Truyen2U.Net quay lại rồi đây! Các bạn truy cập Truyen2U.Com. Mong các bạn tiếp tục ủng hộ truy cập tên miền mới này nhé! Mãi yêu... ♥

Chương 1 - Ngọn Núi Ăn Thịt Người.




QUYỂN MỘT

TRONG VƯƠNG QUỐC CỦA KẺ MÙ

Chương 1

Ngọn Núi Ăn Thịt Người.

Các vị Đội Trưởng

Những người quan sát

NGỌN NÚI đã tồn tại hàng chục nghìn năm, một khối đất đá sừng sững được ý chí của những thế lực vượt xa trí tưởng tượng của bất kỳ sinh linh nào trên Aghoru dựng nên. Dù dân bản địa không hề biết đến địa chất học, các lực kiến tạo đại lục, năng lượng ép nén hay sự nâng đỡ đẳng tĩnh, họ vẫn đủ hiểu rằng Ngọn Núi quá rộng lớn, quá hùng vĩ để có thể là một cấu trúc tự nhiên.

Nằm giữa vùng đồng bằng muối nhấp nhô mà tổ tiên người Aghoru từng tuyên bố là đáy một đại dương cổ đại, Ngọn Núi vươn cao gần ba mươi cây số, cao hơn cả ngọn Olympus Mons, lò rèn vĩ đại của ngài Fabricator trên sao Hỏa.

Nó thống trị bầu trời cháy rực màu nâu đỏ, một đỉnh núi thanh thoát mà uy nghi, mang hình dáng như ngôi mộ khổng lồ dựng lên cho một vị vua cổ đại, có quy mô tráng lệ, đồ sộ đến mức thần thoại. Không có đường nét nào đều đặn hình thành nên ngọn núi, và không công trình nào của nhân loại từng can thiệp lên những sườn núi gồ ghề đó, nhưng chỉ một lần ngắm nhìn thôi cũng đủ khiến cả kẻ hoài nghi cứng đầu nhất tin rằng nó được tạo tác bởi những thế lực phi tự nhiên.

Không một sự sống nào mọc lên trên các vách đá của nó, không cây cỏ, không bụi gai, thậm chí không một ngọn cỏ dại dù là nhỏ nhất. Mặt đất quanh Ngọn Núi lấp lóa trong sức nóng hừng hực của một hành tinh mặt trời, một khối cầu treo thấp nơi đường chân trời như thứ trái cây chín rữa.

Thế nhưng, bất chấp cái nóng, đá của Ngọn Núi lại lạnh buốt khi chạm vào, nhẵn nhụi và trơn láng như vừa được nâng lên từ đáy một đại dương đen. Ánh sáng mặt trời dường như ghét bỏ sườn núi của nó; những thung lũng đổ bóng, các trũng sâu và khe nứt xẻ dọc đầy tối tăm và lạnh lẽo như thể toàn bộ ngọn núi được dựng trên một mạch nước đóng băng, thứ từ từ thấm hơi lạnh vào đá thông qua một kiểu thẩm thấu địa chất kỳ lạ nào đó.

Bao quanh phần chân nhăn nhúm của Ngọn Núi là những cụm đá lớn dựng đứng, mỗi khối cao hơn ba người, xếp thành các vòng tròn lỏng lẻo. Những công trình như vậy lẽ ra phải là kỳ tích, những công trình kỹ thuật ngoạn mục đối với một nền văn hóa không có thiết bị nâng cơ học, không có công nghệ giảm trọng lượng hay các động cơ khổng lồ của Mechanicum. Thế nhưng, khi đứng trước nguồn gốc nhân tạo của Ngọn Núi, chúng trở nên nhỏ bé, thô sơ, chỉ là những vết chấm so với sự mênh mông u tối và không thể lý giải của nó. Trên một thế giới như thế này, điều gì có thể dựng nên một ngọn núi như thế này cơ chứ?

Không một ai trong số vô số con người quy tụ về Aghoru có thể trả lời câu hỏi đó, dù có những trí tuệ vĩ đại, đầy tò mò và xuất chúng đã dồn toàn bộ khả năng để đi tìm lời giải.

Đối với người Aghoru, Ngọn Núi là Trục Thế Giới (Axis Mundi), là nơi hành hương.
Đối với các học giả kiêm chiến binh của Thousand Sons, Ngọn Núi và dân cư quanh nó là một điều kỳ dị, một câu đố cần được giải mã, và có lẽ cũng là đáp án cho bí ẩn mà vị chỉ huy vĩ đại của họ đã theo đuổi suốt gần hai thế kỷ.

Chỉ có một điều mà cả hai nền văn hóa đều đồng lòng tuyệt đối: Ngọn Núi này là nơi dành cho kẻ chết.

****

"Anh có thấy Ngài ấy không?" một giọng nói cất lên, xa xăm và mơ hồ.
"Không."
"Lẽ ra ngài ấy phải quay lại rồi chứ," giọng nói lại thúc ép, giờ đây mạnh mẽ hơn. "Tại sao ngài ấy chưa quay lại?"

Ahriman chìm xuống qua các Tầng Suy Niệm (1), cảm nhận sự hiện diện tâm linh của ba Astartes đang tụ họp dưới tán lều màu đỏ thẫm của hắn bằng những giác quan vượt xa thứ bản năng thô sơ mà tự nhiên đã ban phát cho loài người.
Tâm thức hùng mạnh của họ ngân lên trong thân xác như những luồng sấm sét bị trói buộc, Phosis T'kar thì căng thẳng và nóng nảy, còn Hathor Maat lại u uất và kiềm chế một cách cứng nhắc.
Trường Thiên Không của Sobek chỉ như một ngọn nến nhỏ bé bên cạnh những mặt trời đang bùng cháy trong lòng hai người kia.

Ahriman cảm thấy thân thể vi tế của mình hòa nhập trở lại với xác thịt, rồi mở mắt. Ông cắt đứt liên kết với Tutelary của mình và ngước nhìn Phosis T'kar. Mặt trời đã xuống thấp, nhưng vẫn còn sáng chói, khiến ông phải nheo mắt, giơ tay che ánh chói phản chiếu từ các đồng bằng muối.

"Ổn cả chứ?" Phosis T'kar hỏi.

"Ta không biết," ông đáp. "Aaetpio không thể nhìn xuyên qua được những khối đá chết."

"Cả Utipa cũng vậy," Phosis T'kar nói, ngồi xổm xuống, đôi mắt xẹt lên những làn bụi muối bằng những luồng suy nghĩ bực bội. Ahriman cảm nhận từng làn bụi đó như những tia điện xẹt qua tâm trí của mình.
"Tại sao các Tutelary (2) không thể thấy gì bên kia?"

"Ai mà biết?" Ahriman đáp, lòng lo lắng nhiều hơn những gì ông muốn thừa nhận.

"Tôi tưởng anh có thể nhìn xa hơn chứ. Dù sao thì anh cũng thuộc hệ phái Corvidae mà."

"Ở đây thì vô ích thôi," Ahriman đáp, nhẹ nhàng đứng dậy từ tư thế ngồi xếp bằng, phủi những tinh thể muối lấp lánh bám trên các phiến giáp đỏ thẫm có khắc phù văn. Cơ thể ông thấy cứng đờ, và phải mất một lúc ký ức cơ bắp mới khôi phục hoàn toàn quyền kiểm soát tứ chi sau chuyến du hành trong cõi Thiên Không.

"Dù sao đi nữa," ông nói tiếp, "tôi không nghĩ nên thử ở thế giới này. Ranh giới giữa chúng ta và Đại Dương Mênh Mông ở đây rất mỏng manh, mà năng lượng chưa được dẫn dắt thì lại quá nhiều."

"Có lẽ anh nói đúng," Phosis T'kar gật đầu, mồ hôi nhỏ giọt trên cái đầu cạo trọc, men theo một vết sẹo hình bầu dục kéo dài từ đỉnh đầu xuống gáy.

"Anh nghĩ đó là lý do chúng ta cứ chần chừ trên hành tinh này à?"

"Hoàn toàn có thể," Ahriman đáp. "Nơi này ẩn chứa sức mạnh, nhưng người Aghoru lại sống cân bằng suốt hàng thế kỷ mà không chịu ảnh hưởng xấu nào, không đột biến. Điều đó xứng đáng để điều tra."

"Chắc chắn là vậy," Hathor Maat nói, trông chẳng hề bị ảnh hưởng gì bởi cái nóng như lò nung. "Còn lại thì hành tinh khô cằn này chẳng có gì đáng quan tâm. Và tôi không tin lũ Aghoru. Tôi nghĩ chúng đang che giấu điều gì đó. Làm sao có thể sống ở nơi như thế này lâu như vậy mà không có bất kỳ dấu hiệu đột biến nào?"

Ahriman chú ý đến sự căm ghét mà vị đội trưởng đồng môn của mình rít lên khi nói từ "đột biến." Khác với Ahriman hay Phosis T'kar, làn da của Hathor Maat trắng như đá cẩm thạch bóng mịn, mái tóc vàng óng như tranh khảm các anh hùng trong Athenaeum. Không một giọt mồ hôi nào vấy bẩn khuôn mặt như được tạc tượng ấy của Maat.

"Tôi chẳng quan tâm chúng làm sao mà được như vậy," Phosis T'kar nói. "Nơi này khiến tôi phát chán. Đã sáu tháng rồi, lẽ ra giờ này ta phải đang đánh trận trong Cụm Sao Ark Reach. Hạm đội 47 của Lorgar đang chờ chúng ta, cả Russ nữa. Và tin tôi đi, anh không muốn để Bầy Sói phải chờ lâu hơn cần thiết đâu."

"Ngài Primarch đã lệnh ở lại, thì ta ở lại," Ahriman nói.

Sobek, trợ tá tận tụy của ông bước lên dâng một chén nước. Ahriman uống cạn nước mát trong một hơi. Khi Sobek đưa chiếc vò bằng đồng ra để rót thêm, ông lắc đầu.

"Không, mang cho Người Tưởng Nhớ Eris đi," ông ra lệnh. "Cô ấy đang ở khu đá chết và cần nó hơn ta."

Sobek gật đầu rồi rời khỏi bóng râm của mái lều mà không nói thêm lời nào. Bộ chiến giáp của Ahriman giúp làm mát cơ thể ông, tái chế hơi ẩm và chống lại phần tệ hại nhất của cái nóng thiêu đốt. Những Người Tưởng Nhớ đáp xuống bề mặt hành tinh thì không được trang bị may mắn như vậy, và hàng chục người đã phải đưa trở lại khoang y tế của Photep vì say nắng và mất nước.

"Anh nuông chiều người đàn bà ấy quá, Ahzek," Hathor Maat nói. "Không có nóng đến thế đâu."

"Anh nói thì dễ thôi," Phosis T'kar đáp, lau mồ hôi trên đầu bằng một tấm giẻ. "Không phải ai cũng thuộc hệ phái Pavoni. Một số người bọn tôi phải tự mình chịu cái nóng này đấy."

"Nếu chịu khó nghiên cứu, thiền định và rèn luyện tâm trí, có ngày anh cũng đạt được trình độ như tôi," Maat đáp. Giọng có vẻ đùa cợt, nhưng Ahriman biết hắn không hề nói đùa. "Bọn Raptora các anh thì lúc nào cũng hiếu chiến, nhưng sớm muộn gì cũng sẽ học được các Tầng Suy Niệm cần thiết."

Phosis T'kar cau mặt, và một chùm tinh thể muối dày đặc từ mặt đất bay vút lên, nhắm thẳng vào đầu Hathor Maat. Trước khi chúng kịp chạm đích, tay của Maat vung lên nhanh như chớp, tóm lấy cả khối tinh thể.

Hắn nghiền nát nó trong lòng bàn tay, để đám bụi muối rơi rả rích xuống đất.

"Chắc là anh làm được hơn thế chứ?"

"Đủ rồi đấy," Ahriman lên tiếng. "Cả hai kiểm soát quyền năng của mình đi. Không phải để đem ra phô diễn lố lăng, nhất là khi có phàm nhân ở quanh đây."

"Vậy thì sao còn giữ họ lại?" Maat hỏi. "Gửi cô ta đi cùng đám còn lại là xong chuyện."

"Tôi đã nói điều đó với hắn mãi rồi đấy," Phosis T'kar thêm vào. "Nếu cô ta ham học hỏi về cuộc Đại Viễn Chinh đến thế, thì gửi sang mấy quân đoàn thích được bất tử hóa ấy, lũ Ultramarines hay Word Bearers chẳng hạn. Cô ta không hợp với chúng ta đâu."

Đó là một ý kiến quen thuộc, và Ahriman đã nghe nó cả trăm lần từ các đội trưởng đồng môn. T'kar không phải kẻ hay lên tiếng nhất, vinh dự đó thuộc về Khalophis của Hội Đồng Môn Thứ Sáu. Dù T'kar đứng về phía nào, thì Khalophis cũng sẽ mô phỏng theo với giọng điệu còn ầm ĩ hơn.

"Lẽ nào chúng ta không xứng đáng được ghi nhớ?" Ahriman phản bác. "Các bài viết của Kallista Eris là trong số những tác phẩm sâu sắc nhất mà tôi từng đọc từ Hội Tưởng Nhớ. Tại sao chúng ta lại bị gạt ra khỏi biên niên sử của cuộc Đại Viễn Chinh?"

"Anh biết vì sao rồi mà," Phosis T'kar gắt. "Một nửa Đế Chế từng mong chúng ta chết sạch. Họ sợ chúng ta."

"Họ sợ những gì họ không hiểu," Ahriman đáp. "Ngài Primarch nói nỗi sợ ấy sinh ra từ sự ngu muội. Tri thức sẽ là ánh sáng dẫn đường xua tan bóng tối đó."

Phosis T'kar khịt mũi, rồi dùng tư tưởng của mình để vạch nên những vòng xoáy trên nền muối.
"Họ càng biết nhiều, họ càng sợ chúng ta nhiều hơn. Anh hãy nhớ kỹ lời tôi," hắn nói.

Ahriman phớt lờ T'kar, bước ra khỏi bóng râm của mái lều. Những cảm giác khi du hành bằng thân thể vi tế gần như đã tan biến, và thế giới vật chất quen thuộc dần trở lại với ông: cái nóng như thiêu đốt khiến da ông sạm màu gỗ mun chỉ sau một giờ kể từ lúc chiếc Stormbird hạ cánh; lớp mồ hôi nhớp nháp bám lên làn da rắn chắc như thép; và mùi không khí, một hỗn hợp giữa muối cháy khét và hương liệu đậm đặc.

Và những cơn gió Thiên Không xoáy tròn quét qua bề mặt hành tinh này.

Ahriman cảm nhận quyền năng chảy tràn qua cơ thể, những luồng sáng tựa vệt sao băng của tiềm lực tâm linh lấp lánh đang khao khát được uốn nắn thành hình hài thực thể. Hơn một thế kỷ khổ luyện giúp ông giữ dòng năng lượng ấy lưu chuyển nhẹ nhàng như thủy triều, rửa trôi qua cơ thể, ngăn không để mức năng lượng Thiên Không đạt đến ngưỡng nguy hiểm. Buông lỏng cho nó thoát ra thì quá dễ, nhưng Ahriman quá rõ hậu quả khôn lường của việc đó.

Ông đưa tay chạm vào chiếc lá sồi bạc gắn trên vai phải, hít sâu một hơi và lẩm nhẩm niệm một bài từ Tầng Suy Niệm, khiến trường năng lượng thiên không dần lắng dịu xuống.

Ahriman ngước nhìn ngọn núi sừng sững, thầm nghĩ về quyền năng vô biên của những kẻ đã dựng nên nó, và về việc Primarch của họ đang làm gì bên trong. Cho tới khi năng lực tiên tri bị tước đi, ông mới nhận ra mình mù lòa đến mức nào.

"Ngài ấy đâu rồi?" Phosis T'kar gầm khẽ, như nói hộ nỗi lo của ông.

Đã bốn tiếng trôi qua kể từ khi Magnus Đỏ theo chân Yatiri cùng các tộc nhân của hắn tiến vào Ngọn Núi, và sự căng thẳng từ lúc ấy cứ gặm nhấm thần kinh bọn họ mãi không dứt.

"Anh đang lo cho ngài ấy, đúng không?" Hathor Maat hỏi.

"Từ bao giờ anh học được năng lực của hệ phái Athanaean vậy?" Ahriman hỏi lại.

"Tôi không cần phải học. Tôi nhìn là biết hai người đang lo," Maat đáp. "Rõ ràng quá rồi còn gì."

"Còn anh thì không lo à?" Phosis T'kar hỏi.

"Magnus biết tự lo cho mình," Hathor Maat đáp. "Ngài ấy đã bảo chúng ta chờ ở đây."

Quả đúng là Primarch của Thousand Sons đã dặn họ đợi ngài quay lại, nhưng trong lòng Ahriman vẫn dấy lên một linh cảm tồi tệ rằng có điều gì đó đang rất sai trái.

"Anh đã thấy cái gì à?" Phosis T'kar hỏi, nhận ra vẻ mặt Ahriman. "Khi anh du hành trong Đại Dương Mênh Mông, anh đã thấy điều gì đó đúng không? Nói tôi nghe đi."

"Tôi chẳng thấy gì cả," Ahriman đáp, giọng chua chát.

Ông quay lưng lại, bước nhanh về lều chỉ huy, lấy vũ khí từ một chiếc rương dài bằng gỗ keo và khảm ngọc bích. Ông cài vào thắt lưng một khẩu súng lục, một kiệt tác của nghệ nhân chế tác sánh ngang với bất kỳ món nào do các thợ rèn của Salamanders dưới quyền Vulkan làm ra, hai bên thân súng được mạ vàng hình cánh chim diều hâu và báng súng được phủ da thuộc lốm đốm

Ngoài khẩu súng, ông còn mang theo một quyền trượng heqa dài bằng ngà voi, đầu gắn một lưỡi đao móc cong, toàn thân gậy được mạ vàng và gia cố bằng các vòng đồng xanh.

"Anh đang làm cái gì vậy?" Hathor Maat hỏi khi thấy ông bước ra, sẵn sàng cho chiến trận.

"Tôi sẽ đưa biệt đội Sekhmet vào trong ngọn núi đó," Ahriman đáp. "Anh đi cùng chứ?"






Ahriman - Pháp sư hùng mạnh nhất của Thousand Sons

****

LEMUEL GAUMON đang tựa lưng vào một trong những tảng đá chết nơi chân núi khổng lồ, cố gắng nép mình trong bóng râm của nó và thầm mong thân hình mình đừng quá đẫy đà như vậy. Sinh ra và lớn lên trong các thành phố tổ ong thuộc vùng lục địa trôi dạt giữa các khu tự trị Nordafrik, anh vốn đã quen với cái nóng, nhưng thế giới này lại là chuyện hoàn toàn khác.

Anh mặc một chiếc áo choàng dài bằng vải lanh nhẹ, thêu hoa văn sặc sỡ với các họa tiết đan xen của tia chớp, bò mộng, hình xoắn ốc và vô số biểu tượng khác khó xác định hơn. Chiếc áo được một thợ may mù ở khu thương nghiệp Sangha dệt theo thiết kế của anh, các họa tiết được lấy từ những cuộn thư tịch thu thập trong thư viện bí mật tại biệt thự của anh ở Mobayi.

Làn da sẫm màu, đầu cạo trọc, đôi mắt sâu hoắm của anh dõi theo trại đóng quân của các Thousand Sons với vẻ chăm chú, thỉnh thoảng lại ghi chép vài dòng vào cuốn sổ nhỏ đặt trên đùi.

Chừng một trăm lều vải màu đỏ thắm rải rác khắp cánh đồng muối, vạt lều được buộc gọn hai bên, mỗi cái lều là nơi đóng quân của một nhóm chiến binh Thousand Sons. Anh đã ghi chú lại những Hội Đồng Môn có mặt ở đây: Scarab Occult của Ahriman, Hội Thứ Tư của Ankhu Anen, Hội Thứ Sáu của Khalophis, Hội Thứ Ba của Hathor Maat, và Hội Thứ Hai của Phosis T'kar.

Một đạo quân Astartes khá đông đóng trại trước chân núi, bầu không khí căng thẳng một cách lạ thường, dù Lemuel không thấy nguyên do gì rõ ràng. Rõ ràng là họ không mong là sẽ có rắc rối, nhưng cũng rõ ràng không kém rằng có điều gì đó đang khiến họ bất an.

Lemuel nhắm mắt lại, để ý thức mình trôi dạt theo những dòng năng lượng vô hình gợn sóng trong không khí như ảo ảnh nhiệt. Dù đôi mắt đã khép, anh vẫn cảm nhận được năng lượng của thế giới này như một bức họa sống động tràn sắc màu, rực rỡ hơn cả những kiệt tác vĩ đại nhất của Serena d'Angelus hay Kelan Roget. Phía sau những tảng đá chết, ngọn núi là một bức tường đen đặc của hư vô, một vách đá tối tuyệt đối, vững chắc và không thể xuyên thấu như adamantium.

Nhưng xa hơn, về phía những cánh đồng muối, thế giới ấy rực rỡ sắc màu như đang sống dậy.

Doanh trại của Thousand Sons là một biển lửa chói lòa của màu sắc và ánh sáng biến ảo, tựa một vụ nổ hạt nhân bị đóng băng ngay khoảnh khắc bùng phát. Ngay giữa cơn lốc ánh sáng ấy, có những luồng sáng rực rỡ hơn cả, và ba trong số đó đang tụ hội bên dưới nơi Lemuel biết là chỗ lều của Đội Trưởng Ahriman. Có điều gì đó đang gặm nhấm tâm trí họ, và anh ước mình đủ can đảm để lại gần hơn.

Một luồng trí tuệ chói sáng tựa siêu tân tinh giữa những ngọn nến leo lét thường rực lên ở trung tâm trại, nhưng hôm nay thì không.

Có lẽ đó chính là nguồn cơn của sự căng thẳng đang bao trùm các Thousand Sons.

Vị thủ lĩnh vĩ đại của họ đang trong tình trạng vắng mặt.

Bực bội, ý thức của Lemuel rời khỏi doanh trại Thousand Sons và trôi dạt về phía những nơi cư trú chìm của người Aghoru. Được khoét sâu vào lòng đất khô cằn, chúng tối tăm và vô hồn, trái ngược hoàn toàn với ánh sáng và sinh khí rực rỡ của Thousand Sons. Người Aghoru cằn cỗi như chính cánh đồng muối mà họ sống trên đó, không mang lấy một tia hiện diện nào trong dòng năng lượng.

Anh mở mắt, thở ra chậm rãi và đọc thầm Chân ngôn của Sangoma để xoa dịu nhịp tim đang dồn dập. Lemuel uống một ngụm từ chiếc bình tông bọc vải bố; nước ấm, lợn cợn cát nhưng vẫn được chào đón như báu vật. Cạnh anh còn ba bình nữa trong chiếc ba lô, nhưng chúng cũng chỉ đủ cho đến chiều. Tới khi màn đêm buông xuống, anh sẽ phải đi lấy thêm nước, bởi cái nóng khắc nghiệt nơi đây chỉ giảm đi đôi chút vào ban đêm.

"Làm sao mà ai có thể sống nổi trong cái nóng này cơ chứ?" anh lại lầm bầm lần thứ một trăm.

"Họ không sống ở đây," một giọng nữ cất lên phía sau, và anh mỉm cười khi nhận ra âm thanh ấy. "Họ sống chủ yếu ở các châu thổ màu mỡ phía bắc hoặc dọc bờ tây."

"Cứ cho là cô nói đúng đi, Camille thân mến," anh đáp. "Nhưng tự nguyện đi bộ từ đó đến nơi hoang vu này thì quả là đi ngược lại hết cả lẽ thường."

Người nói bước vào tầm nhìn, và anh nheo mắt qua ánh nắng chói chang nhìn cô gái trẻ trong chiếc áo gi-lê bó sát, chiếc quần quân đội đã cắt ngắn và đôi dép đầy bụi. Cô đeo một chiếc máy ghi âm kiêm chụp ảnh quanh cổ, bên vai là túi vải bố nhét đầy sổ tay và tập vẽ.

Camille Shivani là một hình ảnh ấn tượng với làn da nâu sạm nắng, mái tóc đen dài buộc gọn dưới lớp khăn lụa quấn hờ cùng kính che nắng tối màu. Nước da cô màu nâu đỏ, phong thái thẳng thắn, và Lemuel rất mến cô. Cô mỉm cười nhìn anh, và anh đáp lại bằng nụ cười rạng rỡ nhất của mình. Một nỗ lực vô ích, Camille không hề có hứng thú với kiểu người như anh, nhưng lịch thiệp thì chẳng bao giờ thừa cả.

"Lemuel, khi nói tới con người, kể cả những nhánh đã lạc mất của nó, thì anh nên biết rằng logic hiếm khi dính dáng gì tới cách người ta hành xử," Camille Shivani nói, vừa phủi bụi khỏi đôi găng tay mỏng cô luôn mang.

"Quá đúng. Nếu không thì sao chúng ta còn nán lại ở nơi chẳng có gì đáng để ghi nhớ thế này?"

"Không có gì đáng ghi nhớ à? Vô lý, nơi này có rất nhiều thứ để học hỏi," cô đáp.

"Có thể với một nhà khảo cổ kiêm sử học thì vậy," anh nói.

"Tôi đã sống cả tuần lễ cùng người Aghoru, khám phá những tàn tích mà làng mạc của họ được xây dựng bên trên. Rất thú vị đấy, lần sau khi tôi quay lại, anh nên đi cùng."

"Tôi á? Tôi sẽ học được gì ở đó chứ?" anh hỏi. "Tôi nghiên cứu cách các xã hội hình thành sau khi được quy phục, không phải phế tích của những nền văn minh đã chết."

"Đúng, nhưng cái gì tồn tại trước đó vẫn luôn ảnh hưởng đến những gì sẽ đến sau. Anh biết rõ cũng như tôi rằng không thể cứ áp một nền văn minh lên một nền văn minh khác mà không xét tới lịch sử trước đó mà."

"Cũng đúng, nhưng người Aghoru xem ra chẳng có bao nhiêu lịch sử để mà thay thế," anh nói buồn bã. "Tôi không nghĩ thứ họ có sẽ tồn tại được bao lâu nữa khi Đế chế đến."

"Có thể anh nói đúng. Nhưng chính vì vậy, việc nghiên cứu họ khi còn có thể lại càng quan trọng."

Lemuel gượng đứng dậy, nỗ lực ấy khiến mồ hôi anh tuôn ra như tắm.

"Khí hậu này không dành cho người béo," anh nói.

"Anh không có béo," Camille đáp. "Anh chỉ được phân bổ dư dả một chút mà thôi."

"Và cô thật là tử tế, nhưng tôi biết rõ mình là ai mà," Lemuel nói, vừa phủi phủi đám tinh thể muối bám trên áo choàng. Anh nhìn quanh vòng tròn những tảng đá sừng sững. "Còn các bạn đồng hành của cô đâu rồi?"

"Ankhu Anen đã quay lại tàu Photep một giờ trước để tham khảo các cuộn giấy Rosetta."

"Còn tiểu thư Eris thì sao?" anh hỏi.

Camille mỉm cười toe toét. "Kalli đang trên đường quay lại sau khi lấy bản in chà từ những tảng đá chết bên sườn đông của ngọn núi. Cô ấy sẽ sớm trở lại thôi."

Kallista Eris, Camille và Ankhu Anen đã bỏ ra hàng trăm giờ không kết quả để cố gắng giải mã những ký tự rune uyển chuyển, mềm mại được khắc quanh các tảng đá chết. Cho đến giờ, họ chỉ đạt được thành công hạn chế, nhưng nếu có ai giải mã được ý nghĩa của chúng, thì chính là bộ ba này.

"Các cô có tiến triển gì trong việc dịch những ký tự đó không?" Lemuel hỏi, khẽ vung tay về phía các khối đá menhir cổ xưa.

"Cũng có một chút," Camille đáp, thả túi xuống cạnh anh rồi tháo máy chụp ảnh ra khỏi cổ. "Kalli nghĩ đó là một dạng ngôn ngữ proto-eldar, được viết bằng một phương ngữ cổ đại. Điều này khiến việc xác định ý nghĩa chính xác gần như là không thể. Nhưng Ankhu Anen biết có vài tư liệu trên Prospero có thể giúp giải mã thêm cho các ký tự đó."

"Trên Prospero à?" Lemuel hỏi, ngay lập tức chú ý.

"Đúng vậy, trong Athenaeum, một thư viện rất lớn mà Thousand Sons có trên thế giới quê nhà của họ."

"Ngài ấy có nói gì thêm về thư viện đó không?" Lemuel hỏi tiếp.

Camille nhún vai, tháo kính che nắng và dụi đôi mắt đầy bụi cát. "Không, tôi nghĩ là không. Sao thế?"

"Không có gì đâu," anh đáp, mỉm cười khi trông thấy Kallista Eris đang tiến về vòng tròn các tảng đá chết, lòng thầm biết ơn vì có cớ để chuyển chủ đề.

Khoác một chiếc áo jellabiya trắng rộng thùng thình, Kallista là một thiếu nữ xinh đẹp với làn da ô-liu, mà nếu cô muốn, có thể lựa chọn bất kỳ người đàn ông nào trong số những Người Tưởng Nhớ đi cùng Hạm đội Viễn Chinh thứ 28. Dù vậy, số lượng Người Tưởng Nhớ đi theo cũng không nhiều, vì Thousand Sons cực kỳ khắt khe trong việc chọn ai được phép đồng hành và ghi chép chiến dịch của họ.

Dù thế nào đi nữa, Kallista luôn từ chối mọi lời ngỏ ý, và dành phần lớn thời gian bên Lemuel và Camille. Về phần Lemuel, anh chẳng có hứng thú mạo hiểm tình cảm với bất kỳ ai trong hai người phụ nữ ấy, chỉ đơn giản là trân trọng khoảng thời gian được ở bên hai người bạn đồng môn cùng theo đuổi những điều bí ẩn

"Chào mừng cô trở lại, cô bạn thân mến," anh nói, bước qua Camille để nắm lấy tay Kallista. Làn da cô nóng rẫy, các ngón tay dính than đen. Cô mang một chiếc túi dây rút vắt qua vai, những cuộn giấy chà hiện ra khỏi miệng túi.

Kallista Eris là một học giả lịch sử, chuyên nghiên cứu cách thức con người thu thập và truyền tải tri thức về quá khứ. Có lần, trong thư viện trên tàu Photep, cô từng cho Lemuel xem ảnh lập thể một văn bản đang mục nát có tên Shiji, ghi chép về các hoàng đế cổ xưa của một nền văn minh đã mất trên Terra. Kallista giải thích rằng tính xác thực của nó cần phải được đặt dấu hỏi, bởi có vẻ như người viết ra văn bản ấy có ý định bôi nhọ vị hoàng đế tiền nhiệm để tâng bốc người kế tiếp mà hắn ta đang phục vụ. Cô nói, tính chân thực của bất kỳ văn bản lịch sử nào cũng chỉ có thể được hiểu đúng khi ta xét đến mục đích, giọng văn và thiên kiến của người viết.

"Lemuel, Camille," Kallista nói. "Hai người có nước không? Tôi quên mang thêm rồi đây."

Lemuel bật cười. "Chỉ có cô là quên mang đủ nước khi đến một hành tinh như thế này thôi."

Kallista gật đầu, đưa tay vuốt mái tóc nâu ánh đỏ, làn da cô ửng lên dưới lớp da cháy nắng. Đôi mắt xanh lục lấp lánh chút bối rối pha chút bông đùa, và Lemuel hiểu vì sao nhiều người mê mẩn cô ta đến vậy. Cô ta mang trong mình một nét mong manh khiến đàn ông vừa muốn che chở vừa muốn chiếm hữu. Lạ lùng thay, dường như cô ta hoàn toàn không nhận ra điều đó.

Lemuel quỳ xuống bên ba lô để lấy một bình nước, nhưng Camille vỗ vai anh và nói:
"Để dành đi, có vẻ chúng ta sắp được mang nước đến rồi đấy."

Anh quay lại và giơ tay che mắt khỏi ánh nắng, nhìn thấy một trong các Astartes đang bước về phía họ, tay nâng một chiếc bình đồng hình bầu dục. Người chiến binh để đầu trần, chỉ có một búi tóc dài buông thõng phía sau, làn da vàng óng, khuôn mặt phẳng lạ thường với đôi mắt tối và sâu như mắt rắn hổ mang. Dù trời nóng như thiêu đốt, Lemuel vẫn rùng mình khi thoáng thấy một làn khí quyền năng lạnh lẽo mờ ảo quanh dáng người ấy.

"Sobek," Lemuel nói.

"Anh biết ngài ấy à?" Camille hỏi.

"Nghe danh thôi. Ngài ấy là một trong những người của phái Scarab Occult, các chiến binh kỳ cựu của quân đoàn. Ngài ấy cũng là Practicus của Đội Trưởng Ahriman," anh đáp. Thấy Kallista có vẻ khó hiểu, anh nói thêm: "Tôi nghĩ đó là một cấp bậc kỹ năng nào đó, kiểu như học trò xuất sắc chẳng hạn."

"À."

Chiến binh Astartes dừng lại, sừng sững như một khối gốm sứ rắn chắc đứng trước mặt họ. Giáp trận của anh ta cực kỳ cầu kỳ, những mảng giáp đỏ khắc đầy các hình học và phù hiệu mà Lemuel nhận ra là giống với các hoa văn thêu trên chiếc áo banyan của anh. Trên vai phải của Sobek là hình con bọ hung mạ vàng, còn vai trái là biểu tượng ngôi sao xoắn hình rắn của Thousand Sons.

Giữa ngôi sao là đầu một con quạ đen nhỏ hơn con bọ hung, nhưng được đặt ở vị trí trung tâm của biểu tượng, khiến nó nổi bật một cách tinh tế. Đó là dấu hiệu của phái Corvidae, một trong các hệ phái thuộc Thousand Sons, dù cho đến nay Lemuel vẫn chỉ khai thác được rất ít thông tin về tín điều của họ trong suốt thời gian đi theo Hạm đội viễn chinh số 28.

"Ngài Ahriman gửi bình hes đựng nước này," Sobek nói. Giọng anh ta vang vọng, ngân vang trầm sâu như thể được phát ra từ một cái giếng sâu trong lồng ngực. Lemuel đoán chất giọng lạ kỳ của các Astartes là do khối lượng sinh học nhân tạo khổng lồ tích hợp trong cơ thể họ.

"Ngài ấy thật chu đáo," Camille nói, đưa tay ra đón chiếc bình hes.

"Ngài Ahriman chỉ thị tôi đưa nước cho Người Tưởng Nhớ Eris," Sobek đáp.

Camille cau mày, rồi nói, "À, đúng rồi. Cô ấy đây."

Kallista đón lấy chiếc bình hes bằng nụ cười biết ơn.
"Làm ơn chuyển lời cảm ơn của tôi đến Ngài Ahriman," cô nói, đặt chiếc bình nặng xuống đất. "Thật tử tế khi ngài ấy vẫn nghĩ đến tôi."

"Tôi sẽ chuyển lời khi ngài ấy trở lại," Sobek đáp.

"Trở lại?" Lemuel hỏi. "Ngài ấy đi đâu vậy?"

Sobek trừng mắt nhìn xuống anh, rồi quay lưng rảo bước trở về doanh trại. Astartes không trả lời, nhưng Lemuel bắt được một cái liếc mắt chớp nhoáng của anh ta hướng về phía ngọn núi.

"Thân thiện ghê ha?" Camille nhận xét. "Tôi tự hỏi việc gì mà họ phải quan tâm tới chúng ta, để làm gì cơ chứ?"

"Tôi hiểu ý cô; chẳng ai trong số họ thật sự niềm nở cả, phải không?" Lemuel nói.

"Một vài người cũng thực sự niềm nở đấy," Kallista lên tiếng, rót nước vào bình cá nhân của mình, làm nước đổ tràn nhiều hơn là rót trúng. "Ankhu Anen đã giúp chúng ta rất nhiều rồi phải không? Còn Đội Trưởng Ahriman cũng rất cởi mở khi kể lại các sự kiện. Tôi đã học được rất nhiều từ ngài ấy về cuộc Đại Viễn Chinh."

"Để tôi giúp cô," Lemuel nói, quỳ xuống cạnh cô và giữ cho chiếc bình đứng vững. Như hầu hết mọi thứ được Astartes thiết kế, nó quá khổ và nặng so với tay người thường, lại càng khó bưng hơn khi chứa đầy nước.

"Tôi rất muốn đọc những gì cô đã ghi chép được," anh nói.

"Tất nhiên rồi, Lemuel," Kallista đáp. Cô mỉm cười với anh, và anh cảm thấy tâm hồn mình như bừng sáng.

"Vậy cô nghĩ Ahriman đi đâu?" Camille hỏi.

"Tôi nghĩ tôi biết," Lemuel đáp, cười tinh quái. "Muốn đi xem thử không?"

****

SEKHMET, còn được gọi là Scarab Occult, hay các Cựu Binh của Magnus, dù mang tên gọi nào đi nữa họ đều là hiện thân của niềm kiêu hãnh dữ dội và lòng trung thành tuyệt đối. Không một ai trong số họ dưới cấp Philosophus, cấp bậc cuối cùng trước khi bước vào nghi thức Dominus Liminus. Đây là những chiến binh xuất sắc và sáng giá nhất của Quân Đoàn. Họ đã vượt lên trên mọi ưa ghét cá nhân, vượt qua giới hạn xác phàm và xóa bỏ cái tôi, để rồi chiến đấu trong trạng thái tĩnh lặng tuyệt đối.

Đại Hãn từng gọi họ là những cỗ máy tự động, Russ thì chê bai tinh thần chiến đấu của họ, còn Ferrus Manus thì ví họ như đám rô-bốt. Khi được vị Primarch của mình kể về lời nhận xét của vị Thủ Lĩnh Iron Hands, Ahriman đoán nhận xét sau cùng ấy thực chất lại mang tính khen ngợi.

Khoác trên mình bộ chiến giáp Terminator màu đỏ thẫm bóng loáng, những chiến binh Sekhmet dấn bước trên cánh đồng muối, tiến về sườn thấp của ngọn Núi. Ahriman cảm nhận sự hiện diện của hồn ma Tutelary hộ mệnh lơ lửng phía trên đầu, linh thể ấy đang bất an khi khoảng không tâm linh phía sau những tảng đá chết ngày một gần hơn.

Phosis T'kar và Hathor Maat sánh bước hai bên, bước chân vững chãi và đầy háo hức. Những hình bóng chập chờn của các Tutelary lượn qua không khí như bầy cá nhỏ cảnh giác khi có thú săn mồi quanh quẩn. Cũng như Aaetpio, các Tutelary của đồng đội và các đội trưởng khác đều sợ hãi trước khoảng không trống vắng của ngọn Núi.

Với những kẻ không có nhãn lực thiên không, các Tutelary là vô hình. Nhưng với những Thousand Sons sở hữu năng lực, chúng hiện lên như những ảo ảnh rực rỡ, đẹp đến nao lòng. Aaetpio đã trung thành với Ahriman suốt gần một thế kỷ, hình thể của nó biến đổi không ngừng, là một thị kiến kết từ vô số con mắt và bánh xe ánh sáng xoay chuyển vĩnh cửu. Utipa là một thực thể dữ dằn, năng lượng thuần túy hung hăng chẳng khác nào Phosis T'kar, trong khi Paeoc thì giống như một con đại bàng kết từ triệu triệu mặt trời vàng chói, kiêu kỳ và ngạo mạn y như chủ nhân Hathor Maat của nó.

Ban đầu, Ahriman từng nghĩ chúng là thiên thần, nhưng đó là một từ cổ, một từ đã bị gạt bỏ bởi những người nghiên cứu huyền bí học, bởi nó quá chất chứa cảm xúc, quá mang tính tôn giáo. Tutelary chỉ là những mảnh vụn của Đấng Sáng Thế Nguyên Thủy, được những người có năng lực uốn nắn theo ý mình ban cho hình dạng và chức năng.

Ông nối ý niệm mình với Aaetpio trong thoáng chốc. Nếu Magnus gặp nguy, họ sẽ phải tìm ra điều đó mà không cần đến nhãn lực thiên không hay sự hỗ trợ từ các Tutelary.

Dù không thấy được điều gì cụ thể qua các cuộc chiêm nghiệm, trực giác của Ahriman mách bảo rằng có điều gì đó bất ổn. Với cương vị Magister Templi (Magister Templi) của mọi hệ phái trên Prospero, Magnus từng giảng dạy rằng trực giác cũng là một công cụ quan trọng không kém gì dùng mắt thường trong việc sàng lọc ý nghĩa của các dòng chảy của Đại Dương Mênh Mông.

Ahriman cảm thấy bất an, còn Phosis T'kar và Hathor Maat thì mong mỏi có biến xảy ra.

****

Hạm đội viễn chinh số 28 đã đến Aghoru ba tháng trước. Trong các ghi chép chính thức của Hội Đồng Chiến Tranh, hành tinh này được ghi danh là 28-16, dù chẳng ai trong Quân Đoàn XV từng gọi như vậy. Sau khi đưa 28-15 quy thuận thành công, sáu mươi ba chiến hạm thuộc Hạm đội viễn chinh số 28 đã dịch chuyển khỏi Đại Dương Mênh Mông, tiến vào một hệ sao toàn những hành tinh chết, trơ trọi và không có dấu hiệu sự sống.

Có bằng chứng cho thấy sự sống từng tồn tại ở đây, nhưng nay đã bị diệt tuyệt. Điều gì gây ra thảm họa quy mô hệ hành tinh ấy vẫn là một bí ẩn. Tuy vậy, khi hạm đội tiến gần đến ngôi sao trung tâm, rõ ràng là hành tinh thứ năm bằng cách nào đó vẫn giữ được sự sống.

Điều khiến mọi người khó hiểu là bằng cách nào Magnus lại biết được rằng cụm sao nhỏ, vô danh này lại chứa một hành tinh có nhánh nhân loại biệt lập đang sinh tồn. Không có bất kỳ tín hiệu điện từ tồn dư hay sóng truyền tin cổ đại nào cho thấy có sự sống nơi đây.

Các Rehahti đã thúc giục Magnus ra lệnh cho hạm đội tiến bước, bởi cuộc Đại Viễn Chinh đang ở thời kỳ huy hoàng nhất, và Thousand Sons vẫn còn nhiều công trạng cần ghi dấu. Gần hai thế kỷ đã trôi qua kể từ khi cuộc Đại Viễn Chinh khởi hành trong ánh hào quang và tiếng hô vang, hai thế kỷ thám hiểm và chinh chiến đã đưa từng thế giới một nhập vào cơ thể hùng mạnh đang phục hưng của Đế Chế Nhân Loại.

Trong quãng đường hai trăm năm đó, Thousand Sons mới chỉ thực sự tham chiến chưa tới một trăm năm.

Ở những năm đầu của cuộc Đại Viễn Chinh, trước khi Magnus xuất hiện, các Astartes của Thousand Sons đặc biệt dễ tổn thương bởi các gen bất ổn, dẫn tới hiện tượng đào thải mô đột ngột, năng lực tâm linh tăng đột biến và hàng loạt biến dị khác biệt. Những nhãn mác như "lũ quái dị" hay "bọn đột biến" được gán lên họ, và từng có lúc tưởng như họ sẽ kết thúc một cách thảm hại, trở thành một dòng chú thích bị quên lãng trong biên niên sử của cuộc Đại Viễn Chinh.

Rồi hạm đội của Hoàng Đế tìm thấy Magnus Đỏ nơi một vùng xa xôi bị lãng quên của thiên hà, trên thế giới hẻo lánh mang tên Prospero, và mọi thứ đã thay đổi.

"Vì con là con trai của Người, nên họ cũng sẽ là con của con." Lời của Magnus với Hoàng Đế, và cũng là câu nói đã thay đổi vận mệnh của Thousand Sons mãi mãi.

Được đoàn tụ với Quân Đoàn mang huyết thống di truyền của mình, Magnus đã dồn toàn bộ trí tuệ siêu việt để đảo ngược những tổn hại mà gen dị thường đã gây ra.

Và ông đã thành công.

Magnus đã cứu rỗi Quân Đoàn của mình, nhưng cuộc Đại Viễn Chinh thì vẫn tiến về phía trước trong quãng thời gian ông miệt mài chữa trị. Các chiến binh của ông giờ đây khát khao được chia sẻ vinh quang mà các huynh đệ khác đang từng ngày gặt hái.

Các hạm đội viễn chinh của các Quân Đoàn không ngừng mở rộng, lan tỏa ra khỏi cái nôi của nhân loại để tái thống nhất cõi thiên hà thuộc về Hoàng Đế. Giống như những người anh em ruột thịt hay cãi vã, từng Primarch đều tranh giành vị trí bên cạnh phụ hoàng của mình. Nhưng chỉ có một người là đủ xuất chúng để được chiến đấu bên cạnh đấng cứu tinh của nhân loại: Horus Lupercal, Primarch của Luna Wolves, người con trai được yêu thương nhất của Hoàng Đế.

Hoàng Đế dẫn đầu Luna Wolves và Ultramarines của Guilliman, sẵn sàng tung ra lôi đình thịnh nộ của mình lên lũ da xanh ở Ullanor, một cuộc chiến được tiên đoán là khốc liệt và dai dẳng. Còn ai xứng đáng hơn đứa con được ưu ái nhất của Hoàng Đế để sát cánh cùng ngài khi họ bóp nghẹt sự sống khỏi kẻ thù man rợ kia?

Ullanor được kỳ vọng sẽ là cuộc chiến kết thúc mọi cuộc chiến, nhưng vẫn còn những trận đánh gần hơn cần đến sự can dự của Thousand Sons. Word Bearers của Lorgar và Space Wolves của Leman Russ đang giao chiến trong cụm sao Ark Reach, một vùng không gian gồm hai ngôi sao và nhiều đế chế hành tinh hiếu chiến, tất cả đều bác bỏ lời đề nghị gia nhập Đế Chế.

Vua Sói đã nhiều lần gửi lời kêu gọi Quân Đoàn XV tới tham chiến, nhưng Magnus đều phớt lờ cả.

Ông đã tìm thấy thứ còn đáng quan tâm hơn trên Aghoru.

Ông đã tìm thấy Ngọn Núi.

*****

Chú thích:

(1)Các Tầng Suy Niệm (The Enumerations) là một tập hợp các trạng thái tinh thần được Magnus Đỏ sáng chế để giúp các chiến binh của Thousand Sons tập trung khi khai triển quyền năng của Warp. Nói đơn giản, đó là những trạng thái thiền định khác nhau, phục vụ cho từng nhiệm vụ cụ thể có liên quan đến năng lực tâm linh. Không phải mọi thành viên Thousand Sons đều sử dụng chung một Tầng Suy Niệm cho cùng một mục đích, và cũng có những người không sử dụng chúng chút nào. Các Tầng Suy Niệm có mối liên kết với thành phố Tizca, vì vậy rất khó lĩnh hội đối với người thường.

Không phải mọi thành viên Thousand Sons đều nắm vững hết các Tầng, ngay cả khi họ hiểu rõ nguyên lý và phương pháp. Càng lên các tầng cao hơn, cái tôi của người sử dụng càng mờ nhạt; do đó, những pháp sư phù phiếm hoặc vị kỷ thường không thể vượt qua một ngưỡng nhất định. Người ta nói rằng có tổng cộng MƯỜI Tầng Suy Niệm mà các thành viên Thousand Sons có thể tu luyện, dù Magnus được cho là còn biết nhiều hơn thế.

Sau đây là mười Tầng đã xuất hiện trong các tác phẩm của Graham McNeill!

TẦNG SUY NIỆM THỨ NHẤT

Được khai triển bằng cách lặp lại và nội tâm hóa tên các vị giáo chủ đầu tiên của Tizca. Về kỹ thuật và hiệu ứng, nó giống như một phương pháp thiền cơ bản. Giúp người sử dụng làm dịu suy nghĩ và điều hòa cảm xúc (tương tự một loại liệu pháp giúp ổn định tâm trạng).

TẦNG SUY NIỆM THỨ HAI

Được dùng để tăng tốc độ truyền đạt tư tưởng (telepathy) một cách nhanh chóng.

TẦNG SUY NIỆM THỨ BA

Nó giúp gia tăng nhận thức về môi trường xung quanh, cho phép người sử dụng nắm bắt chi tiết và xử lý mọi thông tin liên quan. Magnus cũng từng dùng tầng này khi cần học hỏi tối đa về một địa điểm nào đó.

TẦNG SUY NIỆM THỨ TƯ

Xuất hiện trong The Crimson King The Ancient Awaits, nhưng mục đích cụ thể thì không được làm rõ. Malin Vistario sử dụng tầng này sau khi sống sót qua một đòn tấn công tâm linh, và ra lệnh tiến quân cẩn trọng trong trạng thái đó. Ahriman dùng nó để tách khỏi thể xác, dù tầng cao nhất cũng được dùng cho mục đích này. Có thể suy đoán rằng nó phục vụ cho việc trinh sát tâm linh.

TẦNG SUY NIỆM THỨ NĂM

Mục đích không được nêu rõ. Tuy nhiên, Ahriman luôn bước vào tầng này khi dự cảm sẽ gặp phản kháng hoặc chiến đấu. Tầng này cũng giúp hắn cảm nhận cơn giận và sự hiếu chiến. Lần đầu tiên được sử dụng là trong một cuộc đối thoại với người có thể trở thành kẻ thù, hàm ý tầng này liên quan đến sự cảnh giác.

TẦNG SUY NIỆM THỨ SÁU

Giúp một psyker định thần và bình tâm trở lại. Magnus từng khuyên Ahriman sử dụng tầng này sau khi ông ta thất bại tại Hội nghị Nikaea. Không có mô tả chi tiết nên khó phân biệt rõ điểm khác biệt với Tầng Thứ Nhất, nhưng có thể giả định nó tinh vi hơn.

TẦNG SUY NIỆM THỨ BẢY

Malin Vistario sử dụng nó để nâng một tảng đá nặng. Dựa vào đó, có thể suy đoán rằng tầng này tăng cường sức mạnh thuần túy, nhưng thông tin vẫn rất hạn chế.

TẦNG SUY NIỆM THỨ TÁM

Tập trung vào hung tính và là tầng được sử dụng nhiều thứ nhì trong truyện! Hầu hết các chiến binh Thousand Sons sử dụng tầng này khi trực tiếp bước vào chiến trận. Tuy nhiên, nó không tăng cường cảm giác bén nhạy như một số tầng khác,vì thế một số người chọn bỏ qua tầng này để dùng Tầng Ba hoặc các tầng khác nhằm giữ sự tỉnh táo và nhạy bén cao hơn.

TẦNG SUY NIỆM THỨ CHÍN

Được mô tả như một khối cầu của ý chí nội tâm. Tầng này được dùng để chống lại hậu chấn từ Warp.

TẦNG SUY NIỆM THỨ MƯỜI

Là trạng thái cô tịch tuyệt đối, an yên và dứt lìa mọi ràng buộc. Trong truyện, tầng này được Magnus, Ahriman hoặc các thành viên cao cấp khác của Thousand Sons sử dụng khi cần tách rời khỏi thể xác và bước vào cõi Immaterium. Điều này rất nguy hiểm vì sẽ thu hút lũ quỷ, và người sử dụng có thể bị giết trong lúc "du hành giữa cõi thiên thể" nếu linh hồn bị quỷ dữ nuốt chửng. Ở chiều ngược lại, khi không dùng để thoát xác, tầng này là lớp phòng vệ vững chắc chống lại ảnh hưởng của Warp, hiệu ứng mà tất cả các tầng cao đều .

(2)Tutelary là những con quỷ được nhiều psyker của Quân đoàn Thousand Sons sử dụng như những linh thú hỗ trợ ma thuật trong suốt cuộc Đại Viễn Chinh. Ban đầu, họ không hiểu được nguồn gốc của chúng, và được võ đoán là những mảnh vỡ của Đấng Sáng Tạo Nguyên Thủy, được định hình bởi ý chí của những cá nhân mà chúng gắn bó, và thường vô hình với những người không có năng lực tâm linh.

Mối liên kết của Tutelary với chủ nhân giúp tăng cường khả năng sử dụng năng lực tâm linh của họ lên gấp trăm lần. Các Thousand Sons sử dụng chúng cho nhiều công việc khác nhau, từ những việc tầm thường như làm sạch súng bolter, đến hỗ trợ trong các cuộc khảo sát tâm linh ở cõi Thiên Thể.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Com