thần và sắp xếp những thứ mình vừa đạp đổ.

15.

Tối hôm trước có lẽ vì mất nhiều sức lực cho cơn giận dữ nên tôi ngủ một giấc thật là ngon,tỉnh dậy tinh thần và cơ thể thoải mái vô cùng. Tôi hé cửa sổ hít thở vài cái thật sâu dù rằng xe cộ đã tấp nập từ sáng sớm khiến không khí chẳng trong lành chút nào. Tôi thay một bộ quần áo chẳng ăn nhập vào nhau chút nào vì hôm qua vơ đại chúng rồi đi tới trường. Tôi cố tập trung vào bài giảng và chuyện trò cùng mấy cô bạn để khỏi làm mình bận tâm đến cuộc cãi vã hôm qua. Nhưng cũng không cần phải nghĩ gì nhiều vì trong tôi có một bức tường cao lớn và vững chắc được xây dựng trong vòng vài phút - là hiện thân của quyết định rời bỏ người đàn ông luôn khiến tôi chán ngán ấy. Nếu Alicia mà biết tôi rời bỏ anh ta hẳn cô ấy sẽ vui lắm, nhưng chúng tôi đã không chơi với nhau kể từ vụ tôi không giúp cô trong cuộc đánh nhau ba tháng trước. Tôi thở dài, nhưng trong thâm tâm bỗng thấy vui mừng và thoải mái vô cùng, tôi có cảm giác như mình lại được là mình một lần nữa, mới mẻ và đầy sức sống. Hóa ra câu nói tôi nói bừa với Jose bào chữa cho việc mình không thể rời bỏ Han lại trở thành sự thật : "Chỉ cần đúng thời điểm, chẳng có gì ngăn cản tôi rời bỏ anh ta".

Khi tan giờ học tôi chạy ngay đến chỗ làm việc, đã thấy Jose ở đấy tự bao giờ, anh ta luôn nhận cả hai ca để tăng thu nhập.

"Này, cảm ơn vụ hôm qua nhé. Nhưng mà tôi thấy hình như bạn trai cô không được vui vẻ gì lắm hả? Tôi xin lỗi nhé." - Jose nói khi tôi đang buộc nốt cái tạp dề vào người trước phòng thay đồ.

"Ồ không, tôi thích Esperanza lắm đấy. Anh có cô em tuyệt thật!"

"Cô không có anh chị em gì đúng không? Này, tôi kể cho mà biết, Esperanza nhà chúng tôi tự biết chăm sóc bản thân với dọn nhà rồi đấy." - Jose vui vẻ hẳn lên khi thấy tôi khen con bé, hẳn anh ta yêu con bé lắm.

"Trời, hồi mười tuổi tôi còn chưa biết tự mặc quần áo kia." - tôi thốt lên.

Hai chúng tôi tranh thủ hãy còn vắng khách đi ra cửa sau hút điếu thuốc.

"Nhưng sao hôm nay trông cô cứ lạ lạ?" - Jose cuối cùng cũng nói ra điều nghi ngờ của mình.

"Lạ chỗ nào?" - tôi cố giữ giọng bình tĩnh. Tôi không muốn nói cho Jose biết tôi đã quyết định dọn ra khỏi nhà vì trận cãi vã hôm qua vì sợ anh ta sẽ cảm thấy có lỗi. Nhưng cũng không thể giấu giếm mãi được, tôi đành nói - "Thực ra tôi quyết định rời bỏ Han, Jose ạ..." - tôi ngập ngừng, nhưng vừa đủ để anh ta không xen vào được - "khi tôi ở bên Esperanza, tôi bỗng nhận ra một điều mà từ bao lâu nay tôi quên mất, tôi ngày xưa cũng là một mầm hoa được trồng để khoe sắc vào mùa xuân."

Jose hơi ngạc nhiên vì cái lối nói ẩn dụ của tôi, anh ta im lặng mất một lúc - "cô nói cái gì cơ? Ý cô là Esperanza nhà tôi làm cho cô tỉnh ngộ ấy hả?"

"Có thể nói là như thế. Một mầm hoa thì sẽ thành một bông hoa, đời nó ngắn ngủi lắm. Có điều là bây giờ mầm hoa này phải đi tìm một chỗ ở mới thôi" - tôi cười lớn khi thấy mình vẫn còn đủ can đảm mà nói câu bông lơn như vậy.

"Cô này hôm nay lạ thật. Vậy cô sẽ dọn đi hả? Chúc mừng cô nhé! Tôi chả mong gì hơn được thấy cô vui vẻ" - Jose quay ra nhìn tôi bằng ánh mắt ngờ vực, chắc anh ta tưởng tôi sắp phát điên - "Này, để tôi hát cho cô nghe một bài nhé. Chẳng biết vì sao từ sáng tới giờ nó cứ âm ỉ trong đầu tôi."

"Được thế thì còn gì bằng." - tôi hồ hởi

Siempre que te pregunto,

que cuando, como y donde,

tu siempre me respondes;

quizas, quizas, quizas.

Y así pasan los dias,

y yo hay desesperando,

y tu, tu, tu contestando;

quizas, quizas, quizas.

Estas perdiendo el tiempo,

pensando, pensando;

por lo que mas tu quieras,

hasta cuando, hasta cuando.

Giọng Jose trầm và ấm, bài hát quen thuộc vang lên ở con ngõ nhỏ chỉ có ánh sáng phản chiếu này khiến nó trở nên xa lạ lạ lùng. Tôi đứng im hút thuốc trong khi để mặc Jose hát bài hát của anh bằng những đoạn lặp lại. Tôi từng nghe bài hát bằng bản tiếng Anh, tiếng Tây Ban Nha tôi không hiểu nghĩa nhưng giai điệu của nó dường như sinh ra để dành cho tôi trong giờ phút này. Jose chắc cũng cảm nhận thấy thế nên mới hát cho tôi nghe bài hát từ trong trái tim anh. Làn khói thuốc bay thẳng lên phía trên tan dần vào không khí quyện với âm thanh phát ra từ cổ họng người đàn ông bên cạnh giống như đôi cánh đang chắp vào lưng tôi, xoa dịu những hạt nhỏ li ti như mắt cua ở phía bên ngực trái bắt đầu nổ lách tách. Đúng thế, tôi được sinh ra cho thời điểm này, và thời điểm này chính là dành cho tôi. Jose kết thúc bài hát của mình

Ngày hôm nay tôi còn gặp một chuyện kì lạ nữa, ấy là sự xuất hiện của Jose - chàng trai cao lớn mà bóng đổ rạp xuống những kí ức của năm tháng đẹp nhất cuộc đời tôi. Khi tôi đang nhận order của bàn số 15 thì Jose chạy đến và bảo rằng có một vị khách ở khu vực anh phục vụ muốn được tôi phục vụ. Tôi quay về phía đó, nơi cánh tay Jose chỉ là hai người ngồi đối diện nhau: một cô gái xinh đẹp tóc vàng và một người đàn ông ngồi xoay lưng lại phía tôi. Nhanh chóng kết thúc việc gọi đồ cho bàn số 15, tôi đi về phía ấy.

Tôi mỉm cười chào cô gái trong khi quay sang nhìn vị khách nam, tôi giật thót mình, ngay sau đó gần như chết lặng vì những cảm xúc lẫn lộn khi gương mặt Jose hiện ra đang nở một nụ cười bóng loáng. Cậu ta trông vẫn như thế, vẫn cái vẻ hiền lành và thân hình cao lớn trong bộ đồ đơn giản quần jean áo phông, nhưng một vẻ cương quyết cứng rắn - vẻ đàn ông khắc vào nét mặt cậu một cái nhìn vững chắc. Như chai nước soda bị xóc quá đà, những cảm xúc phun trào ra khiến hai tai tôi nóng ran và tôi chắc là nó đang đỏ lựng lên.

"Ngạc nhiên quá hả? Chào cậu, Hoàn. Đã bao năm rồi nhỉ?" - Jose cất tiếng trước. Khi nghe giọng nói bình thản của cậu ta, tôi có đôi chút tức giận, không, là ganh tị, hoặc là thất vọng, tôi cũng không chắc nữa. Vì cậu ta đã không có được nhiều cảm xúc như tôi có dành cho đối phương, vì cậu ta đã chỉ coi tôi như một người quen biết lâu ngày gặp lại, vì cô gái quá xinh đẹp đi cùng cậu ta, và vì một tỉ thứ nho nhỏ khác mà tôi không thể nào nhớ nổi vì tôi hãy còn đang bận buồn bã với giọng nói đều đều ấy.

"Jose, đã lâu quá rồi." - tôi chỉ thốt ra được một câu như thế, ngắn gọn nhưng đầy sự kìm nén. Tôi không muốn phản ứng quá đà với cậu ta khi mà có một cô gái - chắc là bạn gái cậu ta đang ngồi đối diện.

"Tớ cũng bất ngờ lắm vì thấy cậu làm việc ở đây." - cậu ta nói dối, cậu ta chẳng có vẻ gì là bất ngờ.

"Tớ rất vui mừng được gặp lại cậu."

"Này, lát xong việc đi uống chút gì nhé. Chúng ta phải hàn huyên một chút mới được." - lần này giọng Jose đã có vẻ hào hứng hơn.

"Có được không vậy?" - tôi hỏi câu hỏi này nhiều phần để dành cho cô bạn gái cậu ta hơn.

"Được chứ. Tớ đón cậu lúc mấy giờ đây?" - cậu ta chẳng có vẻ gì muốn hỏi ý kiến bạn gái mình.

"11 giờ nhé. Quanh đây có nhiều quán bar lắm."

"Ok"

"Tớ phải trở lại làm việc đây. Lát gặp." - tôi nói rồi thối lui mà không nhìn vào mắt cô gái đối diện. Tôi bảo Jose ra phục vụ bàn đó.

"Này, người quen hả?" - Jose thúc vào vai tôi nhe hàm răng trắng bóng.

"Ừ. Người yêu cũ. Có tên viết giống anh đấy, mà không phải là Khô - sê ê ê.." - tôi dài giọng trêu đùa

"Nếu cậu ta mà cũng gọi là Khô- sê ê ê.. thì chắc sẽ đẹp hơn vài phần đấy" - Jose cũng không vừa.

Cả buổi làm việc tôi cố không chú ý đến bàn của Jose và cô gái tóc vàng kia, chính thế nên tôi càng không thể tập trung vào công việc của mình, lúc thì order nhầm món ăn, lúc lại đưa đồ nhầm bàn,..Tôi không biết vì sao mình hồi hộp đến như vậy khi gặp lại Jose, không hẳn vì tôi hãy còn tình cảm với cậu ta, chính tôi là người đã bỏ đi trong mối quan hệ ấy cơ mà. Từ bấy đến nay đã gần ba năm, tôi sắp ra trường, Jose cũng vậy. Cậu ta cũng đã có bạn gái mới - một cô tóc vàng xinh xắn, tôi mặc dù vừa bỏ bạn trai nhưng cũng được coi là đã trải qua một mối quan hệ mới và dài. Trong tất cả những năm tháng xa nhau tôi đã không hề nhớ đến Jose một lần nào theo kiểu hãy còn vấn vương tình cảm, chỉ nhớ đến cậu như một kí ức đẹp về tuổi học trò cũng như những ngày bản thân được hưởng thụ một thứ hạnh phúc hoàn mỹ. Vậy mà trong giờ phút gặp lại này, tôi tự thấy mình xốn xang trên mức cần thiết, đặc biệt cứ mỗi lần ngó trộm về phía ấy một cái thật nhanh thì tim càng đập mạnh hơn.

Được gặp lại Jose, những buồn bã mà cuộc chia tay ầm ĩ với Han gây ra bỗng dưng trôi vụt qua như ngọn gió mùa Hè. Trong một lúc dừng tay uống cốc nước, tôi ngộ ra một điều rằng có những thứ tưởng chừng như khó khăn lúc ban đầu, đến khi bắt tay vào làm thì mới biết nó dễ dàng đến thế, để rồi bây giờ ngồi tự trách mình vì sao lãng phí nhiều thời gian như vậy chỉ để lấy can đảm. Tôi vẫn cứ ngỡ rằng nếu mình chia tay với Han - người đàn ông gây nhiều đau khổ cho bản thân như thế, thì tôi sẽ không có cách nào tự vực dậy bản thân mình, nhưng ngược lại, nó đơn giản đến độ chính bản thân tôi cũng thấy ngạc nhiên. Để phân tích kĩ càng thì chắc tôi sẽ bỏ lí do gặp Jose tít cuối hàng, để dòng đầu tiên dành cho tác động của cô bé Esperanza lên tinh thần mình. Nhưng tận sâu trong thâm tâm tôi biết việc tôi sắp xếp như thế chỉ có ý nghĩa an ủi, vì thực chất tôi quá hổ thẹn để thừa nhận những lí do khác. Nhưng dù sao và trên hết là tôi đã rời bỏ được con người mà tôi cứ ngỡ rằng tôi không thể nào từ bỏ ấy, hẳn nếu cha biết chuyện ông sẽ mừng cho tôi lắm.

Lần cuối cùng khi ngó trộm sang bên bàn Jose vừa dùng bữa thì cậu ta và cô bạn đã không còn ở đó nữa. Jose thì đang dọn bàn nhưng tôi xấu hổ nên không dám đả động đến chuyện bạn trai cũ xuất hiện với anh ta. Jose đã đi mà không chào tôi một câu, chẳng biết vì cậu ấy quên hay do cô bạn gái lấy làm không vui vì chuyện cậu ta hẹn tôi lát gặp lại. Tôi có hơi buồn vì không được nói lời tạm biệt, mặc dù sau khi tan làm Jose nói sẽ đến đây. Việc cậu ta rời đi khiến tôi tập trung vào công việc dễ dàng hơn, nó khiến tôi thoải mái và an tâm hơn một chút.

11 giờ, khi vừa cởi cái tạp dề vừa nghĩ đến bộ quần áo xộc xệch chẳng ăn nhập vào nhau trên người này liệu có khiến Jose đánh giá cuộc sống hiện tại của tôi tồi tệ thế nào không, thì tôi đã thấy cậu ta xuất hiện ngoài cửa quán. Tôi cầm balo đựng sách vở của buổi học ban sáng chạy ra, khi này Jose chỉ đi có một mình, không thấy cô gái tóc vàng đâu. Cậu ta ôm lấy tôi, chạm má vào mặt tôi và cười một nụ cười thật xa lạ. Tôi thấp thoáng thấy cái khoảng cách mà một dáng hình cao lớn hơn hẳn áp vào cơ thể tôi, cảm giác khi da thịt chạm nhau cũng không còn được như xưa. Không thất vọng cũng không buồn, tôi đã tự bảo mình phải chấp nhận việc khoảng cách và thời gian làm cho chúng tôi xa nhau, cũng như làm cho cả hai thay đổi cả về bản chất lẫn cơ thể hữu hình.

Chúng tôi ngồi xuống chiếc ghế ở quán bar ngay đầu con phố. Quán bar không lớn lắm nhưng vừa đủ để mỗi người khách đều cảm nhận được không gian chung và riêng mà mình muốn có. Ngoài quầy bar để đầy những cốc và rượu, quán còn treo trang trí những bức poster quảng cáo, poster phim..kiểu từ những năm đầu của ngành giải trí. Ngoài ra một cây thông được trang trí đầy những dải đèn lấp lánh và những quả bóng thủy tĩnh vẽ các hình trang trí đặt ở giữa phòng khiến tôi chợt nhận ra rằng thời gian vừa chớm đến tháng của Giáng Sinh. Ánh đèn trong quán rõ ràng hơn ở những góc có những bông hoa trạng nguyên màu đỏ thắm và những bó tầm gửi xanh mơn mởn làm cả không gian chỉ còn hai thứ màu rực rỡ nhất ấy. Tôi thốt lên:

"Ôi, sắp đến Giáng Sinh rồi này."

"Cậu bận đến độ quên cả thời gian đấy ư?"

"Hình như thế. Tớ bận suy nghĩ cho bản thân quá mất thôi. Tớ thật có lỗi với thời gian."

Jose định nói gì nhưng lại thôi vì người phục vụ bàn đã đi đến và hỏi chúng tôi muốn dùng gì.Tôi và Jose nhất trí gọi bia, vừa thoải mái vừa dễ nói chuyện. Khi bia được mang ra, Jose lên tiếng trước:

"Trông cậu khác quá!"

"Thế ư? Như thế nào?"

"Khuôn mặt cậu không còn thẳng băng như xưa."

"Ý là tớ già đi ấy hả? Cũng đúng, tớ hơn cậu những hai tuổi đấy nhé!" - tôi cố ra vẻ thoải mái

"Già hơn thì chắc chắn rồi, nhưng ở nó còn có một chiều sâu mà không phải ai cũng có được, tớ nghĩ là do tư duy cậu bị thay đổi" - Cậu ta xoay xoay cốc bia trên mảnh hình tròn lót cốc.

"Vì sao thế?"

"Cảm giác thôi. Tớ cũng thích khuôn mặt cậu khi cả hai ta còn ở H.D, nhưng tớ thích khuôn mặt cậu bây giờ hơn. Tớ nghĩ nó hợp với con người cậu hơn."

Tôi im lặng ngẫm nghĩ về khuôn mặt của mình. Gương mặt của tôi, gương mặt của người Châu Á, sống mũi thấp, gò má và trán phẳng khiến hai hốc mắt dù to nhưng không có chiều sâu, khuôn miệng của tôi không dày, không mỏng, cong lên ở môi trên tạo thành một hõm nhân trung khá sâu. Từ lúc chuyển từ cấp ba sang đại học, xương khuôn mặt tôi có hơi thay đổi, ấy là hai bên hàm nhỏ lại tạo thành một đường duyên dáng hơn trước nhưng vẫn lộ hai góc cạnh phía gần mang tai. Má cũng bớt đầy đặn khiến xương gò má trông hơi cao hơn người bình thường. Tôi mất đi cái vẻ con nít của mình, thay vào đó là khuôn mặt của một người phụ nữ với những nếp nhăn ở khóe miệng mà khi cười thì hằn sâu tạo cảm giá như một nụ cười đong nỗi buồn. Jose nói cậu thấy gương mặt của tôi hiện giờ hợp với con người tôi, con người có một tâm hồn lợt lạt và đã bị thời gian bào mỏng? Tôi nhớ Văn từng nói rằng một con người sẽ thay đổi khuôn dạng mặt vì những ý nghĩ và hành động của chính họ trong cuộc sống, như người đàn bà trông ngôi Đền hồi nào. Tôi tự hỏi nếu mình nhìn mình ở một khía cạnh khách quan hơn thì liệu tôi có biết được điểm khác biệt chăng?, vì tôi thực sự muốn biết tôi đã phát triển theo dạng thức nào : tồi tệ đi hay tốt đẹp hơn?

"Cậu đang học năm cuối rồi nhỉ? Học hành có nặng lắm không?" - Jose ngắt dòng suy nghĩ của tôi.

"Ừ , cũng bình thường thôi. Tớ vẫn có thời gian làm việc mà." - tôi ngập ngừng một nụ cười vừa nói - "này, bạn gái cậu xinh đấy."

"Kate ấy hả? Ừ, cảm ơn cậu. Bọn tớ mới yêu nhau được gần 5 tháng nay. Cô ấy muốn dẫn tớ về thăm gia đình cô ấy nhân kì nghỉ Giáng Sinh, cũng ở thành phố này. Ai ngờ hôm nay đi ăn lại gặp cậu" - Jose kể với giọng bình thản, nhưng ánh mắt cậu ta xoáy sâu vào tôi một cái nhìn dò xét khiến trí tưởng tượng của tôi được dịp thể hiện sức mạnh của nó.

"Chúc mừng hai người nhé. Trông cả hai đẹp đôi lắm." - tôi cúi đầu tránh ánh mắt của Jose.

"Nghe nói cậu đang sống với bạn trai à?" - Jose vẫn tiếp tục. Tôi bắt đầu thấy hoang mang bởi cuộc nói chuyện này vì không hiểu rồi nó sẽ đi đến đâu. Hai đứa chúng tôi vừa làm ra vẻ mình giống như những người bạn cũ lâu ngày không gặp, lại như đang thầm tự nói với người kia rằng tôi vẫn ổn khi không có cậu bên cạnh. Tôi đang hồi hộp chờ cái kết cho cuộc gặp lại này.

"Ừ. Nhưng tớ vừa mới đá anh ta ngày hôm qua" - tôi cảm thấy như mình vừa thua một ván bài.

"Như cách cậu đá tớ ấy hả?"- Câu nói ấy của Jose phát ra không có ý cố tình, nhưng nó khiến tôi giật nảy mình và ngẩng lên để lần tìm một cảm xúc hư cấu trong khuôn mặt của người ngồi đối diên. Cậu ta vẫn mỉm cười làm như thể nó chỉ là một câu nói bình thường, nhưng tôi sao có cảm giác đau đớn như vừa bị ai thúc cùi trỏ vào bụng mình. Khi cảm thấy câu nói hơi quá lố của mình khiến tôi mất đà và rơi tòm xuống cái hố đen mà cậu ta vô tình đào lên, Jose nói tiếp miệng không ngừng mỉm cười, nhưng nụ cười khi này đã biến dạng - "tớ chỉ đùa thôi. Cậu vẫn nhạy cảm quá thế. Cái gì ở quá khứ thì cứ để nó ở đấy, đúng không nào?"

Tôi vẫn chưa khỏi xúc động khi một người như Jose lại nói ra câu nói ấy, tôi bắt đầu phân vân không biết cuộc gặp gỡ ở chỗ làm có phải là sự tình cờ?, và rằng Jose vẫn chưa tha thứ cho tôi vì lỗi lầm mà tôi gây ra. Nhưng ai biết, chỗ tôi đứng bây giờ không có bông hoa nào nở.

"Tớ thật sự xin lỗi, Jose" - tôi không biết vì sao mình lại nói thế. Sau bao nhiêu năm không liên lạc, tôi đã quên bẵng nguyên nhân chúng tôi chia tay, nhưng sự có mặt của cậu ta ở đây cùng với khuôn mặt đã có phần xa lạ đã nghe nói rằng tôi có bạn trai khiến tôi thấy mọi thứ cứ như một sự trả thù nho nhỏ của số phận.

"Ôi không, Hoàn. Tớ không có ý đó. Tớ đã thực sự quên chuyện đó. Tớ xin lỗi nếu làm cậu hiểu lầm. Nhưng hãy tin tớ rằng tớ không còn trách móc gì cậu cả" - Jose nói dồn dập khi nhận ra tôi đã bị tác động như thế nào bởi câu nói của cậu ta. Nhưng đã quá muộn, tôi đứng lên và bỏ đi.

16.

Ở ngoài phố người ta đã bắt đầu giăng những đèn màu và bảng hiệu phát sáng với muôn ngàn hình dáng đẹp đẽ. Một vài quảng trường đã có những cây thông Noel được dựng lên nhưng chưa kịp trang trí gì. Những biển quảng cáo trên các cửa hàng lắp kính trong suốt đã bắt đầu chương trình giảm giá cho mùa Giáng Sinh. Những con đường rộng thênh thang phẳng như tờ giấy với những nét vạch kẻ đều tăm tắp trở nên chật chội trong cái náo loạn giữa con người và tiếng động. Bầu trời bị hắt những bóng sáng của đèn điện lộ ra một màu trong suốt và khó phân định. Hôm nay là thứ Sáu, người ta kéo nhau ra đường, ngồi chật các quán bar hai bên đường. Từng tốp thanh niên cho tay vào túi áo vừa bước đi vừa nói chuyện, thi thoảng lại phá lên cười từng tràng rồi nhanh chóng lủi vào trong không gian.

Tôi đứng giữa một quảng trường lớn, bọc mình trong cái áo khoác xộc xệch cố gạt đi cái lạnh giữa mùa đông. Cuộc gặp mặt chớp nhoáng với Jose đã không còn lại chút ấn tượng nào trong đầu óc đang tê dại dần đi vì cái lạnh. Trong đầu tôi hiện giờ chỉ còn một bức màn trắng mờ đục như bầu trời đêm, không tức giận, không đau buồn, không vui mừng hay hạnh phúc. Chỉ một thứ còn ở lại bên cạnh tôi như cơn giá rét này là nỗi cô đơn. Nó xộc tới đột ngột như mùi thuốc lá mà một người nào vừa đi ngang qua hút, mùi hăng hăng của thảo mộc lẫn với mùi khét của giấy bọc bay đến phía tôi khiến cơn thèm thuốc điên dại đẩy bật ngửa mọi cảm xúc khác. Tất cả mọi thứ giờ không còn quan trọng nữa, vì đằng nào thì tôi cũng chỉ còn một mình ở giữa thành phố này. Tôi bất thần nhấc điện thoại bấm số cha, chờ đợi giọng nói của ông vang lên ở đầu dây bên kia:

"Con gái, lâu quá mới thấy con gọi. Cha nhớ con quá!" - một giọng vui vẻ ở thật gần cất lên át đi những tiếng ồn ào đằng xa.

"Con cũng nhớ cha. Cha đang làm gì đấy ạ?"

"Con nghe thấy tiếng ồn ào à? Ừ, hôm nay sinh nhật của Jean, mấy chú cùng cơ quan đến chúc mừng ăn nhậu đến tận bây giờ..."

"Vậy ạ. Con quên mất hôm nay sinh nhật cô, cha cho con gửi lời chúc mừng cô nha."

"Được rồi, con yêu. Mà có chuyện gì sao con? Giọng con khác quá!"

"Không ạ, con đang hơi bị sổ mũi thôi. "

"Con phải giữ gìn sức khỏe chứ. "

"Vâng, con biết rồi! À trên bàn trang điểm trong phòng con có một chiếc lược và một viên sỏi nhỏ cha vẫn còn thấy chúng chứ ạ?"

"Ưm..Ta không để ý, nhưng cha và cô Jean chỉ quét dọn bụi trong phòng con thôi còn mọi thứ không di chuyển đi đâu cả. Ta chắc là vẫn còn ở đó. Sao đột nhiên con hỏi mấy vật ấy?"

"Dạ không có gì quan trọng đâu. Con nhớ ra thì hỏi thôi. Cha quay lại nhà đi không mọi người đợi."

"Ừ, mai cha gọi lại cho con nhé.Chúng ta nhớ con lắm."

"Vâng, con cũng yêu và nhớ cha nhiều."

Tôi dập máy trước để cha không nghe thấy tiếng nấc nghẹn tủi thân của mình.

Nỗi cô đơn nó vốn không phản ánh từ hoàn cảnh thực tế bao gồm những người xung quanh, tiền bạc hoặc công việc; mà nó là sự thiếu nhịp nhàng của tâm hồn khi chỉ có một mình nó chạy trên mặt phẳng. Sự đồng điệu bao giờ cũng quan trọng ảnh hưởng đến mặt tâm lí và trạng thái của một cá thể, nhưng chính vì yêu cầu về sự đồng điệu lại tạo nên cảm giác về nỗi cô đơn. Khi tôi vừa chợt nhận ra tự mình đã tiến xa hơn một nấc về phía bên ngoài của cộng đồng người này thì tôi đã không còn có con đường để trở về. Nó cũng giống như lúc tôi đứng nhìn cuộc cãi vã của Alicia với cô gái cùng trường, tôi cứ ngỡ có cái gì đẩy tôi ra xa khỏi phía bên kia của đường vạch cuộc sống, nhưng không phải thế, mà là chính tôi - chính cái tự cao về một bản thể gần hoàn chỉnh đã đẩy tôi ra khỏi chỗ mình cần đứng. Và hiện giờ tôi phải học cách chấp nhận nó bằng khả năng của mình. Khi nhìn Esperanda - cô bé nhỏ của tôi vui cười trong trí tưởng tượng, khi nhìn thấy Jose lộ ra khóe mắt vẫn còn quan tâm, hoặc khi biết rằng cha vẫn còn ủng hộ mình, tôi tự hỏi tất cả những thứ ấy không đủ sức mạnh để giữ tôi lại ư?, hay đấy chính là số phận, là con đường mà tạo hóa sắp sẵn để tôi phải đi qua? Như số mệnh đã để mẹ tôi phải chết mới tôi nhận ra rằng mình cần bà đến nhường nào?, như số mệnh đã đẩy tôi xa rời nguồn suốt mát lành của tâm hồn tôi để tôi biết rằng ngoài bản thân tôi ra thì tôi chẳng có gì để dựa vào?...Những câu hỏi cứ dồn dập xếp hàng thụi vào bụng tôi những cú đấm đau nhói chỉ trong một thời gian ngắn, nhưng nỗi đau càng lớn, tôi càng không có cơ hội để tự biện minh cho mình.

Tôi ngồi cả đêm ở bến tàu chờ tới giờ mở cửa. Tôi không biết từ lúc chạy ra khỏi quán bar nơi gặp Jose mình đã đi xa đến như thế. Trong khi suy nghĩ tôi cứ không bước được bước chân, rồi dừng lại ở quảng trường mà tôi đứng lại gọi cho cha. Ngồi thêm một lúc nữa ngẩng lên thì đã gần 4 giờ sáng. Tôi không muốn bắt taxi về vì cần phải tiết kiệm cho việc tìm và chuyển nhà. Không còn Han hay cha để dựa dẫm, một gánh nặng vừa bỏ đi thì một gánh khác lại trút lên. Tôi lê đôi chân tê rần vì phải chạy cả buổi ở nhà hàng,đêm lại không được nghỉ ngơi đến trạm tầu điện gần nhất. 5.30 sẽ có chuyến tàu đầu tiên, tôi chỉ còn phải đợi hơn một tiếng nữa thôi.

Ga tàu này ở trung tâm thành phố, lại là trạm trung chuyển ra sân bay quốc tế nên rất rộng rãi. Khoảng không gian cảm giác như có thể nhét vừa hàng ngàn người giống như buổi hòa nhạc điện tử ngoài trời. Một kiến trúc sư nổi tiếng nào đó từ thế kỉ trước đã xây dựng ga tàu khu trung tâm này giống như một pháo đài cổ với trần vòm cao và điêu khắc tinh xảo. Những viên đá lát tường mài mượt như nhung, qua thời gian chúng càng mượt mà hơn, cứ như thể từ lúc người ta tìm thấy chỗ này chungs đã ở đó vậy. Trên thanh ngang trước cửa vào là một cái đồng hồ lớn với các con số và ba chiếc kim sơn đen bóng, có lẽ người ta cũng đã bỏ không ít công lao để lau dọn giữ gìn nó. Trong khi ngồi đợi chuyến tàu đầu tiên, tôi giết thời gian bằng cách ngắm nhìn tất cả những chi tiết từ lớn nhất đến nhỏ nhất trong sân ga rộng lớn này. Những cái đầu đàn bà và đàn ông gắn phía trên các vị trí của tòa nhà trắng muốt và không sức sống. Những lọn tóc của họ xoăn và cứng nhắc như mái tóc của người châu Á, mắt không tròng nhìn mãi vào xa xăm nhưng lại như chẳng nhìn thứ gì, còn cặp môi không hé cũng không mím chưng hửng ở ngay trên chiếc cằm đẫy đà. Trên đầu tóc những cái tượng có đính những vòng nguyệt quế, biểu hiện cho quyền lực, cho sự cao quý hay chiến thắng. Đúng, những cái đầu ấy có được sự cao quý và chiến thắng vì họ đứng trên tất thảy những con người bình thường và vượt qua không gian và thời gian để trường tồn cho đến tận ngày nay, mà không có chút trí niệm rằng những cái đầu đang muốn biến mất. Đứng dưới chúng, dưới những con mắt không tròng trắng bệch và lồi cả ra ngoài của chúng , tôi không cảm nhận được sự hèn kém và hữu diệt của mình, vì đơn giản là tôi không hiểu được thế giới cao ngạo của chúng cũng như chúng chẳng có cách nào hiểu được thế giới của riêng tôi. Kể từ khi nào mà nhưng chiếc lá trên vòng đội đầu của những con người không tâm hồn ấy lại có khả năng được trở thành cái mà họ muốn trở thành?, trong khi tôi thì không? Đột nhiên tôi nhớ đến cuốn sách mà mình định viết về những con người không có màu sắc vẫn đi lại giữa đám đông người trong một buổi sáng giờ cao điểm. Đối với tôi cái sự không màu sắc của họ chính là thứ màu sắc chân thật và đa dạng nhất, bởi vì sao ư?, vì họ dễ dàng chấp nhận tất cả những màu sắc khác mà vẫn không làm dơ bẩn chính bản thân mình. Đó là sức mạnh và điều kì diệu mà không phải ai cũng có được, cho dù là cao sang, quyền quý hay những chiến thắng. Họ không giống như những bức tượng dễ dàng bị thời gian phủ màu, luôn luôn cần những kẻ giữ gìn vệ sinh này, họ giống như những chiến binh chỉ có tên tuổi và danh tiếng chứ không có những miêu tả trong truyền thuyết. Nếu gặp họ, bạn có thể sẽ thất vọng bởi cái bạn muốn tìm kiếm không ở đó, nhưng nếu bạn không cần thứ gì mà vẫn cảm thấy hạnh phúc, ấy chính vì bạn đã có tâm hồn của họ. Tôi bị những cái đầu tượng quấn quít trong một dòng xoáy suy nghĩ và về cuốn sách mới viết dở vài trang kia bít chặt lấy các cảm giác, mơ màng về một ngày không xa cuốn sách của tôi sẽ mở ra một con đường mới cho toàn bộ những người có tâm hồn phức tạp. Nơi này quá ấm áp so với cái lạnh đến tê người ngoài đường càng khiến một con người mệt mỏi dễ dàng rơi vào trạng thái cân bằng hữu cơ, thả lỏng cơ bắp và tinh thần. Chỉ đển khi tỉnh dậy, thì người đã đứng chật cả ga tàu, tôi thiếp đi trên băng ghế gần ba tiếng, không có ai buồn đánh thức tôi dậy vì họ đã quen với việc nhìn những kẻ ăn xin ôm vòng lấy ngực mà nằm dài ra các băng ghế trên đường. Giờ này họ thức giấc, bắt tay vào việc đi mua sắm cho lễ Giáng sinh, gặp gỡ bạn bè, uống cafe và ăn sáng, hay kéo những chiếc vali nặng trịch ra sân bay. Tựu chung một ngày Chủ Nhật xứng đáng cho những con người bận rộn.

Tôi dụi hai mắt và liếc nhìn chiếc đồng hồ treo trên thanh xà ngang của ga tàu, phía dưới đoàn người vẫn nườm nượp đi lại bỏ qua tất thảy những thứ bất động trên đường họ bước qua. Thật kì lạ là vừa đấy thôi, trước khi chìm vào giấc ngủ thì cả thế giới hãy còn im ắng như đồng tình chứa chấp bản thân đơn lẻ của tôi, thế mà vừa mở mắt ra thì toàn bộ loài người lại đang xô vào nhau, đập bung ra các sợi dây mảnh như cước và trong đến độ hòa lẫn vào với màu sáng mặt trời, loại bỏ một cá thể không đồng ý xây dựng những sợi dây đang ngồi ngay đây - ngay trước mặt họ. Tôi không còn biết phải làm gì trong cái cảm giác tủi hổ vừa buồn cười của mình, đành kéo giãn cơ mặt bằng cách nhếch một bên mép rồi đứng dậy vươn vai, lục túi áo tìm vé tháng rồi chui hẳn vào trong sân ga.

Khi đứng trên toa tàu lắc lư tôi đột nhiên nhớ ra chiếc lược và hòn sỏi tôi mang từ Việt Nam sang đây, hãy còn để lại trong căn phòng cũ từ thời còn là học sinh cấp ba ở H.C. Tôi không mang theo hai thứ ấy khi đi học đại học vì sợ hãi nỗi nhớ sẽ càng lớn hơn nếu tôi để những vật quá đỗi thân quen ấy ở bên mình. Tôi cần mạnh mẽ và phải trở nên mạnh mẽ, vì con thuyền tôi bắt đầu căng buồm rời xa bến cảng ấm áp của nó lần đầu tiên trong cuộc đời này. Hôm qua khi gọi về cho cha tôi đột nhiên hỏi về hai vật ấy, lí do thì tôi không thể nhớ được là vì sao, nhưng cái cảm giác chắc chắn hãy còn nó ở một nơi thân quen thì làm tôi yên tâm, tiếp thêm một chút hơi ấm cho cái đêm giá lạnh đầu tiên của cuộc đời mình. Chiếc lược thì không nói làm gì, vì nó vốn là vật gắn liền với hình ảnh về người mẹ của tôi trong quá khứ, đặc biệt gần gùi hơn khi tôi phát hiện ra sự kết nối thiêng liêng không chỉ về mặt tinh thần mà cả về mặt thể xác, dòng máu cũng như tâm linh giữa hai chúng tôi. Nên việc tôi giữ nó ở bên mình không có mối hoài nghi nào khác. Nhưng còn hòn sỏi không có hình dạng cụ thể tôi chỉ nhặt bừa trong lần đi lên ngôi Đền trên núi vãn cảnh, tôi không biết vì sao nó lại có ý nghĩa lớn như thế đối với mình. Nếu được chọn một điều để lại ấn tượng sâu đậm nhất trong khoảng thời gian ngắn ngủi tôi sống ở thị trấn Mát, thì tôi sẽ chọn Văn, vì cậu ta không chỉ là người bạn, mà còn là phát ngôn viên của tâm hồn tôi. Nhưng còn ngôi Đền, nó giống một thứ gì vô hình hơn là một thứ có giá trị cụ thể. Ấy thế nhưng tôi thường xuyên nghĩ về nó như thể mình bị ám ảnh bởi bốn bức vách mốc xanh và những hình trạm trổ rồng trên nóc mái. Tôi thậm chưa còn chưa có cơ hội bước vào trong ngôi Đền ấy, nhưng cũng chính vì thế mà cái ảnh ảo nó hiện ra ngay trước mắt tôi trong lần Alicia cãi nhau với bạn và thúc giục tôi bước vào bên trong lại hóa ra chỉ là suy nghĩ của tự riêng tôi thôi sao? Suy cho cùng nếu nó không có ý nghĩa về mặt tôn giáo với tôi, thì ít nhất nó cũng phải có ý nghĩa về mặt nào đó. Tôi lấy làm lạ rằng vì sao mình chưa bao giờ nghĩ về điều này cho đến tận hôm nay nhỉ?, ngay trong giờ phút mà tôi cứ ngỡ khó khăn nhất của giai đoạn này, khi tôi thậm chí còn chẳng có một nơi để trở về hoặc một người bạn có tâm hồn đồng điệu. Kì lạ nối tiếp kì lạ, cơ thể tôi không ai đánh động vào bỗng trở nên nhẹ bẫng. Cả thân người tôi như bị nhấc lên, giống y hệt cái cảm giác hôm tôi thấy ảnh ảo của ngôi Đền. Có cái gì đang thay đổi ngay phía ngoài không khí này và nó tác động đến cơ thể tôi, mặc dù tôi không thể cảm nhận chính xác bằng năm giác quan của mình, nhưng hình ảnh ngôi Đền trong tôi nóng dần lên và bắt đầu tỏa ra thứ khí đặc trưng của riêng nó. Có cái gì còn hơn cả nỗi lo sợ ập đến, phía ngực bên trái gần nơi trái tim tôi nóng ran. Và khi tôi cúi gập đầu mình để kiểm tra chuyện gì xảy ra thì hơi nóng xộc cả lên cả họng tôi. Phần cơ thể bên trái dọc từ bả vai xuống mạn sườn của tôi tự lúc nào đã biến thành những đám lớn bong bóng nhỏ xíu như dầu rửa bát trong chậu rửa, nhưng màu không trong như các lần khác mà trắng đục và đậm. Từ đó một luồng nóng bốc lên khiến một nửa thân người tôi dường như bị kích động run lên mãnh liệt. Tôi chưa bao giờ có cảm giác gì như thế: cơn đau thể xác quấn lấy toàn bộ lí trí của tôi khiến tôi gục người xuống sàn tàu, mắt tôi mờ đi mặc dù vẫn nhìn thấy có một vài người xúm lại cúi xuống và hỏi tôi làm sao. Trong khi những hạt bong bóng nhỏ xíu ấy vỡ tan mang theo một mảnh thân thể tôi vào trong không khí, người ta bắt đầu hỏi tôi là tôi có làm sao không, một vài người kêu dừng tàu để gọi bác sĩ. Nhưng tôi không thể nào mà phát ra tiếng kêu của mình, cơn đau xé nhỏ âm thanh ngay từ khi nó vừa chớm nở ở cuống họng, tôi ôm lấy mép sườn trái cố làm cho những hạt nổ càng nhanh càng tốt, vì chúng tan ra càng chậm thì tôi càng đau đớn.

Thế rồi cũng đột ngột như cách cơn đau xuất hiện, nó biến mất, tựa như chưa bao giờ có chuyện gì xảy ra, trả lại cho tôi tất cả các giác quan và sự minh mẫn của chúng. Tôi hãy còn đang quỳ sụp xuống sàn để cánh tay phải ôm lấy người, đầu cúi gập , mọi người đang nhốn nháo đòi dừng tàu thì nó biến mất, để lại tôi trơ trọi như đứa con nít vừa bị đá ra khỏi mái ấm của ngôi nhà mà vẫn chưa hiểu lí do vì sao. Giống như kẻ đùa bỡn quá đà để kích thích vị giác của những người xung quanh, tôi xua tay nói với mọi người là tôi hãy ổn. Đám đông vừa nhốn nháo nhìn thấy gương mặt tỉnh tảo trái ngược hoàn toàn với một giây trước của tôi thì thở phào, trở lại chỗ của mình, thi thoảng lại lấp lét nhìn về phía tôi dè chừng. Tôi không biết nên vui hay nên buồn vì cơn đau đã trôi qua nhanh như thế và để lại cho tôi một mảng sườn trống hoác, đến độ từ góc cao phía trên đầu, hai con mắt tôi nhìn rõ ba cái xương sườn chưa biến mất hẳn hãy còn nhô ra. Sự khủng khiếp mà đám thịt bầy nhầy trong các bộ phim kinh dị thường khoe ra không hề có, ở ba khúc xương sườn của tôi có cái gì thê thảm và sa sút. Giống như vị thương gia vừa bị phá sản hoàn toàn bởi sự tham lam của chính ông ta, dẫn đến một nỗi đau khôn cùng cho toàn thể gia đình. Ba cái xương sườn của tôi trông đến là tội nghiệp, nhô ra như những thanh sắt của những tòa nhà bị cháy rồi lại bị dầm dưới nước tưới của vòi rồng cứu hỏa. Tôi không biết chúng được làm bằng gì mà lại có thể khiến người ta cảm thấy thưong tâm đến vậy, thậm chí ngay cả đến người chủ sở hữu chúng cũng không cầm được lòng mà tỏ bày ngay cảm xúc của mình ngay trước mặt đám đông đang bị nhốt trong cùng một cái không gian chật hẹp. Từ ba chiếc xương ấy một nỗi nhớ bay ra khỏi tạo thành ba làn sương mỏng manh xoắn xuýt vào nhau ôm ấp lấy ánh mắt tôi - nỗi nhớ về mảnh đất đã nuôi dưỡng tâm hồn tôi tự khi nào bỗng nhiên có hình hài cụ thể hiện hiển ra ngoài không gian như thế này? Vì chăng khi một tâm hồn cô đơn thì nó luôn tìm đến thứ phát ra những tia ấm áp đủ để xoa dịu nỗi đau chăng? Tôi âm thầm nhớ về quê hương của mình, nơi mà người ta đặt tôi vừa mới sinh hãy còn đỏ máu lên bụng mẹ mình, nơi mà cha tôi đã hi sinh một phần tâm hồn để bảo vệ, nơi mảnh đất khô cằn mọc toàn cây dại...Trong giờ phút tôi hãy còn chưa hiểu tình thế mà mình đang rơi vào, nỗi nhớ ấy cuộn lên như đám mây giăng kín bầu trời suy nghĩ của tôi, và sức hút của nó mạnh mẽ đến độ tôi thấy mình như sinh ra để yêu thương và được yêu thương bởi nơi đó. Tôi nảy ra cái ý nghĩ sẽ phải trở lại nơi ấy, để giang rộng toàn bộ cơ thể và tâm trí mình như giăng cánh buồm của con thuyền ra trước gió, và nó sẽ nói cho tôi biết tôi nên làm gì.

Đột nhiên một tiếng ầm làm cả đoàn tàu khựng lại và xô đi, mọi người hãy còn chưa hiểu chuyện đang xảy ra không ai nói một lời,im lặng nghe ngóng. Người phụ nữ khi nãy đưa cho tôi một chiếc khăn giấy tay cầm cuốn sách điện tử ngước mái đầu xoăn ngắn cũn cỡn về phía người đối diện, một người khác tay dắt đứa trẻ con vội vàng ngồi thụp xuống ôm chặt lấy nó, một nhóm trung niên đang trên đường ra sân bay làm rơi cả vali xuống sàn vội vàng nhặt lên. Tôi cũng bỏ qua ba dẻ xương sườn mà hướng mắt ra phía cửa chờ một lời giải thích. Ấy nhưng từ phía xa, ba tiếng động lớn xuyên thủng các bức tường vọt đến...

Ầm, ầm, ầm...

Một làn lửa và tiếng nổ dội đến từ phía đầu toa xe khiến tất cả mọi người trên toa xe bị đánh bật ra nhanh chóng khỏi vị trí của mình. Tôi từ một góc độ khác so với góc độ mà tôi khi nãy hãy còn ngồi ngắm nghía ba dẻ xương sườn của mình, mở mắt ra sau cơn chấn động quá đỗi kinh hoàng mà cả đời tôi chưa bao giờ được chứng kiến, ngạc nhiên trước cảnh tưởng bày ra trước mắt đây. Hằng trăm thân hình la liệt những máu và xương trộn vào với sắt thép và bê tông, đổ thành một đống trải dài có đến 200m trông giống hệt những bộ phim thảm họa của Hollywood. Một làn ánh sáng mờ nhạt bốc lên từ góc cuối mớ hỗn loạn thu hút lấy ánh nhìn của tôi khiến tôi cứ thế mà men theo, ở đó có một thứ gì vừa quen lại vừa lạ. Quen ở chỗ đống bầy hầy không ra vật thể gì ấy không ai khác chính là tôi, lạ ở chỗ tôi lại đang nhìn chính vào mình mặc dù đã biến dạng ra thành cái thứ kinh tởm ấy.

Ở phía trên một luồng ánh sáng khác rọi tới, phía đằng sau cánh cửa ngôi Đền trong ánh sáng vừa mở ra là hình bóng mẹ tôi đang đứng với hai tay buông thõng, bà nở nụ cười mời gọi.

Kết

"Con chết rồi mẹ ạ!" - tôi nói với mẹ khi cả hai đã ngồi ở gian nhà phía trong ngôi Đền. Một gian nhà trống hoác chẳng có gì bài trí như trong tưởng tượng của tôi.

"Ừ, mẹ biết." - mẹ tôi gật đầu phát ra những tiếng nhỏ lí nhí

"Một vụ nổ . Nhưng nếu không phải lúc ấy, thì rồi con cũng sẽ chết." - tôi ngắm nhìn không rời khuôn mặt người đàn bà ngồi trước mặt mình, là mẹ tôi đó nhưng lại lạnh lùng đến vô cùng. Cái nét trắng xóa và lạnh băng tỏa ra từ hai bên khóe miệng và hàng lông mày khiến tôi sởn gai ốc.

"Con nghĩ thế nào về cơn đau trước khi vụ nổ xảy ra ở ngực trái con?" - bà hỏi, mặt vẫn không nhìn vào con gái mình.

"Con đau, đau lắm. Nhưng con chưa kịp ghi nhớ nó thì nó đã biến mất. Mẹ, phải chăng đó là một lời cảnh báo?..." - gương mặt bà vẫn không cảm xúc- "không, con nghĩ ra rồi. Ở cái đau ấy không có tín hiệu nào của sự thương hại, không gì cả. Con đã lầm rồi, nó định giết chết con, giết chết con như cách người ta vẫn bóp cổ những đứa bé mà người ta không muốn giữ..." - lần này mẹ đã hướng ánh mắt của mình lên gương mặt tôi - "không mẹ ạ, con tin rằng cơn đau ấy còn muốn cái gì hơn thế. Nhưng mẹ ơi con còn chưa biết được đến sự hoàn hảo của bản thân, chẳng lẽ con không có cơ hội xứng đáng nhận điều ấy hay sao?" - lần này ánh mắt người mẹ đã bắt đầu mềm ra và chăm chú nghe , miệng không mở ra lấy một lần - "mẹ ơi, cha sẽ đau khổ, bạn con sẽ đau khổ. Mẹ nhớ Văn chứ, cậu ấy quý mẹ lắm, mẹ cũng quý cậu ấy lắm, mà con chưa có dịp được nói với cậu ấy rằng con vẫn còn nhớ đến cậu ấy. Con còn định về lại nơi cũ ấy."

Cảm xúc trong lúc này đáng lẽ ra phải như cơn thủy triều trong đêm trăng tròn, nhưng sao tôi không cảm nhận được sức nặng của chúng rơi xuống ở người tôi, những thứ ánh sáng nhẹ bẫng quắp hai bàn tay của nó vào thân hình tôi, khi này tôi mới nhìn xuống, cơ thể tôi lại lành lặn như trước khi nó bắt đầu tan biến vào không khi, như trước cái đêm tôi nằm với mẹ trong phòng bà và phát hiện một đốt ngón tay bị biến mất. Tôi giơ bàn tay phải mà dường như từ lâu lắm tôi không được nhìn thấy lên phía trước để nó tắm trong thứ ánh sáng không biết phát ra từ đâu, thế rồi ánh sáng chiếu đến cả cánh tay, cả bắp tay, rồi đến ngực, đến mạng sườn nơi vừa nãy thôi tôi còn được nhìn thấy sự thê thảm của những mảnh sườn của chính mình, thế mà giờ nó đã ngoan ngoãn nằm im sau lớp da trần của tôi.

"Nỗi đau ấy, chính là sự hủy diệt, phải không mẹ?"

Mẹ tôi giơ bàn tay giống hệt của tôi vuốt ve mái tóc tôi, và bà mỉm cười.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Com