Truyen2U.Net quay lại rồi đây! Các bạn truy cập Truyen2U.Com. Mong các bạn tiếp tục ủng hộ truy cập tên miền mới này nhé! Mãi yêu... ♥

dich te hoc 269

Câu 1) Trình bày định nghĩa Dịch tễ học:

Dịch tễ học là một môn học về sự phân phối và những yếu tố xác định của những biến cố và tình trạng liên quan đến sức khỏe trong những quần thể xác định và sự ứng dụng môn học này trong việc kiểm soát những vấn đề sức khỏe.

- Môn học: Dịch tễ học là một môn khoa học, đôi khi còn được gọi là “khoa học cơ bản của y tế công cộng”. Về cơ bản, nó có những phương pháp đòi hỏi tính khoa học.

- Sự phân phối: Tần số và những mô hình của những biến cố sức khỏe trong một quần thể.

 + Tần số bao gồm số những biến cố đó trong dân số, tỷ lệ hay nguy cơ của bệnh trong quần thể, có tính phán đoán đối với những nhà dịch tễ.

 + Mô hình liên hệ đến sự xuất hiện của những biến cố liên quan đến sức khỏe theo thời gian, nơi chốn và những đặc tính về người.

 + Dịch tễ học mô tả là khía cạnh rộng của dịch tễ học, cho biết Cái gì, Ai, Khi nào và Ở đâu của những biến cố liên quan đến sức khỏe.

- Những yếu tố xác định: Dịch tễ học được sử dụng để tìm nguyên nhân và những yếu tố khác ảnh hưởng đến sự xuất hiện của những biến cố liên quan đến sức khỏe. Dịch tễ học phân tích cố gắng cho biết xem Tại sao và Thế nào của những biến cố đó. Từ đó giúp cho việc định hướng những biện pháp phòng ngừa và kiểm soát sức khỏe công cộng có hiệu quả và kịp thời.

- Những biến cố hoặc tình trạng có liên quan đến sức khỏe (thuật ngữ “bệnh”): những bệnh truyền nhiễm, những bệnh nhiễm trùng không lây và cả những hành vi có liên quan đến sức khỏe và sự thoải mái cũng được quan tâm, áp dụng những phương pháp dịch tễ học.

- Những quần thể xác định: Những nhà dịch tễ quan tâm đến sức khỏe chung của những người dân trong một cộng đồng hoặc một khu vực khác, tập trung vào các yếu tố phơi nhiễm, khả năng lan rộng ra trong cộng động và những sự can thiệp để phòng ngừa những trường hợp có thêm hoặc tái phát.

- Ứng dụng: Cung cấp những số liệu để định hướng hành động y tế công cộng, sử dụng những phương pháp khoa học của dịch tễ học phân tích và mô tả trong chẩn đoán sức khỏe của một cộng đồng để từ đó lập kế hoạch kiểm soát và ngăn ngừa bệnh trong cộng đồng.

Câu 2) Mục tiêu tổng quát của Dịch tễ học (theo bài giảng Dịch tễ học ĐHY - Dược Huế):

* Về mặt lý thuyết:

(1). Sự đúng đắn: DTH phải quan tâm tới việc làm giảm bớt và loại trừ các sai số mắc

phải, và các sai số hệ thống trong các điều tra, nghiên cứu.

(2). Sự phân  loại: DTH phải cung cấp  thêm các  thông  tin cơ bản nhằm hoàn chỉnh hệ

thống phân loại.

(3). Về lý luận: DTH phải góp phần xây dựng hoàn chỉnh hơn nữa các tiêu chuẩn trong

việc phán xét một vấn đề sức khỏe trong lâm sàng cũng như một vấn đề sức khỏe cộng đồng.

(4). Tiêu  chuẩn  hóa: DTH  phải  góp  phần  vào  sự  phát  triển  và  xây  dựng  hoàn  chỉnh

những khái niệm, những kỹ thuật  “chuẩn” về các hiện tượng sức khỏe.

(5). Tính đại diện: DTH phải xác lập nên sự đại diện cho các quan sát: (Các số liệu, dữ

kiện điều tra thu được đại diện cho quần thể nào ). 

* Về mặt thực hành:

(6). Góp phần  lựa chọn phương pháp  tốt nhất sẽ xác định rõ bệnh, góp phần phân  loại

chính xác.

(7). Nhận biết được tầm quan trọng của một hiện tượng sức khỏe trong một cộng đồng

nhất định, nhận biết được nhóm  có nguy  cơ mắc bệnh  cao, xác định vị  trí  của  các  chương

trình can thiệp.

(8). Phát hiện nguyên nhân của bệnh, sự xuất hiện, tồn tại và biến mất trong cộng đồng

của bệnh - là cơ sở vững chắc cho mọi dự phòng.

(9). Đánh giá hiệu quả của chương trình can thiệp làm cơ sở cho sự can thiệp tiếp tục.

(10). Giám sát DTH: Nghiên cứu tình hình sức khỏe của cộng đồng trong một thời gian

dài ngay trong điều kiện tự nhiên luôn biến động có thể hình thành các dự báo DTH.

Câu 3) Các tác nhân gây bệnh đường máu:

a) Tác nhân gây bệnh Sốt rét: Bệnh sốt rét do ký sinh trùng đơn bào loài Plasmodium gây nên. Có 4 loài Plasmodium gây bệnh ở người (theo thứ tự phát hiện):

 - Plasmodium malariae (Leveran, 1881)

 - Plasmodium vivax (Grassi và Feletti, 1890)

 - Plasmodium falciparum (Welch, 1897).

 - Plasmodium ovale (Stephens, 1922)

 Bệnh sốt rét (Malaria) là bệnh do ký sinh trùng đơn bào họ plamodium gây ra. Bệnh lây truyền chủ yếu do muỗi Anopheles đốt người bệnh rồi truyền cho người lành.

b) Tác nhân gây bệnh giun chỉ: Wuchererua bancrofti.

 Bệnh giun chỉ bạch mạch do 3 loài ký sinh trùng gây ra trong bạch mạch và có thể dẫn đến phù lớn các chi và các phần khác của cơ thể. Bệnh giun chỉ Bancrofti do loài giun chỉ Wuchererua bancrofti gây nên. Bệnh do muỗi Culex quinquefasciatus, một vài loài muỗi Anopheles và Aedes truyền.

c) Tác nhân gây bệnh Sốt xuất huyết: virus Dengue, bệnh được truyền từ người này sang người khác chủ yếu do muỗi Aedes aegypti và Aedes albopictus.

d) Viêm não Nhật Bản: Một số loài virus được duy trì ở loài chim, cò, diệc và các loài khác sống gần các vùng đầm lầy. Virus từ nguồn là chim, được muỗi truyền sang các động vật khác như ngựa, lợn và người. Bệnh phổ biến nhất ở những nơi có trồng lúa nước, thường có muỗi Culex tritaenvorhychus truyền virus từ chim sang lợn và người.

e) Dịch hạch: Tác nhân gây bệnh là vi khuẩn Yersinia pestis: Là bệnh truyền nhiễm cấp tính, lưu hành có thể gây dịch lớn do vi khuẩn Yersinia pestis từ các động vật gặm nhấm truyền sang người qua côn trùng trung gian là bọ chét. Biểu hiện lâm sàng là một tình trạng nhiễm trùng – nhiễm độc kèm theo viêm hạch bạch huyết, thể nặng có thể có nhiễm khuẩn huyết hoặc viêm phổi.

Câu 4) Các tác nhân gây bệnh đường da, niêm mạc:

- Các vi khuẩn: Lậu, giang mai, hạ cam, uốn ván, hoại thư sinh hơi, than, tụ cầu, liên cầu.

- Các virus: Dại, mắt hột, HIV, mụn cóc.

- Các ký sinh trùng: xoắn khuẩn, giun, ghẻ, nấm.

Câu 5) Quá trình dịch các bệnh lây truyền đường máu:

a) Nguồn truyền nhiễm:

 - Nguồn truyền nhiễm là người:

  + Người bệnh thể điển hình: sốt xuất huyết, sốt rét, dịch hạch.

  + Người bệnh thể không điển hình: sốt rét, viêm gan B, giun chỉ.

  + Người lành mang mầm bệnh: sốt rét, viêm gan B.

 - Nguồn truyền nhiễm là động vật:

  + Các loài chim, vật nuôi là lợn (trong bệnh viêm não Nhật Bản)

  + Các loài gặm nhấm và chuột: bệnh dịch hạch.

b) Đường truyền nhiễm:

 - Muỗi:

  + Muỗi truyền bệnh sốt rét: có tới trên 400 loài muỗi có khả năng truyền bệnh sốt rét, riêng ở Việt Nam đã phát hiện 62 loài muỗi Anopheles nhưng chỉ có 4 loại muỗi chính thường gặp: Anopheles dirus, An. minimus, An. sundirus, An. vagus, còn lại được gọi là các vector phụ.

  + Muỗi truyền bệnh sốt xuất huyết: Bệnh sốt xuất huyết lây qua muỗi đốt nên được xếp vào nhóm Arbor virus (Arthropot – bone – virus), chủ yếu do 2 loại muỗi: Aedes aegypti (A. aegypti) và Aedes albopictus (A. albopictus). Việt Nam chủ yếu loại muỗi A. aegypti là vector truyền bệnh thường xuyên. Muỗi sinh sản ở nhiệt độ 20 oC, cũng là nhiệt độ thích hợp lây lan Dengue typ 2.

  + Muỗi truyền bệnh giun chỉ: các vector truyền bệnh ở thể thứ nhất là muỗi Culex quiquefasciatus và một số loài Anopheles (đốt về đêm). Thể thứ hai được thấy ở Nam Thái Bình Dương và một số vùng nông thôn Đông Nam Á nơi mà loài truyền bệnh chính là muỗi đốt ban ngày, như Aedes aegypti.

  + Muỗi truyền bệnh viêm não: Culex tritaenyorhychus truyền virus từ chim sang lợn và người. Muỗi cũng truyền bệnh từ lợn sang người.

 - Bọ chét: Từ chuột bị bệnh truyền sang người qua côn trùng trung gian là bọ chét, chuột chủ yếu là Xenopsylla cheopis, Pulex irritans, bọ chó, mèo, đôi khi cả ruồi hút máu.

c) Khối cảm thụ:

 - Người: tất cả các đối tượng đều có khả năng mắc bệnh.

 - Một số động vật hoang dã và vật nuôi (lợn).

Câu 6) Quá trình dịch các bệnh lây truyền đường da, niêm mạc:

 Cơ chế bệnh sinh: Các vi sinh vật gây bệnh vào cơ thể người qua da lành (xoắn khuẩn vàng da) hay qua da bị xây xước, vết thương và niêm mạc, có thể qua các con đường sau:

 - Tiếp xúc trực tiếp: qua quan hệ tình dục (các bệnh lây truyền qua đường tình dục), súc vật cắn (bệnh dại, bệnh sốt chuột cắn).

 - Tiếp xúc gián tiếp: đối với hầu hết các bệnh thuộc nhóm này, vi sinh vật gây bệnh lây qua đồ dùng vật dụng như quần áo, chăn màn, khăn mặt, chậu rửa mặt, qua nước, đất, …

 Từ vị trí cảm nhiễm thứ nhất, vi sinh vật gây bệnh có thể sinh sản phát triển tại chỗ hoặc theo máu đến các vị trí cảm thụ thứ hai để gây bệnh (ví dụ như bệnh dại, uốn ván, HIV/AIDS, …)

Câu 7) Đặc điểm dịch tễ học các bệnh đường máu:

 a) Diễn biến theo mùa: Sốt xuất huyết

  Viêm não Nhật Bản

  Sốt rét.

 b) Có ổ bệnh thiên nhiên:

  Ổ chứa Dịch hạch: ổ dịch lưu hành là các loài động vật gặm nhấm hoang dại từ đó truyền cho chuột và các súc vật nuôi như chó, mèo, sau đó truyền sang người.

 Viêm não Nhật Bản: ổ chứa chủ yếu là loài chim (chim Liếu điếu và vào mùa vải ở Việt Nam vào các tháng mùa hè).

 c) Yếu tố nguy cơ:

  - Vùng có bệnh lưu hành (tỷ lệ truyền bệnh cao)

- Mùa truyền bệnh cao (đầu/cuối mùa thu)

- Nghề nghiệp (làm nương rẫy/lâm nghiệp, trồng lúa nước, …)

- Môi trường sống (nhà ở sơ sài – gần rừng, nước đọng).

- Đời sống (thu nhập dưới 500.000/năm)

- Thể trạng (trẻ nhở, phụ nữ có thai)

- Dân tộc (Việt nam/miền núi)

- Miễn dịch (chưa có/mới đến/kinh tế mới).

- Kháng thuốc (với Sốt rét: Chloroquin, Quinin, Fansidar)

- Cộng đồng (nhận thức/thói quen/thực hành)

Câu 8) Đặc điểm dịch tễ học các bệnh đường da, niêm mạc:

 Các bệnh thuộc nhóm bệnh truyền nhiễm lây truyền theo đường da và niêm mạc có những đặc điểm sau:

 - Bệnh có liên quan chặt chẽ với các điều kiện sinh hoạt và trình độ văn hóa của dân chúng. Cụ thể là bệnh thường xảy ra ở những nơi có điều kiện kinh tế văn hóa xã hội thấp kém, ở những nước nghèo và chậm phát triển, có lối sống, phong tục tập quán lạc hậu.

 - Một số bệnh có liên quan chặt chẽ với dịch ở động vật như dịch vàng da xoắn khuẩn, bệnh than.

Câu 9) Các biện pháp phòng chống dịch bệnh đường máu:

a) Các biện pháp đối với nguồn truyền nhiễm:

 * Nguồn truyền nhiễm là người:

  - Chẩn đoán phát hiện:

   + Chẩn đoán lâm sàng: dựa vào các tiêu chuẩn chẩn đoán bệnh của Quốc gia và Quốc tế để xác định đúng bệnh thuộc nhóm bệnh truyền nhiễm gây dịch.

   + Chẩn đoán xét nghiệm: loại xét nghiệm đặc hiệu đối với từng loại bệnh cần phải làm để xác định bệnh sớm, giúp cho việc điều trị, phòng chống bệnh đặc hiệu.

   + Điều tra dịch tễ học: để xác định đối tượng, nguồn và đường truyền nhiễm, thời gian và không gian xuất hiện của dịch bệnh đường máu.

  - Khai báo

  - Cách ly: Người bệnh phải được cách ly trong thời kỳ máu có nhiễm mầm bệnh. Cách ly ở đây nhằm không cho vật trung gian truyền bệnh đốt. Ví dụ: Bệnh SXH Dengue người bệnh phải nằm trong man cả ban ngày.

  - Khử trùng: Người bệnh dịch hạch thể phổi phải khử trùng đờm, các chất bài tiết mũi họng bằng các chất khử trùng thông thường.

  Trong bệnh viêm gan B, khử trùng thường xuyên các dụng cụ bị nhiễm bẩn với máu hoặc dịch cơ thể bị nhiễm virus.

  - Điều trị: Điều trị đặc hiệu cho người bệnh theo các phác đồ điều trị đã ban hành của Bộ Y tế.

  - Quản lý: Quản lý, giám sát chặt chẽ người bệnh tại các cơ sở y tế, bảo vệ người lành, hạn chế lây lan. Với các bệnh trong nhóm có tình trạng mang mầm bệnh phải được quản lý và giám sát chặt chẽ như tình trạng người mang ký sinh trùng sốt rét lạnh trong bệnh sốt rét.

 * Nguồn truyền nhiễm là động vật:

  Tiêu diệt các loài động vật có vai trò là nguồn truyền nhiễm, thực tế không thể tiêu diệt được các loại truyền nhiễm trong các ổ bệnh thiên nhiên.

  Diệt chuột: không tiến hành diệt chuột khi đang xảy ra dịch hạch ở người. Chỉ diệt chuột sau khi diệt bọ chét và chỉ số bọ chét dưới 1 mới diệt chuột.

  Diệt côn trùng là quan trọng, phối hợp các biện pháp dân gian và biện pháp kỹ thuật. Sử dụng hóa chất diệt muỗi, bảo hộ lao động đối với người tiếp xúc với côn trùng tiết túc truyền bệnh.

  Dựa vào đặc điểm sinh lý, sinh thái của côn trùng: Ví dụ: Bệnh SXH Dengue. Phòng chống vector có hiệu quả nhất là làm giảm nơi sinh sản, loại trừ ổ bọ gậy muỗi. Bệnh dịch hạch phải diệt bọ chét bằng các hóa chất diệt.

b) Các biện pháp đối với khối cảm nhiễm:

 * Xua đuổi, chống côn trùng đốt: VD: Hương trừ muỗi, dùng màn ngủ hay rèm che cửa tẩm hóa chất diệt côn trùng thuộc nhóm pyrethroid (như permethrin). Bột thuốc xua côn trùng.

 * Vaccin:

  - Vaccin Viêm não Nhật Bản: Tiêm dưới da. Gây miễn dịch cơ bản gồm 2 liều cách nhau từ 1 đến 2 tuần. Tiêm nhắc lại 1 liều bổ sung sau 1 năm. Trẻ em dưới 5 tuổi tiêm 0,5 ml, trẻ em từ 5 tuổi trở lên và người lớn tiêm 1 ml. Ở những nơi có bệnh lưu hành địa phương, bằng cách cứ 3 – 4 năm tiêm nhắc lại một liều bổ sung.

  - Vaccin Dịch hạch: Miễn dịch cơ bản gồm 2 hoặc 3 liều với khoảng cách 1 – 3 tháng. Cần phải tiêm nhắc lại 6 tháng/lần ở những nơi có nguy cơ cao.

  - Vaccin Viêm gan B: Phòng bệnh viêm gan B cho tất cả các đối tượng có nguy cơ bị nhiễm. Lịch tiêm:

  + Mũi 1: sơ sinh (càng sớm càng tốt).

  + Mũi 2: 1 tháng tuổi.

  + Mũi 3: 2 tháng tuổi.

  + Tiêm nhắc lại sau 1 năm. Tiêm bắp vào vùng cơ đùi.

 * Hóa dược dự phòng: uốn thuốc phòng sốt rét với những đối tượng đến vùng có sốt rét lưu hành.

 * Biện pháp điều trị hằng năm trong vùng có bệnh giun chỉ lưu hành bằng 1 liều độc nhất Diethyl- carbanmazin (DEC), đơn thuần hoặc phối hợp với ivermetin.

Câu 10) Các biện pháp phòng chống bệnh dại:

 a) Khi chưa có dịch: Giáo dục nhân dân hạn chế nuôi chó đến mức thấp nhất.

 Chó nuôi phải xích, nhốt, chó ra đường phải có rọ mõm.

 Bắt, nhốt tất cả chó vô chủ và chó lang thang.

 Tiêm vaccin phòng dại cho chó và mèo.

 b) Khi có dịch xảy ra:

 - Diệt hết đàn chó đang nuôi trong ổ dịch dại, kể cả chó đã tiêm phòng vaccin.

 - Nghiêm cấm bán chó ở vùng đang có dịch dại sang nơi khác để ngăn chặn sự lây lan dịch sang các vùng xung quanh.

 - Những người bị chó, mèo dại cắn hoặc có tiếp xúc với chó, mèo dại phải đi tiêm phòng dại ngay càng sớm càng tốt.

 - Không giết thịt súc vật bị bệnh dại.

 - Xử lý người bị súc vật nghi dại cắn: Tại chỗ:

  + Rửa ngay thật kỹ vết cắn bằng nước xà phòng đặc 20%, bôi chất sát khuẩn như cồn hoặc cồn iod 1 – 2%.

  + Trong trường hợp cần thiết phải cắt lọc, nhưng không khâu ngay, chỉ khâu trong trường hợp vết cắn đã quá 5 ngày.

 c) Tiêm vaccin phòng dại: Loại vaccin như Verolab, Rabiepua.

Câu 11) Các biện pháp phòng chống bệnh uốn ván:

 - Đề phòng các chấn thương

 - Tạo miễn dịch chủ động và bị động cho những nhóm người có nguy cơ bị uốn ván.

  + Công nhân đường sắt và đường thủy, công nhân xây dựng, công nhân làm đất, công nhân mỏ than bùn, công nhân vệ sinh cống rãnh, công nhân công trình lọc nước.

  + Bộ đội và công nhân công nghiệp quốc phòng, thanh niên luyện tập chuẩn bị tòng quân.

  + Nhân viên các phòng xét nghiệm làm việc với môi trường nuôi cấy trực khuẩn uốn ván.

 - Miễn dịch bị động: Đối với những người bị chấn thương mà chưa tiêm giải độc tố uốn ván thì phải tạo miễn dịch bị động – chủ động trong những trường hợp sau đây:

  + Vết thương bị nhiễm đất, mảnh quần áo.

  + Gãy xương hở.

  + Vết thương sâu do đâm hoặc mảnh bom.

  + Vết bỏng.

 Tiêm dưới da huyết thanh chống uốn ván (1.500 – 3000 UI).

 Sau 15’ tiêm 1 ml giải độc tố uốn ván ở chỗ khác, sau 2 tuần lại tiêm 2 ml giải độc tố.

 Đối với những người bị thương mà đã tiêm giải độc tố, nếu bị thương nhẹ thì chỉ cần tiêm huyết thanh chống uốn ván (3000 UI) và sau 15’ tiêm 2 ml giải độc.

 Nếu phụ nữ đẻ ở nhà mà không có nữ hộ sinh, thì nên tiêm cho mẹ huyết thanh + giải độc tố và tiêm cho trẻ sơ sinh một liều huyết thanh để đề phòng uốn ván.

 Khi tiêm huyết thanh, không được quên làm giải dị ứng theo phương pháp Besredka.

Câu 12) Đặc điểm của các yếu tố nguy cơ bệnh đường hô hấp

 Bệnh truyền nhiễm đường hô hấp thường xảy ra ở những nơi tập trung đông dân, mật độ tiếp xúc cao, chật chội, ẩm thấp.

 Nhìn chung bệnh có đặc tính lây lan, bùng phát rất nhanh nhưng nhất thời vì tác nhân gây bệnh không tồn tại được lâu ở ngoại cảnh và đa số những người cảm thụ đã có miễn dịch.

 Có bệnh diễn biến dưới hình thức đại dịch như cúm, cứ khoảng trên dưới 10 năm lại xảy ra một vụ đại dịch làn tràn khắp Thế giới do sự thay đổi hoàn toàn tính kháng nguyên của virus cúm.

 Đa số bệnh diễn biến có tính chất chu kỳ, VD: bệnh sởi, cứ khoảng 3 – 4 năm lại xảy ra một vụ dịch lớn và tiếp sau đó lại giảm đi. Tính chu kỳ này là do sự thay đổi tính miễn dịch của khối cảm thụ. Tất nhiên nhịp điệu và cường độ các dịch vụ thay đổi theo điều kiện sinh hoạt và những điều kiện xã hội ở một nơi nhất định.

 Bệnh diễn biến quanh năm, thường tăng cao vào các tháng lạnh ẩm.

 Bệnh thường gặp nhiều ở trẻ em và ít gặp ở người lớn.

 Nhiều bệnh khó tránh khỏi khi đã xảy ra dịch (cúm, sởi) vì bệnh lây ở thời kỳ ủ bệnh hay thời kỳ khởi phát.

 Vaccin phòng bệnh đặc hiệu có thể ngăn ngừa được bệnh.

Câu 13) Quá trình dịch hô hấp với nguồn truyền là người bệnh thể điển hình:

 a) Thời kỳ ủ bệnh: * thường ngắn. Ví dụ:

  - Bệnh cúm thường 1 – 3 ngày.

  - Bệnh sởi thời kỳ ủ bệnh khoảng 10 ngày, nhưng cũng có thể thay đổi từ 7 – 18 ngày kể từ khi tiếp xúc đến khi bắt đầu sốt, thường là 14 ngày cho đến khi phát ban.

  - Bệnh bạch hầu: thông thường từ 2 – 5 ngày.

  - Bệnh ho gà: thường là 6 – 20 ngày.

 * Đa số các bệnh truyền nhiễm đường hô hấp do virus có thể lây truyền từ cuối thời kỳ ủ bệnh. Ví dụ:

  - Bệnh sởi, người bệnh truyền bệnh ngay từ khi mới sốt, nghĩa là 2 – 3 ngày trước khi nổi ban, còn lây trong suốt thời kỳ nổi ban (3 – 5 ngày).

  - Bệnh quai bị, virus phân lập được từ nước bọt trong khoảng 6 – 7 ngày trước khi viêm tuyến mang tai rõ rệt đến 9 ngày sau đó. Tỷ lệ lây nhiễm cao nhất xảy ra vào khoảng 48h trước khi khởi phát bệnh.

  - Bệnh thủy đậu, thời kỳ lây dài nhất 5 ngày; thường từ 1 – 2 ngày trước khi phát ban và không quá 5 ngày sau khi xuất hiện lớp phỏng dạ đầu tiên.

 b) Thời kỳ phát bệnh:

  - Cũng như các bệnh truyền nhiễm khác, thời kỳ phát bệnh là thời kỳ lây lan mạnh nhất, mầm bệnh đào thải ra nhiều và liên tục khi bệnh nhân ho nhiều. Nguy cơ lây lan thường đi song song với tình trạng bệnh. Bệnh càng nặng càng lây nhiều và khi bệnh giảm dần thì tính chất lây lan cũng giảm theo cho đến khi khỏi bệnh.

  - Riêng bệnh ho gà người ta thấy sự lây lan kết thúc sớm hơn tình trạng lâm sàng; bệnh chỉ lây trong vòng 3 tuần đầu kể từ khi phát bệnh, rồi sau đó không còn lây nữa mặc dù người bệnh vẫn còn cơn ho rít nhiều ngày sau.

 c) Thời kỳ lui bệnh:

  - Đa số các bệnh trong nhóm này đến thời kỳ lui bệnh tính chất lây lan đã giảm rất nhiều như bệnh sởi, thủy đậu, quai bị. Đậu mùa còn lây đến khi bong hết vảy.

  - Bệnh bạch hầu vẫn còn lây đến hết thời kỳ lui bệnh và có thể lây kéo dài hơn nữa.

Câu 14) Cơ chế truyền nhiễm từ người sang người bệnh đường tiêu hóa (theo bài giảng Dịch tễ học ĐHY - Dược Huế):

 Cơ chế truyền nhiễm là vi sinh vật gây bệnh chỉ có một lối ra là theo phân ra ngoài và chỉ có một lối vào là qua mồm vào cơ thể. Cơ chế giải phóng tác nhân gây bệnh ở người mắc bệnh lây truyền qua đường tiêu hoá là ỉa chảy. Vi khuẩn gây bệnh còn được giải phóng ra môi trường bên ngoài  cùng  với  chất nôn (bệnh  tả), cùng với nước tiểu (bệnh  thương hàn). Các động vật ốm giải phóng tác nhân gây bệnh cùng với phân, nước tiểu, cùng với sữa.

 Tác nhân gây bệnh xâm nhập vào cơ thể qua mồm, cùng với nước uống hoặc thức ăn. Phân có thể trực tiếp nhiễm bẩn nguồn nước hoặc gián tiếp nhiễm bẩn thức ăn, qua ruồi hoặc tay bẩn. Như vậy vi sinh vật gây bệnh phải ngừng lại ở môi trường bên ngoài tương đối dài, nên có sức chịu đựng tương đối mạnh.

 Sau đó, vi sinh vật gây bệnh qua ống thực quản và dạ dày trước khi  theo máu vào những chỗ nhất định trong ruột để sinh sản. Trên con đường đi này ở một mức độ nhất định, dạ dày là hàng rào ngăn chặn vì độ acid của nó có tác dụng diệt khuẩn.

 Cơ chế phân - miệng của sự truyền bệnh được thực hiện với sự tham gia của những yếu tố khác nhau: nước uống, thức ăn, tay bẩn, vật dụng, ruồi nhặng.

 Trong các yếu tố truyền nhiễm thì nước giữ một vai trò quan trọng trong việc truyền bệnh tả, lỵ, thương hàn. Trong các vụ dịch do nước, mức độ mắc bệnh tăng lên mạnh ngay tức khắc. 

 Thường  thức ăn  tham gia nhiều hơn nước  trong việc  làm  lan  truyền các bệnh nhiễm khuẩn đường ruột. Phạm vi của đợt bệnh bôc phát tuỳ thuộc vào loại thức ăn bị nhiễm khuẩn, nếu là thức ăn rắn (như bánh ngọt, thịt) thì có thể hạn chế ở những trường hợp mắc bệnh riêng biệt, nhưng nếu là sữa thì có thể phát triển thành một đợt bộc phát lớn nhiễm độc thức ăn, thương hàn, lỵ. Thức ăn nguội có thể bị nhiễm bẩn bởi tay của những người mang vi khuẩn mạn tính làm ở nhà ăn, người bán hàng và những người chuyên chở sản phẩm. Các loại hải sản như trai, sò, ốc, hến...bị nhiễm vi khuẩn từ nguồn nước bị nhiễm bẩn mà chưa được nấu chín.

 Ăn sống rau quả được bón bằng phân tươi.

 Ruồi đóng vai trò quan trọng trong việc làm nhiễm khuẩn thức ăn. Một số bệnh đường ruột tăng lên theo mùa là do ruồi tham gia vào việc làm lan truyền bệnh.

 Đồ chơi và những vật dụng hằng ngày cũng có thể là những yếu tố truyền bệnh.

Câu 15) Các biện pháp phòng chống bệnh lây truyền qua đường tiêu hóa

a) Phòng bệnh

 * Biện pháp vệ sinh: Các biện pháp phòng bệnh nhằm cắt đứt đường truyền nhiễm. Các biện pháp vệ sinh chung bao gồm công tác kiểm tra nước uống, thu dọn và thanh trừ phân rác, diệt ruồi và thực hiện các điều lệ vệ sinh ở các cơ sở thực phẩm. Các biện pháp này phải được tiến hành thường xuyên và không tùy thuộc vào mức độ mắc bệnh.

 - Đảm bảo cung cấp nước sạch

 - An toàn thực phẩm: ăn chín uống sôi, giữ vệ sinh thức ăn trong chế biến và bảo quản

 - Đảm bảo an toàn thực phẩm: Cần giáo dục cho người dân cách phòng bệnh lây qua đường tiêu hóa như:

 - Vệ sinh môi trường

 * Vaccine phòng bệnh: Tiêm chủng phòng bệnh để gây miễn dịch đặc hiệu đối với một số bệnh đã có vaccine như tả, thương hàn.

b) Phòng chống dịch:

 * Đối với nguồn truyền nhiễm

- Giám sát phát hiện, điều trị sớm và cách ly bệnh nhân mắc bệnh lây qua đường tiêu hóa là rất cần thiết trong việc giảm tử vong và chống lây lan dịch. Các bệnh như tả, thương hàn phải cách ly tại khoa truyền nhiễm.

- Khai báo: Tả là bệnh qui định phải báo cáo cho thủ trưởng đơn vị, y tế cấp trên.

- Khử trùng, tẩy uế chất thải của người mắc bệnh lây qua đường tiêu hóa bằng vôi bột hoặc hóa chất.

- Quản lý bệnh nhân: Theo dõi những người khỏi bệnh nhằm phát hiện những người mang trùng bằng cách xét nghiệm phân.

- Quản lý người tiếp xúc: cần xét nghiệm phân người tiếp xúc với bệnh nhân để phát hiện người lành mang mầm bệnh.

- Đối với bệnh mà nguồn truyền nhiễm là động vật, các biện pháp phòng ngừa thường là các biện pháp thú y, vì thực tế người bệnh không nguy hiểm.

 * Đối với đường truyền nhiễm

- Kiểm tra vệ sinh các nguồn nước uống, những nơi chế biến và bảo quản thực phẩm. Lấy mẫu thực phẩm, nước để xét nghiệm phân lập vi khuẩn, đặc biệt ở khu vực có bệnh nhân.

- Nước sinh hoạt phải được tiệt khuẩn bằng hóa chất:

+ Nước máy phải đảm bảo lượng Clor dư  là 0,5mg/l.

+ Nước giếng phải được khử khuẩn bằng Cloramin B

- Vệ sinh môi trường: Phân của bệnh nhân phải đựợc xử lý bằng vôi bột hoặc hóa chất; xử lý rác; diệt ruồi.

 * Đối với khối cảm thụ:

- Giáo dục sức khỏe: Thực hiện tốt giáo dục y tế trong cộng đồng làm cho mọi người biết sự cần thiết phải điều trị đúng cách cho những người bị mắc bệnh mà không được chậm trễ. Thông tin cho nhân dân biết rằng các bệnh lây qua đường tiêu hóa  có thể phòng được bằng các biện pháp đơn giản nhưng có hiệu quả là ăn chín uống sôi, rửa tay sạch trước khi ăn và sau khi tiếp xúc với phân.

- Thực hiện vệ sinh môi trường, xử lý tốt phân rác; vệ sinh thực phẩm; vệ sinh cá nhân để phòng mắc các bệnh lây qua đường tiêu hóa.

-  Điều  trị  dự  phòng:  Đối  với  bệnh  tả  dự  phòng  bằng  kháng  sinh  chỉ  thực  hiện  cho những người tiếp xúc trực tiếp với người bệnh.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Com

Tags: