Truyen2U.Net quay lại rồi đây! Các bạn truy cập Truyen2U.Com. Mong các bạn tiếp tục ủng hộ truy cập tên miền mới này nhé! Mãi yêu... ♥

dfgfxcfgbcvncv

MẶT CHỦ QUAN CỦA TỘI PHẠM

8.1. KHÁI NIỆM MẶT CHỦ QUAN CỦA TỘI PHẠM

Mặt chủ quan (MCQ) của tội phạm là mặt bên trong của tội phạm. Đó là những biểu hiện về mặt tâm lý của người phạm tội khi thực hiện hành vi phạm tội bao gồm lỗi, động cơ và mục đích phạm tội.

Trong mặt chủ quan của tội phạm, dấu hiệu lỗi luôn được phản ánh trong mọi CTTP, dấu hiệu động cơ và mục đích phạm tội được phản ánh là dấu hiệu định tội của một số tội, nhưng đa số chúng được phản ánh là tình tiết định khung hoặc tình tiết tăng nặng TNHS.

8.2. LỖI

8.2.1. Khái niệm lỗi

Lỗi là biểu hiện về mặt tâm lý của người phạm tội đối với hành vi nguy hiểm cho xã hội của mình và đối với hậu quả do hành vi đó gây ra được biểu hiện dưới hình thức lỗi cố ý hoặc lỗi vô ý.

Biểu hiện về tâm lý của người phạm tội là nội dung dấu hiệu lỗi. Cấu trúc trong quan hệ tâm lý của con người nói chung và của người phạm tội nói riêng được hợp thành bởi 2 bộ phận là lý trí và ý chí đối với các biểu hiện của mặt khách quan là hành vi khách quan và hậu quả của tội phạm. Cụ thể:

- Lý trí: Là khả năng nhận thức tính chất nguy hiểm của hành vi và khả năng nhận thức hậu quả của hành vi đó.

- Ý trí: Là khả năng điều khiển hành vi và khả năng điều khiển hậu quả.

Dựa vào cấu trúc trong yếu tố lỗi, hình thức lỗi được chia làm 2 loại là lỗi cố ý và lỗi vô

ý.

8.2.2. Lỗi với vấn đề tự do (xử sự) và trách nhiệm hình sự

Tự do ý trí: Là khả năng tâm lý của một người có thể tự mình lựa chọn và thực hiện biện pháp xử sự trong những điều kiện xã hội nhất định.

Tự do là cơ sở của TNHS đối với người thực hiện hành vi phạm tội.

Nếu hành vi của con người hoàn toàn mất tự do nghĩa là họ không có lỗi và họ không phải chịu TNHS. Ví dụ trường hợp bị cưỡng bức về tinh thần.

Nếu người thực hiện hành vi bị mất một phần tự do thì được miễn một phần TNHS. Mức độ TNHS phụ thuộc mức độ tự do ý chí.

8.2.3. Lỗi cố ý trực tiếp

Khoản 1, Điều 9 BLHS lỗi cố ý trực tiếp được thể hiện như sau:

Về lý trí: Người phạm tội nhận thức rõ tính chất nguy hiểm của hành vi và nhận thức rõ hậu quả tất yếu xẩy ra hoặc có thể xảy ra.

Về ý chí: Người phạm tội mong muốn hậu quả xảy ra.

Trong CTTP của đa số các tội phạm trong BLHS được quy định bởi hình thức lỗi cố ý trực tiếp. Ví dụ: các tội xâm phạm sở hữu, các tội phạm chức vụ.

Đối với những tội phạm có CTTP hình thức mức độ hình dung về hậu quả không cần phải rõ ràng, cụ thể vì hầu hết loại CTTP này hậu quả khó xác định. Trên thực tế có một số tội hậu quả dễ xác định đòi hỏi người phạm tội phải hình dung về hậu quả rõ ràng. Ví dụ Tội cướp tài sản.

8.2.4. Lỗi cố ý gián tiếp

Khoản 2, Điều 9 BLHS:

Với khái niệm trên cho thấy lỗi cố ý gián tiếp được thể hiện như sau:

- Về lý trí: Người phạm tội nhận thức rõ tính chất nguy hiểm của hành vi và nhận thức rõ hậu quả có thể xảy ra.

- Về ý chí: Người phạm tội không mong muốn hậu quả xảy ra nhưng bỏ mặc không quan tâm đến hậu quả, hậu quả xảy ra như thế nào cũng chấp nhận.

Chỉ có một vài tội được quy định trong BLHS với lỗi cố ý gián tiếp. Ví dụ: Tội bức tử, tội giết người, tội cố ý gây thương tích.

8.2.5. Lỗi vô ý vì quá tự tin.

Khoản 1, Điều 10 BLHS: được thể hiện như sau:

- Về lý trí: Người phạm tội nhận thức rõ tính chất nguy hiểm của hành vi và nhận thức rõ hậu quả có thể xảy ra.

- Về ý chí: Người phạm tội loại trừ khả năng hậu quả xảy ra.

Cơ sở để người phạm tội loại trừ khả năng hậu quả xảy ra trong lỗi vô ý vì quá tự tin là người phạm tội chủ quan tin vào kinh nghiệm, thói quen, tin vào khả năng chuyên nghiệp vụ của mình. Nhưng hậu quả thiệt hại vẫn xảy ra trên thực tế.

Nếu niềm tin của người phạm tội phù hợp với thực tế khách quan nghĩa là hậu quả không xảy ra trên thực tế thì họ không phải chịu TNHS. Chính vì vậy, hầu hết các tội thực hiện với lỗi vô ý là các tội có CTTP vật chất.

8.2.6. Lỗi vô ý do cẩu thả

Với khái niệm trên cho thấy lỗi vô ý do cẩu thả được thể hiện như sau:

- Về lý trí: Người phạm tội trong lỗi vô ý do cẩu thả do cẩu thả nên không thấy trước hậu quả của hành vi nhưng trong điều kiện phải thấy trước và có thể thấy được hậu quả đó.

Như vậy, việc người phạm tội không thấy trước hậu quả của hành vi là do nguyên nhân chủ quan từ phía người phạm tội.

- Về ý chí: Trong lỗi vô ý do cẩu thả người phạm tội không có khả năng điều khiển được hành vi của mình (tức là người phạm tội không có ý chí). Vì về lý trí người phạm tội không nhận thức được tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi và cũng không nhận thức được hậu quả của hành vi đó. Mà giữa lý trí và ý trí trong quan hệ tâm lý của người phạm tội là 2 yếu tố có mối quan hệ biện chứng với nhau. Trong đó, lý trí có trước và làm tiền đề, ý chí phụ thuộc vào ý chí. Nếu khi hành động con người không có lý trí (không có khả năng nhận thức) thì không bao giờ có ý chí (không thể có khả năng điều khiển hành vi và hậu quả được).

Muốn xác định người phạm tội có thể nhận thức được hoặc buộc phải nhận thức được hậu quả đó hay không? phải đặt trong từng hoàn cảnh cụ thể mới có thể đánh giá và kết luận được.

Chúng ta có thể đưa ra một ví dụ thể hiện mối liên quan và sự khác nhau của 4 hình thức lỗi này như sau:

A vứt đồ vật qua cửa sổ từ tầng 5 xuống đất trúng đầu B, làm B chết. Trong tình huống này sẽ thuộc vào 4 trường hợp sau:

1/ Sẽ là lỗi cố ý trực tiếp, nếu trước khi ném đồ vật A có quan sát thấy B đang đứng dưới đất, A nhằm B ném, trúng B.

2/ Sẽ là lỗi cố ý gián tiếp, nếu trước khi ném đồ vật A có quan sát thấy B đang đứng dưới đất, A vẫn cứ ném, A không nhằm vào B nhưng không may lại trúng B.

3/ Sẽ là lỗi vô ý vì quá tự tin, nếu trước khi ném đồ vật A có quan sát không có ai, nhưng khi ném thì có B tới đó nên đã trúng đầu B.

4/ Sẽ là lỗi vô ý do cẩu thả, nếu trước khi ném đồ vật A không quan sát khi ném đã trúng

B. 8.2.7. Sự kiện bất ngờ

Điều 11 BLHS quy định:

Ví dụ: A trèo lên cột điện sửa điện nhưng sử dụng thiết bị an toàn không đúng quy cách đã bị rơi xuống đường. B lái xe đảm bảo đủ các điều kiện về an toàn khi vận hành, khi A rơi xuống đường B đã cán chết A. Hành vi của B trong trường hợp này là sự kiện bất ngờ.

Giữa lỗi vô ý vì cẩu thả và sự kiện bất ngờ giống nhau ở dấu hiệu lý trí đó là: người thực hiện hành vi trên thực tế đã gây hậu quả thiệt hại cho xã hội trong trường hợp không thấy trước

hậu quả đó.

Sự khác nhau giữa lỗi vô ý do cẩu thả với sự kiện bất ngờ:

- Đối với lỗi vô ý vì cẩu thả: Người phạm tội do chủ quan nên không thấy trước     được

hậu quả đó. Người thực hiện hành vi với lỗi vô ý do cẩu thả bị coi là tội phạm và phải chịu TNHS.

- Đối với trường hợp sự kiện bất ngờ: Người thực hiện hành vi gây hậu quả thiệt hại do nguyên nhân khách quan không thể thấy trước được hậu quả đó. Trường hợp này họ không bị coi là tội phạm và họ không phải chịu TNHS.

8.2.8. Trường hợp hỗn hợp lỗi.

Lỗi hỗn hợp là trường hợp trong một CTTP có hai loại lỗi cố ý và vô ý đối với các tình tiết khách quan khác nhau.

Về phương diện khoa học cho thấy điều kiện của hỗn hợp lỗi là trong một CTTP phải có ít nhất 2 hậu quả tương ứng với 2 hình thức lỗi cố ý và vô ý.


Đối chiếu với điều kiện trên cho thấy, BLHS 1985 hỗn hợp lỗi chỉ tồn tại trong CTTP tăng nặng của một số tội. Trong đó, CTTP cơ bản là lỗi cố ý còn tình tiết định khung là lỗi vô ý.

Ví dụ: Trường hợp cố ý gây thương tích dẫn đến chết người Khoản 3, Điều 104 BLHS

1985.

Trong BLHS 1999, hỗn hợp lỗi có thể tồn tại trong CTTP tăng nặng và tồn tại trong rất nhiều CTTP cơ bản.

Ví dụ: CTTP cơ bản của tội trộm cắp tài sản tại Khoản 1, Điều 138 BLHS 1999 là trường hợp hỗn hợp lỗi, nếu tài sản trộm cắp dưới 500.000 đồng mà gây hậu quả nghiêm trọng. Trong CTTP cơ bản này, hậu quả tài sản bị chiếm đoạt trị giá dưới 500.000 đồng là lỗi cố ý, còn hậu quả nghiêm trọng khác là lỗi vô ý.

8.3. ĐỘNG CƠ VÀ MỤC ĐÍCH PHẠM TỘI 8.3.1. Động cơ phạm tội

Động cơ phạm tội là động lực bên trong thúc đẩy người phạm tội thực hiện hành vi phạm

tội.

Ví dụ: Điều 248 Tội đánh bạc - động cơ phạm tội là các con bạc sát phạt nhau           Động

cơ phạm tội chỉ có thể đặt ra với các tội thực hiện với lỗi cố ý. Còn các tội thực hiện với lỗi vô ý chỉ có động cơ của xử sự. Ví dụ: tại thời điểm vượt đèn đỏ, động cơ của xử sự là để đưa bệnh nhân đến bệnh viện cấp cứu kịp thời nên đã gây hậu quả tai nạn.

Đa số trường hợp phạm tội, động cơ phạm tội là tình tiết định khung tăng nặng hoặc là tình tiết tăng nặng TNHS. Do đó, việc xác định chúng có ý nghĩa trong việc định khung hình phạt hoặc quyết định hình phạt. Ví dụ: Động cơ đê hèn của tội giết người.

8.3.2. Mục đích phạm tội

Mục đích phạm tội là cái mốc mà người phạm tội mong muốn đạt đến khi thực hiện tội

phạm.

Giữa mục đích phạm tội và hậu quả của tội phạm luôn có mối liên quan chặt chẽ với nhau, hậu quả của tội phạm chính là sự thể hiện, sự phản ánh mục đích phạm tội. Chính vì vậy mà trong mỗi CTTP chỉ có sự hiện diện của một trong hai dấu hiệu này mà thôi. Thông thường những tội nào hậu quả khó xác định thì dấu hiệu mục đích mới có thể được phản ánh trong CTTP. Ví dụ: Đối với các tội xâm phạm An ninh quốc gia mục đích phạm tội được phản ánh trong tất cả các CTTP.

Có thể so sánh để thấy được sự khác biệt giữa chúng theo các tiêu chí sau:

Mục đích phạm tội

Hậu quả tội phạm

- Nằm trong ý thức chủ quan.

-  Thể hiện ngoài thế giới khách quan.

- Có trước.

- Có sau.

8.4. SAI LẦM VÀ ẢNH HƯỞNG CỦA SAI LẦM ĐỐI VỚI VẤN ĐỀTNHS 8.4.1. Sai lầm về pháp luật

Sai lầm về pháp luật là sự đánh giá không đúng của một người về tính chất pháp lý của hành vi đã thực hiện. Sai lầm về pháp luật có hai dạng:

- Dạng thứ nhất: Là trường hợp một người khi thực hiện hành vi cho rằng hành vi của mình không phải là tội phạm nhưng BLHS quy định đó là tội phạm thì họ vẫn phải chịu TNHS về tội đã thực hiện.

- Dạng thứ hai: Là trường hợp một người khi thực hiện hành vi cho rằng hành vi của mình là tội phạm nhưng BLHS không quy định đó là tội phạm thì họ không phải chịu TNHS.


8.4.2. Sai lầm về sự việc

Sai lầm về sự việc là trường hợp một người đánh giá không đúng về những tình tiết thực tế của hành vi của mình.

Sai lầm về sự việc có những dạng như sau:

1- Sai lầm về công cụ phương tiện: Là trường hợp một người thực hiện hành vi nhằm xâm hại một khách thể được LHS bảo vệ nhưng trên thực tế đã không xâm hại được vì đã sử dụng nhầm công cụ phương tiện mà người đó muốn.

2- Sai lầm về mối quan hệ nhân quả: Là trường hợp một người đánh giá không đúng về sự phát triển của hành vi của mình.

3- Sai lầm về đối tượng tác động: Định giết A nhưng nhầm B là A nên đã giết B. 4- Sai lầm về khách thể có 3 dạng

- Dạng thứ nhất: Một người khi thực hiện hành vi nhằm xâm hại một khách thể nhất định nhưng trên thực tế đã không xâm hại được vì đã tác động nhầm vào đối tượng tác động không thuộc khách thể được LHS bảo vệ. Trường hợp này họ phải chịu TNHS về tội có ý định thực hiện.

- Dạng thứ hai: Một người khi thực hiện hành vi nhằm xâm hại một khách thể được LHS bảo vệ nhưng trên thực tế đã không xâm hại được vì tác động nhầm vào đối tượng tác động thuộc khách thể khác được LHS bảo vệ.

Trên thực tế là hành vi trộm cắp thuốc phiện nhưng trong ý thức chủ quan là trộm cắp tài sản (trường hợp này người thực hiện hành vi đó phải chịu TNHS về tội trộm cắp tài sản).

- Dạng thứ ba: Một người thực hiện hành vi không nhằm xâm hại khách thể được LHS bảo vệ nhưng trên thực tế đã xâm hại đến khách thể do tác động nhầm vào đối tượng tác động được LHS bảo vệ.

Trường hợp này phải chịu trách nhiệm hình sự về hậu quả thực tế đã xảy ra với lỗi vô ý. Chúng ta có thể minh hoạ các nguyên tắc xác định TNHS đối với các trường hợp sai lầm

về sự việc như sau:

Các trường hợp

ý thức chủ quan

Thực tế khách

Nguyên tắc xác định

sai lầm

quan

TNHS

1.

Sai lầm về công cụ.

Dùng

thuốc

độc

giết  Thuốc bổ.

Không thay đổi.

người.

2.

Sai lầm về mối quan  A bắn B.

C chết.

Giết người chưa đạt.

hệ nhân quả

Vô ý làm chết người.

3 Sai lầm về đối tượng  A giết B.

C chết.

Giết người chưa đạt.

tác động.

Vô ý làm chết người.

4.

Sai  lầm  về  khách  A dùng dao đâm B

Đâm heo

Cố   ý   gây   thương   tích.

thể.

A cướp tài sản trên tay B

Thuốc phiện

Cướp tài sản.

A bắn thú rừng.

B chết

Vô ý làm chết người

Như vậy, cơ sở xác định trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội trong trường hợp có sai lầm về sự việc là phải xuất phát từ việc xác định ý thức chủ quan của người phạm tội, bởi vì ý thức chủ quan của người phạm tội mới là sự thể hiện về mặt nội dung về bản chất của vụ án.


35




Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Com

Tags: