Truyen2U.Net quay lại rồi đây! Các bạn truy cập Truyen2U.Com. Mong các bạn tiếp tục ủng hộ truy cập tên miền mới này nhé! Mãi yêu... ♥

Điểm dối lừa 1-50

Điểm dối lừa

Dan Brown

Lời mở đầu

Ở vùng đất bị quên lãng này, cái chết có thể xảy đến dưới vô vàn hình dạng khác nhau. Sau bao năm dày dạn với vùng đất hùng vĩ và hoang dã này, nhà địa chất học Charles Brophy không hề ngờ rằng số phận của ông sắp chấm dứt một cách tàn bạo và nghiệt ngã đến thế. Đang kéo chiếc xe trượt chất đầy dụng cụ đo đạc qua vùng lãnh nguyên, bốn con chó Husky của ông bỗng chạy chậm lại và ngầng lên nhìn trời.

- Cái gì thế hả cưng? - Brophy xuống khỏi xe. Trên nền trời giông bão mây vần vũ bỗng hiện ra một chiếc trực thăng vận tải. Nó hạ độ cao rồi hạ cánh xuống mỏm băng trước mặt một cách chính xác và khéo léo. Thật kỳ lạ, ông thầm nghĩ. Chưa bao giờ có máy bay trực thăng ở vùng đất xa xôi này. Chiếc máy bay hạ cánh xuống cách ông khoảng 50 mét, làm bụi tuyết bắn lên tung toé. Lũ chó khụt khịt ngửi hít, tỏ ra lo lắng. Cánh cửa máy bay mở ra, hai tên lính bước xuống. Chúng mặc quan áo bảo hộ màu trắng kín mít từ đầu đến chân, vai khoác súng trường, và vội vã tiến về phía ông.

- Có phải tiến sĩ Brophy đấy không ạ? - Một tên gọi to.

Nhà địa chất học bối rối: - Làm sao các anh biết tên tôi? Các anh là ai?

- Ông hãy lấy máy phát sóng vô tuyến ra.

- Cái gì?

- Mau lên. Bối rối, Brophy rút máy liên lạc từ trong túi áo khoác ra.

- Chúng tôi nhờ ông phát bản tin cấp cứu này ngay. Hãy hạ tần số xuống một trăm kilô herzt.

Một trăm kilô herzt? Brophy càng không hiểu thế nào. Tần số thấp như thế thì ai bắt được cơ chứ?

- Có tai nạn hay sao?

Tên lính thứ hai giương súng lên chĩa thẳng vào đâu Brophy...

- Không có thời gian để giải thích. Làm mau! Run run, Brophy điều chỉnh tần số phát sóng. Tên lính thứ nhất đưa cho ông một mảnh giấy nhỏ có mấy dòng chữ được đánh máy từ trước.

- Hãy phát đi thông điệp này. Ngay lập tức!

Brophy nhìn mảnh giấy.

- Tôi không hiểu. Thông tin này có chính xác đâu? Tỏi đâu có bị... Tên lính kia thúc mũi súng vào thái dương ông. Brophy phát đi thông điệp cấp cứu kỳ lạ ấy, giọng run run.

- Được rồi. - Tên lính thứ nhất nói. - Bây giờ thì cả ông và lũ chó lên hết trên máy bay.

Bị chĩa súng vào lưng, Brophy phải ép lũ chó đang tỏ ra hết sức miễn cưỡng lên trên máy bay. Họ vừa lên xong thì chiếc trực thăng lập tức cất cánh rồi bay về hướng tây.

- Các anh là ai? - Brophy chất vấn, người ông giờ đã đầm đìa mồ hôi. - Và thông điệp kỳ lạ kia nghĩa là sao?

Không gã nào hé môi. Máy bay tăng độ cao, và gió thốc vào từ cánh cửa khoang không đóng. Vẫn bị buộc vào chiếc xe kéo, bốn con chó của ông lúc này bắt đầu rên lên ư ử.

- Ít ra thì hãy đóng cửa lại. - Brophy yêu cầu. - Các anh không thấy là lũ chó của tôi đang sợ hay sao?

Vẫn không một lời đáp. Khi lên đến độ cao hơn một ngàn mét, chiếc máy bay liệng qua mấy khe nứt sâu hoác dưới mặt đất. Một tên lính bất thần đứng dậy. Không nói không rằng, hắn ra sức lôi lũ chó vẫn bị buộc vào xe kéo ra phía cửa. Brophy sợ hãi nhìn những con chó vùng vẫy vô vọng. Sau thoáng chốc, cả chiếc xe kéo lẫn lũ chó đều biến mất. Brophy đứng phắt dậy, miệng la lối. Đó cũng là lúc hai gã kia xông vào túm lấy ông. Chúng lôi ông ra cửa khoang máy bay. Mụ đi vì sợ hãi, Brophy đấm túi bụi, cố gạt những cánh tay lực lưỡng đang đẩy ông ra ngoài. Vô ích. Vài tích tắc sau, ông cũng bị đẩy nốt xuống vực.

Chương 1

Nhà hàng Toulos, nằm ngay dưới chân đồi Capitol, với thực đơn đặc biệt gồm những món ăn đầy hàm ý chính trị như thịt bê non và ngựa non, là một địa điểm mà giới chính khách cấp cao thường tới dùng bữa sáng. Sáng nay, Toulos đầy chặt thực khách - tiếng cốc chén bằng bạc chạm vào nhau, tiếng máy pha cà phê, và tiếng mọi người nói chuyện điện thoại di động hoà vào nhau thành một hợp âm hỗn loạn.

Người phục vụ đang lén lút nhấp một ngụm rượu Mary khát máu, thì một thiếu phụ bước vào. Anh ta quay ra, mỉm một nụ cười rất chuyên nghiệp:

- Xin chào - Anh nói, - Tôi giúp gì được quý khách ạ?

Người phụ nữ này có vẻ ngoài khá hấp dẫn, trạc ba lăm, mặc chiếc quần flanen màu xám có là li, đi giày đế bằng, áo khoác màu ngà hiệu Laura Ashley. Lưng cô vươn thẳng, cằm hơi hất lên toát lên vẻ mạnh mẽ chứ không hợm hĩnh. Mái tóc màu nâu được uốn theo mốt mới nhất ở Washington - kiểu "thiếu phụ buông neo bồng bềnh ôm lấy bờ vai" vừa đủ dài để tôn vẻ nữ tính, nhưng cũng vừa đủ độ ngắn để khẳng định rằng bộ óc nằm bên trong mái đầu ấy không hề kém cỏi.

- Hơi muộn mất rồi. - Thiếu phụ nói. - Tôi có hẹn ăn sáng với Thượng nghị sĩ Sexton.

Anh bồi bàn hơi giật mình. "Thượng nghị sĩ Sedgewick Sexton". Ông là khách quen của nhà hàng, và là một trong những chính khách tên tuổi nhất trên toàn nước Mỹ. Tuần trước, sau khi đánh bại tất cả 12 ứng cử viên trong kỳ đại hội Ngày thứ ba đặc biệt, ông đã chắc chắn trở thành ứng cử viên Tổng thống của đảng. Nhiều người tin rằng mùa thu tới ông hoàn toàn có khả năng đoạt được vị trí chủ nhân Nhà Trắng từ tay ngài Tổng thống đường nhiệm đã gây nhiều tai tiếng. Gần đây, ảnh ông đã xuất hiện trên rất nhiều mặt báo, và các khẩu hiệu tranh cử của ông cũng được dán khắp nơi: "Chặn đứng thâm hụt, khởi đầu tái thiết".

- Thượng nghị sĩ đang ở trong phòng dành riêng. Người phục vụ nói. - Và cô là...

- Rachel Sexton, con gái ông ấy.

Mình đúng là đồ bờm. Anh ta nghĩ. Cô gái trông rất giống bố. Cô có đôi mắt sắc sảo và phong cách đầy học thức - một dáng vẻ vô cùng thanh cao. Rõ ràng cô gái đã thừa hưởng khuôn mặt ưa nhìn của cha mình, nhưng cô còn có thái độ khiêm tốn và vẻ duyên dáng, những cái đó thì Thượng nghị sĩ không có.

- Rất hânh hạnh được gặp cô, thưa cô Sexton.

Dẫn cô gái đi ngang qua phòng ăn lớn, người phục vụ được chứng kiến cả một hàng ánh mắt nhìn theo Rachel, một số người thì dè dặt, một số thì không. Rất ít phụ nữ đến ăn sáng ở Toulos, và những người đẹp đến nhường này thì lại càng ít.

- Trông xinh đấy! - Một người thì thào - Sexton mới lấy vợ đấy à?

- Đồ bờm, con gái ông ta đấy! - Một người khác đáp lời.

Người kia cười khùng khục.

- Tôi hiểu Sexton, thế nào ông ta chả lên giường với con bé.

Khi Rachel đến bàn cha cô đang ngồi, ông đang lớn tiếng nói chuyện trên điện thoại với ai đó về một thành công mới của mình.

Ông ta ngước lên nhìn con gái vừa đủ lâu để chỉ ngón tay vào chiếc đồng hồ đeo tay Cartier, ra ý cô đã đến muộn.

- Con cũng nhớ bố đấy, bố ạ. - Rachel nghĩ.

Tên riêng của cha cô là Thomas, dù ông đã từ lâu tự thêm cho mình một cái tên đệm dài dòng. Rachel ngờ rằng ông chọn cái tên đó vì muốn tạo ra hiệu ứng điệp âm. Thượng nghị sĩ Sedgewick Sexton. Ông có mái tóc màu bạch kim, còn miệng lưỡi chính trị gia linh hoạt của ông thì luôn song hành với vẻ ngoài của một ông bác sĩ tử tế trong các bộ phim mì ăn liền, một vẻ bề ngoài rất thích hợp với tài gây ấn tượng của ông.

- Rachel! - Cha cô tắt điện thoại và đứng lên hôn má con gái.

- Chào cha. - Cô không hôn ông.

- Trông con mệt mỏi quá đấy!

Con bắt đầu thấy mệt thật rồi đây. - Cô nghĩ. - Con nhận được tin nhắn của cha. Có chuyện gì thế ạ? Bố không thể ăn sáng với con gái mình hay sao?

Từ lâu Rachel đã biết rằng cha không bao giờ cần đến sự có mặt của cô, trừ khi có một lý do sâu kín nào đó.

Sexton nhấp một ngụm cà phê.

- Dạo này con sống thế nào?

- Con khá bận. Chiến dịch tranh cử của bố có vẻ suôn sẻ đấy.

- Thôi, đừng nói chuyện công việc làm gì. - Sexton nhoài người qua bàn, hạ thấp giọng. - Cái anh chàng ở văn phòng Chính phủ mà cha giới thiệu với con dạo nọ thế nào rồi?

Rachel thở dài, ngay lập tức muốn nhìn đồng hồ xem giờ.

- Bố ạ, con chưa có lúc nào rảnh rỗi nên vẫn chưa gọi cho anh chàng đó đâu. Giá mà bố thôi không...

- Con phải biết bớt chút thời gian cho những việc quan trọng chứ, Rachel, so với tình yêu thì tất cả mọi thứ khác đều vô nghĩa.

Rất nhiều lời đối đáp vang lên trong tâm trí Rachel, nhưng rồi cô lặng im không nói gì nữa. Trước mặt cha cô, thật là khó mà mau mồm mau miệng được.

- Bố bảo muốn gặp con vì có chuyện gì quan trọng phải không?

- Ừ có đấy! - Thượng nghị sĩ chăm chú nhìn con gái.

Rachel cảm thấy khả năng tự vệ của mình đã bị ánh mắt của cha làm cho tan chảy, và cô thầm nguyền rủa điều đó. Ánh mắt của ông là món quà của Chúa, và cô đoán rằng chính ánh mắt ấy sẽ đưa ông vào Nhà Trắng. Tùy từng tình huống, chúng có thể ngấn lệ, và rồi, chỉ một thoáng sau, đã có thể trở nên trong sáng, mở ra truớc mắt mọi người cánh cửa sổ của một tâm hồn nhiệt huyết và đầy tin cậy. Niềm tin làm nên tất cả, ông vẫn thường nói vậy. Từ nhiều năm nay ông đã đánh mất niềm tin của Rachel, nhưng lại nhanh chóng giành được niềm tin của cả nước Mỹ.

- Bố muốn đề nghị con một điều? - Thượng nghị sĩ Sexton nói.

- Để con đoán thử nhé. - Cô đáp, cố gắng lấy lại sự tự tin. - Có kẻ góa vợ quyền thế nào đang muốn có một cô vợ trẻ trung phải không ạ?

- Đừng tự huyễn mình thế, con yêu. Con có còn trẻ trung gì nữa đâu.

Cảm giác chông chênh bất an thường có mỗi khi gặp cha lại quay lại với Rachel.

- Bố muốn ném cho con một cái phao cứu sinh. - ông nói.

- Con tưởng con chưa bao giờ bị chìm mà.

- Con thì không, nhưng Tổng thống thì sắp rồi. Con phải nhảy ra khỏi con thuyền đó ngay đi.

- Chẳng phải bố đã nói với con chuyện này một lần rồi sao?

- Hãy nghĩ về tương lai của con, Rachel, con có thể sang làm cho bố.

- Hi vọng đó không phải là lí do khiến hôm nay bố muốn ăn sáng cùng với con.

Vẻ mặt điềm tĩnh của ngài nghị sĩ thoáng biến sắc, - Rachel, con không thể biết việc con làm việc cho ông ta ảnh hưởng xấu thế nào đến bố và chiến dịch của bố đâu.

Rachel thở dài. Hai cha con cô đã từng một lần nói chuyện này.

- Bố này, con có làm việc cho Tổng thống đâu, con còn chưa bao giờ gặp mặt ông ấy kia mà. Lạy Chúa, con làm việc cho Fairfax đấy chứ.

- Trong chính trị, cảm tưởng rất quan trọng, Rachel, người ta sẽ có cảm tưởng là con làm việc cho Tổng thống.

Rachel thở hắt ra, nhưng vẫn cố bình tĩnh:

- Con phải mất bao nhiêu mồ hôi nước mắt mới có được vị trí đó, bố ạ. Con không thể từ bỏ được.

Thượng nghị sĩ nheo mày:

- Con biết không, thái độ ích kỷ của con đôi khi thật là...

- Ngài chính là Thượng nghị sĩ Sexton? - Một nhà báo bất thần xuất hiện bên bàn ăn.

Thái độ của Sexton lập tức thay đổi. Rachel với lấy một chiếc bánh sừng bò trong giỏ đồ ăn, thầm rên rỉ.

- Tôi là Ralph Sneeden, - anh phóng viên giới thiệu, báo Bưu điện Washington. - Tôi có thế phỏng vấn ngài vài câu không ạ?

Thượng nghị sĩ mỉm cười, dùng khăn ăn chấm nhẹ môi.

- Rất hân hạnh, Ralph ạ. Nhưng phải nhanh nhanh lên, tôi không muốn để ly cà phê nguội hết.

Đến lượt anh chàng phóng viên mỉm cười.

- Dĩ nhiên, thưa ngài. - Anh ta lôi ra một chiếc máy ghi âm cỡ nhỏ và bật lên. - Thưa Thượng nghị sĩ, trong các chương trình vận động tranh cử trên tivi, ngài kêu gọi đưa ra những bộ luật nhằm đảm bảo phụ nữ được trả lương bình đẳng như nam giới và giảm thuế cho các cặp vợ chồng mới cưới. Xin ngài hãy bình luận về động cơ của mình.

- Dĩ nhiên rồi. Tôi luôn hâm mộ những phụ nữ mạnh mẽ và những gia đình bền vững.

Rachel suýt nữa bị nghẹn.

- Liên quan đến đề tài gia đình, ngài nói rất nhiều về giáo dục. - Anh phóng viên hỏi tiếp - Ngài đã đưa ra một kế hoạch gây rất nhiều tranh cãi về cắt giảm mạnh ngân sách để chi cho các trường phổ thông.

- Tôi tin rằng bọn trẻ chính là tương lai của nước Mỹ.

Rachel không thể ngờ cha mình lại có thể phát ngôn những lời sáo rỗng đến thế.

- Câu hỏi cuối cùng, thưa ngài. - Anh phóng viên hỏi - Ngài đã có một bước tiến ngoạn mục trong kỳ thăm dò tín nhiệm cách đây vài tuần. Và Tổng thống chắc không thể không lo lắng. Ngài nghĩ gì về thành công của mình ạ?

- Tôi nghĩ niềm tin làm nên tất cả. Người Mỹ đã bắt đầu nhận thấy rằng Tổng thống không đủ khả năng đưa ra những quyết định cứng rắn để giải quyết một số vấn đề của đất nước. Sự chi tiêu dễ dãi của Chính phủ làm cho quốc gia mỗi ngày một lún sâu hơn vào cảnh nợ nần, nên người Mỹ rũng đã bắt đầu nhận ra đã đến lúc phải thắt chặt chi tiêu và bắt đầu tái thiết.

Dường như muốn phản đối những lời hùng hồn vừa rồi, chiếc máy nhắn tin trong túi Rachel bắt đầu đổ chuông. Tiếng chuông điện tử dồn dập đáng ghét mọi khi hôm nay đối với cô bỗng trở nên du dương lạ kỳ.

Thượng nghị sĩ giận dữ liếc nhìn sang.

Rachel lục túi tìm chiếc máy và bấm năm nút theo một trình tự cài đặt sẵn để khẳng định rằng cô chính là người đang sử dụng chiếc máy. Màn hình LCD bắt đầu nháy. Mười lăm giây nữa cô sẽ nhận được toàn bộ tin nhắn.

Sneeden toe toét cười với ngài nghị sĩ:

- Con gái ngài chắc chắn là người luôn bận rộn công việc. Thật vui được thấy hai cha con ngài vẫn dành thời gian để dùng bữa cùng nhau.

- Như tôi đã nói, gia đình luôn là ưu tiên số một.

Sneeden gật đầu, rồi nhìn chăm chú.

- Xin được hỏi Thượng nghị sĩ, ngài và con gái mình làm thế nào đế dung hòa sự xung đột về lợi ích giữa hai cha con ạ?

- Xung đột? - Thượng nghị sĩ ngẩng lên với cái nhìn bối rối không hiểu. - Anh muốn nói đến sự xung đột nào?

Rachel ngẩng lên, làm bộ nhăn mặt với bố. Cô biết rất rõ câu hỏi này nhằm vào đâu. Cánh phóng viên chết dẫm. Cô thầm nghĩ. Phần nửa bọn họ là tay chân của các chính trị gia. Câu hỏi này thuộc loại cánh phóng viên gọi là quả nho - bề ngoài có vẻ rất hóc búa nhưng thực ra đã được chuẩn bị sẵn để có lợi cho ngài Thượng nghị sĩ, một cú tạt bóng tầm thấp mà cha cô có thể dễ dàng đỡ được và qua đó làm rõ một số điều.

- Dạ... thưa ngài... - Anh chàng phóng viên hắng giọng, tiếp tục làm ra vẻ đang hỏi một câu hóc búa. - Xung đột ở đây là con gái ngài đang làm việc cho đối thủ của chính ngài đấy ạ.

Thượng nghị sĩ Sexton phá lên cười, lập tức xoá tan bầu không khí căng thẳng.

- Ralph này, trước hết, Tổng thống và tôi không bao giờ là đối thủ của nhau. Chúng tôi là hai nhà yêu nước có quan điểm khác nhau về phương thức quản lý Tổ quốc của chúng ta mà thôi.

Anh chàng phóng viên cười sung sướng. Anh ta đã thấy trước thành công của mình.

- Thế thứ hai là gì ạ?

- Thứ hai, con gái tôi không làm việc cho Tổng thống, nó làm việc cho ngành tình báo. Công việc của nó là soạn thảo báo cáo tình báo và gửi cho Nhà Trắng. Đó là một việc làm rất giản dị. - Ông ngừng lời và quay sang Rachel. - Con yêu, hình như con còn chưa bao giờ gặp mặt Tổng thống phải không?

Rachel cố nén sự giận giữ trong lòng.

Chiếc máy nhắn tin kêu một tiếng "chít" - cô liếc xuống màn hình LCD.

- RPRT DINRO STAT

Cô nhanh chóng luận ra nghĩa của dòng chữ viết tắt và nhắn này. Tin nhắn này thật bất ngờ, và chắc chắn không phải là tin tốt. Ít nhất thì cô cũng có cớ để rút lui.

- Lạy Chúa, - cô nói - con rất lấy làm tiếc, nhưng đã muộn giờ làm mất rồi, con phải đi đây.

- Thưa cô Sexton, - anh chàng phóng viên mau mắn nói, - Trước khi đi, xin cô cho đôi lời bình luận về tin đồn rằng cô đã hẹn ăn sáng với ngài Thượng nghị sĩ để bàn về khả năng cô bỏ công việc hiện thời của cô để chuyển sang tham gia vào chiến dịch của cha mình?

Rachel cảm thấy như thế vừa bị hắt một ly cà phê nóng vào giữa mặt. Cô không hề lường trước điều này. Nhìn vẻ mặt tự mãn của cha mình, cô đoán ngay ra rằng câu hỏi này đã được chuẩn bị từ trước. Rachel chỉ muốn nhoài sang bên kia bàn và đâm thẳng vào tim ông bằng chiếc dĩa cô đang cầm trên tay.

Anh chàng phóng viên giơ chiếc máy ghi âm vào sát mặt cô.

- Cô nghĩ thế nào, thưa cô?

Rachel trừng mắt nhìn anh ta.

- Này Ralph, anh nghe cho rõ đây: Tôi không hề có ý định từ bỏ công việc của mình để làm việc cho Thượng nghị sĩ Sexton, nếu anh không viết đúng sự thật, tôi sẽ cho cái máy ghi âm này bay thẳng vào mông anh đấy.

Anh chàng phóng viên nhìn trân trối. Anh ta tắt máy ghi âm, cố nhịn cười:

- Xin cảm ơn ngài và cô. - Anh ta biến mất.

Ngay lập tức, Rachel cảm thấy ân hận về sự thái quá của mình.

Cô đã thừa hưởng của cha mình tính nóng nảy ấy, và rất hận ông về điều đó.

Bình tĩnh. Rachel. Phải bình tĩnh.

Ngài Thượng nghị sĩ nhìn cô vẻ không bằng lòng. - Con phải biết tự chủ chứ.

Rachel với tay lấy chiếc xắc.

- Hết giờ mất rồi bố ạ.

Dù sao thì ngài Thượng nghị sĩ cũng đã đạt được mục đích của mình. Ông lại lôi điện thoại cầm tay ra và chuẩn bị gọi.

- Tạm biệt con yêu. Thỉnh thoảng nhớ qua văn phòng thăm bố nhé. Và vì Chúa, lấy chồng đi thôi. Con ba mươi ba tuổi rồi đấy.

- Ba mươi tư chứ? - Cô đáp. - Thư ký của bố gửi thiệp mừng sinh nhật con rồi.

Ông cười khùng khục.

- Những ba mươi tư. Sắp thành bà cô đến nơi rồi con ạ. Hồi bố ba mươi tư tuổi...

- Bố đã cưới mẹ và bắt nạt hàng xóm rồi chứ gì? - Cô vô tình lên giọng hơi cao. Một số người ở bàn bên cạnh quay lại nhìn.

Thượng nghị sĩ Sexton không hài lòng, ông nhìn con gái một cách lạnh lùng.

- Cô phải liệu mà cư xử cho phải phép, thưa quí cô.

Rachel tiến ra cửa. Không phải đâu, chính bố mới là người phải liệu cư xử, ngài Thượng nghị sĩ ạ.

Chương 2

Ba người lặng lẽ ngồi trong lều Chống Bão. Bên ngoài, một cơn gió buốt giá đang giảt mạnh chiếc lều, tưởng như tất cả các dây néo đều sắp bị nhổ tung lên khỏi mặt đất. Cả ba người đều không hề để tâm đến điều đó, tất cả bọn họ đều đã trải qua những tình huống nguy hiểm hơn nhiều.

Chiếc lều trắng ảm đạm của họ được dựng ở một khu đất hơi trũng và kín đáo. Thiết bị thông tin, vũ khí và phương tiện đi lại của họ đều vô cùng hiện đại. Chỉ huy của nhóm có biệt danh là Delta-Một. Anh là một người vạm vỡ nhưng lại rất uyển chuyển, và đôi mắt buồn mênh mang y như khung cảnh phía bên ngoài căn lều. Chiếc đồng hồ quân dụng trên tay Delta-Một kêu lên một tiếng bíp chói tai, cùng lúc với những tiếng bíp phát ra từ hai chiếc máy trên cổ tay của hai người còn lại.

Ba mươi phút nữa đã trôi qua.

Lại một lần nữa đến giờ hành động.

Một mình. Delta-Một bước ra ngoài đêm đen và gió giật.

Anh dương chiếc ống nhòm hồng ngoại lên quan sát đường chân trời mờ ánh trăng. Như mọi khi, anh tập trung vào kiến trúc đó. Nó nằm cách họ một ngàn mét, một công trình to lớn và đơn độc trên vùng đất cằn cỗi này. Anh và đồng đội đã quan sát công trình suốt mười ngày nay, kể từ khi nó bắt đầu được xây dựng. Delta-Một tin chắc chắn rằng những thông tin chứa trong kiến trúc đó sẽ làm thay đổi cả thế giới. Đã bao người đã phải bỏ mạng để bảo vệ nó.

Lúc này, mọi thứ bên ngoài kiến trúc đều có vẻ yên ắng.

Tuy nhiên, cuộc thử nghiệm thực sự lại là những gì diễn ra bên trong.

Delta-Một quay vào lều và nói với hai đồng đội:

- Đã đến giờ bay thử.

Cả hai gật đầu. Người cao lớn hơn, Delta-Hai, mở chiếc máy tính xách tay ra và bấm nút khởi động. Ngồi trước màn hình, Delta-Hai cầm chiếc cần điều khiển kỹ thuật và giật mạnh.

Cách đó một ngàn mét, từ dưới chân toà nhà, một robot do thám nhỏ bằng một con muỗi lập tức được kích hoạt. Chương 3

Rachel vẫn giận điên người khi lái chiếc xe Interga của mình dọc theo con đường Leesburg Pike. Những cây thích trơ trụi ảm đạm vươn lên giữa nền trời tháng ba khô lạnh trên đồi Falls Church, nhưng khung cảnh thanh bình đó không thể khiến cô bình tĩnh trở lại. Cha cô lại vừa ghi thêm điểm trong đợt thăm đò dư luận vừa rồi. Điều đó sẽ khiến ông trở nên tự tin hơn, và ông sẽ càng tin tưởng hơn nữa vào tầm quan trọng cá nhân của mình.

Trò dối trá của ông khiến cô cảm thấy thực sự đau lòng, vì Rachel chỉ còn mình ông là người thân trên cõi đời này. Mẹ cô đã mất từ mấy năm trước, để lại sự trống vắng và một nỗi đau đến giờ vẫn chưa lành sẹo trong trái tim Rachel. Niềm an ủi duy nhất của Rachel là, với lòng trắc ẩn đầy mỉa mai của mình, thần chết đã giải thoát cho mẹ cô khỏi tai tiếng và tủi hổ vì đã kết hôn với ngài Thượng nghị sĩ.

Máy nhắn tin lại đổ chuông, kéo cô ra khỏi dòng suy nghĩ miên man. Vẫn là tin nhắn lúc nãy.

"RPRT DINRO STAT"

- Báo cáo ngay với Giám đốc sở NRO - Cô thở dài. - Lạy Chúa, tôi đang đến đây mà.

Lòng băn khoăn, Rachel lái xe đến lối ra quen thuộc, rẽ vào con đường dành riêng, rồi dừng lại trước bốt gạc có mấy anh lính đầy đủ vũ khí đang đứng cảnh giới. Đây là số nhà 14225 đường Leesburg Pike, một trong những địa chỉ bí mật nhất trên toàn nước Mỹ.

Trong khi những người lính gác đang kiểm tra xe của cô để dò tìm thiết bị nghe lén, Rachel đưa mắt nhìn toà nhà đồ sộ phía xa. Khu liên hợp có diện tích mặt sàn một ngàn mét vuông toạ lạc giữa khu rừng rộng sáu mươi tám héc ta nằm ngay ở ngoại vi thủ đô, ở Fairfax, bang Virginia. Mặt tiền của toà nhà được lắp toàn kính phản quang, phản chiếu một rừng chảo tín hiệu vệ tinh, cần ăng ten, và những mái vòm của những toà nhà xung quanh, làm tăng gấp đôi số lượng của những toà nhà trùng điệp đó.

Hai phút sau, Rachel đã đỗ xe xong và sải bước qua khu vườn được chăm sóc kỹ lưỡng bên lối vào chính. Một tấm biến đá granit có khắc dòng chữ: CƠ QUAN AN NINH QUỐC GIA (NRO). Hai người lính thuỷ quân lục chiến đứng gác hai bên cánh cửa quay bằng kính chống đạn nhìn thẳng về phía trước khi Rachel bước qua. Cô lại một lần nữa cảm thấy y như mọi lần bước qua cánh cửa này để vào cơ quan An ninh quốc gia, cảm thấy như mình đang bước vào trong bụng một gã khồng lồ đang say ngủ.

Sải bước trên hành lang mái vòm. Rachel nghe thấy tiếng vọng của hàng ngàn cuộc hội thoại khe khẽ, như thể những âm thanh ấy đang vọng xuống từ những phòng làm việc ở các tầng trên Một tấm biến lớn ghi tôn chỉ hành động của NRO: "Đảm bảo thông tin toàn cầu thông suốt cho Chính phủ Hoa Kỳ, trong thời bình và trong thời chiến".

Các bức tường trong đại sảnh này treo đầy những bức ảnh cỡ lớn - những cuộc phóng tên lửa, lễ đặt tên cho tàu ngầm, và những trạm thám không - những chiến công lừng lẫy chỉ có thể được kỷ niệm ở giữa bốn bức tường này thôi.

Lúc này, cũng giống như bao lần khác, Rachel cảm thấy những lo lắng của đời sống thường nhật dần bỉến mất phía sau lưng. Cô đang bước vào một thế giới bí mật. Một thế giới mà những vấn đề phát sinh sầm sập lao vào họ như một đoàn tàu cao tốc, còn các giải pháp thì luôn được đưa ra bằng những lời thì thào.

Đi đến trạm gác trong cùng, Rachel băn khoăn không biết vì vấn đề trầm trọng gì mà máy nhắn tin của cô lại phải đổ chuông những hai lần trong vòng có nửa giờ đồng hồ.

- Xin chào cô Sexton! - Anh lính gác mỉm cười khi cô bước đến cánh cửa bằng thép.

Rachel mỉm cười đáp lại khi anh ta chìa cho cô miếng gạc bông nhỏ xíu. Chỉ là thủ tục thông thường thôi ạ!

Rachel cầm miếng gạc phủ bông ẩm và gỡ bỏ lớp nilông phủ ngoài, rồi đặt vào miệng giống hệt như một cô y tá đang kẹp nhiệt độ cho bệnh nhân. Cô dùng lưỡi giữ chặt miếng gạc trong hai phút. Rồi nhoài người về phía trước, đưa trả anh lính gác miếng gạc bông đó. Miếng gạc ngay lập tức được thả vào chiếc máy ngay cạnh cửa.

Sau bốn giây, chiếc máy khẳng định mẫu nước bọt có chứa cấu trúc ADN của Rachel, bảng điều khiển trên đầu họ bắt đầu hoạt động, màn hình nhấp nháy rồi hiện lên ảnh của Rachel và chứng nhận quyền được tiếp cận thông tin mật của cô.

Anh lính gác nháy mắt tinh nghịch.

- Có vẻ vẫn là cô như mọi khi thì phải. - Anh ta thả miếng gạc vừa được chiếc máy nhả ra vào một khe máy khác, ngay lập tức miếng gạc ấm đã bị tiêu huỷ.

- Chúc cô một ngày tốt lành! - anh ta ấn nút, cánh cửa thép nặng nề mở ra.

Sải bước dọc dãy hành lang đông người, Rachel tự thấy ngạc nhiên vì sau sáu năm ròng, cô vẫn giữ nguyên trong lòng cảm giác choáng ngợp trước quy mô đồ sộ của tổ hợp này. Tổ hợp này bao gồm những sáu cơ quan chính phủ khác nhau, với tổng số nhân viên lên đến mười ngàn người, và tổng chi phí lên tớì mười tỉ đô la mỗi năm.

NRO đã bí mật chế tạo và duy trì một kho vũ khí tối tân khổng lồ: các thiết bị nghe lén điện tử phủ sóng toàn cầu, các vệ tinh do thám, các con chíp tiếp âm bí mật trong từng thiết bị viễn thông trên thị trường, thậm chí cả một hệ thống do thám trên biển toàn cầu được đặt tên là Thầy phù thủy Kinh điển - một mạng lưới bí mật gồm 1456 ống nghe bí mật dưới nước được đặt ở các khu vực đáy biển khác nhau, cho phép Chính phủ Mỹ giám sát hoạt động của tàu thuyền trên các đại dương của Trái đất.

Các công nghệ của NRO không chỉ giúp ích cho Chính phủ Hoa Kỳ trong điều kiện chiến tranh. Chúng còn là một nguồn thông tin vô tận trong thời bình của các cơ quan chính phủ như CIA, NSA, Bộ Quốc phòng; trợ giúp những cơ quan này trong việc ngăn chặn bọn khủng bố, ngăn chặn sư xâm phạm môi trường, và cung cấp những số liệu cần thiết, để các nhà hoạch định chính sách có thể đưa ra những chính sách mới trong hàng loạt lĩnh vưc khác nhau.

Công việc của Rachel trong tổ hợp này là tổng hợp tin. Tổng hợp tin, hay nói cách khác là giảm số lượng dữ liệu, là công việc đòi hỏi kỹ năng phân tích các báo cáo phức tạp và rút ngắn chúng lại thành những bản tóm tắt chỉ dài một trang. Rachel đã chứng tỏ được năng khiếu thiên bẩm của mình trong lĩnh vực này. Nhờ có bao năm luyện cách đoán ý nghĩ thật của cha từ những câu nói tràng giang đại hải, cô thầm nghĩ.

Giờ đây, Rachel nắm giữ vị trí cao nhất trong đội ngũ tổng hợp tin và chuyển những báo cáo hậu hĩnh báo lên Nhà Trắng. Nhiệm vụ của cô là sàng lọc hàng loạt thông tin tình báo trong ngày của NRO, xét xem thông tin nào cần được trình lên Tổng thống, rút gọn báo cáo lại thành những bản tổng hợp dài chỉ một trang, rồi chuyển sang cho Cố vấn An ninh của Tổng thống. Theo cách nói của dân trong ngành, Rachel làm ra các sản phẩm tinh lọc để phục vụ khách hàng.

Dù đây là công việc khó khăn và đòi hỏi sự miệt mài, Rachel coi nó như huân chương công trạng của mình, một cách để khẳng định sự độc lập của cô đối với cha. Thượng nghị sĩ Sexton đã nhiều lần hứa hẹn sẽ giúp đỡ con gái nếu cô chịu từ bỏ vị trí hiện thời của mình, nhưng Rachel không hề có ý định phụ thuộc về tài chính vào một người như Thượng nghị sĩ Sedgewick Sexton. Mẹ cô hồi còn sống đã từng là một minh chứng hùng hồn cho những hậu quả xảy ra khi một người như ông nắm giữ tất cả các quân chủ bài trong tay.

Tiếng chuông phát ra từ chiếc máy nhắn tin vọng vào những bức tường lát đá cẩm thạch.

Lại một lần nữa ư? Cô chẳng buồn mở tin nhắn ra đọc.

Thầm băn khoăn không biết có chuyện gì, cô sải bước đến buồng thang máy, bỏ qua tầng của mình, lên thẳng tầng cao nhất. Chương 4

Nếu nói rằng Giám đốc của NRO là người giản dị thì vẫn còn là quá lời. William Pickering, Giám đốc NRO, là người nhỏ bé, nước da nhợt nhạt, đầu hói, đôi mắt mầu nâu nhạt, dù đã từng nhìn thấy những bí mật sâu kín nhất của nước Mỹ, vẫn chỉ có hình bóng của hai vũng nước nông. Tuy nhiên, đối với những người làm việc dưới quyền ông, Pickering gần như một vị thánh. Tính cách ôn hòa và triết lý sống giản dị của ông đã trở thành huyền thoại ở NRO. Thói quen làm việc rất chuyên cần và lặng lẽ, cộng thêm tủ quần áo chỉ duy nhất một màu đen đã khiến ông có biệt danh là "Tín đồ Quây-cơ".

Với những chiến lược tài ba và hiệu quả công việc cực cao - Tín đồ Quây-cơ điều hành giang sơn của riêng mình với sự minh bạch vô song. Ông có một câu thần chú: "Hãy tìm ra sự thật, và hành động trên cơ sở sự thật".

Khi Rachel đến văn phòng của ông, ngài Giám đốc đang nói chuyện điện thoại. Phong thái của ông luôn khiến Rachel phải ngỡ ngàng: Trông Pickering không hề giống người có đủ quyền lực để đánh thức Tổng thống vào bất kỳ giờ nào.

Ông gác máy và vẫy cô vào phòng.

- Điệp vụ Sexton, mời cô ngồi. - Giọng ông lạnh lùng.

- Cảm ơn Giám đốc. - Rachel đáp.

Rất nhiều người không thích cung cách quá thẳng thắn của Pickering, nhưng Rachel lại luôn thấy yêu mến con người này.

Ông hoàn toàn trái ngược với người cha Thượng nghị sĩ của cô, không có vẻ ngoài ưa nhìn, không có gì nổi bật trừ tài năng thiên bẩm, luôn thi hành phận sự của mình với tình yêu Tổ quốc thuần túy, và luôn muốn tránh xa vinh hoa phú quí, thứ mà cha cô luôn khao khát.

Pickering tháo kính mắt ra và nhìn Rachel.

- Điệp vụ Sexton, nửa giờ trước Tổng thống đã điện cho tôi. Trực tiếp là vì cô.

Rachel ngồi thẳng lên. Pickering luôn đi thẳng vào vấn đề. Một khởi đầu quái quỷ, cô nghĩ.

- Hi vọng không phải vì những tổng hợp tin do tôi làm có sai sót gì.

- Hoàn toàn ngược lại, ông ấy nói rằng Nhà Trắng có ấn tượng rất tốt về hiệu quả làm việc của cô.

Rachel khẽ thở dài; - Thế ông ấy muốn gì ạ?

- Gặp cô. Trực tiếp. Ngay bây giờ.

Rachel chợt cảm thấy bất an.

- Gặp riêng tôi à? Có chuyện gì nhỉ?

- Câu hỏi hay đấy. Ông ta nhất định không chịu nói với tôi.

Lúc này Rachel bắt đầu thấy khó hiểu. Giấu không chịu cho Giám đốc của NRO biết tin thì thật chẳng khác nào không cho Giáo hoàng biết những bí mật của Vatican. Giới tình báo vẫn thường đùa nhau rằng nếu có chuyện gì William Pickering chưa biết thì chắc chắn là chuyện đó chưa xảy ra.

Lúc này Pickering đang đi đi lại lại trước cửa sổ.

- Ông ấy yêu cầu tôi liên lạc trực tiếp và đưa cô tới gặp ông ấy ngay lập tức.

- Ngay bây giờ à?

- Ông ấy còn điều cả phương tiện đến đón. Ngoài kia kìa.

Rachel nhíu mày.

Bản thân yêu cầu của Tổng thống đã là kỳ quặc, nhưng nét mặt lo lắng của Pickering mới chính là điều khiến cô lo ngại.

Chắc chắn còn điều gì Giám đốc chưa nói ra hết.

Còn cái quái gì nữa chứ? Rất hiếm khi Pickering bộc lộ cảm xúc kiểu này.

- Tổng thống tỏ ra cực kỳ sành sỏi khi chọn thời điểm này. Cô là con gái của người đang thắng ông ta trong các cuộc điều tra thăm dò, và thế là ông ta muốn gặp riêng cô. Tôi thấy điều này cực kỳ không thích hợp, còn cha cô thì chắc chắn sẽ không đồng ý.

Rachel biết Pickering nói đúng - không phải chỉ vì cô nguyền rủa những ý nghĩ của cha mình. - Giám đốc cho rằng động cơ của Tổng thống là không minh bạch.

- Tôi chỉ cam kết cung cấp thông tin tình báo cho Nhà Trắng đương nhiệm, và không đưa ra những nhận xét có khuynh hướng chính trị.

Câu trả lờí điển hình của Pickering, Rachel thầm nhận xét.

Pickering vẫn luôn công khai quan điểm của mình rằng những chính trị gia tên tuổi chẳng qua chỉ là những bung xung sẽ nhanh chóng hết thời, và về lâu về dài, bàn cờ chính trị luôn thuộc tầm chi phối của những người như ông, những người đã sống đủ lâu để trở nên dày dạn và có thể cảm nhận được xu hướng tiến triển trong tương lai, của những trò chơi chính trị.

Ông vẫn thường nói rằng dù có giữ chiếc ghế Tổng thống đầy đủ cả hai nhiệm kỳ thì cũng còn lâu mới hiểu hết những phức tạp thực sự trong đời sống chính trị thế giới... - Biết đâu đây chỉ là một lời để nghị vô tư. Rachel nói, thầm hi vọng Tổng thống không phải là loại người sẽ sử dụng cô làm chiêu bài tranh cử. - Có thể chỉ vì ông ấy muốn tôi tổng hợp cô đọng hơn nữa bản báo cáo quan trọng nào đó?

- Tôi không muốn tỏ ra bất kính, Rachel ạ, nhưng Nhà Trắng có thể tiếp cận hàng loạt chuyên viên tổng hợp tin có tay nghề khác. Đó là chuyện nội bộ của Nhà Trắng, và lẽ ra Tổng thống phải đủ hiểu biết để không liên lạc trực tiếp vớỉ cô. Và dù có không biết điều đó thì ông ta cũng phải biết là không nên đòi gặp một báu vật của NRO mà không chịu nói rõ lí do.

Pickering luôn gọi các nhân viên của mình là báu vật, cách gọi này trong nhiều trường hợp nghe có vẻ rất lạnh lùng.

- Cha cô đang liên tiếp ghi điểm trong các kỳ thăm dò tín nhiệm. - Pickering nói. - Rất nhiều điểm. Nhà Trắng có lí do để mà lo lắng. - ông thở dài. - Chính trị chẳng phải là một môn thể thao mã thượng. Khi Tổng thống muốn bí mật gặp mặt con gái của ứng cử viên đối lập thì không thể chỉ vì chuyện tổng hợp vài tin tình báo.

Rachel thoáng cảm thấy ớn lạnh. Những linh cảm của Pickering thường rất đúng.

- Và Giám đốc e rằng vì không mã thượng nên Nhà Trắng muốn biến tôi thành một phần trong trò bung xung chính trị sắp tới ư?

Pickering yên lặng một lát.

- Đôi khi cô đã bộc lộ những suy nghĩ rất cá nhân về người cha của mình. Đội ngũ nhân viên vận động tranh cử của Tổng thống không thể không biết đến điều đó. Tôi có cảm giác là bọn họ muốn dùng cô để đặt ông ấy vào một tình thế bất lợi nào đó.

- Thế thì tôi nên gia nhập đội quân nào đây? - Rachel nửa đùa nửa thật hỏi.

Pickering không hề để ý đến câu nói đó. Ông ta nhìn cô nghiêm khắc.

- Tôi muốn cảnh báo cô trước, Sexton ạ. Nếu cảm thấy là những vấn đề cá nhân giữa cô và cha cô có thể ảnh hưởng đến những suy nghĩ của cô khi cư xử với Tổng thống, tôi khuyên cô nên từ chối cuộc gặp này.

- Từ chối? - Rachel cười. - Dĩ nhiên là không thể khước từ Tổng thống được.

- Cô thì không, - Pickering đáp - nhưng tôi thì có đấy.

Giọng nói quả quyết của Pickering khiến Rachel nhớ đến một nguyên nhân nữa khiến ông có cái tên "Người theo đạo Quây-cơ".

Dù có vẻ ngoài bé nhỏ, Pickering có thể gây ra cả một cơn chấn động về chính trị mỗi khi trở nên tức giận.

- Những lo lắng của tôi thực ra rất dễ hiểu. - Pickering nói. - Tôi phải chịu trách nhiệm về sự an nguy của tất cả nhân viên ở đây. Và tôi không hề muốn để bất kỳ ai trong số đó bị biến thành con tốt phải thí trong trò chơi chính trị.

- Theo Giám đốc thì tôi nên làm gì bây giờ?

Pickering thở dài.

- Theo tôi thì cô nên gặp ông ta, nhưng đừng hứa hẹn bất cứ điều gì. Và nếu thấy ông ấy có bất kỳ ý đồ sâu xa nào thì phải báo ngay cho tôi biết. Nếu cảm thấy ông ta định biến cô thành vật tế thần thì hãy tin ở tôi. Tôi sẽ lôi cô ra khỏi đám bùng nhùng ấy mau lẹ đến nỗi ông ta sẽ không bao giờ biết ai đã chơi lại ông ta.

- Xin cảm ơn Giám đốc. - Rachel cảm nhận được thái độ chở che của ông ta, điều mà cô đã bao lâu mong chờ tử chính cha đẻ của mình. - Và Giám đốc nói rằng Tổng thống đã điều xe đến đón tôi à?

- Không hẳn thế. - Pickering nhíu mày, chỉ tay ra ngoài cửa sổ.

Phân vân, Rachel tiến đến bên cửa sổ và nhìn theo hướng tay chỉ của Pickering... Chiếc trực thăng loại Chim ưng Mở đường đầu tù loại MH-60G đang đậu trên thảm cỏ. Đây là loại trực thăng bay nhanh nhất hiện nay. Trên thân máy bay là biểu tượng của Nhà Trắng, và viên phi công đang đứng gần đó, có vẻ nôn nóng nhìn đồng hồ.

Kinh ngạc, Rachel quay lại nhìn Pickering.

- Nhà Trắng điều máy bay trực thăng để chở tôi đến Tổng hành dinh cách đây có mười lăm dặm hay sao?

- Rõ ràng là Tổng thống đang muốn gây ấn tượng mạnh hoặc hù doạ cô đấy. - Pickering nhìn cô. - Tôi khuyên cô đừng nên để ý đến chuyện này.

Rachel gật đầu. Tổng thống đã gây ấn tượng mạnh, và cô cũng bắt đầu thấy sợ hãi.

Bốn phút sau, Rachel Sexton ra khỏi trụ sở NRO và leo lên chiếc trục thăng đang đợi sẵn. Cô chưa kịp thắt xong dây an toàn thì chiếc phi cơ đã cất cánh, xé gió bay lướt qua những cánh rừng của bang Virginia. Chăm chú nhìn những cánh rừng mờ mờ hiện ra tít phía dưới. Rachel bỗng cảm thấy mạch đập dồn. Nếu biết rằng chiếc máy bay này không bao giờ hạ cánh xuống Nhà Trắng, mạch của cô sẽ còn đập dữ dội hơn nữa. Chương 5

Gió lạnh vẫn tiếp tực giằng xé tấm bạt họ dùng để căng lều, nhưng Delta-Một không hề để ý. Cả anh lẫn Delta-Ba đều chăm chú nhìn đồng đội của họ; Delta-Ba, đang điều khiển chiếc cần máy với sự khéo léo và chính xác của bác sĩ phẫu thuật. Màn hình máy tính trước mặt họ hiển thị những hình ảnh được truyền trực tiếp từ một chiếc camera nhỏ bằng đầu kim gắn trên con robot siêu nhỏ đang bay.

Đúng là thiết bị do thám tối tân! Delta-Một nghĩ. Mỗi lần kích hoạt con robot là mỗi lần anh lại thấy kinh ngạc. Gần đây, trong lĩnh vực công nghệ siêu nhỏ, thực tế đã vượt xa tưởng tượng của con người.

Những Hệ thống Robot siêu nhỏ (HRS) - vi robot - là thành quả mới nhất trong công nghệ do thám hiện đại. Họ đặt cho nó cái tên là "Công nghệ bay xuyên tường".

Một cái tên chính xác.

Với kích cỡ rất nhỏ bé, những con robot điều khiển từ xa kiểu này chẳng khác gì chuyện khoa học viễn tưởng. Chúng bắt đầu được chế tạo từ những năm 1990. Tháng 5 năm 1997, kênh truyền hình Discovery đã phát một loạt chương trình về những vi robot biết bay và biết bơi. Loại biết bơi, những chiếc tàu ngầm bé bằng hạt muối chế tạo bằng công nghệ nanô có thể được đưa vào mạch máu người, y như trong bộ phim Chuyến viễn du kỳ thú. Giờ đây công nghệ này đã được áp dụng để giúp các bác sĩ kiểm tra hệ thống tim mạch bằng thiết bị điều khiển từ xa, quan sát thực trạng bệnh nhân nhờ một camera truyền hình trực tiếp, xác định vị trí bị tắc nghẽn mà không cần dùng đến bất kỳ con dao mổ nào.

Khác với những gì ta tưởng, chế tạo một con vi robot biết bay còn dễ dàng hơn nhiều. Những công nghệ khí động học cần thiết để chế tạo máy bay đã được phát minh từ thời Kitty Hawk, vấn đề còn lại giờ đây chỉ là thu nhỏ kích cỡ của chúng lại. Vi robot biết bay đầu tiên do NASA chế tạo để đưa lên thăm dò sao Hỏa chỉ dài có vài inch. Đến thời điểm hiện nay, những tiến bộ trong công nghệ nano, những chất liệu có khả năng tích luỹ năng lượng, và công nghệ siêu nhỏ đã cho phép vi-robot-bay trở thành hiện thực.

Mô phỏng thiên nhiên mới chính là bước đột phá quan trọng nhất. Những con chuồn chuồn kim hoá ra lại là những mô hình lý tưởng nhất cho vi-robot-bay. Con robot PH2 mà Delta-Hai đang điều khiển có chiều dài chỉ một xăng ti mét, bằng một con muỗi. Hai đôi cánh màng silicon có khớp nối giúp nó trở nên cực kỳ nhanh nhạy và hiệu quả trong khi bay.

Bước đột phá thứ hai nằm trong cơ chế tái nạp năng lượng. Thế hệ vi-robot-bay đầu tiên chỉ có thể tái nạp năng lượng khi bay lượn giữa một luồng sáng cực mạnh, một đặc điểm không hề phù hợp với nhiệm vụ do thám ở những địa điểm có nguồn sáng yếu.

Thế hệ thứ hai này có thể nạp năng lượng bằng cách đậu cách một vật phát ra từ trường khoảng vài inch. Và trong đời sống hiện đại, những vật phát ra từ trường luôn có mặt nhan nhản khắp mọi nơi - cầu dao điện, máy vi tính, mô tơ điện, điện thoại di động, đài thu thanh - chuyện tìm một địa điểm kín đáo để nạp năng lượng chẳng có gì là khó. Một khi vi-robot-bay được đưa vào một khu vực nào đó, nó sẽ liên tục truyền về những tín hiệu hình ảnh và âm thanh.

Vi-robot-bay PH2 của lực lượng Delta đã hoạt động hơn một tuần nay mà chưa hề gặp bất kỳ trục trặc nào.

Lúc này, vi-robot-bay đang lặng lẽ bay lượn trong căn phòng chính của ngôi nhà, y hệt như lũ côn trùng bay lượn trong các hang hốc tự nhiên. Với tầm quan sát rộng như của loài chim, nó đang lặng lẽ lượn trên đầu những người làm việc trong căn phòng - các kỹ thuật viên, các nhà khoa học, các chuyên gia trong những lĩnh vực khác nhau. PH2 đã lượn thêm một vòng nữa, và Delta-Một chỉ vào hai người với khuôn mặt quen thuộc đang hào hứng nói chuyện. Giả sử đây là một cuộc nói chuyện bí mật. Anh bảo Delta-Hai cho máy sà thấp xuống để nghe câu chuyện của họ.

Dùng cần điều khiển. Delta-Hai bật bộ cảm biến âm của robot, điều chỉnh cái chảo thu hình parabol trên đầu nó, rồi ra lệnh cho nó hạ độ cao xuống còn cách đỉnh đầu hai nhà khoa học khoảng hơn một mét, âm thanh khá yếu, nhưng họ vẫn có thể nhận ra từng lời nói của hai người kia.

- Tôi vẫn chưa thể tin nổi điều đó. - Một nhà khoa học nói. Giọng nói cho thấy niềm phấn khích trong lòng ông ta chưa hề giảm chút nào mặc dù nhà khoa học này đã ở căn cứ được hai ngày trời.

Người đang nói chuyện với ông ta cũng thể hiện sự phấn khích không kém.

- Ông đã bao giờ nghĩ rằng sẽ được chứng kiến một sự kiện kiểu này không?

- Không bao giờ. - Nhà khoa học hào hứng đáp lời. - Quả là một giấc mơ kỳ diệu.

Delta-Một không cần nghe thêm nữa. Rõ ràng là bên trong toà nhà đó, tất cả đang diễn ra theo đúng kế hoạch. Delta-Hai điều khiển con robot về vị trí ẩn nấp. Anh lệnh cho nó hạ cánh xuống một cái ống khá kín đáo sau máy phát điện. Pin nhiên liệu của PH2 lập tức tái nạp năng lượng để sẵn sàng cho điệp vụ thứ hai. Chương 6

Đầu óc Rachel Sexton như mụ đi vì những sự kiện dồn dập sáng hôm nay. Chiếc trực thăng đang xé đôi bầu trời, lao thẳng về phía vịnh Chesapeake, cô chợt nhận thấy mình đang bị đưa về một hướng hoàn toàn khác. Cảm giác mụ mị ngay lập tức nhường chỗ cho sự hoang mang lo lắng.

- Này! - Cô kêu lên thật to để gọi anh chàng phi công, - Anh đang làm cái gì thế hả? - Tiếng cánh quạt quay phần phật gần như át hẳn tiếng nói của Rachel. - Đáng nhẽ anh phải đưa tôi đến Nhà Trắng cơ mà!

Viên phi công lắc đầu.

- Xin lỗi quý cô, sáng nay Tổng thống không có mặt tại Nhà Trắng.

Rachel cố nhớ lại xem Pickering có trực tiếp nhắc đến Nhà Trắng không, hay đấy chỉ là do cô tự suy diễn ra thế. - Thế Tổng thống đang ở đâu?

- Cô sẽ gặp ông ấy ở nơi khác ạ.

Quái quỉ.

- Ở đâu?

- Sắp đến rồi đấy ạ.

- Tôi không hỏi anh chuyện ấy.

- Còn có 16 dặm nữa thôi, thưa cô.

Rachel giận dữ nhìn anh ta. Gã này đáng ra phải làm chính trị gia mới đúng.

- Chắc anh tránh đạn cũng tài tình như tảng lờ câu hỏi của người khác đấy nhỉ!

Viên phi công không nói gì.

Sau không đầy bảy phút, chiếc phi cơ đã vượt qua vịnh Chesapheake. Đến gần bờ biển, viên phi công cho máy bay nghiêng cánh và men theo bờ một bán đảo nhỏ. Rachel thấy ở đó có khá nhiều đường băng và những toà nhà của quân đội. Viên phi công bắt đầu hạ độ cao, và cô bắt đầu nhận ra đó là nơi nào. Có tới sáu bệ phóng tên lửa, những quả rốc két cháy đen, và trên một mái nhà bằng tôn có sơn hàng chữ lớn: ĐẢO WALLOP.

Đảo Wallop là một trong nhiều bãi phóng tên lửa đầu tiên của NASA. Căn cứ này ít bị báo chí để mắt tới, và hiện được dùng làm bãi phóng vệ tinh nhân tạo, và làm nơi kiểm tra những mô hình phi cơ mới.

Tổng thống đang ở đảo Wallop? Thật khó hiểu.

Viên phi công cho máy bay lượn một vòng quanh ba đường băng chạy suốt chiều dài của bán đảo. Có lẽ họ sắp hạ cánh xuống cuối đường băng giữa. Anh ta bắt đầu giảm tốc độ.

- Cô sẽ gặp Tổng thống trong văn phòng!

Rachel quay lại, băn khoăn không biết anh chàng này đùa hay thật.

- Tổng thống Mỹ có một phòng làm việc trên đảo Wallop hay sao?

Trông anh ta rất nghiêm túc.

- Tổng thống của Hợp chúng quốc Hoa Kỳ có văn phòng ở bất cứ nơi nào ông ấy muốn, thưa quý cô.

Anh ta chỉ về phía cuối đường băng. Hình thù to lớn của thân chiếc máy bay khiến tim Rachel gần như ngừng đập. Từ cách xa ba trăm thước, cô đã nhận ra chiếc phi cơ 747 màu lam nhạt được thiết kế riêng cho Tổng thống.

- Tôi sẽ gặp ông ấy ở...

- Vâng, thưa cô... ở trong ngôi nhà biết bay của ông ấy.

Rachel nhìn như bị hút hồn. Chiếc máy bay danh giá này đã được các công ty của Bộ Quốc phòng thiết kế. Số hiệu của nó là VC-25-A, và công chúng thường chỉ được biết cái tên thông thường của nó: Chuyên cơ số Một.

- Có vẻ như hôm nay cô sẽ lên chiếc phi cơ mới đấy. - Viên phi công chỉ tay về phía đuôi máy bay.

Rachel lơ đãng gật đầu. Rất ít người biết rằng Tổng thống Mỹ có hai Chuyên cơ số Một chứ không phải là một - giống hệt nhau, đều cùng loại 747-200-BS, một chiếc có số hiệu 28000, chiếc kia mang số 29000. Cả hai đều có tốc độ bay tối đa 600 dặm một giờ, đều có cơ chế tiếp xăng trên không, và đều có tầm bay không hạn chế.

Chiếc máy bay trực thăng của họ dừng bánh trên đường băng ngay cạnh Chuyên cơ số Một, và tầm vóc đồ sộ đáng kinh ngạc của nó khiến Rachel hiểu vì sao người ta vẫn ví chiếc máy bay này là ngôi nhà di động của Tổng thống.

Khi ra nước ngoài đàm phán với các nguyên thủ quốc gia, Tổng thống thường viện lí do an ninh để yêu cầu tố chức buổi gặp mặt ngay trên chiếc máy bay này. Dĩ nhiên lí do an ninh là có thật, nhưng chắc chắn động cơ chính của yêu sách ấy là để giành thế chủ động trước đối phương bằng cách gây ấn tượng mạnh. Chuyên cơ số Một rõ ràng là gây ấn tượng mạnh hơn Nhà Trắng. Hàng chữ lớn, nối bật dọc theo thân máy bay: "HỢP CHÚNG QUỐC HOA KỲ". Một nữ thành viên nội các đã từng cáo buộc Tổng thống Nixon vì đã phô phang cái đàn ông của mình trước mặt bà ta khi ông mời bà lên chiếc chuyên cơ này để họp. Và về sau, phi hành đoàn đã tếu táo đặt cho chiếc chuyên cơ này biệt danh "Của quý to".

- Chào cô Sexton! - Một nhân viên mật vụ xuất hiện bên ngoài chiếc máy bay và mở cửa cho cô. - Tổng thống đang đợi cô.

Rachel bước xuống khỏi trực thăng và nhìn những bậc cầu thang dẫn lên chiếc phi cơ đồ sộ. Trông như tượng "Linga" của những người theo chủ nghĩa phồn thực. Cô đã từng nghe người ta nói rằng Phòng Bầu dục bay có tổng diện tích lên tới những bốn ngàn foot vuông, có bốn phòng ngủ riêng, chỗ nghỉ cho đội bay hai mươi sáu người, và hai phòng bếp trên chuyên cơ có thể phục vụ tới 50 người.

Nhân viên mật vụ theo sát gót Rachel khi cô lên cầu thang, như thể muốn thúc giục cô đi nhanh hơn nữa. Phía trên, cánh cửa ca bin mở sẵn trông chẳng khác gì một vết xước bé nhỏ trên thân máy bay khổng lồ màu xám bạc. Gần đến lối vào mờ tối đó, Rachel cảm thấy sự tự tin trong cô bắt đầu tan dần.

- Bình tĩnh nào, Rachel, chỉ là một chiếc phi cơ thôi mà.

Lên đến nơi, nhân viên mật vụ lịch sự khoác tay Rachel và dẫn cô vào một hành lang rất hẹp. Họ rẽ phải, đi một đoạn ngắn, rồi bước vào căn phòng rộng rãi sang trọng. Rachel lập tức nhận ra căn phòng, nó đã được chụp ảnh rất nhiều lần.

- Cô hãy đợi ở đây. - Nhân viên mật vụ biến mất.

Còn lại mình Rachel trong ca bin lát gỗ phía trước của Chuyên cơ số Một. Căn phòng này vốn được dùng để hội họp tiếp đãi những nhân vật quan trọng, và rõ ràng là để khiến cho những người chưa vào đây bao giờ phải cảm thấy choáng ngợp. Bề dài của căn phòng chiếm toàn bộ chiều ngang thân máy bay, và tấm thảm da màu nâu nhạt trải trên sàn cũng vậy. Đồ đạc bày trong phòng đều rất đẹp và đắt tiền - những chiếc ghế bành bọc da thuộc mềm được xếp quanh một chiếc bàn lớn hình bầu dục, những chiếc đèn sàn bằng đồng bóng loáng đặt sát một đi văng lớn, và những cái li có hoa văn chạm khắc thủ công được xếp ngăn nắp trên một quầy bar bằng gỗ gụ.

Rõ ràng là người thiết kế chiếc máy bay đã bài trí phòng ca bin trước một cách kỹ lưỡng để tạo ra cảm giác về sự ngăn nắp hài hoà với sự yên tĩnh. Tuy nhiên, yên tĩnh là cảm giác mà Rachel không tài nào cảm thấy vào giờ phút này. Ý nghĩ duy nhất có thể lọt vào đầu cô lúc này là không biết bao nhiêu nguyên thủ quốc gia đã từng ngồi trong chính căn phòng này, và đã đưa ra những quyết sách làm thay đổi cả thế giới.

Mọi thứ trong phòng đều toả ánh hào quang của quyền lực, từ chiếc hộp đựng thuốc lá thoảng hương trên bàn đến biểu tượng của Tổng thống trên tất cả đồ đạc. Hình Chú Chim đại bàng quắp những mũi tên bên cành liễu được thêu trên những chiếc gối dựa, khắc trên những chiếc khay đựng đá, thậm chí trên cả những tấm lót cốc bày trên quầy bar. Rachel nhấc một tấm lên xem.

- Đã bắt đầu ăn trộm đồ lưu niệm rồi? - Một giọng nói trầm trầm vang lên ngay cạnh Rachel.

Giật mình, cô quay lại, làm rơi tấm lót cốc xuống sàn, rồi vụng về cúi xuống nhặt lên. Chạm tay vào tấm lót cốc trên mặt sàn, cô quay lại nhìn, và thấy ngài Tổng thống đang cúi xuống nhìn mình với nụ cười láu lỉnh.

- Tôi không phải là thành viên Hoàng gia, thưa cô Sexton. Không cần phải quỳ gối đâu.

Chương 7

Thượng nghị sĩ Sedgewick Sexton thư thái ngả người trên lớp đệm ghế bọc da sang trọng khi chiếc xe Lincoln rất dài nhẹ nhàng lướt đi giữa dòng xe cộ buổi sáng ở Washington, đưa ông đến văn phòng. Cùng ngồi trong xe là Gabrriel Ashe, cô thư ký riêng mới 24 tuổi, đang đọc cho ông nghe lịch làm việc trong ngày. Sexton nghe một cách lơ đễnh.

Wasshington thật đáng yêu. Ông thầm nghĩ, mắt ngắm nhìn thân hình hoàn hảo của cô thư ký sau làn áo lụa cashmire. Chính trị là loại thuốc tình yêu công hiệu nhất... và nó đã kéo biết bao nhiêu cô gái xinh đẹp nhường này đến thủ đô.

Là thành viên của Hội Những người trồng thường xuân New York, Gabrielle ôm mộng trở thành Thượng nghị sĩ. Cô bé sẽ đạt được điều đó, ông nghĩ. Gabrielle có vẻ đẹp hiếm có và trí óc sắc sảo của một nghị sĩ. Quan trọng hơn cả là cô rất biết luật chơi.

Gabrielle mang dòng máu lai da đen, nhưng nước da nâu sáng cho thấy sự vượt trội của dòng máu da trắng trong huyết quản cô gái lai này. Thượng nghị sĩ Sexton biết những người đàn ông da trắng có thể thoả thuê yêu đương làn da màu gỗ quế kia mà không sợ mang tội phản bội giống nòi. Ông đã kể với một người bạn của mình rằng Gabrielle có vẻ đẹp của Halle Berry, cùng với bộ óc và tham vọng của Hillary Clinton. Nhưng đôi khi Thượng nghị sĩ cho rằng nói như vậy vẫn là quá khiêm tốn.

Kể từ khi được giao vị trí thư ký riêng của ông cách đây ba tháng. Gabrielle đã tỏ ra là món quà trời cho của Thượng nghị sĩ. Một chi tiết cũng không kém phần quan trọng là cô làm không lấy công.

Đổi lại mười sáu giờ làm việc cật lực một ngày, cô được học hỏi kinh nghiệm về luật chơi của một nghị sĩ dày dạn.

Dĩ nhiên, ông thầm nghĩ, mình đã thuyết phục để cô bé không chỉ giúp mình trong công việc đơn thuần. Sau khi bổ nhiệm Gabrielle làm thư ký, ông đã báo cô đến dự một cuộc họp định hướng rất khuya trong văn phòng. Y như phỏng đoán của ông, cô bé hăm hở đến, sốt sắng muốn làm hài lòng ngài Thượng nghị sĩ. Với sự kiên trì rèn luyện được sau nhiều thập niên, Sexton thể hiện vai diễn một cách điêu luyện..., chậm rãi gây dựng lòng tin đối với cô bé, gỡ bỏ từng chút một sự dè dặt trong lòng cô gái trẻ, dần dần chế ngự, rồi cuối cùng chiếm đoạt Gabrielle ngay trong văn phòng của ông.

Sexton tin chắc rằng đó là đêm ân ái tràn trề hoan lạc nhất trong đời cô bé, ấy thế mà ngay sáng hôm sau, Gabrielle đã tỏ ra rất hối hận về sự thiếu chín chắn của mình. Quá bối rối, cô bé thậm chí còn định xin bỏ việc. Sexton không đồng ý. Thế là Gabrielle vẫn giữ nguyên vị trí của mình, nhưng từ đó đến nay cô luôn thể hiện rõ quan điểm: mối quan hệ của họ thuần tuý chỉ là công việc.

Đôi môi gợi cảm của Gabrielle vẫn đang nói.

- Thượng nghị sĩ không nên tỏ ra đa cảm trong buổi phỏng vấn trên đài CNN chiều nay. Đến giờ, chúng ta vẫn chưa biết Nhà Trắng cử ai tới để tranh luận với ngài. Ngài hãy xem qua những điểm quan trọng tôi đã chuẩn bị sẵn ra đây. - Cô bé đưa cho ông một tập tài liệu.

Sexton với lấy tập tài liệu, nhân thể tận hưởng mùi nước hoa toả ra từ cô bé quyền lẫn với mùi da bọc của những chiếc ghế sang trọng.

- Hình như ngài không đế ý nghe thì phải? - Cô gái nói.

- Tôi đang nghe đây mà. - ông ta cười nhăn nhở. - Không cần phải lo lắng về cuộc tranh luận trên đài CNN. Trường hợp xấu nhất là Nhà Trắng chơi tôi bằng cách phái một nhân vật tầm thấp đến. Tình huống đẹp nhất là họ cử một nhân vật quan trọng đến, và dĩ nhiên tôi sẽ xẻ thịt ông ta để nấu bữa trưa.

Gabrielle nhíu mày:

- Thế thì tốt. Tôi đã liệt kê ra đây những đề tài gai góc nhất rồi.

- Vẫn như mọi khi chứ gì?

- Thêm một đề tài mới ạ. Tôi cho là ngài có thể bị soi mói vì câu nói sơ hở về cộng đồng người đồng tính trong lần phỏng vấn của Larry King.

Sexton nhún vai lơ đễnh. - Đúng rồi, vẫn đề tài hôn nhân đồng tính.

Gabrielle nhìn ông vẻ không đồng tình.

- Thượng nghị sĩ đã công kích họ khá gay gắt đấy ạ.

Hôn nhân đồng tính, Sexton chợt cảm thấy kinh tởm. Nếu mình mà có quyền quyết định thì lũ quỷ đồng dâm đó còn không được quyền đi bầu cử ấy chứ.

- Được rồi, tôi sẽ cố mềm mỏng hơn.

- Thế thì tốt. Dạo này ngài đã thành công trong việc thu hút sự chú ý vào một số vấn đề nóng. Nhưng không được tỏ ra tự phụ. Công chúng có thể thay đổi ý kiến bất kỳ lúc nào. Ngài đang thắng thế, và đang trên đà thuận lợi. Nên cố gắng duy trì. Hôm nay nên cố gắng tập trung vào điểm đó. Phải sứ dụng triệt để những vấn đề này.

- Có tin gì từ Nhà Trắng không?

Gabrielle có vẻ hơi bối rối.

- Vẫn im hơi lặng tlếng. Tình hình đã rõ. Đối thủ của ngài đã trở thành Người Vô Hình rồi.

Sexton không thể tưởng tượng là mình lại may mắn đến thế.

Suốt nhiều tháng ròng, Tổng thống đã đầu tư công sức cho chiến dịch tranh cử. Thế rồi cách đây một tuần, ông ta bắt đầu tự giam mình trong phòng bầu dục, và suốt từ đó không ai nghe tin hay nhìn thấy ông ta đâu cả. Như thế Tổng thống không thể chịu đựng được khi thấy số phiếu dành cho Sexton tăng lên từng ngày.

Gabrielle đưa tay vuốt mái tóc đen mượt mà:

- Nghe nói uỷ ban tranh cử của Nhà Trắng cũng sững sờ chẳng khác gì chúng ta. Tổng thống không chịu giải thích vì sao ông ta lại xử sự như vậy, và tất cả đều đang rất tức tối.

- Cô có giả thuyết gì không?

Gabrielle ngước cặp kính rất trí thức lên nhìn ông.

- Sáng nay tôi được một người quen trong Nhà Trắng thông báo một tin rất thú vị, thưa Thượng nghị sĩ.

Sexton hiểu ánh mắt ấy. Gabrielle Ashe lại moi được tin từ một nguồn trong Nhà Trắng. Không hiểu cô gái này có quan hệ kiểu trăng gió với một gã nào đó trong đội quân vận động tranh cử của Tổng thống không. Ông không cần biết, miễn là có được thông tin.

- Có tin đồn rằng - trợ lý của ông hạ giọng - Tổng thống bắt đầu xử sự kỳ quặc kiểu đó sau một cuộc nói chuyện riêng chớp nhoáng với một quan chức cao cấp của NASA. Sau cuộc gặp đó trông ông ấy có vẻ hơi choáng váng. Ngay sau đó ông ta huỷ bỏ mọi cuộc gặp khác và từ hôm ấy chỉ tiếp xúc với mỗi NASA thôi.

Sexton dĩ nhiên là rất thích điều này.

- Liệu có phải NASA lại có thêm tin xấu gì không nhỉ?

- Đó là cách giải thích hợp lí nhất. - Gabrielle nói đầy hi vọng.

- Tin tức đó phải quan trọng lắm thì Tổng thống mới vứt bỏ mọi thứ khác như thế.

Sexton cân nhắc. Hiển nhiên là mọi thứ liên quan đến NASA đều là tin xấu. Nếu không thì Tổng thống đã ném thẳng tin tốt đầu tiên ông ấy nhận được vào giữa mặt mình. Gần đây ông đã công kích Tổng thống một cách gay gắt vì vấn đề ngân sách cho NASA. Rất có khả năng những thất bại liên tiếp cùng với những khoản bội chi của cơ quan này sẽ trở thành điểm then chốt trong chiến dịch tuyên truyền của ông về hiệu quả làm việc thấp và quản lý ngân sách yếu kém của Chính phủ. Phải thừa nhận rằng không ai dám tin là việc chĩa mũi dùi vào NASA, niềm tự hào của người Mỹ, lại có thể giúp bất kỳ chính trị gia nào ghi điểm. Nhưng Sexton có một thứ vũ khí mà không một chính trị gia nào khác có được, đó chính là Gabrielle Ashe với những linh cảm tuyệt vời. Cô gái hiểu biết này đã thu hút sự chú ý của Sexton khi đang làm cộng tác viên cho văn phòng vận động tranh cử của Sexton ở Washington. Đúng vào lúc Sexton đang ì ạch nhích từng điểm một trong các kỳ thăm dò tín nhiệm, khi chẳng ai buồn để ý đến luận điểm của ông về thâm hụt ngân sách, Gabrielle đã gửi thư cho ông và đề xuất một ý tưởng rất mới cho chiến dịch tranh cử của ông. Cô thuyết phục Thượng nghị sĩ rằng ông nên công kích vào những khoản bội chi khổng lồ của NASA và coi những duyệt chi bổ sung của Chính phủ như một bằng chứng cho cung cách chi tiêu luộm thuộm của Tổng thống Herney.

"NASA ngốn một khoản tiền khổng lồ" - Gabrielle đã viết như vậy và cô gửi kèm trong thư một danh sách, những khoản chi, những thất bại và những khoản duyệt chi bổ sung. - "Các cử tri không hề biết. Và họ sẽ cảm thấy kinh hãi. Tôi cho rằng Thượng nghị sĩ nên biến NASA thành một vấn đề chính trị".

Thượng nghị sĩ Sexton rên lên khi đọc ý tưởng đó. "Làm thế thì có khác gì công kích người ta chỉ vì họ hát Quốc ca trước khi chơi bóng chày cơ chứ".

Trong những tuần tiếp theo, Gabrielle tiếp tục gửi cho ông những tài liệu liên quan đến NASA. Càng đọc nhiều tài liệu, ông càng nhận thấy Gabrielle có lí. Dù có dựa trên tiêu chuẩn của một cơ quan chính phủ đi nữa thì NASA vẫn là một cỗ máy ngốn tiền khổng lồ: tốn kém, không hiệu quả, và trong những năm gần đây thì lãng phí tràn lan.

Một hôm, trong buổi phỏng vấn truyền hình, ông bị phóng viên gạn hỏi về việc sẽ lấy tiền đâu ra để để trang trải cho việc sửa chữa các trường học theo như lời ông hứa. Ông quyết định dùng lý lẽ của Gabrielle về NASA để đáp lại nửa đùa nửa thật.

- Tiền cho giáo dục à? - ông nói. - Có thể tôi sẽ cắt giảm một nửa số chương trình vũ trụ của NASA. Tôi tính rằng nếu NASA có thể chi mười lăm tỉ đô la một năm trong vũ trụ thì tôi cũng có thể chi bảy tỉ rưỡi vào những khoản phục vụ lũ trẻ ngay trên mặt đất này.

Trong trường quay, người phụ trách chiến dịch tranh cử của Sexton thở dốc khi nghe thấy lời nhận xét bất cẩn đó. Toàn bộ chiến dịch có thể thành xôi hỏng bỏng không chỉ vì một phát đạn bắn bừa vào NASA. Ngay lập tức, các đường dây nóng của chương trình bắt đầu đổ chuông. Các trợ lí tranh cử của ông co rúm lại, tưởng những kẻ say mê vũ trụ bắt đầu bủa vây.

Nhưng một điều bất ngờ đã xảy ra.

- Mười lăm tỉ một năm cơ à? - Người đầu tiên gọi đến có vẻ rất ngạc nhiên.

- Đúng là tiền tỉ chứ? Có phải Thượng nghị sĩ vừa nói rằng lớp học toán của con trai tôi bị lèn chặt cứng vì nhà trường không đủ tiền thuê giáo viên giỏi, trong khi NASA chi mười lăm tỉ một năm chỉ để chụp ảnh mấy đám bụi trong vũ trụ không?

- Sự thật, đúng là như vậy! - Sexton thận trọng đáp.

- Thật ngớ ngẩn! Thế Tổng thống có quyền can thiệp vào chuyện đó không?

- Dĩ nhiên là có. - Ông đáp, lấy lại vẻ tự tin. - Tổng thống có quyền không thông qua dự toán ngân sách cho những cơ quan chính phủ mà ông ấy cho là chi tiêu quá mức cần thiết.

- Thưa Thượng nghị sĩ Sexton, tôi sẽ bỏ phiếu cho ngài. Mười lăm tỉ để nghiên cứu vũ trụ, trong khi con cái chúng ta không có đủ giáo viên. Thật phi lí. Xin chúc Thượng nghị sĩ may mắn. Hi vọng ngài sẽ là người chiến thắng.

Người thứ hai gọi đến.

- Thưa Thượng nghị sĩ, tôi nghe nói sân bay Vũ trụ quốc tế NASA đang chi nhiều hơn ngân sách được cấp, và Tổng thống đang xem xét duyệt chi bổ sung khẩn cấp để duy trì dự án đó. Có đúng thế không ạ?

Sexton chớp ngay lấy cơ hội.

- Hoàn toàn đúng! - Ông giải thích rằng dự án này lúc đầu là một liên doanh trong đó 12 chính phủ sẽ cùng nhau chi tiền. Nhưng khi bắt đầu triển khai xây dựng, các khoản chi tăng vọt không kiểm soát được, và nhiều quốc gia đã phải bỏ cuộc. Thay vì huỷ bỏ dự án, Tổng thống quyết định chi nốt phần của những quốc gia khác ông tuyên bố: "Từ mức dự tính ban đầu là tám tỉ đô la, chi phí cho dự án ISS đã lên đến một trăm tỉ!"

Người đang đối thoại với ông có vẻ tức giận.

- Thế tại sao Tổng thống không huỷ bỏ dự án đó?

Sexton ao ước được ôm hôn anh ta.

- Câu hỏi cực hay. Chẳng may là một phần ba lượng vật liệu cần thiết đã được chở lên vũ trụ rồi, và Tổng thống đã dùng tiền thuế của quý vị để chuyên chở chúng lên đó, nên việc huỷ bỏ dự án cũng có nghĩa là ông ấy đã sai lầm một cách ngớ ngẩn và lãng phí tiền thuế của quý vị.

Thêm nhiều người nữa gọi đến. Lần đầu tiên người Mỹ nhận ra rằng NASA không phải là cái nghiễm nhiên buộc phải tồn tại, rằng chính họ có quyền lựa chọn.

Ngoại trừ một số cuộc gọi cá biệt muốn bảo vệ NASA nêu lên những ý tưởng lãng mạn về nhu cầu hiểu biết vô hạn của loài người, còn đa số mọi người đều thống nhất quan điểm. Đến cuối chương trình thì chiến dịch tranh cử của Sexton đã bước vào một giai đoạn mới đầy thuận lợi với một điểm nhấn mới nóng hổi - một vấn đề chưa có ai nhắc đến bao giờ, một vấn đề gây ấn tượng mạnh với cử tri.

Trong những tuần tiếp theo, Sexton thắng đậm các đối thủ của mình trong cả năm hội nghị tuyển lựa ứng cử viên của đảng. Ông tuyên bố Gabrielle Ashe là trợ lý riêng của mình trong chiến dịch tranh cử, và ngợi khen cô vì đã có công đưa vấn để NASA đến với cử tri. Chỉ một cử chỉ đơn giản đó của ngài Thượng nghị sĩ đã biến cô gái gốc Phi trẻ trung thành một ngôi sao mới trên chính trường, và quá khứ phân biệt chủng tộc cũng như kỳ thị giới tính của ông biến mất trong chốc lát.

Giờ đây, đi cùng cô gái trên một chiếc xe, Sexton biết rằng Gabrielle lại một lần nữa chứng tỏ giá trị của mình. Thông tin mà cô thu thập được về cuộc gặp bí mật giữa Giám đốc NASA và Tổng thống dĩ nhiên cho thấy NASA lại đang có vấn đề - biết đâu một quốc gia nữa lại vừa tỏ ý muốn rút khỏi dự án sân bay vũ trụ.

Chiếc xe lướt qua tượng đài Washington, và Thượng nghị sĩ Sexton cảm thấy chiếc ghế Tổng thống chắc chắn không thể vuột khỏi tay ông.

Chương 8

Dù đã trở thành chủ nhân của chiếc ghế quyền lực cao nhất, Tổng thống Zachary Herney vẫn chỉ là một người đàn ông mảnh khảnh, vai hẹp và cao trung bình. Khuôn mặt lốm đốm tàn nhang, tóc đen rậm, và đeo kính hai tròng. Tuy nhiên, vóc dáng chẳng có gì nổi trội của ông lại đối lập hoàn toàn với tình cảm nồng nhiệt mà con người này có thể gợi lên trong lòng bất kỳ ai có quan hệ với ông.

Người ta nói rằng chỉ cần được gặp Zach Herney một lần là bạn sẽ lập tức sẵn sàng đi cùng trời cuối đất với ông.

- Tôi rất vui vì cô đã đến đây. - Tổng thống Herney nói, bắt tay Rachel. Bàn tay ông ấm áp và chân thành.

Giọng Rachel tự nhiên khản đặc.

- Vâng, xin chào Tổng thống, rất hân hạnh được gặp ngài.

Tổng thống mỉm cười thân thiện, và Rachel nhận ra ngay tác phong hoà nhã đã trở thành huyền thoại của Tổng thống Herney.

Vẻ mặt dễ chịu của ông thì tất cả các hoạ sĩ làm phim hoạt hình đều yêu mến - dù có co kéo các đường nét của ông theo kiểu gì thì tất cả mọi người vẫn nhận ra ngay nụ cười ấm áp và thân thiện của Tổng thống. Đôi mắt ông luôn ánh lên sự chân thành và đức độ.

- Mời cô đi theo tôi, - ông vui vẻ nói - tôi muốn mời cô một ly cà phê đặc biệt.

- Cảm ơn Tổng thống.

Ngài Tổng thống ấn nút gọi người phục vụ và yêu cầu mang cà phê vào văn phòng riêng của ông.

Theo chân ngài Tổng thống suốt dọc thân chuyên cơ, Rachel nhận thấy con người này trông hoàn toàn viên mãn và thư thái dù đang mất điểm trong các cuộc thăm dò dư luận. Ông ăn vận xuề xoà: quần bò xanh. Áo phông polo, và ủng đi bộ L.L.Bean.

Cô tìm cách bắt chuyện.

- Chúng ta đang đi bách bộ sao, thưa Tổng thống?

- Không hề. Các cố vấn cho chiến dịch tranh cử đã quyết định là tôi phải có một diện mạo mới. Cô thấy thế nào?

Rachel chân thành hi vọng rằng ông chỉ đang nói đùa.

- Dạ... trông rất... mạnh mẽ, thưa Tổng thống.

Herney vui vẻ.

- Tốt lắm. Chúng tôi đang hi vọng điều này sẽ giúp tôi giành lại một số lá phiếu của các cử tri nữ từ tay cha cô đấy! - Một tích tắc sau, ông mỉm cười thật tươi - Cô Sexton, tôi chỉ đùa thôi. Chúng ta đều biết là để giành thắng lợi trong chiến dịch tranh cử này thì còn cần nhiều thứ khác nữa.

Thái độ vui vẻ và cởi mở của ngài Tổng thống đã mau chóng xua tan cảm giác căng thẳng trong lòng Rachel khi mới đặt chân đến nơi này. Bù lại cho những cơ bắp nhỏ bé, Tổng thống thật khéo giao tiếp. Làm ngoại giao thì cần có kỹ năng, mà Tổng thống thì có năng khiếu bẩm sinh về lĩnh vực này.

Rachel đi theo ngài Tổng thống xuống phía đuôi máy bay.

Càng đi sâu xuống, càng mất dần cảm giác họ đang có mặt trên một chuyên cơ - những lối đi mái vòm, tường dán giấy, thậm chí còn có cả một phòng tập thể dục với đầy đủ cả mái chèo thuyền hiệu Stair Master. Điều kỳ lạ là trên máy bay không có một người nào.

- Tổng thống đi một mình hay sao?

Ông lắc đầu.

- Thực ra chúng tôi vừa hạ cánh xong.

Rachel ngạc nhiên. Bay đi đâu về nhỉ? Trong tổng hợp tin tình báo tuần này không thấy có chuyến đi nào của Tổng thống. Rõ ràng là Tổng thống đã bí mật cất cánh từ đảo Wallop.

- Các nhân viên của tôi rời máy bay ngay trước khi cô đến. - Tổng thống nói. - Tôi sắp quay về Nhà Trắng để gặp họ ngay bây giờ, nhưng tôi muốn gặp cô ở đây chứ không phải trong văn phòng của tôi.

- Để làm tôi thấy choáng ngợp ư?

- Trái lại, để thể hiện sự tôn trọng, thưa cô Sexton. Không có gì trong Nhà Trắng là bí mật cả, và tin tức về cuộc gặp giữa chúng ta sẽ đặt cô vào tình thế khó xử với cha mình.

- Tôi đánh giá cao điều đó, thưa Tổng thống. - Có vẻ như cô đã duy trì thế cân bằng một cách thành công và duyên dáng - Tôi không thấy có lí do gì để cản trở điều đó.

Rachel nhớ lại bữa sáng của hai cha con cô và tự hỏi liệu mình có thực sự "duyên dáng" hay không. Tuy nhiên, Zach Herney đang tỏ ra đặc biệt tử tế với cô, dù ông ấy có quyền không làm như vậy.

- Tôi gọi cô là Rachel có được không? - Herney hỏi.

- Dĩ nhiên ạ. - Tôi có thể gọi Tổng thống là Zach được không?

- Văn phòng của tôi đây. - Tổng thống dẫn cô qua một khung cửa mái vòm bằng gỗ thích.

Văn phòng của Tổng thống trên Chuyên cơ số Một ấm cúng hơn văn phòng trong Nhà Trắng, nhưng cách bài trí đơn giản hơn.

Bàn làm việc chất đầy tài liệu, phía sau chiếc bàn là bức tranh sơn dầu lớn vẽ chiếc thuyền buồm dọc ba cột kiểu cồ đang dương buồm vượt qua giông bão. Bức tranh lột tả thật hoàn hảo tình huống của Zach Herney lúc này.

Tổng thống mời cô ngồi xuống một trong ba chiếc ghế đặt đối diện với bàn làm việc của ông. Rachel ngồi xuống. Cô tưởng ông sẽ ngồi vào chiếc ghế dành riêng cho Tổng thống sau chiếc bàn, nhưng thay vào đó, Herney kéo ghế ngồi cạnh cô.

"Vị thế bình đẳng", Rachel thầm nhận xét. Quả là một tài năng trong giao tiếp.

- Rachel này. - Ngài Tổng thống ngả người trên ghế và nói. - Tôi đoán là cô đang không hiểu vì sao lúc này mình lại có mặt ở đây, đúng thế không nào?

Vẻ chân thành trong giọng nói của ông đã xua tan chút e dè cuối cùng còn sót lại trong lòng Rachel.

- Thưa Tổng thống, quả thật là tôi hơi bối rối.

Herney cười lớn.

- Hay thật, không phải ngày nào tôi cũng có thể khiến một nhân viên của NRO phải bối rối đâu.

- Có phải ngày nào nhân viên của NRO cũng được ngài Tổng thống mang ủng đi bộ mời trèo lên Chuyên cơ số Một đâu.

Ngài Tổng thống lại cười lớn.

Có tiếng gõ cửa nhè nhẹ, cà phê được mang vào. Nhân viên phục vụ bưng vào một cái khay đựng ấm thiếc nghi ngút hơi và hai chiếc ca thiếc. Theo yêu cầu của Tổng thống, cô ta đặt khay lên bàn và ra ngoài.

- Cô dùng kem và đường nhé. - Ngài Tổng thống đứng dậy rót cà phê.

- Cho tôi kem ạ. - Rachel hít hà mùi cà phê thơm ngào ngạt.

Chẳng phải đích thân ngài Tổng thống Hợp chủng quốc Hoa Kỳ đang rót cà phê mời mình đây sao?

Zach Herney đưa cho cô một ca đầy. - Cà phê Paul Ravere thứ thiệt - ông nói - sự xa xỉ hiếm hoi đấy.

Rachel nhấp một ngụm. Ly cà phê ngon nhất trong đời cô.

- Dù sao thì... - Tổng thống rót cho mình một li và ngồi xuống - tôi có rất ít thì giờ, nên chúng ta hãy nói thẳng vào vấn để. - ông thả một viên đường vào li cà phê và ngước lên nhìn cô. - Tôi đoán Bill Pickering đã nói với cô rằng lí do duy nhất khiến tôi muốn gặp cô là để lợi dụng cô vì động cơ chính trị cá nhân.

- Vâng, thưa Tổng thống, ông ấy có nói với tôi như thế.

Tổng thống cười thành tiếng.

- Anh chàng này đa nghi thật.

- Nói thế không đúng sao?

- Cô đùa đấy à? - Ngài Tổng thống cười lớn. - Bill Pickering có sai bao giờ đâu. Ông ta vẫn đúng, như thường lệ. Chương 9

Chiếc xe Limusine đang lướt nhanh giữa dòng xe cộ để đến văn phòng của Thượng nghị sĩ Sexton và Gabrielle lơ đãng nhìn ra ngoài. Cô băn khoăn tự hỏi vì sao đời mình lại rẽ theo ngả này. Trợ lý riêng của Thượng nghị sĩ Sedgewick Sexton, chẳng phải đây chính là vị trí cô hằng ao ước sao?

Mình đang ngồi chung một xe với Tổng thống tương lai của nước Mỹ.

Gabrielle chăm chú nhìn Thượng nghị sĩ đang ngồi trong cùng chiếc xe sang trọng với mình, dường như ông đang đắm chìm trong những suy nghĩ riêng tư. Cô ngưỡng mộ khuôn mặt điển trai và bộ quần áo hoàn hảo của ông. Đúng là phong cách của vị Tổng thống.

Lần đầu tiên cô được nghe Sexton nói chuyện trực tiếp là cách đây ba năm, khi còn theo học chính trị học ở Đại học Cornell.

Gabrielle không thể nào quên ánh mắt ông chân thành nhìn thính giả như muốn chuyển đến riêng cô thông điệp trực tiếp "hãy tin tôi".

Buổi nói chuyện kết thúc, cô đợi ở ngoài để gặp riêng ông.

- Gabrielle Ashe. - Thượng nghị sĩ đọc tên cô trên tấm thẻ đeo ở ngực. - Cái tên đẹp thật thích hợp với một quý cô xinh xắn. - Ánh mắt ông đầy khích lệ.

- Cảm ơn Thượng nghị sĩ. - Gabrielle đáp, cảm nhận thấy sức mạnh của ông trong bàn tay xiết chặt. - Bài nói chuyện của ngài đã thực sự gây ấn tượng đối với tôi.

- Rất vui được nhận lời khen ngợi của cô! - Ông dúi vào tay cô một tấm danh thiếp. - Tôi luôn muốn tìm kiếm những khối óc trẻ trung sắc sảo cùng quan điểm với mình. Khi nào tốt nghiệp, cô hãy tìm gặp tôi, rất có thể chúng tôi có một chỗ nào đó dành cho cô đấy.

Gabrielle hé môi định nói lời cảm ơn, nhưng ngài Thượng nghị sĩ đã quay sang nói chuyện với người khác. Tuy nhiên, suốt những tháng sau đó, qua ti vi, Gabrielle luôn dõi theo bước đường sự nghiệp của ngài Thượng nghị sĩ. Cô ngưỡng mộ quan điểm của ông về cách khắc phục những yếu kém của Chính phủ trong quản lý ngân sách - cương quyết cắt giảm ngân sách, sắp xếp lại IRS để tăng hiệu quả làm việc, xoá bỏ lãng phí ở DEA, và thậm chí loại bỏ những chương trình dân sự không thật sự cần thiết. Rồi vợ Thượng nghị sĩ bất ngờ gặp tai nạn và qua đời. Gabrielle lại có dịp khâm phục và kính nể cách ông biến sự mất mát thành lợi thế. Sexton vượt qua nỗi đau riêng tư và tuyên bố với cả thế giới rằng ông sẽ ra tranh cử Tổng thống và cống hiến phần đời còn lại cho hoạt động xã hội để tưởng nhớ người vợ quá cố của mình. Ngay giây phút đó, Gabrielle đã quyết sẽ sát cánh trong chiến dịch tranh cử của Thượng nghị sĩ Sexton.

Giờ đây, cô đã được gần ông hơn bất kỳ ai khác.

Chợt nhớ lại đêm yêu đương giữa hai người trong văn phòng, Gabrielle co rúm lại, cố gạt những hình ảnh ấy ra khỏi đầu. A, mình đang suy nghĩ lung tung gì thế này? Đáng ra cô phải khước từ ông, nhưng cô đã không làm điều đó. Sedgewick Sexton đã là một thần tượng trong cô từ quá lâu... Chỉ cần nghĩ rằng ông ấy thèm muốn cô thôi cũng đã đủ... Chiếc xe chợt xóc nảy lên, kéo những ý nghĩ của Gabrielle về với thực tại.

- Cô không sao chứ? - Lúc này Sexton đang nhìn cô.

Gabrielle luống cuống mỉm cười trả lời.

- Không ạ.

- Cô vẫn còn nghĩ đến khổ nhục kế đó à?

Gabrielle nhún vai.

- Đúng là tôi vẫn còn thấy hơi lo ngại.

- Quên chuyện đó đi. Khổ nhục kế đó là cú hích tuyệt vời nhất cho chiến dịch tranh cử của tôi đấy.

Gabrielle đã học được một cách không dễ dàng gì, rằng khổ nhục kế là một tiểu xảo trên chính trường, đại loại như tung tin rằng đối thủ bị thiểu năng sinh lí, hoặc đang đặt mua dài hạn tạp chí Stud Muffin. Đây không phải là một chiến lược mã hiệp, nhưng một khi đã thành công, nó đem lại kết quả không ngờ. Dĩ nhiên, nếu nó lại phản tác dụng thì... Và nó đã phản tác dụng. Đối với Nhà Trắng. Cách đây một tháng, cảm thấy lo ngại về kết quả của Tổng thống trong các cuộc điều tra thăm dò, đội quân tổ chức chiến dịch tranh cử của ông ta đã quyết định phá vỡ thế thủ và xì thông tin rằng Thượng nghị sĩ Sedgewick Sexton có quan hệ tình dục với trợ lý riêng Gabrielle Ashe. Chẳng may, họ không hề có chứng cứ. Tin chắc rằng cách tự vệ tốt nhất là phản công, Thượng nghị sĩ chớp ngay thời cơ để hành động. Ông tổ chức một cuộc họp báo, tuyên bố mình vô tội và cực lực phản đối. Tôi không ngờ, mắt ông hướng thẳng vào ống kính camera đầy đau đớn, rằng ngài Tổng thống có thể đang xúc phạm vong linh người vợ đã cố của tôi bằng những lời dối trá đó.

Dáng điệu của ông trên tivi đầy thuyết phục đến nỗi chính Gabrielle cũng tin rằng cô chưa một lần âu yếm ngài Thượng nghị sĩ. Vì ông nói dối quá tài tình, cô bắt đầu ngờ rằng Thượng nghị sĩ Sexton thực ra là người rất nguy hiểm.

Gần đây, Gabrielle ngày càng thấy rõ rằng mình đang giúp sức cho con ngựa đua khoẻ nhất trên đường đua, nhưng cô không dám chắc mình đang phò tá cho chú ngựa tốt nhất. Làm việc trực tiếp với Sexton đã cho cô cơ hội nhận ra nhiều điều - cũng tựa như khi được dẫn đi xem hậu trường các trường quay của hãng Universal, lũ trẻ nhận ra rằng Holliwood thực ra chẳng có gì kỳ diệu, thế là niềm ngưỡng mộ thành kính trẻ thơ của chúng đối với các bộ phim ngay lập tức bị sự thật làm cho thui chột.

Dù Gabrielle vẫn giữ nguyên niềm tin với những thông điệp trong chiến dịch tranh cử của Sexton, cô bắt đầu đặt câu hỏi về người đưa ra những thông điệp ấy. Chương 10

- Những gì mà tôi sắp nói với cô, - ngài Tổng thống nói - được xếp loại tối mật đấy, Rachel ạ. Mức độ bảo mật cao nhất. - kể cả giấy phép sử dụng thông tin mật cũng không cho phép cô có quyền tiếp cận thông tin loại này đâu.

Rachel cảm thấy như những bức tường quanh cô đều đang khép dần lại. Tổng thống điều máy bay chở cô đến đảo Wallop, mời cô lên chuyên cơ, tự tay rót cà phê, nói trắng ra rằng ông ta sẽ sử dụng cô như một lá bài trong cuộc chạy đua với cha cô, và bây giờ lại còn định nói với cô những thông tin mật mà cô không được phép tiếp cận. Dù vẻ bề ngoài của Zach Herney có hoà nhã đến đâu thì Rachel cũng đã hiểu được một điều về con người này. Ông ta rất nôn nóng muốn làm chủ tình thế.

- Cách đây hai tuần, - Tổng thống nói, mắt nhìn xoáy vào Rachel - NASA đã có một phát kiến quan trọng.

Mất mấy giây, Rachel mới hiểu được những lời Tổng thống vừa thốt ra. Phát kiến của NASA? Các tổng hợp tin tình báo dạo này cho thấy mọi hoạt động của cơ quan này đều không suôn sẻ. Trong tình thế này, phát kiến mới của NASA chỉ có thể là một dự án nào đó lại thiếu tiền.

- Trước khi nói sâu hơn về phát kiến này, tôi muốn biết cô có cùng quan điểm với cha cô trong việc phê phán các chương trình thám hiểm vũ trụ không? - Tổng thống nói.

Rachel cảm thấy không bằng lòng.

- Tôi hi vọng Tổng thống cho mời tôi đến đây không phải là để yêu cầu tôi kiểm soát những luận điểm không có lợi cho NASA của cha tôi.

Ông ta cười.

- Không hề. Tôi đã biết Thượng nghị sĩ Sedgewick Sexton lâu rồi, và hiểu rằng không một ai có thể kiểm soát được ông ấy.

- Cha tôi là người cơ hội, thưa Tổng thống, và hầu hết các chính trị gia thành công đều thế cả. Rủi thay NASA đã tự tạo cơ hội cho ông ấy. - Những thất bại của NASA gần đây trầm trọng đến mức những người không muốn cười nhạo cơ quan này cũng sẽ phải phát khóc lên vì nó - những vệ tinh nhân tạo bị văng mất bộ phận khi bay trong quỹ đạo; những tàu thăm dò vũ trụ chẳng thấy gửi tín hiệu về, ngân sách cho sân bay Vũ trụ quốc tế tăng lên gấp mười lần và các nước tham gia dự án lẩn như trạch. NASA đã tiêu phí hàng tỉ đô la, và Thượng nghị sĩ Sexton đang tạo nên một làn sóng - làn sóng rất có thể sẽ đẩy con thuyền của ông đến số nhà 1600 đại lộ Pénsylvania.

- Tôi thừa nhận rằng - ngài Tổng thống nói tiếp - gần đây NASA quả thực bí bét. Hết lần này đến lần khác, cơ quan này tự nó đã khiến tôi thực sự muốn cắt giảm ngân sách của nó.

Rachel tìm được một lí lẽ chắc chắn.

- Thưa Tổng thống, ấy thế mà vừa tuần trước ngài duyệt chi khẩn cấp cho họ ba tỉ đô la đấy thôi.

Ngài Tổng thống cười thành tiếng.

- Được tin đó cha cô hẳn mừng lắm nhỉ?

- Ngài làm như thế có khác nào nối giáo cho giặc đâu.

- Cô có nghe ông ấy nói trong chương trình Nightline không?

"Zach Herney là kẻ nghiện vũ trụ, và tiền thuế của dân đang được dùng để thoả mãn cơn nghiện đó".

- Thưa Tổng thống, ngài đang chứng minh rằng cha tôi đúng.

Herney gật đầu.

- Tôi không hề giấu diếm rằng tôi là một người hâm mộ NASA. Từ xưa đến nay. Tôi đã chứng kiến cuộc chạy đua vũ trụ trong thời thơ ấu của mình - Putnick, John Glenn, Apollo 11 - và tôi luôn hào hứng thể hiện sự ngưỡng mộ và tự hào về các chương trình của họ. Trong tâm trí của tôi, những nhân viên của NASA chính là những người đi tiên phong trong thời kỳ hiện đại. Họ biết nỗ lực vượt qua trở ngại, chấp nhận thất bại và nghiên cứu lại bản vẽ thiết kế trong khi những kẻ khác chỉ biết đứng nhìn và lên giọng chê bai.

Rachel im lặng. Đằng sau vẻ ngoài nhã nhặn rủa Tổng thống là thái độ phẫn nộ trước những lời công kích hùng hồn liên tiếp của cha cô. Cô băn khoăn không hiểu NASA đã phát hiện được điều gì. Chắc chắn Tổng thống mời cô đến đây không phải để nói chuyện phiếm.

- Hôm nay - Herney nói - tôi sẽ khiến cô phải thay đổi thái độ đối với NASA.

Rachel nhìn ông vẻ ngờ vực.

- Lá phiếu của tôi chắc chắn là dành cho ngài rồi, thưa Tổng thống. Ngài hãy tập trung vào những người khác.

- Tôi cũng định thế! - Ông ta nhấp một ngụm cà phê và mỉm cười. - Và tôi muốn nhờ cô giúp một tay. - ông ngừng một lát, nhoài người về phía cô, rồi nói tiếp. - Một cách rất đặc biệt.

Rachel cảm thấy ngài Tổng thống đang quan sát từng cử chỉ của cô, y như người thợ săn đang quan sát kỹ con mồi để phán đoán xem nó định bỏ chạy hay quay lại phản công. Rủi thay, cô chẳng biết chạy đường nào.

Ông ta rót thêm cà phê vào ca của Rachel.

- Tôi đoán cô đã biết một dự án của NASA có tên là EOS.

Rachel gật đầu.

- Hệ thống quan trắc trái đất. Hình như cha tôi đã vài lần nhắc đến nó thì phải.

Tổng thống nhăn mặt, dù vẫn cố tỏ ra hài hước. Thực ra cha của Rachel liên tục nhắc đến dự án này mỗi khi tìm được cơ hội. Đó là một trong những dự án tham vọng nhất của NASA - Một chùm năm vệ tinh nhân tạo sẽ quan sát trái đất từ vũ trụ và phân tích tình hình môi trường toàn cầu: sự thoái hóa của tầng ozon, hiện tượng băng tan ở hai địa cực, hiện tượng trái đất ấm dần lên, nạn chặt phá rừng. Ý tưởng của họ là sẽ mang lại cho các nhà môi trường học một nguồn thông tin dồi dào chưa từng thấy để hoạch định tương lai cho trái đất.

Khổ nỗi, EOS chỉ gặp toàn thất bại. Cùng cảnh ngộ với nhiều dự án khác của NASA, ngay từ đầu nó đã ngập trong những khoản chi ngoài dự kiến, và Zach Herney là người giơ đầu chịu báng. Ông đã vận động hành lang để Nghị viện phê chuẩn một khoản chi bổ sung trị giá 1,4 tỉ đô la. Thế nhưng, thay vì mang lại nguồn thông tin vô tận như đã hứa, dự án EOS nhanh chóng trở thành một cơn ác mộng với những lần phóng vệ tinh thất bại, những máy tính không hoạt động, và những buổi họp báo buồn thê thảm. Gần đây. người duy nhất tươi tỉnh mỗi khi nhắc đến EOS là Thượng nghị sĩ Sexton. Với vẻ mặt tự mãn, ông thường nhắc mọi người nhớ đến số tiền khổng lồ mà ngài Tổng thống đã chi cho EOS và kết quả thảm hại của chương trình này.

Tổng thống thả một viên đường vào ca của mình.

- Có thể mọi người sẽ cảm thấy ngạc nhiên, phát kiến lần này của NASA là kết quả của EOS.

Rachel không hiểu. Nếu EOS có bất kỳ thành công nào thì chắc chắn họ đã thông báo rồi. Cha cô đang sử dụng các phương tiện thông tin đại chúng để công kích họ, nên nếu EOS có tin tức gì tốt lành thì chắc chắn họ sẽ lập tức công bố ngay.

- Tôi chưa nghe ai nói đến phát kiến nào của EOS cả. - Cô đáp.

- Tôi biết là NASA thích giữ kín tin tốt lành này một thời gian.

Rachel không tin.

- Theo kinh nghiệm của tôi, nếu NASA không thông báo gì thì nghĩa là không có tin tốt nào hết.

Sự kiềm chế chưa bao giờ là sở trường của ban quan hệ công chúng của NASA. Nhân viên NRO vẫn thường đùa nhau rằng chỉ cần một nhà khoa học của NASA lên cơn đau bụng là lập tức sẽ có họp báo.

Tổng thống nhíu mày.

- À, tôi quên mất là đang nói chuyện với nhân viên của Pickering. Ông ta vẫn còn than vãn về những cái mồm hay chuyện của NASA đấy à?

- Bảo vệ an ninh là việc của ông ấy, thưa Tổng thống. Và ông ấy coi đó là chuyện nghiêm túc.

- Đúng thật là... Không thể tin nổi hai cơ quan có nhiều điểm tương đồng như vậy lại suốt ngày hục hặc với nhau.

Trong thời gian làm việc dưới quyền William Pickering, Rachel hiểu rằng dù cả NRO lẫn NASA đều liên quan đến vũ trụ, phương châm của hai cơ quan này hoàn toàn đối lập nhau. NRO là một cơ quan an ninh, luôn giữ kín tất cả những hoạt động liên quan đến vũ trụ của mình. Trong khi NASA lại là một cơ quan nghiên cứu, và luôn sốt sắng công bố tất cả những phát kiến của họ cho cả thế giới - và thường xuyên, theo cách nói của Pickering, gây nguy hại đến an ninh quốc gia. Một số công nghệ tối tân của NASA - kính có độ phân giải lớn dùng trong quan sát vũ trụ, những hệ thống liên lạc tầm xa, những thiết bị chụp ảnh bằng sóng radio - thường thấy xuất hiện trong kho vũ khí của các nước thù địch và được dùng để do thám chính nước Mỹ. Bill Pickering vẫn càu nhàu rằng bộ óc các nhà khoa học của NASA rất vĩ đại, nhưng vẫn không thể sánh bằng những cái mồm của họ. Vấn đề lấn cấn nhất giữa hai cơ quan này là NASA phụ trách việc phóng các vệ tinh của NRO vào quỹ đạo, và những lần phóng vệ tinh bị thất bại của họ gần đây ảnh hưởng trực tiếp đến NRO.

Thất bại ê chề nhất là vào ngày 12 tháng 8 năm 1988. Tên lửa Titan 4 của NASA nổ tung sau khi rời bệ phóng được 40 phút, phá huỷ hoàn toàn các thiết bị mang theo - một vệ tinh của NRO trị giá 1,2 tỉ đô la mang tên Vortex 2. Và Pickering không thể quên được vố đó.

- Tại sao NASA không công bố ngay phát kiến mới này? - Rachel chất vấn. - Họ nên công bố ngay lập tức.

- Việc họ giữ im lặng - Tổng thống trả lời - là theo lệnh của tôi.

Rachel băn khoăn không hiểu mình có nghe nhầm không. Nếu thế thật thì Tổng thống đang tự tay chặt đứt sự nghiệp chính trị của mình một cách kỳ quặc.

- Phát kiến mới này - Tổng thống nói tiếp - tôi nên dùng từ thế nào nhỉ - Sẽ khiến mọi người đều phải sửng sốt.

Rachel cảm thấy khó chịu. Trong giới tình báo "khiến mọi người đều phải sửng sốt" thường có nghĩa là tin xấu. Rất có thể bí mật của EOS chính là một thảm hoạ môi trường mà hệ thống vệ tinh phát hiện được. - Có vấn đề gì không ạ?

- Không có vấn đề nào hết. EOS phát hiện ra một thứ vô cùng tuyệt vời!

Rachel lặng phắc.

- Rachel này, giả sử tôi sẽ nói với cô rằng NASA vừa có một phát kiến khoa học quan trọng đến mức... đến mức sống còn đối với toàn bộ trái đất..., một phát kiến đáng đồng tiền bát gạo, đáng từng xu lẻ mà nước Mỹ đã chi cho chương trình tìm hiểu vũ trụ... thì sao nào?

Rachel không tin nổi.

Tổng thống đứng dậy.

- Chúng ta đi dạo một chút nào. Chương 11

Rachel bước theo Tổng thống Herney ra cầu thang của Chuyên cơ số Một.

Bước xuống những bậc thang sáng bóng, cô cảm thấy đầu óc minh mẫn hơn nhờ bầu không khí tháng ba lạnh giá. Càng minh mẫn, cô càng thấy tuyên bố của Tổng thống thật khó hiểu.

NASA vừa có một phát kiến khoa học quan trọng đáng đồng tiền bát gạo, đáng từng xu lẻ mà nước Mỹ đã chi cho chương trình tìm hiểu vũ trụ bao lâu nay.

Rachel đoán rằng phát kiến quan trọng đến nhường ấy chắc phải liên quan đến thứ duy nhất - chén thánh của NASA - tiếp xúc với người ngoài trái đất. Tuy nhiên, cô hiểu về vấn đề này đủ để biết rằng đó là điều không thể.

Là nhân viên phân tích tin tình báo, Rachel thường nhận được những câu hỏi từ bạn bè liên quan đến những cáo buộc rằng Chính phủ tìm cách che đậy thông tin về những tiếp xúc với người ngoài trái đất. Và cô vẫn thường cảm thấy kinh hãi về những giả thuyết mà những người bạn "có học" của cô nêu ra - những đĩa bay gặp tai nạn được giấu kín trong các boongke của Chính phủ, xác người ngoài hành tinh được bảo quản trong đá, thậm chí cả những công dân bình thường cũng có thể bị điều tra, thậm chí giải phẫu để nghiên cứu.

Đó chỉ là những giả thuyết ngớ ngẩn. Dĩ nhiên là chẳng hề có người ngoài hành tinh, cũng chẳng ai cố tình che đậy gì cả.

Tất cả những ai trong giới tình báo đều biết rằng đại đa số những lần người ta thông báo về sự tiếp xúc với người ngoài hành tinh chẳng qua chỉ là trò viễn tưởng, những bức ảnh chụp người ngoài hành tinh bị giải phẫu chẳng qua chỉ là những mánh chơi khăm tầm thường. Khi những chiếc đĩa bay tồn tại, chúng có thói quen kỳ lạ là hay xuất hiện gần những căn cứ không quân của Hoa Kỳ, nơi người ta đang thử nghiệm những loại máy bay tân tiến nhất. Khi Lockheed tiến hành bay thử một loại trực thăng mới có tên là Thần sấm tàng hình, số lượng đĩa bay được phát hiện gần căn cứ sân bay Edward tăng gấp 15 lần.

Vẻ mặt cô đầy hồ nghi. Tổng thống ngờ vực nhìn cô. Lời nhận xét khiến Rachel giật mình. Cô nhìn ông ta, không biết phải trả lời thế nào. Rachel lưỡng lự.

- Tôi cho rằng Tổng thống không nói đến những đĩa bay của người ngoài hành tinh với những người da màu xanh chứ ạ?

Mặt ông ta có vẻ khoái trá.

- Rachel này, tôi tin là cô sẽ thấy phát kiến này còn gợi trí tò mò hơn cả những chuyện khoa học viễn tưởng đấy.

Rachel thở phào khi nghe nói NASA vẫn chưa tuyệt vọng đến nỗi phải bày ra trò lừa về người ngoài hành tinh để cứu giúp Tổng thống. Tuy nhiên, lời nhận xét của ông ta càng làm cô tò mò hơn. Cô nói:

- Dù NASA tìm thấy gì đi nữa thì thời điểm này cũng cực kỳ thích hợp đấy, thưa Tổng thống.

Herney dừng lại giữa cầu thang máy bay.

- Thuận tiện à? Sao lại thế?

Rachel nhìn ông ta chằm chằm.

- Thưa Tổng thống, NASA đang trong một cuộc chiến sinh tử để chứng minh rằng họ có lý do chính đáng để tồn tại, và ngài đang bị chỉ trích vì tiếp tục cung cấp tài chính cho họ. Một bước đột phá quan trọng của NASA vào thời điểm này sẽ là liều thuốc tiên đối với cả họ lẫn chiến dịch tranh cử của ngài. Nhiều người sẽ cảm nhận rằng đây là thời điểm đáng ngờ.

- Thế thì... cô cho tôi là kẻ khờ hay thằng ngốc?

Rachel thấy nghẹn cổ họng:

- Tôi không có ý tỏ ra bất kính, thưa Tổng thống, tôi chỉ...

- Bình tĩnh nào. - Môi ngài Tổng thống thoáng một nụ cười, và ông ta lại tiếp tục bước xuống cầu thang - Khi Giám đốc NASA báo cáo tin đó tôi đã phản đối thẳng thừng, cho đó là trò ngớ ngẩn. Tôi đã buộc tội ông ta là định làm một trò hề chính trị ngây ngô nhất trong lịch sử.

Rachel thấy cục nghẹn trong cổ họng tan đi đôi chút.

Đến chân cầu thang, Herney quay lại nhìn cô.

- Một trong những lí do khiến tôi ra lệnh cho NASA giữ im lặng là để bảo vệ họ. Tầm quan trọng của phát kiến này vượt xa tất cả những gì họ đã công bố từ trước đến nay. So với nó, cả việc con người đặt chân lên Mặt trăng cũng chỉ là vô nghĩa. Với tất cả mọi người, kể cả tôi, có quá nhiều thứ để được - và để mất - tôi cho là cần phải kiểm tra lại thông tin của họ thật cẩn thận trước khi công bố chính thức và trở thành tâm điểm chú ý của công chúng.

Rachel giật mình:

- Chắc chắn người đó không phải là tôi chứ ạ?

Ông ta cười lớn.

- Không. Đây không phải chuyên môn của cô. Bên cạnh đó, tôi đã cho thẩm tra thông tin bằng các kênh ngoài Chính phủ rồi.

Cảm giác nhẹ nhõm trong Rachel lại nhường chỗ cho sự tò mò.

- Ngoài Chính phủ? Tổng thống giao cho các công ty tư nhân à? Trong vấn đề quan trọng đến thế này sao?

Tổng thống gật đầu xác nhận.

- Tôi đã cho thành lập một đội điều tra - bốn nhà khoa học bên ngoài NASA có tên tuổi và uy tín. Họ sử dụng thiết bị quan sát của chính họ và tự rút ra kết luận. Trong vòng bốn mươi tám giờ qua, các nhà khoa học dân sự này đã xác minh là không còn nghi ngờ gì về phát kiến của NASA nữa.

Giờ đến lượt Rachel bị ấn tượng. Tổng thống đã tự bảo vệ bản thân với một phong thái tự tin rất Herney. Bằng cách thuê những người ngoài hay hoài nghi, những người sẽ chẳng được thêm lợi lộc gì từ việc xác minh phát kiến của NASA, Herney đã dựng cho mình bức tường chắn để chống lại những hoài nghi rằng đây có thể là một mưu đồ của NASA để biện hộ cho ngân sách kếch sù của họ, để cứu nguy cho ngài Tổng thống xưa nay vốn rất hào phóng với họ, và để chống đỡ những đòn tấn công của Thượng nghị sĩ Sexton.

- Tám giờ tối nay, - ngài Tổng thống nói. - Tôi sẽ tổ chức họp báo ở Nhà Trắng để công bố phát hiện mới này cho toàn thế giới được biết.

Rachel cáu kỉnh. Rốt cuộc thì Herney vẫn chưa cho cô biết điều gì cụ thể cả. - Cụ thể là phát kiến gì vậy? - Tổng thống mỉm cười. Hôm nay cô sẽ thấy kiên trì là một phẩm chất tốt. Cô phải được tận mắt thấy phát kiến đó. Cô sẽ có cơ hội hiểu rõ về việc này trước khi chúng tôi có những động thái tiếp theo. Người của NASA đang đợi để thông báo vắn tắt cho cô toàn bộ sự việc. Cô có thể hỏi họ bất kỳ điều gì cô muốn. Sau đó, chúng ta sẽ bàn kỹ hơn về vai trò của cô.

Nhìn ánh mắt Tổng thống, Rachel lờ mờ e sợ một mưu đồ nào đó, và nhớ lại linh cảm của Pickering rằng Nhà Trắng đang giấu diếm điều gì đó. Dường như Pickering lại đúng, như thường lệ.

Herney giơ tay chỉ một nhà che máy bay gần đó:

- Theo tôi nào.

Ông ta nói và tiến về phía đó.

Rachel đi theo, lòng bối rối. Toà nhà này không có cửa sổ, và cánh cửa lớn đóng im ỉm. Lối vào duy nhất có vẻ là một cánh cửa nhỏ khép hờ bên chái nhà. Tổng thống dẫn Rachel đến cách cánh cửa vài bước và dừng lại.

- Tôi chỉ đến đây thôi. - ông ta nói. - Cô vào đi.

Rachel lưỡng lự:

- Ngài không vào sao?

- Tôi phải về Nhà Trắng ngay. Lát nữa chúng ta sẽ nói chuyện với nhau. Cô có điện thoại cầm tay không?

- Dĩ nhiên là có ạ.

- Đưa cho tôi nào?

Rachel lấy điện thoại và đưa cho ông, tưởng rằng Tổng thống định cài đặt một đường dây liên lạc bí mật với cô. Nhưng không, ông ta thả chiếc điện thoại vào túi quần.

- Lúc này cô không liên lạc với ai nữa cả. - Ông ta nói. - Tôi đã nói rõ với cô những việc cần làm rồi. Hôm nay cô không được phép liên lạc với bất kỳ ai nếu không có sự cho phép của tôi hoặc Giám đốc NASA. Cô rõ chưa?

Rachel sững sờ. Tổng thống vừa tịch thu điện thoại của mình sao?

- Sau khi thông báo sơ qua về phát kiến mới cho cô nghe, Giám đốc NASA sẽ nối một đường dây liên lạc kín để cô nói chuyện với tôi. Chỉ lát nữa chúng ta sẽ lại nói chuyện với nhau. Chúc cô may mắn!

Rachel nhìn cánh cửa và cảm thấy mỗi lúc một không thoải mái.

Tổng thống Herney vỗ vai cô khích lệ rồi gật đầu về phía cánh cửa.

- Rachel, tôi đảm bảo rằng cô sẽ không cảm thấy tiếc vì đã giúp tôi trong việc này.

Không nói thêm một lời. Tổng thống sải bước về phía chiếc trực thăng vừa đưa Rachel đến đây. Ông ta lên máy bay, cất cánh, không một lần quay đầu nhìn lại. Chương 12

Một mình Rachel đứng trước cửa nhà che máy bay mờ tối trên đảo Wallop và cố nhìn xuyên qua bóng tối bên trong. Tưởng như cô đang ở ngưỡng cửa một thế giới khác. Luồng gió mát phả ra từ vùng tối sâu hun hút bên trong ngôi nhà, như thế ngôi nhà to lớn này đang hít thở vậy.

- Có ai không? - Cô hỏi to, giọng hơi run run.

Im lặng.

Càng bối rối hơn, Rachel bước qua cánh cửa. Mắt chưa thể quen ngay với bóng tối, và trong chốc lát Rachel không nhìn thấy gì hết.

- Cô Sexton phải không ạ? - Một giọng nam giới vang lên, chỉ cách cô có vài mét.

Rachel giật mình, quay về phía giọng nói. - Vâng, tôi đây.

Lờ mờ hiện ra bóng một người đàn ông.

Dần quen với bóng tối, Rachel thấy mình đang đứng trước mặt một anh chàng trẻ trung, quai hàm bạnh, mặc bộ đồ bay của NASA. Cơ thể anh ta săn chắc và vạm vỡ, ngực nở.

- Tôi là cơ trưởng Wayne Loosigian - Anh ta nói - Tôi xin lỗi đã làm cô giật mình. Trong này hơi tối. Tôi chưa kịp mở cửa chính.

Rachel chưa kịp nói gì, anh ta đã tiếp lời:

- Tôi rất hân hạnh được làm phi công cho cô sáng hôm nay.

- Phi công à? - Nãy có người đã làm phi công cho tôi rồi. Tôi cần gặp Giám đốc.

- Vâng, thưa cô, tôi được lệnh đưa cô đến gặp ông ấy ngay bây giờ.

Tưởng như những lời ấy lơ lửng trong không trung một lúc rồi mới lọt vào tai Rachel. Cô cảm thấy mình bị lừa. Hoá ra cô vẫn còn phải đi nữa.

- Ông Giám đốc đâu? - Rachel hỏi, thầm lo lắng.

- Cái đó thì tôi không được biết. - Viên phi công trả lời. - Sau khi chúng ta cất cánh, tôi mới được thông báo toạ độ của ông ấy.

Rachel cảm thấy anh ta nói thật. Rõ ràng cô và Giám đốc Pickering không phải là hai kẻ duy nhất làm việc trong vòng bí mật. Tổng thống đã nói về vấn đề an ninh hết sức nghiêm túc. Cô thấy hổ thẹn vì đã để ông ta tước mất điện thoại dễ dàng đến thế.

Chỉ trong vòng nửa giờ, mình đã bị tước mất phương tiện liên lạc, và Giám đốc không hề biết mình đang ở chỗ nào.

Đứng trước viên phi công vạm vỡ, Rachel biết tất cà những kế hoạch của cô sáng nay đều đã tan theo mây khói. Dù muốn hay không thì Rachel vẫn phải lên chiếc máy bay này. Vấn đề duy nhất bây giờ là nó sẽ đưa cô đến đâu.

Viên phi công tiến đến bên bức tường và bấm nút. Cả một mảng tường bên hông căn nhà ầm ầm chuyển động sang một bên. Ánh sáng từ bên ngoài ùa vào, chiếu sáng một vật to lớn ở giữa ngôi nhà.

Rachel há hốc miệng. Lạy Chúa tôi!

Chính giữa ngôi nhà rộng thênh thang là chiếc trực thăng chiến đấu sơn đen đầy hăm doạ. Rachel chưa bao giờ thấy chiếc máy bay nào có dáng thuôn đến như vậy.

- Trời đất ơi! - Cô nói.

- Lúc đầu ai cũng phản ứng như vây, thưa cô, nhưng những chiếc trực thăng F14 đuôi dựng này đã vượt qua tất cả các cuộc bay thử nghiệm một cách an toàn.

Cũng không khác gì một quả tên lửa có cánh.

Viên phi công dẫn Rachel tới bên chiếc phi cơ. Anh ta giơ tay chỉ buồng lái. - Mời cô ngồi ghế sau - Thế à? - Rachel mỉm cười khó nhọc. Hi vọng anh không yêu cầu tôi tự lái lấy!

Trùm xong bộ đồ bay ra ngoài quần áo đang mặc, Rachel leo lên buồng lái, cô lóng ngóng len người vào chiếc ghế hẹp.

- Có vẻ như NASA không có viên phi công mông to nào. - Rachel nhận xét.

Anh chàng phi công cười nhăn nhở và giúp Rachel cài dây an toàn. Sau đó anh ta đội mũ bảo hiểm cho cô.

- Chúng ta sẽ bay cao, - anh ta nói, và cô sẽ cần oxy để thở. - Anh ta lôi từ vách buồng lái xuống một mặt nạ oxy và định cài vào mũ bảo hiểm của Rachel.

- Để tôi tự đeo lấy, - Rachel đưa tay với chiếc mặt nạ khí.

- Vâng, thưa cô.

Rachel vật lộn với đầu vòi khí được đúc liền và cuối cùng cũng gài được vào mũ bảo hiểm của cô. Chiếc mặt nạ áp sát đến mức khó chịu.

Anh chàng phi công nhìn cô hồi lâu, dường như có vẻ cố nhịn cười.

- Có chuyện gì không? - Cô hỏi.

- Không, thưa cô. - Rõ ràng anh ta đang cố giấu nụ cười.

- Túi nôn ở bên dưới ghế đấy ạ. Lần đầu đi máy bay phản lực, đa số mọi người đều bị say.

- Tôi không sao đâu! - Rachel đáp, giọng cô bị nghẹt đi bởi chiếc mặt nạ chật kinh khủng. - Tôi không dễ bị say đâu.

Anh ta nhún vai.

- Rất nhiều người đã nói như thế, nhưng rồi tôi thường phải đi dọn đống nôn của họ.

Rachel yếu ớt gật đầu. Hay ho thật.

- Cô còn muốn hỏi gì trước khi cất cánh không ạ?

Rachel lưỡng lự giây lát và đưa tay chỉ miệng vòi khí đang chọc vào cằm cô. - Thế này thì máu không lưu thông được mất. Chật thế này mà các anh cũng đeo được suốt chuyến bay à?

Viên phi công mỉm cười nhẫn nại.

- Thưa cô, thường thì chúng tôi không đeo mặt nạ ngược thế đâu ạ.

Ngồi trên ghế chiếc máy bay phản lực đã nổ máy sẵn sàng, Rachel cảm tướng như mình là viên đạn rốc két đang đợi người ta kéo cò súng. Khi viên phi công kéo cần ga, chiếc phản lực Lockheed 135 rùng mình chuyển động, trời đất lập tức chao đảo. Anh ta nhả phanh, và Rachel bị hất mạnh vào lưng ghế. Sau chỉ vài giây, chiếc máy bay đã chạy hết đường băng và bắt đầu cất cánh. Ngoài cửa sổ mặt đất sụt xuống thấp với tốc độ chóng mặt.

Trong khi chiếc máy bay lao thẳng lên trời, Rachel nhắm mắt lại. Cô phân vân không biết hôm nay mình xử sự như vậy có đúng không. Nhiệm vụ thường nhật của Rachel là ngồi sau chiếc bàn giấy, tổng hợp tin. Vậy mà giờ đây cô ngồi trên chiếc phi cơ đầy mãnh lực và hít khí oxy từ chiếc mặt nạ bay.

Máy bay lên đến độ cao 45 ngàn foot, Rachel cảm thấy buồn nôn. Cố gắng nghĩ đến chuyện khác, cô nhoài người nhìn ra ngoài cửa sổ, và bất chợt thấy mình đang ở xa nhà biết chừng nào.

Trước mặt cô, viên phi công đang nói chuyện trên điện đàm. Kết thúc cuộc trò chuyện, anh ta treo máy lên và lập tức bẻ lái ngoặt sang trái. Chiếc máy bay gần như dựng đứng hẳn lên, Rachel thấy bụng dạ như bị đảo tung lên; cuối cùng thì chiếc máy bay cũng trở lại thế thăng bằng.

Rachel rên rỉ:

- Cảm ơn anh đã báo trước.

- Xin lỗi cô. Tôi vừa nhận được chỉ thị về địa điểm mà cô sẽ gặp chỉ huy.

- Để tôi đoán thử nhé, hướng bắc phải không?

- Sao cô biết? - Viên phi công có vẻ ngạc nhiên.

Rachel thở dài. Anh chàng phi công ngờ nghệch này mới đáng yêu làm sao!

- Bây giờ là đúng chín giờ, Mặt trời đang ở bên tay trái, chúng ta đang bay về hướng bắc.

Khoang máy bay chợt chìm trong yên lặng.

- Vâng, thưa cô, sáng nay chúng ta đang bay về hướng bắc.

- Chúng ta sẽ bay bao xa?

Viên phi công kiểm tra lại màn hình điều khiển. - Khoảng ba ngàn dặm.

Rachel bật dậy:

- Cái gì? - Cô cố nhớ lại kiến thức địa lí của mình, nhưng không thể nhớ ra được địa điểm nào xa đến thế. - Những bốn giờ bay cơ à?

- Với tốc độ hiện giờ thì đúng thế đấy ạ. - Anh ta trả lời. - Cô ngồi cho chắc nhé.

Rachel chưa kịp nói câu gì thì anh ta đã bấm nút gạt ngay cánh máy bay đến vị trí bay tầm thấp. Sau một tích tắc, Rachel lại bị ấn mạnh vào lưng ghế một lần nữa khi chiếc máy bay lao vụt về phía trước. Sau một phút, chiếc phản lực đã đạt đến tốc độ 1500 dặm một giờ.

Lúc này cô bắt đau thấy chóng mặt. Bầu trời vùn vụt lao ngược về phía sau, và Rachel thấy buồn nôn. Lời nói của ngài Tổng thống lại vang lên trong tâm trí. "Rachel, tôi xin đảm bảo là cô sẽ không hối tiếc vì đã giúp đỡ tôi".

Rachel rên rỉ với tay lục túi xách. Đừng bao giờ tin lời một chính trị gia cả.Chương 13

Dù không ưa thích sự xấu xí và bất tiện khi đi tắc xi, Thượng nghị sĩ Sedgewick Sexton đã học được cách chịu đựng những khoảnh khắc thiếu tiện nghi này để dọn đường đến vinh quang cho bản thân.

Đưa ông đến điểm đỗ xe dưới tầng hầm của khách sạn Purdue, chiếc tắc xi Mayflower ọc ạch này mang lại một thứ mà chiếc Limusine sang trọng của ông không bao giờ đảm bảo được: sự kín đáo... Thượng nghị sĩ vui mừng nhận thấy bãi đỗ xe này khá vắng vẻ, chỉ vài chiếc xe bụi bặm đỗ giữa rừng cột bê tông. Đi bộ ngang qua bãi đỗ xe, Sexton liếc nhìn đồng hồ.

11 giờ 15. Tuyệt hảo.

Người mà Sexton sắp gặp rất coi trọng giờ giấc. Dĩ nhiên, vì những người mà ông ta đại diện, ông ta có thể coi trọng bất cứ chi tiết nhỏ chết tiệt nào mà chẳng được, Thượng nghị sĩ nhủ thầm.

Sexton trông thấy chiếc xe thùng Ford Winstar màu trắng đỗ đúng chỗ y như trong những lần gặp trước - phía đông bãi đỗ xe, sau những thùng rác lớn. Dù muốn tiến hành cuộc gặp này trong dãy phòng của ông ở khách sạn, nhưng Sexton hiểu sự cẩn trọng của con người này. Những người bạn của ông ta không muốn đặt chân đến những nơi không đảm bảo.

Tiến về phía chiếc xe thùng, Sexton cảm thấy bứt rứt khó chịu y như trong những lần gặp gỡ trước. Cố tạo cảm giác thư thái trong lòng, Sexton leo lên xe với vẻ mặt hồ hởi. Người đàn ông tóc đen ngồi sau tay lái không buồn mỉm cười. - ông ta trạc tuổi 70, và nước da săn chắc toát ra vẻ cứng rắn tàn bạo rất tương xứng với địa vị của ông ta: người cầm đầu một đạo quân gồm những doanh nhân nhìn xa trông rộng và tàn bạo.

- Đóng cửa lại. - ông ta nói, giọng hiểm ác.

Sexton làm theo một cách hoà nhã, cố bỏ qua thái độ cục cằn đó. Suy cho cùng thì ông ta là đại diện của những người đã đóng những khoản tiền khổng lồ vào quỹ tranh cử của Sexton, đã đưa ông đến ngưỡng của cơ quan quyền lực nhất thế giới. Sexton đã hiểu ra rằng những cuộc gặp này chẳng mang nhiều tính chiến lược chúng chỉ nhằm để nhắc cho ngài Thượng nghị sĩ nhớ rằng ngài phải chịu ơn họ mà thôi. Những người này muốn đảm bảo chắc chắn sẽ được đền đáp từ những khoản mà họ đã đầu tư. Ông buộc phải thừa nhận rằng khoản "đền đáp" mà họ yêu cầu quả là táo bạo; tuy nhiên, điều đó hoàn toàn nằm trong tầm tay của Sexton một khi ông ta đã đặt được chân vào Phòng bầu dục.

Vốn biết ông già này thích đi thẳng vào vấn đề ngay, Sexton nói:

- Tôi đoán là lại có người góp quỹ, đúng không?

- Đúng thế. Và như thường lệ, anh chỉ được dùng khoản tiền này cho chiến dịch tranh cử mà thôi. Chúng tôi vui mừng nhận thấy anh liên tục được điểm trong các lần thăm dò dư luận, và những trợ lí của anh đã sử dụng đồng tiền của chúng tôi hiệu quả.

- Uy tín của tôi đang tăng nhanh.

- Như đã nói trên điện thoại, tôi đã thuyết phục thêm được sáu người đến gặp anh.

- Tốt lắm. Tôi đã dành sẵn thời gian trống cho họ rồi.

Ông ta đưa cho Sexton cặp tài liệu.

- Đây là thông tin về họ. Nghiên cứu đi. Họ muốn đảm bảo rằng anh hoàn toàn thông cảm với họ và hiểu những mối quan tâm của họ. Theo tôi, anh nên gặp họ ở nhà riêng.

- Nhà riêng à? Nhưng tôi thường tiếp khách ở...

- Thượng nghị sĩ này, những người này sở hữu những công ty lớn hơn những người anh đã gặp rất nhiều. Họ là những con cá lớn, và rất thận trọng. Họ có thể được rất nhiều và cũng có nhiều cái để mất. Tôi đã phải kỳ công mới thuyết phục được họ. Họ đòi hỏi phải được đối xử đặc biệt. Phải tạo mối quan hệ gần gũi.

Sexton gật đầu ngay.

- Dĩ nhiên, tôi có thể thu xếp gặp họ ở nhà riêng cũng được.

- Tốt lắm, họ muốn được hoàn toàn kín đáo.

- Tôi cũng thế.

- Chúc may mắn. Nếu suôn sẻ thì đây sẽ là cuộc gặp cuối cùng. Chỉ cần sáu người này là đủ để đưa chiến dịch tranh cử của ông đến thắng lợi.

Sexton thích nghe thấy điều đó. Ông tự tin mỉm cười với ông già.

- Nếu may mắn, chúng ta sẽ giành thắng lợi giòn giã trong kỳ bầu cử.

- Thắng lợi à? - ông ta cau có nhoài người về phía Sexton với đôi mắt hiểm ác. - Đưa anh vào trong Nhà Trắng mới chỉ là bước đi đầu tiên thôi, Thượng nghị sĩ ạ! Tôi hi vọng anh không quên điều đó. Chương 14

Có lẽ Nhà Trắng chính là phủ Tổng thống nhỏ nhất trên thế giới với bề ngoài 170 foot, bề dọc 85 foot, và toạ lạc trên khu đất chỉ có 85 hecta. Các thẩm phán đã ca ngợi bản thiết kế của toà nhà này là "hấp dẫn, bề thế, linh hoạt" - và trong số tất cả những bản thiết kế được gửi đến dự thi, họ lựa chọn ý tưởng chẳng lấy gì làm độc đáo này của kiến trúc sư James Horban - mái nhà tầm thường, lan can nhàm chán, lại còn cả lối vào với hai hàng cột hai bên.

Dù đã ở trong toà nhà này được ba năm rưỡi. Tổng thống Zach Herney rất hiếm khi cảm thấy khu mê cung với những đồ cổ, đèn chùm và lính thuỷ đánh bộ có vũ trang đứng gác này thực sự là ngôi nhà của mình. Lúc này ông đang sải bước về cánh trái của toà nhà trong tâm trạng vô cùng phấn khích, chân ông lướt nhẹ trên những tấm thảm trải sàn sang trọng.

Một số nhân viên của Nhà Trắng ngẩng lên nhìn khi Herney đến gần. Ông gọi tên và chào từng người. Phản ứng của họ, dù vẫn lịch sự, không được nhiệt thành cho lắm, và những nụ cười đáp lễ đều có vẻ gượng gạo.

- Chào Tổng thống ạ.

- Rất vui được gặp Tổng thống.

- Chúc Tổng thống một ngày tốt lành.

Quay về Nhà Trắng, Tổng thống có thể cảm thấy những lời xì xào của họ. Bên trong Nhà Trắng đang có cuộc đảo chính ngầm.

Mấy tuần nay sự thất vọng ở số nhà 1600 đại lộ Pensilvania đã lên cao đến mức Herney bắt đầu cảm thấy tình cảnh của mình chẳng khác gì tình cảnh của thuyền trưởng Bligh - chỉ huy một con tàu đang tham chiến trong khi thuỷ thủ trên tàu chuẩn bị nổi loạn chống lại chính thuyền trưởng của họ.

Tổng thống không trách họ. Nhân viên của ông đã làm việc cật lực để hỗ trợ cho ông trong chiến dịch tranh cử này, và lúc này, đột nhiên ông tỏ ra muốn buông xuôi.

Họ sẽ hiểu ra ngay thôi, ông thầm nghĩ, chẳng mấy chốc mình sẽ lại là người hùng.

Ông không muốn giấu nhân viên của mình lâu như vậy, nhưng điều này cần phải tuyệt đối bí mật. Về chuyện giữ bí mật thì ai cũng biết rằng Nhà Trắng là con tàu có nhiều lỗ rò nhất Washington.

Herney đến sảnh đợi ngoài phòng bầu dục và xởi lởi chào cô thư ký riêng.

- Hôm nay trông cô đẹp lắm, Dolores ạ.

- Sếp cũng thế ạ. - Cô ta nhìn bộ quần áo dân dã của Tổng thống với vẻ không vừa ý ra mặt.

Herney hạ giọng:

- Cô hãy thu xếp cho tôi một cuộc họp.

- Với ai ạ?

- Toàn bộ nhân viên Nhà Trắng.

Cô thư ký ngước lên:

- Tất cả ạ? Toàn bộ 145 người ạ?

- Chính xác.

- Ngay bây giờ ạ?

- Sao lại không? Báo họ 4 giờ chiều nhé.

Cô thư ký gật đầu, cố giữ điềm tĩnh.

- Vâng, thưa Tổng thống, và nội dung của cuộc họp là... - Tối nay tôi có tin quan trọng để báo cho toàn nước Mỹ, và tôi muốn nhân viên của mình được biết trước điều đó.

Vẻ thất vọng hiện rõ trên gương mặt của cô thư ký, như thế cô ta đã e sợ giây phút này từ lâu. Dolores hạ giọng:

- Tổng thống định không tranh cử nữa sao?

Herney phá lên cười:

- Không đâu, Dolores ạ, tôi còn định tăng tốc lên ấy chứ.

Cô vẫn chưa tin ngay. Gần đây các phương tiện thông tin đại chúng đều cho rằng Tổng thống đang có ý định rút lui.

Ngài Tổng thống nháy mắt nhìn Dolores khích lệ:

- Dolores này, cô đã làm việc rất tốt cho tôi trong bốn năm qua, và cô sẽ tlếp tục làm việc cho tôi thêm bốn năm nữa. Tôi thề đấy.

Cô thư ký có vẻ chưa tin hẳn. - Được ạ, thưa Tổng thống, tôi sẽ báo cho toàn bộ nhân viên có mặt vào bốn giờ chiều nay.

Bước vào phòng bầu dục, Herney không thể nhịn được cười khi nghĩ đến cảnh tất cả nhân viên sẽ phải chen chúc trong căn phòng chật chội quái quỷ này.

Trong số những tên tục của căn phòng này - nhà vệ sinh, hang ổ của Dick, phòng ngủ của Clinton - Herney thích nhất cái tên "bẫy bạch tuộc". Cái tên này có vẻ hợp hơn cả. Khi bước vào căn phòng này, người lạ sẽ ngay lập tức bị mất phương hướng. Đồ đạc được xếp đặt đối xứng nhau, những bức tường cong, những cửa phụ được bố trí kín đáo, tất cả dường như mang lại cho những người lạ cảm giác bị bịt mắt dẫn đi vòng tròn. Rất nhiều lần, sau khi tiếp kiến xong, các vị quyền cao chức trọng đứng lên, bắt tay Tổng thống và tiến thẳng đến chỗ tủ để đồ. Tuỳ thuộc vào kết quả cuộc hội kiến, Herney sẽ bảo người khách ấy dừng lại ngay, hoặc là khoái trá quan sát khách của mình lâm vào tình thế sượng sùng khó xử.

Herney luôn luôn tin rằng chính phù điêu đại bàng đầy màu sắc được dệt trên tấm thảm hình bầu dục mới là vật có ảnh hưởng và quyền uy nhất trong căn phòng bầu dục này. Chân trái con đại bàng quắp nhành ôliu, chân phải quắp một nắm cung tên. Rất ít người ngoài biết rằng trong thời bình, con chim đại bàng quay đầu về bên trái, về phía cành ôliu. Nhưng trong thời chiến, nó quay mặt sang bên phải một cách đầy bí ẩn - quay về phía những mũi tên.

Nhân viên trong Nhà Trắng vẫn thì thầm bàn tán về nguyên nhân của sự thay đổi đặc biệt này, vì theo truyền thống, bí mật này chỉ có hai người được biết - Tổng thống và tạp vụ trưởng. Tổng thống đã khá thất vọng khi biết rằng bí mật này hoá ra rất tầm thường và trần tục: Trong nhà kho bên dưới tầng hầm có tấm thảm thứ hai, và người ta chỉ thay thảm vào lúc đêm khuya khi tất cả mọi người đều đã ngủ.

Lúc này, ngắm chú chim đại bàng thời bình đang quay đầu sang trái, Herney mỉm cười nghĩ có lẽ nên cho thay thảm để công bố cuộc chiến mà ông sắp phát động chống lại Thượng nghị sĩ Sedgewick Sexton. Chương 15

Delta là đơn vị lính chiến đấu duy nhất của Hoa Kỳ được miễn trừ mọi trách nhiệm hình sự.

Chỉ thị số 25 của Tổng thống (PDD 25) đã đặc cách cho binh lính thuộc đội Delta quyền miễn trừ tất cả các trách nhiệm trước pháp luật, kể cả Luật về các hoạt động đặc nhiệm - một đạo luật quy định trách nhiệm hình sự đối với những ai lợi dụng quân đội nhằm tư lợi cá nhân, để tiến hành các hoạt động hành pháp trong nội địa nước Mỹ, và để tiến hành các chiến dịch bí mật chưa được phê chuẩn. Các thành viên của Delta được lựa chọn từ đội Lính tinh nhuệ, một biệt đội đặc biệt thuộc cơ số của Đơn vị các chiến dịch đặc biệt có đại bản doanh ở pháo đài Bragg, bắc Carolina.

Những thành viên của Delta đều là những sát thủ được đào tạo bài bản - họ là những chuyên gia trong các chiến dịch SWAT, giải cứu con tin, tấn công chớp nhoáng và tiêu diệt các thế lực thù địch giấu mặt.

Do những điệp vụ họ mà tham gia đều được liệt vào danh sách tối mật, thông lệ nhiều tầng chỉ huy đã được giản lược thành một đầu mối duy nhất - chỉ có một quan chức duy nhất chỉ huy mọi hoạt động của toàn đội. Vị chỉ huy đó thường là một sĩ quan cao cấp trong quân đội hoặc một nhân vật quyền thế nào đó trong nội các có đủ thẩm quyền điều khiến chiến dịch. Bất kể vị chỉ huy đó là ai thì các điệp vụ của đội Delta luôn được xếp vào loại tối quan trọng, và các đội viên của Delta không bao giờ kể lại những nhiệm vụ mà họ được giao và đã hoàn thành, với những thành viên khác của đội, cả với chỉ huy của đội lính tinh nhuệ.

Bay đến. Chiến đấu. Quên hết.

Đội lính Delta đang đóng quân phía trên vĩ tuyến 81 không hề bay, cũng chẳng phải chiến đấu. Họ đang quan sát.

Delta-Một phải thừa nhận rằng đây là điệp vụ kỳ lạ nhất trong đời lính của mình, nhưng anh đã được huấn luyện để không bị ngạc nhiên trước bất kỳ nhiệm vụ nào. Trong vòng năm năm trở lại đây anh đã tham gia giải cứu con tin ở Trung Đông, theo dõi và tiêu diệt các nhóm khủng bố hoạt động trên đất Mỹ, và cả bí mật thủ tiêu một số phần tử nguy hiểm ở nước ngoài.

Tháng trước, đội Delta của anh vừa dùng một robot bay siêu nhỏ để làm cho một trùm ma tuý khét tiếng ở Nam Mỹ bị nhồi máu cơ tim. Sử dụng vi robot được gắn một cây kim titan chỉ nhỏ bằng một sợi tóc, bên trong chứa loại hoá chất tạo cơn co mạch máu, Delta-Hai đã điều khiển cho con vi robot bay vào nhà qua cửa sổ để ngỏ trên tầng hai, tìm phòng ngủ của hắn, và châm kim vào vai khi hắn đang ngủ say. Vi robot thoát ra ngoài qua cửa sổ và trở thành "vô can" trước khi cơn đau trong lồng ngực khiến gã thức giấc. Khi vợ gã thức dậy gọi xe cấp cứu thì Delta-Hai đã điều khiển vi robot rút về căn cứ.

Không cần đào tường khoét ngạch và đột nhập.

Cái chết có lí do tự nhiên.

Một điệp vụ hoàn mỹ.

Mới đây, một vi robot được cài vào trong văn phòng của một Thượng nghị sĩ tên tuổi đã truyền về những hình ảnh của cuộc truy hoan thác loạn. Đội Delta vẫn gọi đùa điệp vụ đó là "thọc sâu vào sau lòng địch".

Giờ đây, sau mười ngày nằm tại chiếc lều này để làm nhiệm vụ do thám, Delta-Một cảm thấy điệp vụ này sắp kết thúc.

Nguỵ trang và giữ bí mật.

Điều khiển thiết bị bay vào trong và ra ngoài.

Báo cáo chỉ huy nếu thấy có dấu hiệu bất thường.

Delta-Một đã được tôi luyện để không cho tình cảm xen vào chuyện công việc. Tuy nhiên, khi nghe thông báo vắn tắt nhiệm vụ lần này, tim anh đã thoáng loạn nhịp. Người ra lệnh cho họ hoàn toàn "nặc danh" - mọi liên lạc đều diễn ra thông qua những kênh điện tử an toàn. Delta-Một chưa một lần giáp mặt chỉ huy điệp vụ này.

Delta-Một đang chuẩn bị bữa ăn gồm những loại thực phẩm sấy khô cho cả đội thì chiếc đồng hồ trên tay anh và cả của hai người kia cùng kêu bíp bíp. Sau chốc lát, thiết bị liên lạc điện tử cạnh anh nhấp nháy đèn. Anh bỏ túi lương khô xuống và nhấc thiết bị liên lạc lên. Hai người kia im lặng quan sát.

- Delta-Một đây. - Anh nói vào chiếc micro điện tử.

Ba âm tiết ấy lập tức được phần mềm nhận dạng giọng nói cài đặt trong hệ thống xử lý. Từng từ một được đánh số, rồi được mã hoá và truyền đến người nghe qua vệ tinh nhân tạo. Tại đầu máy của người gọi, với thiết bị y chang, những con số được giải mã, rồi được chuyển qua từ điển phát âm điện tử. Những từ này được phát ra với chất giọng điện tử. Tổng thời gian của toàn bộ chu trình này là 80 phần ngàn của một giây đồng hồ.

- Chỉ huy đây - người điều khiển điệp vụ nói. Giọng nói từ CrypTalk phát ra nghe lạ lùng, khác thường và phi giới tính. - Tình hình thế nào?

- Tất cả diễn ra đúng kế hoạch. - Delta-Một trả lời.

- Tuyệt. Có thay đổi trong chương trình hoạt động. Tám giờ tối nay, giờ miền Đông, dân chúng sẽ được thông báo toàn bộ sự việc.

Delta-Một xem lại thời gian biểu. Chỉ còn tám giờ nữa. Nhiệm vụ của anh ở nơi này sẽ sớm kết thúc. Thật dễ chịu.

- Thêm một thay đổi nữa. - Vị chỉ huy nói tiếp. - Thêm một đấu thủ nữa lên sới.

- Đấu thủ nào vậy?

Delta-Một chăm chú lắng nghe. Trò đỏ đen này hay đây. Lúc nào chả có một đấu thủ đợi sẵn bên ngoài sới, - Chúng ta có thể tin tưởng cô ta không?

- Cần phải theo dõi sát người này.

- Nếu có sự cố thì sao ạ?

Giọng người chỉ huy không chút do dự:

- Thì làm theo đúng phận sự của các anh. Chương 16Chương 17

Marjorie Tench - cố vấn cao cấp của Tổng thống - có dáng người của một bộ khung xương bị khòm. Thân mình gầy guộc cao sáu foot của bà ta trông giống một kết cấu dựng đứng được lắp đủ cả tay và chân. Bên trên thân thể ọp ẹp ấy là khuôn mặt vàng ệch. Nước da của Marjorie trông như mảnh giấy da cừu bị chọc thửng bởi hai con mắt vô hồn. Mới năm mốt tuổi, trông bà ta như bẩy mươi.

Ở Washington, người ta tôn sùng Tench như một nữ thần trên chính trường. Họ xì xào rằng bà ta có kỹ năng phân tích của chiếc máy tính đời mới nhất. Suốt mười năm phụ trách phòng phân tích tin tình báo của Chính phủ, bà ta đã tôi luyện được cho mình bộ óc cực kỳ sắc sảo và nhậy bén. Đáng tiếc, hiểu biết về chính trị của Tench lại đi kèm với tính cách lạnh lùng đến nỗi không ai có thể chịu đựng được bà ta quá dăm phút. Marjorie Tench được trời phú cho bộ não của một siêu máy tính - và cả sự hồn hậu cũng của một siêu máy tính. Tuy nhiên ngài Tổng thống Zach Herney thì có thể dễ dàng dung hoà được sự trái tính này; bộ óc sắc sảo và sự cần cù của người đàn bà này chính là hai thế lực chủ chốt dọn đường cho Herney vào Nhà Trắng.

- Marjorie. - Tổng thống đứng dậy chào đón khi bà ta vào phòng bầu dục. - Tôi giúp gì được cho chị nào? - Ngài Tổng thống không mời bà ta ngồi. Những phép tắc xã giao thông thường đều là thừa đối với một người như Marjorie Tench. Nếu muốn ngồi, tự khắc bà ta sẽ ngồi.

- Tôi thấy anh báo toàn bộ nhân viên bốn giờ chiều nay đi họp.

Tench cất lên giọng khê đặc rin rít của người nghiện thuốc lá.

- Tuyệt lắm.

Tench đi đi lại trong phòng, và Herney có thể cảm nhận được những bánh răng và khớp nối bên trong bộ óc của bà ta đang lật đi lật lại vấn đề. Ngài Tổng thống thầm tạ ơn Chúa. Marjorie Tench là một trong số ít cộng sự của ông được phép biết đến phát minh của NASA. Và với tầm hiểu biết siêu việt của mình, bà ta đang giúp Tổng thống hoạch định những nước cờ chiến lược.

Tench vừa nói vừa ho sù sụ:

- Anh định cử ai đi đấu khẩu với Sexton một giờ chiều nay trên đài CNN?

Herney mỉm cười:

- Một phát ngôn viên làng nhàng của chiến dịch tranh cử. - Làm cho "kẻ săn mồi" cáu tiết bằng cách không bao giờ cho hắn có cơ hội tỉ thí với đối thủ ngang tầm là chiến thuật xưa như trái đất.

- Tôi có một ý hay hơn. - Tench nói, cặp mắt vô hồn nhìn thẳng vào Tổng thống - - Để tôi đi cho.

Zach Herney ngẩng phắt lên:

- Chị á? - Bà ta đang nghĩ cái quái quỉ gì vậy? - Marjorie ơi, chị đâu có hợp với ánh đèn trường quay! Hơn nữa đây chỉ là chương trình truyền hình cáp buổi trưa mà thôi. Nếu chỉ phái một phát ngôn viên lèng mèng thì chúng ta sẽ chuyển tải được thông điệp gì nào? Cử tri có thể cho rằng chúng ta đang hoảng hốt.

- Chính xác.

Herney quan sát cố vấn của mình. Dù bà ta có diệu kế gì trong đầu đi nữa thì Tổng thống cũng không thể cho phép nhân vật này xuất hiện trên CNN. Bất kỳ ai đã từng gặp Marjorie Tench đều hiểu ngay vì sao bà ta chỉ hoạt động phía sau hậu trường. Trông Tench xấu xí kinh khủng - đây không phải là khuôn mặt mà Tổng thống có thể lựa chọn làm sứ giả cho Nhà Trắng.

- Lần này tôi sẽ tranh luận trên CNN. - Tench nhắc lại - đây không còn là một câu hỏi nữa.

- Chị Marjorie này. - Ngài Tổng thống ra sức chèo chống, bắt đầu cảm thấy khó chịu. - Đội quân tranh cử của Sexton sẽ rêu rao ầm lên rằng sự xuất hiện của chị trên CNN cho thấy chúng ta đang sợ hãi. Chưa chi đã mang đại đao đi giết gà sẽ khiến thiên hạ tưởng rằng chúng ta đã sớm lâm vào cảnh cùng đường.

Bà ta lặng lẽ gật đầu rồi châm một điếu thuốc.

- Chúng ta càng làm ra vẻ cùng quẫn thì càng có lợi đấy.

Trong vòng sáu mươi giây tiếp theo, Marjorie Tench đã vạch ra những lí do vì sao Tổng thống nên phái bà ta đến đấu khẩu trên kênh CNN thay vì một nhân viên cà tàng nào khác. Tench nói xong, Tổng thống tròn mắt kinh ngạc.

Lại một lần nữa, Marjorie Tench chứng tỏ tài năng chính trị thiên bẩm của mình. Chương 18

Milne Ice Shelf là tảng băng trôi lớn nhất trên toàn Bắc bán cầu.

Nằm phía trên đường vĩ tuyến 82 bên bờ biển cực bắc của đảo Ellesmere thuộc Bắc cực, tảng băng trôi này có bề rộng ba dặm và chiều dày đến gần hai trăm mét.

Lúc này, Rachel đang leo lên ca bin Plexiglas của chiếc máy kéo, và đầy cảm kích vì chiếc áo khoác kiểu exkimo, đôi găng tay để sẵn trên ghế cho cô và luồng hơi ấm phả ra từ những chiếc quạt thông gió trên đầu. Bên ngoài, trên con kênh tuyết, chiếc trực thăng F14 đã khởi động xong và bắt đầu lăn bánh.

Rachel sửng sốt ngước nhìn lên:

- Anh ta đi ngay à?

Người đàn ông trèo lên ca bin và gật đầu:

- Chỉ các nhà khoa học và nhân viên NASA trực tiếp tham gia làm nhiệm vụ mới được phép có mặt ở đây.

Chiếc F14 lao lên xé toạc bầu trời đêm, Rachel chợt cảm thấy như vừa bị bỏ rơi.

- Chúng ta sẽ lập tức lên đường đến IceRover. - anh ta nói - chỉ huy đang đợi.

Rachel trân trối nhìn con đường băng giá màu bạc trải dài trước tầm mắt và cố tưởng tượng xem Giám đốc NASA đang làm gì ở nơi này.

- Ngồi cho chắc vào nhé. - Anh chàng nhân viên NASA nói to và gạt mấy cái cần. Chiếc máy kéo gầm gừ và quay một góc 90 độ tại chỗ y như xe tăng xích sắt. Giờ đây, cỗ máy đối diện với bức tường tuyết cao ngất.

Rachel chột dạ nhìn bức tường dốc đứng. Không lẽ anh ta định... - Nhảy điệu Rock and Roll nhé! - Anh ta nhả côn, và chiếc máy chồm thẳng về phía con dốc. Rachel bám chặt thành ghế, kêu không thành tiếng. Khi chạm đến con dốc, xích sắt nghiến lên tuyết và chiếc máy kỳ quặc bắt đầu leo lên. Rachel tưởng họ sẽ bị hất ngược lại đằng sau, nhưng ca bin vẫn giữ nguyên phương thẳng đứng một cách thần kỳ trong khi chiếc máy leo lên dốc. Khi đã lên đến đỉnh gờ tuyết, người lái xe cho xe dừng lại một lúc và cười rất tươi với hành khách đang tròn mắt bái phục:

- Cô thấy chiếc máy này thế nào? Chúng tôi đã lấy cơ chế giảm xóc của chiếc xe tự hành cho sao Hoả và lắp vào đây đấy! Thần kỳ không?

Rachel yếu ớt gật đầu:

- Quả là thần kỳ.

Lúc này, ngồi trên đỉnh gờ tuyết, Rachel thấy quang cảnh phi thường trải ra trước mắt, ngay trước họ là gờ tuyết cao ngất, và phía sau nó không thấy một gợn nhấp nhô nào nữa. Trước mặt họ, băng tuyết trải rộng thành sườn dốc thoải vô cùng bằng phẳng.

Dưới ánh trăng, dải băng trải dài vút ra cho đến khi nó thót lại và uốn lượn thành những mỏm núi.

- Sông băng Milne đấy! - Người lái xe giơ tay chỉ rặng núi. - Nó bắt nguồn từ bên kia và chảy xuống dải đồng bằng rộng mà chúng ta đang đứng đây này.

Người lái xe lại ấn nút một lần nữa và Rachel bám thật chặt thành ghế trong khi chiếc xe xuống dốc. Đến chân dốc, họ băng qua con sông băng nữa, rồi lại leo qua một gờ tuyết khác. Lên đến đỉnh rồi lạo, xạo đi xuống dọc sườn dốc thoải, họ trượt qua tảng băng rất phẳng và lại bắt đầu lạo xạo vượt qua một sông băng nữa.

- Còn xa nữa không? - Ngoài tuyết, Rachel không nhìn thấy bất kỳ thứ gì ở phía trước.

- Còn khoảng hai dặm nữa.

Rachel có cảm giác chặng đường dài hơn thế. Ngoài trời, những cơn gió tàn nhẫn quất vào chiếc xe đi tuyết IceRover, đập phành phạch vào ca bin plexiglas như thế muốn thổi bật họ ra ngoài đại dương.

- Gió từ đỉnh thổi xuống đấy. - Người lái xe gào vào tai Rachel. - Cô nên làm quen với nó đi!

Anh ta giải thích rằng ở vùng này luôn luôn có loại gió thổi ra biển. Cơn gió tàn nhẫn này hẳn phải là sản phẩm của luồng khí lạnh buốt và rất nặng từ trên sông băng đố xuống y như dòng nước hung dữ của chính dòng sông này. Người lái xe cười lớn:

- Đây là nơi duy nhất trên trái đất mà địa ngục cũng phải đông cứng lại đấy!

Vài phút sau, Rachel lờ mờ trông thấy một hình khối xa xa phía trước - bóng của toà nhà mái vòm màu trắng khổng lồ nhô lên giữa băng tuyết. Rachel dụi mắt, cái gì thế này nhỉ...?

- Lều lớn của người Exkimo phải không?

Anh ta đùa.

Rachel cố nhìn cho rõ hình khối ấy. Trông giống như nhà vòm Houston thu nhỏ.

- NASA mới dựng lên cách đây một tuần rưỡi đấy. - Nhà được bơm hơi bằng chất tổng hợp. Bơm từng phần nhỏ lên, dán đính vào nhau rồi dùng pít-tông và dây thép cố định trên băng. Trông giống như lều cắm trại cỡ lớn, thực ra đó là hình mẫu cho một sinh quyển di động mà NASA hy vọong sẽ có ngày mang lên sao Hoả để sử dụng. Chúng tôi gọi nó là "bán sinh quyển".

- Bán sinh quyển à?

- Đúng vậy, cô hiểu không? Vì nó không phải là toàn bộ sinh quyển, nên chỉ là bán sinh quyển thôi.

Rachel cười mỉm và đưa mắt nhìn toà nhà kỳ dị nhô lên trên dải băng hà.

- Và bởi vì NASA chưa lên được sao Hoả nên các anh tổ chức cắm trại ở nơi này chứ gì?

Người đàn ông cười lớn:

- Thực ra thì tôi thích Tahiti hơn. Nhưng định mệnh đã chọn địa điểm này.

Rachel chăm chú nhìn ngôi nhà. Vòm mái màu trắng của nó tạo thành những đường nét ma quái trên nền trời đêm. Chiếc xe IceRover đến gần hơn, rồi họ dừng lại trước cánh cửa nhỏ bên hông ngôi nhà, cửa không đóng. Ánh sáng từ trong nhà hắt ra ngoài nền tuyết. Một bóng người bước ra. Anh ta có vóc người rất to cao và lại mặc chiếc áo khoác lông cừu màu đen nên trông chẳng khác gì con gấu. Anh ta tiến lại bên chiếc xe IceRover.

Rachel biết rất rõ người đàn ông to cao này: Lawrence Ekstrom, Giám đốc NASA.

Người lái xe cười nhăn nhở:

- Cô đừng sợ vóc người to lớn của ông ấy: ông ta chẳng khác gì mèo cảnh đâu.

- Giống hổ thì đúng hơn, Rachel thầm nghĩ. Cô đã nghe nói Ekstrom có tiếng là tàn bạo với tất cả những ai dám ngăn cản không cho ông ta thực hiện những giấc mơ của mình.

Khi Rachel xuống xe, gió mạnh như muốn đẩy bật cô về phía sau. Cô cuộn chặt chiếc áo khoác quanh người và tiến về phía ngôi nhà.

Đi được nửa đường thì Rachel giáp mặt Giám đốc NASA. Ông ta chìa bàn tay đeo găng to xù:

- Cô Sexton, cảm ơn cô đã đến đây.

Rachel gật đầu chào lại và gào to để át tiếng gió hú:

- Thưa ông, thật ra thì tôi đâu có cơ hội để lựa chọn.

Xa hơn nữa về phía thượng nguồn dòng sông băng, cách đó một ngàn mét, Delta-Một đang dùng ống nhòm hồng ngoại để theo dõi ngài Giám đốc NASA dẫn Sexton vào trong ngôi nhà.

Rachel Sexton đã bay theo hướng bắc được hơn một giờ đồng hồ.

Trong suốt hành trình, thay vì thấy quang cảnh của New Foundland, cô chỉ nhìn thấy duy nhất một thứ dưới cánh chiếc máy bay F14: nước.

Tại sao lại phải là nước nhỉ? Rachel nhăn nhó thầm hỏi. Hồi lên bảy, Rachel đã bị ngã nhào xuống hồ nước đóng băng trong khi chơi trượt băng. Bị làn nước giá buốt bao trùm, cô nghĩ mình chắc chắn sẽ phải chết. Nhưng rồi nhờ đôi cánh tay mạnh mẽ của mẹ cô, thân thể ướt mèm của Rachel đã được kéo lên bờ. Kể từ sự kiện hãi hùng đó, Rachel luôn phải đấu tranh với cảm giác sợ hãi vô cớ - sợ những vùng nước rộng, đặc biệt là nước lạnh. Hôm nay, khi trong tầm mắt không có gì ngoài cực bắc tít tận cuối chân trời, nỗi sự ấy đang bủa vây cô.

Đến khi viên phi công kiểm tra lại vị trí của chiếc máy bay bằng liên lạc với sân bay Thule thì Rachel mới biết mình đã đi xa đến mức nào. Qua cả vòng chí tuyến rồi cơ ư? Biết sự thật, cô càng cảm thấy bất an hơn. Họ đưa mình đi đâu thế nhỉ? NASA đã tìm thấy cái gì?

Một lúc sau, trên mặt nước màu xanh xám bên dưới đã thấy có muôn vàn chấm trắng ảm đạm.

Lần duy nhất trong đời Rachel trông thấy núi băng là sáu năm trước, khi mẹ cô ra sức thuyết phục cô cùng bà tham gia chuyến thám hiểm Alaska. Rachel đã lựa chọn không biết bao nhiêu khu nghỉ mát trên đất liền, nhưng mẹ cô vẫn nhất mực không đổi ý. Bà nói: "Rachel, con yêu của mẹ, hai phần ba hành tinh này là nước, cho nên sớm hay muộn gì con sẽ phải tập đối mặt với nó". Bà Sexton vốn là một thiếu phụ kiên định của vùng New Engiand, thuộc kiểu người luôn muốn con cái họ lớn lên phải kiên cường và mạnh mẽ.

Chuyến thám hiểm ấy là dịp cuối cùng hai mẹ con được ở bên nhau.

Catherine Wenworth Sexton. Rachel chợt cảm thấy mình đơn côi biết mấy. Bao ký ức chợt ào ạt ùa về, như những cơn gió quất bên ngoài ca bin máy bay, như bao lần trước, lại một lần nữa kỷ niệm đay ắp trong tâm trí Rachel. Lần cuối cùng hai mẹ con cô nói chuyện với nhau là trên điện thoại. Sáng sớm ngày lễ Tạ ơn.

- Con xin lỗi mẹ, - cô gọi về từ sân bay O Hare tuyết phủ - con biết gia đình mình bao giờ cũng sum họp vào ngày lễ Tạ ơn, nhưng hôm nay chắc sẽ là lần đầu tiên không được như vậy.

Giọng mẹ cô đầy đau khổ:

- Mẹ mong được gặp con biết chừng nào. Rachel của mẹ.

- Con cũng thế mẹ ạ. Mẹ hãy tưởng tượng con phải ăn đồ ăn liền ở sân bay trong khi mẹ và bố đang thưởng thức món gà tây.

Mẹ cô lặng đi một lúc trên điện thoại.

- Rachel, mẹ định đợi con về nhà mới nói, nhưng cha con nói rằng ông ấy bận quá nên năm nay không về nghỉ ở nhà được. Ông ấy sẽ ở lại khách sạn của mình ở D.C, trong suốt kỳ nghỉ.

- Sao cơ? - Sự ngạc nhiên của Rachel ngay lập tức chuyển thành phẫn nộ. - Nhưng hôm nay là ngày lễ Tạ ơn, Thượng nghị viện có họp đâu! Bố chỉ cách nhà có hai giờ lái xe thôi mà. Bố phải về với mẹ mới đúng chứ!

- Mẹ biết. Nhưng ông ấy nói là mệt lắm nên không thể lái xe được ông ấy đã quyết định sẽ dành kỳ nghỉ để giải quyết những công việc tồn đọng.

Công việc ư? Rachel thấy nghi ngờ. Rất có thể là ngài Thượng nghị sĩ đang hú hí với người đàn bà nào đó. Sự không chung thuỷ của ông ta, dù kín đáo, vẫn kéo dài từ nhiều năm nay. Bà Sexton không phải là người không biết gì, nhưng tất cả những vụ tình ái của ông ta đều được sắp xếp với những chứng cứ ngoại phạm và thái độ phẫn nộ sâu sắc khi có ai đả động đến chuyện ông ta là người chồng không chung thuỷ. Cuối cùng, bà Sexton chẳng còn bỉết làm gì khác ngoài việc nhắm mắt làm ngơ và gắng chôn chặt nỗi đau của mình. Dù Rachel vẫn khuyến khích mẹ cô tiến hành thủ tục li dị, nhưng Katherin Wenworth Sexton là người đã nói là làm. Bà nói với Rachel: "Chỉ cái chết mới chia lìa được mẹ và ông ấy. Nhờ ông ấy mẹ mới có được con - cô con gái vô cùng kiều diễm - mẹ chịu ơn ông ấy. Sẽ có ngày ông ấy phải sám hối trước Đấng tối cao về điều đó". Lúc ấy, tại sân bay, Rachel giận sôi lên.

- Nhưng thế thì mẹ sẽ phải cô đơn trong ngày lễ Tạ ơn!

Cô cảm thấy kinh tởm. Việc Thượng nghị sĩ bỏ bê gia đình trong ngày lễ Tạ ơn là một bước suy đồi so với sự tồi tệ trước đó của ông ta.

- Không sao. - Giọng mẹ cô buồn nhưng cương quyết. - Không thể để những đồ ăn này bị hỏng được. Mẹ sẽ lái xe đến nhà dì Ann. Năm nào dì ấy cũng mời nhà mình đến dự lễ Tạ ơn Mẹ gọi cho dì ấy ngay đây.

Rachel vẫn chẳng cảm thấy bớt áy náy được là bao.

- Thôi được. Con sẽ về nhà ngay lập tức đây. Con yêu mẹ lắm.

- Chúc con yêu bay an toàn.

Mười giờ rưỡi đêm hôm ấy, cuối cùng thì chiếc tắc xi cũng đưa Rachel ngoặt lên, con đường rải sỏi và tiến vào ngôi biệt thự sang trọng của nhà Sexton. Rachel biết ngay đã có chuyện chẳng lành.

Xe cảnh sát đỗ trên lối vào. Có cả xe hòm của báo chí. Cả ngôi nhà sáng trưng. Rachel lao vào nhà, lòng đau như xé.

Một nhân viên cảnh sát bang Virginia gặp cô ở ngưỡng cửa. Trông anh ta đầy vẻ hệ trọng. Nhưng chẳng cần anh ta phải nói gì hết. Rachel biết đã có một vụ tai nạn.

- Do mưa và băng tuyết nên tuyến đường 25 trở nên rất trơn. - Anh ta nói. - Xe của mẹ cô bị văng vào khe núi. Bà mất ngay tại chỗ do va đập mạnh.

Rachel thấy toàn thân tê dại. Cha cô đã về nhà ngay khi nhận được tin và giờ đang tổ chức cuộc họp báo nhỏ trong phòng khách.

Với vẻ mặt đau khổ, ông ta tuyên bố rằng phu nhân của mình đã gặp tai nạn trên đường về nhà sau khi cùng gia đình đi dự tiệc nhân ngày lễ.

Đứng ở một bên chái nhà, Rachel khóc ròng rã.

- Ước nguyện duy nhất của tôi là - nước mắt lưng tròng, cha cô tuyên bố với các nhà báo - là tôi có thể về nhà với bà ấy trong kỳ nghỉ này. Đáng ra tôi đã không bao giờ được để điều này xảy ra.

Đáng ra ông phải nghĩ được điều đó từ nhiều năm trước rồi kia. Rachel khóc nức lên, và mỗi lúc một thêm căm ghét cha mình. Từ đó trở đi, Rachel sống tách biệt hẳn. Nhưng ngài Thượng nghị sĩ dường như chẳng nhận ra điều đó. Ông mải bận rộn biến cái chết của vợ mình thành một cơ hội để trở thành ứng cử viên Tổng thống của đảng. Những lá phiếu giành được nhờ sự cảm thông hoá ra không hề ít.

Tai ác thay, ba năm sau sự kiện ấy, dù ở cách rất xa, ngài Thượng nghị sĩ vẫn khiến cho con gái mình cảm thấy côi cút. Do chiến dịch tranh cử Tổng thống của cha cô, Rachel buộc phải gác lại giấc mơ tìm người đàn ông phù hợp và gây dựng mái ấm gia đình. Cô thà sống tách biệt hẳn khỏi xã hội còn hơn trở thành đối tượng săn đón của vô số những kẻ khát quyền lực đang săn lùng cơ hội trở thành vị hôn thê của cô con gái âu sầu của ngài Tổng thống tiềm năng.

Bên ngoài cửa sổ chiếc phản lực F14, bóng đêm đang từ từ dâng lên. Giờ đang là cuối mùa đông ở vùng cực - mùa của đêm đen.

Rachel nhận thấy chiếc phản lực đang bay vào vùng bóng đêm vĩnh cửu.

Chỉ vài phút sau, Mặt trời đã biến mất hẳn phía sau đường chân trời. Họ tiếp tục bay về phương Bắc, và mảnh trăng lưỡi liềm vằng vặc hiện ra, lơ lửng trên bầu trời Bắc cực lạnh giá. Tít bên dưới, là những con sóng bạc đầu mờ ảo, những tảng băng trôi trông như những viên kim cương được đính trên tấm lưới mắt cáo màu sẫm.

Cuối cùng thì Rachel cũng lờ mờ nhìn thấy đất liền. Nhưng nó rất khác những gì cô tưởng tượng. Xa xa dưới cánh máy bay là một dải núi tuyết phủ.

Núi Rachel băn khoăn tự hỏi.

- Phía bắc đảo Greenland có núi hay sao?

- Dĩ nhiên rồi. - Viên phi công trả lời, anh ta cũng có vẻ ngạc nhiên chẳng kém gì cô.

Khi chiếc F14 chúi đầu xuống đất, Rachel rơi vào cảm giác không trọng lượng vô cùng khó chịu. Dù hai tai gần như ù đặc, cô vẫn nghe thấy tiếng thiết bị điện tử kêu bíp bíp trong khoang lái. Rõ ràng là viên phi công đã bắt được liên lạc với thiết bị dẫn đường và đang làm theo chỉ dẫn từ mặt đất.

Xuống đến dưới độ cao ba ngàn foot, Rachel chăm chú nhìn quang cảnh mặt đất dưới ánh trăng. Dưới chân rặng núi là một dải đất phẳng khá rộng. Dải đất này kéo dài khoảng mười dặm về phía biển. ở tận cùng của dải đất bằng ấy là mỏm băng dựng đứng nhô ra biển.

Lần đầu tiên Rachel nhìn thấy kiểu địa hình này. Thật đặc biệt.

Lúc đầu cô tưởng mình bị ảo giác do ánh trăng. Rachel nhìn những mỏm tuyết, không dám tin vào mắt mình. Càng xuống thấp, cảnh vật càng hiện ra rõ ràng hơn.

Lạy Chúa, đây là đâu?

Dải đất bằng bên dưới có những đường sọc, như thế người ta đã dùng sơn màu bạc để vẽ trên tuyết ba đường sọc thật lớn.

Những vệt sáng lấp lánh này chạy song song với mỏm đá dọc theo bờ biến. Xuống đến độ cao năm trăm foot thì ảo giác ấy mới biến mất. Trong lòng ba con mương sâu với bề ngang rộng khoảng ba mươi mét, nước đóng băng. Chúng nằm vắt ngang dải đất bằng.

Những dải màu trắng giữa những dòng kênh ấy trông chẳng khác gì những con đê bằng tuyết.

Bay đến dải đất bằng đó, máy bay bắt đầu hạ độ cao và lắc.

Rachel nghe thấy tiếng phanh rít nhưng chẳng nhìn thấy đường băng nào cả. Trong khi viên phi công đang tập trung điều khiển máy bay, Rachel nhòm ra ngoài và trông thấy hai dải sáng lấp lánh hai bên dòng kênh băng trong cùng. Cô kinh hãi khi hiểu ra ý định của viên phi công.

- Chúng ta hạ cánh xuống băng à? - Cô hỏi.

Viên phi công không trả lời. Anh ta còn mải vật lộn với những cơn gió giật. Rachel thấy bụng dạ bị lộn tung lên khi chiếc máy bay giảm tốc độ và hướng về phía con kênh băng. Hai dải đê tuyết hiện ra hai bên thân máy bay, Rachel nín thở. Cô hiểu rằng chỉ một nhầm lẫn nhỏ trong con kênh hẹp này cũng có thể gây ra sự cố chết người.

Chiếc máy bay lắc lư hạ cánh xuống giữa hai dải đê bằng tuyết, và đột ngột ngừng rung lắc. Được dải đê chắn gió, nó tiếp đất êm ái.

Chiếc phi cơ chạy chậm dần. Rachel thở phào. Máy bay chạy thêm khoảng một trăm mét nữa và dừng hẳn ngay trước vệt sơn đỏ chói trên mặt băng.

Chẳng nhìn thấy gì ở bên phải ngoài bức tường tuyết dưới ánh trăng - sườn của con đê tuyết. Bên trái cũng y như vậy. Chỉ có thể nhìn qua cửa chắn gió ở phía trước... và thấy băng hà trải dài vô tận. Cảm tưởng như họ vừa hạ cánh xuống hành tinh chết. Trừ vệt sơn đỏ trên tuyết, không có bất kỳ dấu hiệu nào của sự sống.

Rồi Rachel nghe thấy từ đằng xa, một chiếc xe đang tiến lại.

Tiếng động cơ inh ỏi. Tiếng ồn mỗi lúc một to dần cho đến khi chiếc xe xuất hiện. Đó là chiếc máy kéo lớn có nhiều bánh đang đi dọc theo con mương về phía họ. Cao và trần trụi, chiếc xe chẳng khác gì một côn trùng phàm ăn to lớn với những cái chân quay trong truyện khoa học viễn tưởng. Ca bin được bố trí cách khá xa khung gầm xe. Rất nhiều đèn pha dưới gầm xe rọi sáng mặt đất.

Chiếc xe lắc mạnh rồi dừng lại ngay cạnh máy bay. Cửa ca bin mở ra, rồi một người bước xuống. Anh ta mặc bộ áo liền quần màu trắng phồng to tướng che kín từ đầu đến chân. Trông chẳng khác gì quả bóng.

Max điên sắp sửa gặp Pillsbury Dough rồi đây, Rachel thầm nghĩ, nhẹ nhõm nhận thấy có người sống ở mảnh đất này.

Anh ta ra hiệu cho viên phi công mở cửa sập.

Viên phi công làm theo.

Ngay khi cửa vừa mở, luồng gió buốt giá thốc vào trong ca bin. Rachel thấy lạnh thấu xương.

- Đóng cửa lại cho tôi nhờ.

- Cô Sexton phải không ạ? - Người lái xe gọi với lên, giọng Mỹ. - Thay mặt cho NASA, xin chào đón cô.

Rachel run lập cập.

- Xin đa tạ.

Cô tháo mặt nạ, mũ bay và dây an toàn ra.

- Hãy bước xuống bậc thang bên hông máy bay. Cô có gì cần hỏi không ạ?

- Có đấy. - Rachel gào lên trả lời. - Tôi đang ở chỗ quái quỉ nào đây?

Chương 19

Giám đốc NASA Lawrence Ekstrom có vóc người cao lớn, nước da đỏ au và giọng nói cộc cằn, y như một vị thần trong truyền thuyết Na Uy. Mái tóc vàng của ông được cắt ngắn theo kiểu nhà binh để lộ ra những nếp nhăn trên trán và trên sống mũi hình củ hành, mạch máu chạy ngoằn ngoèo. Lúc này, đôi mắt lạnh lùng của ông đang rũ xuống vì biết bao đêm không ngủ. Trước khi được bổ nhiệm vào vị trí này ở NASA, ông đã từng là chuyên viên về chiến lược vũ trụ và cố vấn điều hành nặng ký ở Lầu Năm Góc; và rất nhiều người đã biết tiếng Ekstrom là người luôn cáu kỉnh nhưng hết sức tận tâm với bất cứ nhiệm vụ nào được giao.

Theo Lawrence Ekstrom vào trong bán sinh quyển, Rachel Sexton đi ngang qua một mê cung kỳ dị với những hành lang sáng mờ. Những mảng nhựa sáng mờ được treo trên những sợi dây căng ngang là phong cách thiết kế của kiến trúc lạ lùng này. Không có nền nhà - chỉ một tảng băng cứng lớn, bên trên được trải những dải cao su mỏng chống trơn. Họ băng qua khu sinh hoạt rất thô sơ gồm những chiếc võng và những toa lét hoá học.

Thật may, bên trong bán sinh quyển khá ấm áp, mặc dù có một phức hợp những thứ mùi đặc trưng của những chỗ ở quá kín mà lại đông người. Đâu đó vẳng tới tiếng máy phát điện kêu vo vo, có vẻ như đó là nguồn điện dùng để thắp sáng những bóng đèn đỏ lơ lửng trên đầu họ trong hành lang.

- Thưa cô Sexton. - Ekstrom vừa càu nhàu vừa nhanh nhẹn dẫn cô đến một nơi chỉ mình ông ta biết. - Cho phép tôi được nói thẳng với cô ngay từ đầu. - Giọng ông ta có vẻ hồ hởi khi có cơ hội được đón khách. - Cô có mặt ở đây bởi vì Tổng thống muốn thế. Zach Herney là bạn thân của tôi, đồng thời là người luôn ủng hộ NASA. Tôi kính trọng ông ấy. Tôi chịu ơn ông ấy. Và tôi tin ông ấy. Khi ông ấy đã ra lệnh thì tôi không bao giờ hỏi lại, dù trong lòng không đồng thuận. Vì thế tôi muốn nói rõ rằng tôỉ không có cùng quan điểm với Tổng thống frong việc để cô can dự vào chuyện này.

Rachel trân trối nhìn ông ta. Tôi đã vượt ba ngàn dặm để được đón tiếp thế này sao? Gã này thật chẳng biết điều.

- Với tất cả lòng kính trọng, thưa ngài, - cô trả miếng - tôi cũng làm theo lệnh Tổng thống mà thôi. Tôi còn chưa được biết sẽ phải làm gì. Tôi đã đến nơi này chỉ vì tin Tổng thống.

- Tốt lắm. - Ekstrom nói. - Thế thì tôi sẽ nói thẳng.

- Ngài bắt đầu như thế được đấy.

Phản ứng rắn rỏi của Rachel hình như làm ông Giám đốc hơi choáng váng. Ông ta chợt đi chậm lại, chăm chú quan sát cô. Sau đó, như con rắn đang duỗi dài thân ra, ông ta thở dài một tiếng rồi lại rảo bước.

- Theo tôi hiểu thì... - Ông ta nói tiếp - cô đến đây là để đưa ra nhận xét khách quan về một dự án quan trọng của NASA. Cô không những là người của NRO, một cơ quan xưa nay vẫn dè bỉu người của tôi là không biết giữ mồm giữ miệng; cô còn là con gái của người đang tự đặt ra cho cá nhân mình mục tiêu xóa sổ cơ quan của tôi. Giờ vàng của NASA sắp đến. Nhân viên của tôi đã phải chịu nhiều lời công kích trong thời gian vừa qua, họ đáng được hưởng giây phút vinh quang này. Tuy nhiên, do hàng loạt những lời chỉ trích mà cha cô đã ném thẳng vào mặt chúng tôi. NASA đang lâm vào tình thế khá tế nhị về mặt chính trị. Vì thế cho nên chúng tôi buộc phải chia sẻ những giây phút vinh quang này cùng với một số nhà khoa học dân sự và con gái của chính kẻ đang muốn làm hại chúng tôi.

"Tôi không phải là cha tôi", Rachel muốn hét vào mặt ông ta, nhưng đây không phải là lúc thảo luận những vấn đề chính trị với người đứng đầu NASA.

- Tôi đến đây không phải vì thèm khát thứ vinh quang đó, thưa ngài.

Ekstrom lừ mắt.

- Rồi cô sẽ thấy là cô chẳng có lựa chọn nào khác đâu.

Lời nhận xét khiến Rachel ngạc nhiên. Dù Tổng thống Herney không đả động gì đến việc cô sẽ hỗ trợ ông ta theo kiểu này thì William Pickering cũng đã lên tiếng trước rằng cô có thể bị biến thành một con tốt thí trên chính trường.

- Tôi muốn biết rõ mình sẽ làm gì ở đây. - Rachel yêu cầu.

- Cả tôi cũng thế. Ngay cả tôi cũng chẳng biết gì hơn.

- Gì cơ?

- Tổng thống lệnh cho tôi thông báo vắn tắt với cô về phát hiện mới ngay khi cô đến đây. Còn việc cô sẽ đóng vai trò gì trong gánh xiếc rong chính trị thì là chuyện riêng giữa cô và ông ấy.

- Tổng thống nói rằng Hệ thống quan sát địa cầu của các ông đã phát hiện ra một thứ gì đó.

Ekstrom lại nhìn Rachel:

- Cô biết gì về Hệ thống quan sát địa cầu?

- Đó là một chùm vệ tinh nhân tạo của NASA nhằm quan sát trái đất theo những cách khác nhau - vẽ bản đồ đại dương, phân tích địa tầng, quan sát hiện tượng băng tan ở địa cực, tìm nhiên liệu hoá thạch.

- Tốt. - Ekstrom nói, mặt tỉnh bơ. - Chắc là cô cũng biết thiết bị mới được bổ sung vào hệ thống đó? Được gọi là PODS.

Rachel gật đầu.

- Thiết bị soi đáy địa cực (PODS) đã được chế tạo để đo đạc hậu quả của hiện tượng ấm lên của trái đất. - Theo tôi được biết thì PODS đo đạc kích thước và độ cứng của chỏm băng của hai địa cực.

- Nôm na là như thế. Thiết bị này sử dụng các dải quang phổ để quét và tìm hiểu phần ngầm dưới lớp băng ở những khu vực rộng nhằm phát hiện ra những dị thường - những điểm tuyết tan mềm, băng tan ngầm, những khe nứt lớn - những chỉ số của hiện tượng ấm lên trên toàn cầu.

Rachel hiểu rõ về kỹ thuật soi đáy đậm đặc phức hợp. Kỹ thuật này cơ bản giống như siêu âm lòng đất. Các vệ tinh nhân tạo của NRO vẫn thường dùng một kỹ thuật tương tự để phát hiện những vùng có độ đậm đặc khác biệt ở Đông Âu và đã tìm ra những nấm mộ tập thể, nhằm chứng minh rằng hiện tượng thanh lọc sắc tộc hiện vẫn đang tiếp diễn.

- Cách đây hai tuần, - Ekstrom nói, - PODS đã rà soát dải băng này và phát hiện ra một điểm có độ đậm đặc khác biệt. Ở độ sâu hai trăm foot dưới lòng đất, ngay giữa một vùng băng cứng, PODS đã phát hiện ra một vật thể giống như túi nước không định hình có đường kính khoảng mười foot.

- Một túi nước? - Rachel hỏi.

- Không phải chất lỏng. Kỳ lạ ờ chỗ vật thể này cứng hơn băng đá xung quanh nó.

- Thế thì...là một tảng đá hay đại loại như thế phải không? - Rachel hỏi.

Ekstrom gật đầu:

- Về cơ bản là thế.

Rachel đợi một kết luận hùng hồn. Nhưng chẳng thấy gì.

- Chẳng lẽ tôi phải đến tận đây chỉ vì NASA tìm thấy hòn đá ư?

- Đến khi PODS tính toán xong độ đậm đặc của tảng đá này thì... Chúng tôi thực sự thật phấn khích. Ngay lập tức, một đội đã được cử lên đây để phân tích thông tin. Hoá ra tảng đá nằm dưới lớp băng đó có độ đậm đặc lớn hơn bất cứ loại đá nào trên hòn đảo Ellesmere này. Và đậm đặc hơn các loại đá trong phạm vi bốn trăm dặm.

Rachel chăm chú nhìn mặt băng dưới chân, cố mường tượng hòn đá đang nằm đâu đó dưới chân mình.

- Ngài nói rằng có người mang nó đến đây?

Ekstrom có vẻ không nhịn được cười.

- Hòn đá này nặng hơn tám tấn. Và nó nằm dướỉ những hai trăm foot băng đá, có nghĩa là nó đã nằm im ở đó được hơn ba trăm năm rồi.

Đi theo ngài Giám đốc NASA vào sâu trong một hành lang dài và hẹp, đi qua hai nhân viên NASA đang đứng gác. Rachel chợt thấy mệt mỏi. Cô liếc nhìn Ekstrom:

- Tôi đoán rằng có cách giải thích logic cho sự có mặt của hòn đá ở đây... Và đó chính là bí mật phải không?

- Một điều rất chắc chắn, ông ta nói tiếp - đó là một thiên thạch.

Rachel đứng sững trong hành lang và nhìn chằm chằm ngài Giám đốc.

- Một tảng thiên thạch ư? - Cô chợt cảm thấy tràn trề thất vọng. Một tảng thiên thạch quả không hề thích hợp chút nào với những lời úp mở vòng vo của ngài Tổng thống. "Chỉ riêng phát hiện này thôi cũng đủ để bù lại cho tất cả những chi phí của NASA trước đây và những sai lầm của cơ quan này". Không hiểu Herney đang nghĩ gì nhỉ? Thiên thạch dĩ nhiên là loại đá hiếm nhất, nhưng NASA vẫn thường xuyên tìm thấy thứ này từ bao lâu nay rồi.

- Đây là tảng thiên thạch lớn nhất từ trước tới nay. - Ekstrom nói tiếp, ông ta đứng sừng sững ngay trước mặt Rachel. - Chúng tôi tin rằng đây là mảnh vỡ của một tảng thiên thạch được ghi nhận là rơi xuống Bắc Cực vào thế kỷ 17. Có thể là do tác động của đại dương, tảng đá này đã bị đẩy tới tận đây, tới sông băng Milne, và suốt ba trăm năm qua, nó đã bị chôn vùi trong băng tuyết.

Rachel thấy cáu. Phát hiện này chẳng làm thay đổi bất kỳ thứ gì trên đời. Cô bắt đầu ngờ rằng đây chỉ là động thái thổi phồng quá đáng của NASA lẫn Nhà Trắng trong cơn cùng quẫn mà thôi. Họ đang cố gắng tô vẽ một phát hiện tầm thường thành một thắng lợi vang dội và vĩ đạl.

- Cô có vẻ chưa thấy có gì thuyết phục cho lắm thì phải.

- Tôi cứ tưởng có điều gì... hơn thế nữa.

Ekstrom lừ mắt.

- Một tảng thiên thạch với kích cỡ thế này là hiếm lắm đấy, thưa cô Sexton. Trên khắp trái đất chỉ có một vài tảng lớn hơn thế này thôi.

- Tôi nhận thấy là...

- Nhưng kích cỡ của tảng đá này không phải là điều quan trọng nhất.

Rachel ngước mắt lên.

- Nếu cô cho phép tôi được nói nốt. - Ekstrom nói, - cô sẽ được biết rằng tảng thiên thạch này cho thấy có những đặc điểm chưa bao giờ được phát hiện ở bất kỳ một tảng thiên thạch nào khác. Bất kể thuộc cỡ nào. - ông ta đưa tay chỉ một lối nhỏ. - Mời cô theo tôi, tôi sẽ giới thiệu cô với một số nhà khoa học rất công tâm có đủ khả năng hơn tôi để thảo luận thêm về phát hiện này.

Rachel không hiểu. "Liệu còn ai có thể có khả năng hơn cả Giám đốc NASA đây?"

Đôi mắt điển hình của người Bắc Âu của Ekstrom nhìn xoáy vào Rachel.

- Cô Rachel ạ, có khả năng hơn ở đây có nghĩa họ là những nhà bác học dân sự. Là chuyên viên phân tích tin, tôi đoán rằng cô muốn được thu nhận dữ liệu từ những người vô tư, không thiên kiến.

Lâm ly thật. Rachel thầm nghĩ.

Rachel theo ông ta vào lối đi hẹp, và cả hai đột ngột dừng ngay trước tấm mành đen rất dày. Từ đằng sau tấm rèm vọng ra những âm thanh của một nhóm người đang tranh cãi, tiếng rõ mồn một như thế họ đang tranh luận giữa thanh thiên bạch nhật.

Không nói không rằng, ông Giám đốc bước tới và kéo rèm ra.

Rachel bị chói mắt vì luồng ánh sáng chói loà. Cô ngập ngừng rồi tiến lên phía trước, hấp háy mắt nhìn căn phòng sáng loá. Khi đã quen với ánh sáng. Rachel ngỡ ngàng nhìn căn phòng rộng mênh mông trước mắt và cảm thấy ngộp thở.

- Lạy Chúa tôi! - Cô thì thầm. Đây là đâu thế này?

Chương 20

Trường quay ở ngoại vi thủ đô Washington của CNN là một trong số 212 trường quay trên toàn thế giới được kết nối với đại bản doanh hệ thống truyền hình của Turner tại Atlanta.

Đúng một giờ 45 phút, chiếc xe limousine của Thượng nghị sĩ Sedgewick Sexton vào đến bãi đỗ xe. Sải bước tới lối vào, Sexton cảm thấy đầy tự mãn. Một nhân viên CNN béo phệ với nụ cười rất tươi chào ông và Gabrielle.

Nhân viên này nói:

- Chào Thượng nghị sĩ. Có một tin hay lắm.

- Chúng tôi vừa mới biết người được Nhà Trắng cử tôi đến đối thoại với ông. - Anh ta lại cười nhăn nhở - Tôi hy vọng ngài sẽ lại thắng lợi giòn giã. - Anh ta đưa tay chỉ về phía trường quay đằng sau lớp kính mờ.

Sexton nhìn xuyên qua tấm kính và suýt té ngửa. Ngồi giữa đám khói thuốc lá mịt mù trong trường quay là người có khuôn mặt xấu xí nhất trên chính trường.

- Marjorie Tench à? - Gabrielle thốt lên - Bà ta đến đây làm gì nhỉ?

Sexton không biết, nhưng bất kể vì lý do gì, sự có măt của bà ta ở đây là tin hết sức tốt lành - dấu hiệu rõ ràng cho thấy Tổng thống đang tuyệt vọng. Nếu không thì tại sao ông ta lại phải đẩy cố vấn cao cấp của mình ra trước đường tên mũi đạn? Tổng thống Zach Herney đang phải dùng đến trọng pháo, và Sexton thấy đây quả là một dịp may... Càng là đối thủ ở tầm cao thì càng dễ bị ngã đau.

Ngài Thượng nghị sĩ hiểu rất rõ rằng Tench là đối thủ quỷ quyệt nhưng khi ngắm người đàn bà này, Sexton không thể không nghĩ rằng ngài Tổng thống đã phạm sai lầm. Marjorie Tench trông thật gớm guốc. Lúc này, bà ta đang ngả lưng trên ghế, miệng phì phèo điếu thuốc, cánh tay phải đang uề oải cầm điếu thuốc đặt lên môi rồi lại lấy ra, trông chẳng khác gì quái vật khổng lồ đang nhấm nháp con bọ ngựa.

- Lạy Chúa tôi, Sexton thầm nghĩ, mặt mũi gớm ghiếc thế kia thì chỉ nên đăng đàn diễn thuyết trên đài phát thanh thôi.

Đã vài lần Sedgewick Sexton nhìn thấy khuôn mặt nhăn nhúm, vàng ệch của bà cố vấn cấp cao này trên tạp chí, và ông không tài nào tin được rằng đó là diện mạo của người quyền thế nhất Washington.

- Tôi không thích thế này chút nào. - Gabrielle thì thào.

Sexton chẳng nghe thấy gì. Càng nghĩ, ông càng thấy khoái tình huống này. Thật tình cờ, khuôn mặt không ăn hình của Tench còn đi liền với những lời đồn về một vấn đề vô cùng quan trọng: Marjorie Tench luôn lớn tiếng rằng vai trò lãnh đạo của người Mỹ trong tương lai cần được khẳng định bằng sự vượt trội về khoa học kỹ thuật. Bà ta đã ra sức ủng hộ những chương trình số hoá Chính phủ, đặc biệt là NASA. Nhiều người cho rằng chính vì áp lực phía sau hậu trường của Tench mà Tổng thống mới hậu thuẫn cho cơ quan vũ trụ bí bét ấy.

Sexton băn khoăn không hiểu có phải vì những lời khuyên tồi tệ của bà ta về NASA mà Tổng thống đẩy bà ta ra trước công luận hay không. Phải chăng Tổng thống muốn quẳng cố vấn cao cấp của mình vào giữa bầy sói?

Gabrielle Ashe trân trối nhìn Marjorie Tench ngồi sau bức tường kính, càng nhìn càng thấy bất an. Người đàn bà này vô cùng thông minh và lại còn nhiều tiểu sảo. Chỉ hai điều ấy thôi cũng đủ khiến cho cô thấy mơ hồ e sợ. Xét đến quan điểm của bà ta về NASA, ngài Tổng thống thật không sáng suốt khi cử Tench đến cuộc khẩu chiến này với Thượng nghị sĩ Sexton. Nhưng Tổng thống không phải tay khờ. Bản năng mách bảo Gabrielle rằng có điều gì đó phải đề phòng.

Gabrielle nhận thấy rằng Thượng nghị sĩ hơi quá tự tin, vì thế cô càng lo lắng. Sexton có thói quen trở nên nhiệt tình thái quá mỗi khi cảm thấy tự tin. Vấn đề NASA gần đây đã giúp ông tăng điểm tín nhiệm, nhưng dạo này Sexton đang công kích cơ quan này quá gay gắt. Rất nhiều ứng cử viên đã thất bại vì quá nôn nóng muốn hạ gục đối thủ ngay tức thì.

Tay nhân viên đài CNN có vẻ nôn nóng muốn được xem trận quyết đấu:

- Ta bắt đầu chứ, Thượng nghị sĩ?

Sexton bắt đầu bước vào trường quay thì Gabrielle túm tay áo ông:

- Tôi biết ngài đang nghĩ gì. - Cô thì thào. - Ngài hãy thận trọng, đừng để hở sườn nhé.

- Hở sườn à? Tôi ấy à? - Sexton cười nhăn nhở.

- Thượng nghị sĩ hãy nhớ rằng bà ta làm gì cũng giỏi lắm.

Sexton cười mỉm khích lệ:

- Tôi cũng thế chứ sao. Chương 21

Ngôi nhà kỳ dị nhiều ngóc ngách này của NASA sẽ là cảnh tượng kỳ lạ nếu nó được dựng lên ở bất kỳ nơi nào trên mặt đất, và sự hiện diện của nó trên băng hà Bắc cực càng khiến cho Rachel Sexton thấy khó hiểu.

Nhìn mái vòm rất hiện đại gồm những mảnh hình tam giác dán lại với nhau, Rachel tưởng như đang đi vào viện điều dưỡng khổng lồ. Các bức tường của toà nhà được dựng lên ngay trên nền băng cứng; xung quanh gian phòng là hàng loạt cây đèn halogien hắt lên trần nhà thứ ánh sáng mờ ảo. Những dải trải sàn bằng bọt biển chạy ngang dọc khắp trụ sở nghiên cứu di động của NASA. Giữa những thiết bị điện tử ngồn ngang là khoảng ba, bốn chục nhân viên da trắng của NASA đang hăng say làm việc, sôi nổi bàn bạc, hào hứng trao đổi chuyên môn.

Rachel lập tức cảm nhận thấy luồng điện của sự phấn khích tràn ngập căn phòng.

Chỉ có thể có trạng thái phấn khích khi người ta có một phát kiến mới.

Theo ông Giám đốc đi vòng quanh ngôi nhà, Rachel nhận ra những ánh mắt ngạc nhiên và khó chịu của những người nhận ra cô. Trong ngôi nhà này, tiếng thì thào của họ vang lên rõ mồn một.

- Có phải con gái của Thượng nghị sĩ Sexton đó sao?

- Cô ta làm cái quái gì ở đây nhỉ?

- Không thể tưởng tượng được! Giám đốc lại thèm nói chuyện với cô ta cơ đấy.

Nếu thậm chí có nhìn thấy những hình nộm của cha cô treo lủng lẳng để yểm bùa ở đây thì Rachel cũng chẳng lấy làm ngạc nhiên. Tuy thế, sự thù địch không phải là điều duy nhất cô cảm nhận được ở nơi này; Rachel cảm nhận rõ ràng tâm lí tự mãn - như thế NASA biết chắc chiến thắng chung cuộc sẽ thuộc về họ.

Ông Giám đốc dẫn Rachel đến dãy bàn dài, ở đó có người đã một mình điều khiển cả dàn máy tính. Ông ta mặc chiếc áo cao cố bằng nhung kẻ, đi giày cao cổ, khác hẳn bộ đồng phục mà tất cả mọi người ở đây đang mặc. Ông ta đang quay lưng lại phía họ.

Giám đốc NASA bảo cô chờ và tiến đến nói chuyện với người đàn ông. Vài giây sau, người mặc áo cao cổ gật đầu đồng ý và tắt máy tính. Ông Giám đốc quay trở lại.

Từ bây giờ ông Tolland sẽ dẫn cô đi. - ông ta nói. - Ông ấy cũng là người mà Tổng thống mới tuyển mộ, chắc hai người sẽ hợp nhau. Tôi sẽ quay lại sau.

- Cảm ơn ngài.

- Tôi đoán là cô đã nghe nói đến Micheal Tolland rồi.

Rachel nhún vai, tâm trí vẫn còn đang bận bịu với quang cảnh xung quanh.

- Cái tên gọi này không tạo ra ấn tượng gì hết.

Người đàn ông mặc áo cao cổ tiến lại, vừa đi vừa cười nhăn nhở.

- Không tạo ra ấn tượng gì à? - Giọng ông ta vang và thân thiện. Tôi lại phải nghe tin xấu rồi đây. Có vẻ như tôi không còn khả năng gây ấn tượng mạnh nữa rồi.

Ngước mắt lên nhìn người vừa tới cạnh mình, Rachel như chết sững. Cô nhận ra ngay khuôn mặt điển trai của ông ta. Cả nước Mỹ đều nhận ra.

- Ồ, - cô nói trong khi bắt tay ông ta - hoá ra ông là ông Micheal Tolland đó.

Nghe Tổng thống nói đã mời những nhà khoa học tiếng tăm bậc nhất xác minh lại phát minh của NASA. Rachel đã hình dung ra những ông già nhăn nheo cặm cụi bên máy tính. Micheal Tolland thì hoàn toàn ngược lại. Với tư cách là một trong những nhà khoa học nổi tiếng nhất Hoa Kỳ, ông chủ biên tạp chí khoa học nổi tiếng phát hành hàng tuần có tên là "Đại dương ký thú" trong đó đề cập đến những hiện tượng rất đáng chú ý trong lòng đại dương - núi lửa ngầm dưới mặt nước, những con sâu biển dài mười foot, những đợt sóng thần chí tử. Giới truyền thông ca tụng Tolland là người cùng đẳng cấp với Lacques Cousteau và Carl Sagan, bởi ông có tầm hiểu biết vô song, nhiệt huyết cháy bỏng, và lòng ham mê các chuyến thám hiểm. Tất cả những cái đó hợp lại đã đưa "Đại dương ký thú" lên vị trí cao nhất trên bảng xếp hạng.

Dĩ nhiên, các nhà bình luận còn đồng ý với nhau rằng cặp mắt trìu mến và cung cách khiêm tốn của ông đã làm say lòng không ít phụ nữ.

- Xin chào ông Tolland... - Rachel hơi líu lưỡi. - Tôi là Rachel Sexton.

Tolland mỉm một nụ cười tinh nghịch và dễ chịu:

- Chào Rachel, hãy gọi tôi là Mike.

Rachel thấy mình bối rối một cách rất khác thường. Vô số các thiết bị cảm biến chất đầy bên trong bán sinh quyển, tảng thiên thạch, những bí mật, và rồi còn bất ngờ giáp mặt một ngôi sao truyền hình.

- Tôi rất ngạc nhiên được gặp ông ở đây. - Rachel cố gắng lấy lại tự tin. - Khi nghe Tổng thống nói đã mời những chuyên gia hàng đầu đến xác minh phát kiến của NASA, tôi tưởng... Rachel ngập ngừng.

- Là những nhà khoa học thứ thiệt chứ gì? - ông ta cười toe toét.

Rachel ngượng đỏ mặt:

- Tôi không có ý đó.

- Đừng bận tâm làm gì. - Tolland nói. - Mấy ngày ở đây tôi đã nghe nói thế nhiều lắm rồi.

Ông Giám đốc có việc phải đi, hẹn sẽ gặp lại họ sau. Lúc này Tolland tò mò quay sang hỏi Rachel:

- Ngài Giám đốc nói cha cô chính là Thượng nghị sĩ Sexton.

Rachel gật đầu. Đáng tiếc là đúng thế.

- Một gián điệp của ngài Sexton ở bên kia chiến tuyến đấy?

- Chiến tuyến đôi khi lại là những nơi ta không thể ngờ tới đâu.

Im lặng gượng gạo.

Rachel nhanh nhảu nói:

- Xin ông hãy cho tôi biết vì lẽ gì mà một nhà hải dương học lừng danh như ông lại đến làm việc bên những nhà khoa học tên lửa của NASA thế này?

Tolland cười khùng khục.

- Thật ra thì có một gã trông rất giống ngài Tổng thống đã xin tôi một đặc ân. Tôi đã hé môi định bảo hắn ta: "Quên đi!" - Rồi chả biết thế nào lại nói thành "Vâng, thưa ngài".

Rachel cười lớn, lần đầu tiên từ sáng sớm đến giờ.

- Chào mừng cô đã đến nhập bọn với chúng tôi.

Dù tất cả những người nổi tiếng dường như đều có vóc người bé nhỏ, Rachel thấy ông Tolland khá cao. Cặp mắt của ông ta nhiệt thành và thận trọng đúng như cô vẫn thấy trên tivi, chất giọng của ông ta thật ấm áp và sôi nổi. Ở tuổi 45, ông có vẻ dạn dày và cường tráng, với mái tóc đen, dày và cứng, những chỏm tóc bị gió thổi tung xoà xuống trán. Cái cằm mạnh mẽ và dáng vẻ vô lo của ông toát lên sự tự tin tràn trề. Khi Tolland bắt tay Rachel, đôi bàn tay chai sần của ông nhắc cô nhớ rằng đây không phải típ người ẻo lả vẫn thường trở nên nổi tiếng trên tivi, mà là nhà khoa học thực nghiệm và là một ngư ông hoàn thiện.

- Thật ra mà nói thì, - Tolland thú thật, vẻ rất chân chất - tôi cho rằng mình được mời tới đây chủ yếu vì những mối quan hệ với công chúng trên tivi chứ không phải vì tôi là nhà khoa học thực thụ. Tổng thống nhờ tôi đến đây để làm phim tài liệu... - Phim tài liệu về... một tảng thiên thạch à? Ông là nhà hải dương học kia mà.

- Tôi cũng đã nói với Tổng thống y như thế đấy! Nhưng ông ấy nói không biết một nhà làm phim nào chuyên các thiên thạch. Ông ấy nói sự tham gia của tôi sẽ mang lại uy tín khoa học cho phát kiến này. Chắc ông ấy có ý định cho chiếu bộ phim của tôi ngay trong buổi họp báo quy mô tối nay khi công bố phát kiến này.

Một phát ngôn viên nổi tiếng. Rachel cảm nhận được ngay tài thao lược về chính trị của Zach Herney. NASA vốn bị quy kết là nói những điều quá khó hiểu đối với công chúng. Lần này thì khác.

Họ đã mời được một nhà truyền thông chuyên về khoa học, một gương mặt mà mọi người Mỹ đều quen thuộc và tin tưởng trong lĩnh vực khoa học.

Tolland đưa tay chỉ góc xa của ngôi nhà, nơi người ta đang bố trí thành một trung tâm báo chí. Một tấm thảm xanh đã được trải trên nền băng đá, các camera truyền hình, đèn trường quay, chiếc bàn dài và mấy cái micro. Có người đang treo bức phông nền in hình lá cờ Mỹ.

- Chuẩn bị cho tối nay đấy. - ông ta nói. - Giám đốc NASA và một số nhà khoa học chủ chốt sẽ nối cầu truyền hình với Nhà Trắng thông qua vệ tinh để tham gia vào chương trình truyền hình của Tổng thống lúc tám giờ.

Hợp lý, Rachel thầm nghĩ, hài lòng khi thấy Tổng thống không định tách hẳn NASA khỏi buổi công bố.

Cô thở dài nói:

- Không biết ai sẽ nói cho tôi biết tảng thiên thạch đó có gì đặc biệt nào?

Tolland nhướn đôi lông mày và cười với Rachel đầy vẻ bí hiểm.

- Thật ra điều đặc biệt về tảng thiên thạch này nên được xem, không nên giải thích gì hết. - ông ta ra hiệu bảo Rachel đi sang khu phòng bên cạnh. - Anh chàng đang làm ở đây có vô số mẫu để cô có thể xem được đấy.

- Mẫu à? Các vị có mẫu của tảng thiên thạch đó à?

- Dĩ nhiên. Chúng tôi đã khoan thăm dò. Chính những mẫu đá đầu tiên đã khiến cho NASA hiểu được tầm quan trọng của phát kiến này.

Không biết sẽ được thấy điều gì. Rachel theo Tolland sang phòng làm việc kề bên. Có vẻ không có người. Có một li cà phê trên tấm bàn la liệt mẫu đá, com-pa và các dụng cụ khác. Li cà phê bốc hơi nghi ngút.

- Marlinson! - Tolland gọi to và tìm xung quanh. Không ai trả lời ông ta thở dài cáu kỉnh và quay lại Rachel - Chắc ông ta đang bận đi tìm kem để cho vào cà phê. Nói thật với cô, ngày xưa tôi đã cùng học khoá sau đại học với gã này; gã có thói quen biến mất trong phòng ngủ của mình. - Này, có huân chương quốc gia về vật lí học thiên thể đây, ra mà nhận nào.

Rachel hỏi:

- Marlinson? Ông không nhắc đến ông Corky Marlinson nổi tiếng đấy chứ?

Tolland cười vang.

- Chính ông ta chứ còn ai?

Rachel sững sờ:

- Corky Marlinson cũng đến đây sao?

Những quan điểm của Marlinson về trường hấp dẫn vốn được các kỹ sư của NRO hết lời ca tụng.

- Marlinson là một trong những nhà khoa học mà Tổng thống đã mời tới đây sao?

- Phải, một trong những nhà khoa học thứ thiệt!

Đúng là thứ thiệt, Rachel thầm nghĩ. Corky Marlinson quả là kiệt xuất và được kính trọng.

Corky có một đặc điểm hết sức ngược đời. Anh ta có thể tức thời đọc ra chính xác đến từng milimet khoảng cách đến hành tinh Alpha Centauri, nhưng lại không tự thắt được cà vạt.

- Tôi đeo nơ cổ đấy chứ! - Giọng nói nghèn nghẹt của Corky - một người tốt tính - vang lên ngay gần họ. - Tiện lợi hơn cà vạt nhiều, Mike. Những ngôi sao Hollywood nhà anh làm sao mà hiểu nổi điều đó!

Rachel và Tolland quay sang người đàn ông vừa xuất hiện từ sau một đống to những dụng cụ. Người này thấp lùn, béo tròn quay, trông giống loài chó pug mặt ngắn tũn với đôi mắt long sòng sọc và mái tóc mỏng húi sát đầu. Thấy Tolland đang đứng cùng với Rachell ông ta hơi sững lại.

- Lạy Chúa tôi. Mike! Ở tận cực Bắc khỉ ho cò gáy này mà anh vẫn kiếm được những cô gái chân dài. Biết thế này tôi cũng sang làm bên truyền hình cho xong.

Micheal Tolland ngượng:

- Cô Sexton, đừng chấp tiến sĩ Marlinson. Ông ấy không giỏi xã giao, nhưng bù lại, lại có khối kiến thức đồ sộ vô bờ về vũ trụ đấy.

Corky tiến lại gần.

- Rất hân hạnh, tôi chưa được biết tên cô.

- Rachel, - cô đáp - Rachel Sexton.

- Sexton à? - Corky ranh mãnh thở gấp - Hi vọng cô không có quan hệ gì với cái ông Sexton cận thị truỵ lạc đó!

Tolland nháy mắt:

- Thật ra thì Thượng nghị sĩ Sexton là cha của Rachel đấy, Corky ạ.

Corky thôi cười, ngồi thụp xuống ghế.

- Cậu biết không, Mike, chả trách tôi chẳng bao giờ gặp may với cánh phụ nữ cả. Chương 22

Nhà thiên thạch học Corky Marlinson được giải Nobel kéo Tolland và Rachel vào phòng làm việc của ông ta và bắt đầu lúi húi bên những mẫu đá và dụng cụ. Ông ta tíu tít đi lại y như cái lò xo bị nén chặt lại sắp sửa bung ra đến nơi.

- Xong rồi. - ông ta run run người phấn khích. - Thưa cô Sexton, cô sắp được chứng kiến màn siêu biểu diễn thiên thạch kéo dài ba mươi giây đấy.

Tolland nháy mắt ra hiệu bảo Rachel kiên nhẫn đợi.

- Đợi ông ta một chút, anh chàng này thực sự muốn được làm diễn viên đấy.

- Đúng thế, cũng như Mike thèm khát được trở thành nhà khoa học được kính nể ấy mà.

Corky cúi xuống chiếc hộp đựng giầy của ông và lôi ra ba mẫu đá. Cả thảy đều là những vật hình cầu xấu xí to bằng quả bóng gôn, và đều được cưa ngang, lộ ra mặt trong của chúng.

- Mọi thiên thạch, - Corky nói. - đều chứa một hàm lượng hợp kim niken - sắt, silicat, và sulfide. Người ta phân loại chúng đựa trên những tỉ lệ sắt trên silicat.

Rachel bắt đầu cảm thấy màn biểu diễn thiên thạch của Corky không thể chỉ có ba mươi giây.

- Mẫu đá đầu tiên này, - ông ta nói, tay chỉ một hòn đá đen bóng, là loại thiên thạch gốc sắt, rất nặng. Anh chàng nhỏ con này đã rơi xuống Atlanta cách đây mấy năm.

Rachel xem xét hòn thiên thạch. Hiển nhiên là trông nó có vẻ khác thường - đó là viên đá hình tròn, vỏ ngoài bị nung thành màu đen.

- Lớp ngoài bị cháy đó có tên là vỏ bị nung chảy. - Corky nói. - Đó là kết quả cửa nhiệt độ siêu cao khi tảng thiên thạch rơi vào tầng khí quyển của chúng ta. Thiên thạch nào cũng có vỏ ngoài bị nung cháy như thế cả. - ông ta nhanh nhẹn chuyển sang mẫu đá thứ hai.

- Mẫu này người ta gọi là thiên thạch đá-sắt.

Rachel xem xét mẫu đá, thấy hòn này cũng có lớp vò bị nung cháy. Tuy nhiên, mẫu đá này có ánh xanh nhạt và lát cắt ngang trông như tác phẩm cắt dán ảnh với những mảnh góc cạnh nhỏ sặc sỡ tương tự kính vạn hoa.

- Hay thật. - Cô nhận xét.

- Cô nói đùa đấy à? Tuyệt diệu chứ! - Corky nói một hơi về hàm lượng chất olivin cao trong đó đã tạo ra sắc xanh đẹp lộng lẫy của hòn đá, rồi ông ta với tay lấy mẫu đá thứ ba, mẫu cuối cùng, đưa cho Rachel.

Rachel cầm mẫu đá trong tay. Hòn này có màu nâu xám, hơi giống đá granit. Có vẻ hơi nặng hơn đá trên mặt đất một chút, chỉ một chút xíu. Dấu hiệu duy nhất cho thấy nó không phải là hòn đá thông thường, ngoài lớp vỏ bị nung cháy là bề mặt có những cấu trúc hình kim.

- Mẫu này! - Corky quả quyết nói - được đặt tên là thiên thạch. Đây là loại thiên thạch phố biến nhất. Khoảng hơn 90% thiên thạch trên trái đất thuộc loại này"

Rachel ngạc nhiên. Cô vẫn tưởng thiên thạch phải giống với mẫu đá thứ nhất hơn - những vật tròn có kết cấu kim loại kì dị.

Mẫu đá trên tay cô trông chẳng có gì khác thường. Không kể lớp vỏ bị cháy, trông nó cũng như hòn đá ai cũng có thể bắt gặp trên bãi biển.

Lúc này, mắt của Corky mở to đầy phấn khích.

- Tảng thiên thạch bị chôn vùi trong băng hà ở Milne thuộc loại thiên thạch đá - khá giống mẫu cô đang cầm trên tay. Thiên thạch đá gần như giống hệt các loại đá do lửa tạo thành trên trái đất, nên rất khó phát hiện. Thường chúng có kết cấu gồm chất feldspar, olivine và pyroxyne. Không có gì đặc biệt.

Mình sẽ nói, Rachel thầm nghĩ, trả lại ông ta mẫu đá.

- Hòn này trông như bị cho vào lò nung.

Corky phá lên cười.

- Lò quái nào cơ chứ? Lò hiện đại và tối tân nhất cho đến thời điểm này cũng không thể đạt được đến nhiệt độ mà một tảng thiên thạch đạt tới khi rơi vào tầng khí quyển của trái đất. Nóng hơn nhiều!

Tolland mỉn cười nhìn Rachel đầy hứng khởi:

- Phần này mới hay đây.

- Tưởng tượng thế này nhé. - Corky nói, cầm lấy mẫu thiên thạch trên tay Rachel. - Chúng ta hãy tưởng tượng chú bé này có kích cỡ bằng ngôi nhà. - ông ta giơ mẫu đá lên cao quá đầu. - Thế này nhé... nó đang ở trong không trung... trôi dạt ngang qua hệ Mặt trời của chúng ta... nó có nhiệt độ ngang bằng với nhiệt độ ở ngoài vũ trụ âm 100 độ C.

Tolland đang cười thầm, rõ ràng đã hiểu rằng Corky đang định nhập vai tảng thiên thạch đã rơi xuống đảo Ellesmere.

Corky bắt đầu hạ thấp mẫu đá xuống.

- Tảng thiên thạch của chúng ta đang chuyển động về phía trái đất... và nó đang đến mỗi lúc một gần hơn, lực hút của trái đất bắt đầu tác động lên nó... Nó tăng tốc... tiếp tục tăng tốc... Rachel quan sát Corky di chuyển mẫu đá theo đường vòng cung, mô phỏng sự tăng dần của lực hấp dẫn.

Lúc này nó đang bay rất nhanh. - Corky giảng giải, - Hơn mười dặm một giây. - ba mươi sáu ngàn dặm một giờ! Ở độ cao 135 km so với bề mặt trái đất, nó bắt đầu cọ sát với bầu khí quyển. - Corky lắc mạnh mẫu đá khi hạ nó thấp xuống đến nền băng. - Xuống đến độ cao dưới 100km, nó bắt đầu toả sáng! Lúc này độ đậm đặc của bầu khí quyển đang tăng lên, và mức độ cọ sát cũng tăng lên rất cao! Vùng không khí bao quanh mảng thiên thạch sáng rực lên vì bề mặt của tảng thiên thạch trở nên nóng vô cùng. - Corky bắt đầu bắt chước tiếng lửa cháy sèo sèo. - Nó bay qua độ cao 80 km, và bề mặt của nó nóng đến 800 độ C?

Rachel ngỡ ngàng quan sát nhà thiên thạch học danh tiếng lắc mẫu đá mạnh hơn nữa, miệng phun phì phì như đứa trẻ.

- 60 km! - Lúc này Corky hét lên. - Anh chàng thiên thạch này đâm đầu vào bầu khí quyển. Không khí quá đậm đặc! Anh ta lập tức giảm tốc độ rất nhanh, nhanh gấp 300 lần lực hấp dẫn! - Corky bắt chước tiếng phanh rít ken két, tay hạ hòn đá xuống thấp và chậm hơn hẳn. - Ngay lập tức, tảng thiên thch nguội đi và không phát sáng nữa. Nó lặng lẽ bay! Bề mặt của tảng thiên thạch lúc trước nớng chảy ra bây giờ đông cứng lại thành một lớp bề mặt cháy đen thô ráp.

Rachel nghe tiếng Tolland rên lên khi Corky quỳ hẳn xuống đất để mô phỏng cú tiếp đất của tảng thiên thạch.

- Lúc này - Corky nói - tảng thiên thạch của chúng ta đang trượt trong tầng khí quyển thấp... - Tay ông ta đưa hòn đá theo một đường xiên. - Nó đang bay về phía Đại Tây Dương... Rơi... rơi.., cảm tưởng như nó sắp bay qua đại dương này.. rơi...và... - ông ta cho tảng đá chạm mặt băng. - Bùm!

Rachel giật mình.

Kết quả là đã xảy ra một trận lụt lớn. Tảng thiên thạch nổ tung. Các mảnh vỡ của nó bắn tung toé, bay ra khắp đại dương.

Lúc này, điệu bộ của ông ta chậm hẳn lại, vừa rung, lắc vừa chầm chậm di chuyển hòn đá nhỏ trong đại dương tưởng tượng, về phía chân Rachel. - Một mảnh vỡ cứ trôi, trôi mãi về phía đảo Ellesmere... - ông ta di chuyển hòn đá lên ngón chân của Rachel.

Nó văng khỏi mặt nước, lên trên bờ... - Corky di chuyển hòn đá qua mũi giầy, gần đến mắt cá chân của Rachel - Và cuối cùng nó nằm im tại sông băng Milne, băng và tuyết nhanh chóng phủ kín hòn đá, bảo vệ nó trước tác động ăn mòn của thời tiết.. - ông ta đứng dậy và mỉm cười.

Rachel há hốc miệng. Cô cười đằy thán phục:

- Thưa tiến sĩ Marlinson. Ông giải thích thật là...

- Dễ hiểu đúng không? - ông ta đưa đẩy.

Rachel mỉm cười.

- Có thể nói như vậy.

Corky đưa cho cô hòn đá:

- Hãy quan sát mặt cắt của nó đi.

Rachel quan sát một lúc, nhưng chẳng nhìn thấy gì.

- Hãy nghiêng nó về phía ánh sáng. - Tolland gợi ý, giọng ấm áp và đôn hậu. - Nhìn gần vào.

Rachel đưa hòn đá lên sát tận mắt và nghiêng nó về phía ngọn đèn halogien đang toả sáng trên trần nhà. Và cô thấy những giọt kim loại nhỏ xíu đang ánh lên dưới ánh đèn. Trên mặt cắt có khoảng vài chục giọt trông như thuỷ ngân, mỗi giọt có kích cỡ khoảng một milimét.

- Những giọt nhỏ xíu đó có tên là chrondrule, Corky nói - và những giọt như vậy chỉ có ở những tảng thiên thạch mà thôi.

Rachel nheo mắt quan sát:

- Công nhận, tôi chưa thấy hòn đá nào trên trái đất có cấu trúc thế này cả.

- Sẽ không bao giờ thấy! - ông ta tuyên bố. - chrondrule là một loại cấu trúc địa lí không hề có mặt trên trái đất. Một số chrondrule có tuổi đời cực kỳ dài - có lẽ đây là kết cấu địa lý được hình thành đầu tiên trong vũ trụ. Những chrondrule khác thì ít tuổi hơn nhiều, ví dụ như hòn đá trong tay cô. Những chrondrule của hòn đá này chỉ có 190 triệu năm thôi.

- 190 triệu năm vẫn coi là trẻ ư?

- Hoàn toàn đúng. Theo quan niệm của địa lí học, thời điểm đó chỉ như ngày hôm qua mà thôi. Vấn đề quan trọng, là hòn đá này có các chrondrule, bằng chứng thuyết phục chứng tỏ rằng đây là một tảng thiên thạch.

- Được rồi! - Rachel nói. - chrondrule là bằng chứng thuyết phục. Tôi hiểu rồi. Cuối cùng, nếu bề mặt cháy xém và các chrondrule vẫn chưa thuyết phục được cô thì các thiên thạch gia chúng tôi còn có các phương pháp khác rất kinh điển để chứng minh nguồn gốc của một tảng thiên thạch.

- Đó là...?

Corky lơ đễnh nhún vai.

- Chúng tôi chỉ dùng những thứ đơn giản như kính hiển vi phân cực thạch học, quang phổ kế tia X, máy phân tích hoạt hoá nơ-trôn, hoặc một quang phổ kế giảm plasma kép để đo tỉ lệ sắt từ.

Tolland rên lên.

- Ông ta bắt đầu khoe mẽ rồi đấy. Ý ông ta là người ta chỉ cần phân tích thành phần hoá học của nó là xong.

- Này anh chàng đại dương học kia, - Corky la rầy ông ta, chuyện khoa học thì để yên cho các nhà khoa học nói chứ. - Rồi ông ta quay ngay về phía Rachel. - Ở một tảng đá thuộc trái đất, tỉ lệ khoáng chất nikel luôn rất cao hoặc rất thấp, không bao giờ ở mức trung bình cả. Ở các thiên thạch thì hàm lượng nikel luôn rơi vào mức trung bình. Dó đó, nếu kết quả phân tích cho thấy hàm lượng nikel ở mức độ trung bình thì có thể đảm bảo hoàn toàn chắc chắn rằng tảng đá ấy có nguồn gốc vũ trụ.

Rachel phát cáu:

- Thôi được rồi, thưa các nhà khoa học đáng kính, vỏ ngoài cháy xém, các chrondrule, hàm lượng nikel trung bình, tất cả đều chứng minh một tảng đá nào đó là thiên thạch. Tôi hiểu cả rồi. - Cô đặt hòn đá trước mặt Corky. - Nhưng vì sao tôi lại phải đến đây nào?

Ông ta thở dài một cách trang trọng.

- Cô muốn xem mẫu của tảng đá mà NASA tìm thấy dưới dòng sông băng này hả?

- Xem ngay không thì tôi mỏi mòn vì đợi rồi.

Lần này Corky thò tay vào túi áo ngực và lôi ra một mảnh đá nhỏ hình tròn dẹt. Mảnh đá này có hình thù giống cái đĩa CD, dày khoảng một inch, có vẻ giống như mẩu thiên thạch mà cô vừa xem.

- Đây là mẫu đá chúng tôi vừa khoan lên hôm qua. - ông ta đưa cho Rachel.

Vẻ bề ngoài của mẫu đá, đó chẳng có gì đáng gây chấn động cả thế giới cả. Đây là một loại đá khá nặng màu trắng ánh da cam, một phần viền ngoài bị cháy xém, rõ ràng là mẫu đá này được lấy ngay bên ngoài rìa của tảng đá.

- Tôi trông thấy bề mặt bị cháy xém. - Cô nói.

Corky gật đầu:

- Đúng là mảnh đá này được lấy ở ngoài rìa tảng đá, nên vẫn còn nguyên lớp vỏ bị cháy xém.

Rachel nghiêng mẫu đá ra trước ánh đèn và nhìn thấy nhưng giọt kim loại tí xíu. - Tôi cũng nhìn thấy các chrondrule.

- Tốt rồi. - Giọng Corky đấy phấn khích. - Xin nói thêm là khi đem phân tích thành phần hoá học thì được kết quả hàm lượng nikel đạt mức trung bình - đây không thể là đá của trái đất. Xin chúc mừng, cô đã khẳng định chắc chắn rằng mẫu đá này là của một tảng thiên thạch.

Rachel bối rối ngước nhìn lên.

- Thưa tiến sĩ Marlinson, đây là một tảng thiên thạch. Chắc chắn là từ trên trời rơi xuống. Tôi có quên mất chi tiết nào không vậy?

Corky và Tolland đưa mắt nhìn nhau đầy vẻ đồng loã.

Tolland đặt tay lên vai Rachel:

- Cô hãy lật mặt kia lên đi.

Rachel lật mảnh đá lên, và chỉ sau một giây, cô nhận ra thứ mình đang nhìn thấy.

Sự thật tác động đến tâm trí cô cực mạnh.

Không thể nào! Rachel thở dốc khi nhìn mẫu đá và đồng thời nhận ra rằng "không thể nào", là một tính từ không hề thích hợp chút nào. Trên mẫu đá có một hình thù hoàn toàn bình thường đối với một mẫu đá của trái đất, nhưng ở một thiên thạch thì khó mà tin nổi.

Đây là Rachel lắp bắp, gần như không thốt nên lời.

- Đây là một con bọ! Tàng thiên thạch này có một con bọ hoá thạch ở trong!

Cả Tolland và Corky đều cười rạng rỡ.

- Thế là cô đã hiểu rồi nhé, Corky nói.

Xúc động sâu sắc, Rachel gần như nói không ra hơi; dù thế, trong cơn bàng hoàng, cô vẫn nhận ra rằng mẫu hoá thạch này, không còn nghi ngờ gì nữa, đã từng là một sinh vật sống. Mẫu hoá thạch này có chiều dài khoảng ba inch, và nhìn từ dưới bụng trông giống như con bọ cánh cứng hay con bọ gì đó rất lớn. Bảy cặp chân sau của nó co vào trong lớp vỏ bảo vệ gì đó, trên mẫu đá hình đĩa dẹt này, trông nó giống con ta-tu.

Rachel choáng váng.

- Trong vũ trụ có giống bọ này... - Đây là loài động vật đẳng túc. - Corky nói. - Côn trùng thường chỉ có ba cặp chân chứ không phải là bẩy.

Rachel gần như không nghe thấy. Đầu óc cô còn đang chao đảo khi quan sát mẫu đá.

- Có thể thấy là... - Corky nói - lớp vỏ cứng trên sống lưng trông rất giống của loại côn trùng trên trái đất. Tuy nhiên, phần phụ hai nhánh của nó lại khác với cấu trúc của loài rận.

Rachel không đồng tình với ông ta. Không thể tìm cách ghép nó với bất kỳ giống côn trùng thời hiện đại nào. Các mảnh của bức tranh ghép hình giờ đã nằm đúng chỗ của chúng - bí mật của Tổng thống, sự phấn khích của NASA... Có một sinh vật hoá thạch trong tảng thiên thạch này. Không phải chỉ là hạt bụi chứa loài vi sinh vật nào đó, mà là một dạng sự sống tiến hoá cao! Bằng chứng của sự sống tồn tại trên vũ trụ.

Chương 23

Tranh luận được 10 phút trên CNN, Thượng nghị sĩ Sexton không hiểu nổi vì sao lúc đầu ông lại lo lắng đến thế. Marjorie Tench không phải là đối thủ đáng gờm như ông tưởng. Dù có tiếng là người sắc sảo, bà ta giống vật tế thần hơn là đối thủ nặng ký.

Đúng là ngay đầu buổi tranh luận, bà ta đã công kích theo logic rằng cương lĩnh tranh cử của ông là định kiến với phụ nữ, nhưng rồi khi xiết chặt vòng vây, bà ta lại phạm phải một số sai lầm khá hớ hênh. Khi hỏi ông sẽ lấy tiền đâu đề tăng chi cho giáo dục nếu không tăng thuế, Tench đã bóng gió đề cập đến cái bung xung NASA.

Dù Sexton định dành đề tài NASA đến cuối cuộc thảo luận, Marjorie Tench đã đề cập sớm đến đề tài này. Đồ thộn!

- Nói đến chuyện NASA - Sexton làm ra vẻ lơ đễnh - chị có bình luận gì về tin đồn là NASA lại mới có thêm một thất bại nữa không?

Bà ta không nao núng.

- Tôi e rằng chưa bao giờ nghe nói tới tin đồn đó. - Giọng nói khê nồng của bà ta nghe chẳng êm tai chút nào.

- Tức là chị không có bình luận gì?

- Tôi e là không.

Sexton thấy hả hê. Trên bình diện truyền thông. - "không bình luận gì" tức là "lời buộc tội là đúng".

- Tôi hiểu. - ông nói. - Thế còn về tin đồn là Tổng thống đã bí mật gặp Giám đốc NASA thì sao?

Lần này trông Tench có vẻ ngạc nhiên. - Tôi không hiểu anh nói về cuộc gặp nào. Tổng thống có rất nhiều cuộc gặp.

- Dĩ nhiên là thế. - Sexton quyết định sẽ tấn công bà ta trực diện.

- Chị Tench này, có phải là chị cũng nhiệt thành ủng hộ cho cơ quan vũ trụ của chúng ta không?

Tench thở dài, có vẻ mệt mỏi vì liên tiếp bị ông o ép.

- Tôi tin là chúng ta cần phải duy trì thế thượng phong của Hoa Kỳ về khoa học kỹ thuật - bất kể đó là về mặt quân sự, công nghiệp, tình báo, hay viễn thông. Dĩ nhiên phải kể cả NASA. Tôi ủng hộ.

Sexton thấy Gabrielle nháy mắt bảo ông hãy lùi một bước, nhưng ông đã ngửi thấy mùi máu rất gần.

- Không biết có phải do ảnh hưởng của chị mà Tổng thống nhiệt tình ủng hộ NASA đến như thế không?

Bà ta lắc đầu.

- Không hề. Tổng thống cũng hoàn toàn tin tưởng vào vai trò quan trọng của NASA, ông ấy tự đưa ra quyết định của chính mình.

Sexton không dám tin vào tai mình. Ông vừa cho Tench một cơ hội đó gỡ tội cho Tổng thống bằng cách nhận bớt tội nuông chiều NASA về mình. Nhưng không, bà ta đã đổ hết tội cho Tổng thống.

Tổng thống tự đưa ra quyết định của chính mình. Có vẻ như Tench đang cố tình nhấn vào sự khác biệt giữa mình với Tổng thống. chẳng có gì quá ngạc nhiên. Rốt cuộc thì, sau khi đâu đã vào đấy. Marjorie Tench cũng cần phải tìm công việc mới cho mình.

Tench và Sexton còn tiếp tục tranh luận thêm hồi lâu nữa. Bà ta đã thử thay đổi đề tài, nhưng ông khăng khăng nói về mỗi đề tài ngân sách của NASA mà thôi.

- Thưa Thượng nghị sĩ. - bà ta lí luận - ngài định cắt giảm ngân sách của NASA, thế thì rất nhiều chuyên gia sẽ mất việc.

Sexton gần như cười thẳng vào mặt bà ta. Thế mà cũng đòi là bộ óc sắc sảo nhất ở Washington! Bà ta cần phải học thêm rất nhiều về nhân khoa học của Hoa Kỳ. Các chuyên gia chỉ là cái mắt muỗi so với biết bao nhiêu người lao động chân tay.

Ông chộp ngay cơ hội.

- Chúng ta đang nói đến những khoản tiền hàng tỉ đô la, Marjorie ạ, cho nên nếu một vài nhà khoa học rất dễ tìm việc của NASA mất việc thì cứ đề họ tự lái những chiếc xe hơi sang trọng của họ đi kiếm việc ở chỗ khác. Tôi cam kết sẽ rất chặt chẽ trong các khoản chi tiêu.

Marjorie lặng ngắt, như thế chưa hết choáng váng sau đòn tấn công này.

Người dẫn chương trình CNN nhắc khéo:

- Thưa bà Tench, bà thấy thế nào?

Cuối cùng thì bà ta cũng hắng giọng và lên tiếng.

- Có vẻ như tôi hơi ngạc nhiên thấy Thượng nghị sĩ Sexton sẵn lòng lựa chọn tư thế cương quyết chống lại NASA.

Sexton nheo mắt. Đánh đẹp đấy, thưa quý bà.

- Tôi không chống lại NASA, tôi không thích bị buộc tội kiểu đó chút nào. Tôi chỉ nóỉ rằng NASA là bằng chứng cho cung cách ném tiền qua cửa sổ của Tổng thống. NASA tuyên bố là họ có thể chế tạo được tên lửa với giá năm tỉ đô la, nhưng thực tế lại ngốn tới mười hai tỉ. Họ nói rằng chỉ cần tám tỉ đô la là đủ đề xây một trạm vũ trụ, nhưng bây giờ chi phí đã lên tới một trăm tỉ rồi.

- Hoa Kỳ là quốc gia đi tiên phong, Tench phản kích, - Vì chúng ta luôn tự đặt ra những mục tiêu rất cao cả và dù gặp khó khăn vẫn không lùi bước.

- Tôi chẳng thấy kiểu tự hào dân tộc đó có gì thuyết phục cả, Margie ạ. Trong hai năm qua NASA đã lạm chi những ba lần, để rồi lại cun cút bám đít Tổng thống hòng xin thêm tiền để sửa chữa những sai lầm của chính mình. Thế mà là tự hào dân tộc à? Nếu muốn nói đến tự hào dân tộc thì hãy nhìn các trường học của chúng ta kia kìa. Nhìn hệ thống chăm sóc sức khoẻ cộng đồng ấy. Hãy bàn cách làm sao để những đứa trẻ thông minh của chúng ta được lớn lên trên một đất nước có nhiều cơ hội cho chúng. Đó mới chính là tự hào dân tộc!

Mắt bà ta mở to:

- Tôi có thể hỏi ngài một cách thẳng thắn không, thưa Thượng nghị sĩ?

Sexton không buồn trả lời, chỉ ngồi im chờ bà ta hỏi.

Bà ta hỏi hết sức từ tốn, với vẻ tự tin lạ thường:

- Thưa Thượng nghị sĩ, nếu NASA không thể tiếp tục nghiên cứu vũ trụ với ngân quỹ ít hơn mức hiện nay, ngài có ý định giải tán cơ quan này không?

Câu hỏi chả hơn gì hòn đá ném xuống ao bèo. Có lẽ Tench chỉ là ả gái già ngu si. Bà ta vừa đưa ra cái bẫy tầm thường - câu hỏi "có-hoặc-không" được chuẩn bị sẵn để buộc người ta phải thể hiện thật rõ lập trường của mình.

Theo bản năng, ông né tránh:

- Tôi tin chắc rằng nếu được quản lí hiệu quả. NASA có thể cắt giảm chi tiêu mà vẫn tiếp tục hoạt động hiệu quả.

- Thượng nghị sĩ Sexton, hãy trả lời câu hỏi của tôi. Thám hiểm vũ trụ là công cuộc mạo hiểm và tốn kém. Chúng ta chỉ có thể chọn hoặc là xốc tới - hoặc là bỏ cuộc. Có quá nhiều rủi ro. Tôi xin hỏi lại: nếu ngài trở thành Tổng thống, và buộc phải đưa ra quyết định hoặc là tiếp tục cấp cho NASA khoản ngân sách kếch xù y như hiện nay, hoặc là giải tán nó đi, ngài sẽ chọn cách nào?

Rác rưởi. Sexton ngước mắt nhìn Gabrielle bên kia bức tường kính. Đôi mắt của cô mang thông điệp mà ông đã biết trước.

- Ngài đã tuyên bố rõ ràng. Cứ thẳng thắn. Đừng dông dài làm gì.

Ông ngẩng cao đầu:

- Vâng. Tôi sẽ chuyển thẳng ngân sách của NASA cho các trường học nếu cần. Nếu buộc phải chọn giữa giáo dục và vũ trụ, tôi chọn trường học.

Marjorie làm ra vẻ vô cùng ngạc nhiên:

- Quả là gây sốc. Tôi có nghe nhầm không đây? Nếu là Tổng thống, ngài sẽ ra tay loại bỏ mọi chương trình nghiên cứu vũ trụ à?

Sexton giận sôi lên. Bây giờ thì Tench đã mớm tận miệng ông, ông chưa kịp phản kích thì bà ta đã nói tiếp.

- Thưa Thượng nghị sĩ, có đúng là ngài sẽ giải tán chính cơ quan đã đưa con người lên Mặt trăng hay không?

- Tôi nói rằng cuộc chạy đua vũ trụ đã kết thúc! Thời thế đã đổi khác rồi. NASA giờ không còn đóng vai trò quan trọng trong đời sống hàng ngày của dân Mỹ nữa, nhưng vẫn tiếp tục ngốn những khoản tiền khổng lồ y như ngày xưa!

- Thế ngài không nghĩ rằng nghiên cứu vũ trụ sẽ có lợi cho tương lai hay sao?

- Dĩ nhiên là có chứ, nhưng mà NASA là con khủng long! Để cho các công ty tư nhân làm việc đó. Không nên để những người dân cứ phải dốc hầu bao ra mà đóng thuế mỗi khi NASA muốn chi vài tỉ để chụp một bức ảnh sao Hoả. Người dân Mỹ đã chán ngán cảnh bán rẻ tương lai con em họ để chi trả cho một tổ chức đã từ lâu chẳng làm nên cơm nên cháo gì nhưng lại ngốn những khoản tiền khủng khiếp!

Tench thở dài rất kịch:

- Không làm nên cơm nên cháo gì? Chỉ trừ chương trình SETI, NASA đã đạt biết bao nhiêu thành quả.

Sexton kinh ngạc nghe thấy từ SETI từ chính miệng Tench.

Marjorie ngờ nghệch. Cảm ơn đã nhắc tôi khỏi quên. Chương trình tìm kiếm những sinh vật ngoài vũ trụ là cái máy đốt tiền khủng khiếp nhất từ trước đến nay. Dù NASA đã cố tình che đậy điều đó bằng cách đặt cái tên khác cho xuất xứ và sửa đổi một số mục tiêu của chương trình, đây vẫn là ván bài đại bại.

- Marjorie, tôi bàn đến SETI chỉ vì chị đã nhắc đến thôi đấy.

Thật kỳ lạ, Tench có vẻ rất hào hứng muốn nghe.

Sexton hắng giọng:

- Hầu hết dân Mỹ không biết rằng suốt 30 năm nay, NASA vẫn đang tìm kiếm những dạng sống thông minh ngoài trái đất. Và đó là cuộc săn lùng vô cùng đắt đỏ - vô số các vệ tinh nhân tạo, biết bao nhiêu máy thu phát vô tuyến khổng lồ, hàng triệu đô la để trả lương cho những nhà khoa học ngồi mọc rễ trong phòng tối để nghe những đoạn băng câm lặng. Đó là sự phí phạm đáng xấu hố.

- Thượng nghị sĩ cho rằng không có dạng sống thông minh nào tồn tại trong vũ trụ ư?

- Ý tôi là nếu một cơ quan Chính phủ nào khác chi những bốn lăm tỷ đô la ròng rã suốt ba lăm năm mà không thu được bất kỳ thành quả nào, cơ quan ấy hẳn đã bị giải tán từ lâu rồi. - Sexton gượng một lúc để nhận định vừa rồi có thêm trọng lượng. - Ba mươi lăm năm đủ để chúng ta thấy rõ rằng chẳng hề có sự sống bên ngoài trái đất.

- Nhỡ ngài sai thì sao?

Sexton mở mắt trừng trừng.

- Ồ lạy Chúa, thưa chị Tench, nếu sai thì tôi sẽ ăn cái mũ của mình.

Cách đó sáu dặm, trong phòng bầu dục, Tổng thống Zach Herney tắt ti vi và tự rót cho mình một ly. Đúng như Marjorie Tench đã hứa, Thượng nghị sĩ Sexton đã cắn câu - cả lưỡi câu, dây câu lẫn chì lưới.

Chương 24

Micheal Tolland cười rạng rỡ trong khi Rachel Sexton chết sững nhìn mảnh thiên thạch có hoá thạch đang cầm trên tay. Với vẻ đẹp vô cùng tao nhã, cô gái này là biểu tượng của trạng thái phân vân rất đỗi ngây thơ - một em bé gái lần đầu tiên trong đời nhìn thấy ông già tuyết.

"Tôi hiểu rất rõ cô đang cảm thấy gì", Tolland thầm nghĩ... Chỉ mới cách đây hai hôm. Tolland cũng đã cảm thấy y hệt như vậy. Cả ông ta cũng đã chết điếng vì kinh ngạc. Đến tận lúc này, ý nghĩa khoa học và triết học của phát hiện này vẫn còn khiến ông thấy choáng váng, khiến ông phải suy nghĩ lại về tất cả những gì trước đây mình vẫn tin tưởng.

Tolland đã từng phát hiện ra một số sinh vật biển chưa ai từng thấy, nhưng phát kiến này mới thực sự là bước đột phá. Dù Hollywood vẫn có xu hướng sáng tạo ra hình tượng những người ngoài hành tinh xanh lè, các nhà sinh vật học vũ trụ và những người ham mê khoa học vẫn luôn đồng ý với nhau rằng nếu có được phát hiện, dạng sống bên ngoài trái đất sẽ có ngoại hình của loài bọ.

Côn trùng là một bộ phận của những loài thuộc hệ chân khớp với lớp vỏ ngoài cứng và chân có đốt. Với 1.25 triệu loài đã được biết và khoảng năm trăm loài còn chưa được phát hiện, bọ vượt xa về số lượng so với tất cả các dạng sống khác trên trái đất cộng lại. Chúng chiếm 45% tổng số sinh vật trên hành tinh, và 40% tổng số sinh-thực vật.

Nhưng số lượng của các loài bọ không khiến người ta kinh ngạc bằng sự dẻo dai của chúng. Từ những con bọ cánh cứng Bắc cực cho đến loài bọ cạp mặt trời ở thung lũng chết, các loài bọ ung dung sinh sống ở những nhiệt độ, mức độ khô hạn, và cả áp suất chết người. Chúng cũng chịu được sự tiếp xúc với thứ đáng sợ nhất ngày nay: bức xạ. Khi lần theo dấu vết vụ thử hạt nhân từ năm 1945, các chuyên viên hàng không đã phải mặc quần áo chống xạ để tiến vào khu vực số không, để rồi nhìn thấy dán và kiến sống rất ung dung ở đó cứ như thể chưa từng có gì xảy ra. Các nhà thiên văn học nhận ra rằng lớp vỏ cứng bảo vệ bên ngoài các loài động vật chân đốt đã ban tặng cho chúng khả năng thích nghi tuyệt vời ở những hành tinh nhiễm xạ nặng, nơi không một loài sinh vật nào khác có thể tồn tại nổi.

Có vẻ như các nhà sinh vật học vũ trụ đã đúng, Tolland thầm nghĩ.

Sự sống thông minh bên ngoài vũ trụ mang dáng dấp của loài bọ.

Rachel cảm tưởng như không thể đứng vững.

- Tôi không... tôi không thể tin nổi điều này. - Cô nói, lật đi lật lại mẫu hoá thạch trên tay. - Tôi không thể nào tưởng tượng...

- Phải có thời gian mới trấn tĩnh được. - Tolland nhăn nhở nói. - Phải mất đúng hai mươi tư giờ tôi mới đứng vững lại được đấy.

- Tôi thấy là mới có thêm một người nữa, - một người châu Á cao kều nói, giọng bèn bẹt.

Ngay khi ông này xuất hiện, cả Tolland và Corky dường như đều bị cụt hứng. Rõ ràng là giây phút thần diệu đã tan biễn mất rồi.

- Tiến sĩ Wailee Ming. - ông ta tự giới thiệu. - Giám đốc Viện cổ sinh học ở UCLA.

Người đàn ông này có điệu bộ bảnh choẹ cứng ngắc của nhà quý tộc thời Phục hưng, liên tục đưa tay lên vuốt vuốt chiếc nơ cài trên cổ cái áo lông lạc đà dài đến gối. Wailee Ming rõ ràng thuộc kiểu người không bao giờ chịu để bất kỳ yếu tố ngoại cảnh nào làm hỏng mất vẻ bề ngoài trang trọng của mình.

- Tôi là Rachel Sexton. - Cô vẫn còn chưa hết run rấy khi bắt tay tiến sĩ Ming. Hiển nhiên ông ta cũng là người mà Tổng thống đã mời tới.

- Tôỉ rất lấy làm vinh hạnh, - ông ta nói - được giảng giải bất kỳ điều gì, cô muốn biết có liên quan đến những động vật hoá thạch này.

- Và tất cả những gì cô không muốn biết nữa đấy. - Corky làu bàu.

Ông Ming lại tiếp tục vuốt ve chiếc nơ gài áo:

- Chuyên môn sâu của tôi trong ngành cổ sinh học là các động vật chân đốt đã tuyệt chủng. Dĩ nhiên, đặc điểm nổi bật nhất của loài này là...

- Là chúng phát sinh từ trên một hành tinh chết tiệt nào đó! - Corky ngắt lời.

Ming nhăn mặt và hắng giọng.

- Đặc điểm quan trọng nhất của loài này là nó hoàn toàn khớp với những nguyên tắc phân loại của Darwin.

Rachel ngước nhìn lên. Họ còn có thể phân loại con bọ này sao?

- Ý ông là các giới, bộ và loài chứ gì?

- Chính xác. - ông ta nói. - Nếu được tìm thấy trên trái đất, loài này sẽ được xếp vào nhóm động vật đẳng túc cổ và được xếp vào một họ gồm có hai ngàn loài chấy rận.

- Chấy rận à? - Cô hỏi. - Nhưng to thế này cơ mà.

- Khi phân loại, người ta không quan tâm đến kích thước. Mèo nhà và hổ có họ với nhau. Con bọ hoá thạch này cũng có thân mình dạng dẹt, bảy đôi chân, và một cái túi sinh sản giống hệt của loài mọt gỗ, bọ tròn, bọ chét bờ biển, và bọ tuyết. Các mãu hoá thạch khác còn cho thấy những đặc điểm..

- Những mẫu hoá thạch khác?

Ming liếc sang Corky và Tolland:

- Cô ấy không biết à?

Tolland lắc đầu.

Ngay lập tức khuôn mặt ông Ming sáng bừng lên:

- Cô Sexton ạ, cô chưa được nghe kể phần hay nhất của câu chuyện đâu.

- Còn có nhiều mẫu hoá thạch khác nữa. - Corky nói chen vào, cố góp phần quan trọng về mình, - Nhiều lắm. - ông ta hối hả mở một phong bì lớn và lấy ra tờ giấy khổ lớn. Rồi ông trải tờ giấy lên bàn, trước mặt Rachel - Sau khi khoan vài mũi, chúng tôi đã thả xuống đó một camera X quang. Đây là anh chụp X quang tảng đá đó.

Rachel nhìn tấm ảnh X quang trước mắt, và phải ngồi thụp xuống ghế. Bức ảnh ba chiều cho thấy trong tảng đá ấy còn có khoảng vài chục sinh vật hoá thạch nữa.

- Những chứng tích của thời kỳ đồ đá cũ, - ông Ming nói, thường được tìm thấy rất tập trung. Trong đa số các trường hợp, bùn kẹp chặt cả một cộng đồng sinh vật.

Corky cười toe toét:

- Chúng tôi cho rằng tảng đá này là hoá thạch của cả một ổ. - Ông ta đưa tay chỉ một con bọ - Đây chắc là con mẹ.

Rachel nhìn con bọ mà ông ta chỉ, và há hốc miệng. Con bọ đó phải dài đến hai foot.

- Chấy rận khổng lồ đúrng không nào? - ông ta hỏi.

Rachel sững sờ gật gật khi cô hình dung con rận to bằng lát bánh mì lượn vè vè trên hành tinh xa xôi nào đó.

- Trên hành tinh chúng ta, - ông Ming nói, - Các loài bọ có kích thước nhỏ bé do tác động của trọng lực, chúng không thể phát triển to hơn lớp vỏ cứng bên ngoài được. Tuy nhiên, trên một hành tinh có trọng lực yếu hơn, chúng có thể phát triển những kích thước to lớn hơn nhiều.

- Hãy tưởng tượng chúng ta phải đập những con muỗi to bằng con kền kền. - Corky bông đùa, cầm lấy mẫu đá trên tay Rachel và bỏ tõm vào túi áo.

Ông Ming quắc mắt:

- Ông không được phép lấy trộm thứ đó!

- Ông bình tĩnh, khi nào đưa được tảng đá lên thì có những tám tấn cơ mà.

Thói quen phân tích của Rachel bắt đầu quay trở lại.

- Nhưng làm sao mà sinh vật vũ trụ lại giống trên trái đất đến thế? Ý tôi là làm sao, mà loài vật này lại trùng khớp với cách phân loài theo quan điểm của Darwin?

- Hay lắm, - Corky nói, - cô có tin hay không thì tuỳ, nhưng các nhà thiên văn học đều dự đoán là sinh vật trong vũ trụ sẽ giống trên trái đất này.

- Tại sao lại thế? - Cô hỏi. - Sinh vật này xuất xứ từ môi trường hoàn toàn xa lạ cơ mà.

- Thuyết đa sinh. - Corky cười hết cỡ.

- Ông nói cái gì cơ?

- Thuyết đa sinh nói rằng sự sống trên trái đất xuất xứ từ một hành tinh khác.

Rachel đứng dậy.

- Ông đang phung phí thời gian đấy.

Corky quay sang Tolland:

- Mike này, cậu chuyên về các biển nguyên thuỷ đấy.

Tolland có vẻ sung sướng được góp chuyện.

- Trước đây đã có thời trái đất không hề có sự sống, Rachel ạ. Thế rồi chỉ qua một đêm, các dạng sự sống phát triển ào ạt. Nhiều nhà sinh vật học cho rằng sự sống là kết quả của quá trình kết hợp kỳ diệu giữa một số yếu tố trong lòng biển nguyên thuỷ. Nhưng người ta chưa bao giờ tái tạo được giả thuyết đó trong phòng thí nghiệm, nên các nhà thần học đã chớp lấy cơ hội đó để khẳng định vai trò của Chúa, rằng không có sự sống nếu Chúa không thối sự sống vào biển nguyên thuỷ.

- Nhưng chúng ta nghiên cứu thiên văn học, - Corky tuyên bố, và đi đến kết luận về một cách giải thích khác hẳn cho sự phát triển có tính bùng nổ của sự sống trên trái đất.

- Thuyết đa sinh. - Rachel nhắc lại, lúc này cô đã hiểu họ đang nói về cái gì. Trước đây cô đã từng nghe nói về nội dung của thuyết này nhưng không biết tên của nó. - Thuyết cho rằng một tảng thiên thạch đã rơi xuống biển nguyên thuỷ, mang những mầm vi khuẩn xuống trái đất.

- Bing gô! - Corky nói. - Rồi chúng kết hợp với nhau và tạo ra sự sống.

- Và nếu thuyết đó đúng, - Rachel nói, - thì tổ tiên của sự sống trên trái đất và ngoài vũ trụ là một.

- Bing gô đúp!

Thuyết đa sinh, Rachel thầm nghĩ, không lột tả hết được ý nghĩa của nó. - Nghĩa là mẫu hoá thạch này không chỉ cho thấy có sự sống bên ngoài trái đất, mà nó còn chứng minh rằng thuyết đa sinh là đúng... Là sự sống bắt nguồn từ vũ trụ.

- Bing gô! - Corky hồ hởi gật đầu. - Về mặt kỹ thuật thì tất cả chúng ta đều là người ngoài hành tinh!. Ông ta đặt hai tay lên trán giả làm ăng ten, mắt nheo lại, lưỡi tắc tắc y như giôdng côn trùng.

Tolland nhìn Rachel cười đầy hàm ý:

- Và anh chàng này là sinh vật tiến hoá cao nhất đấy.

Chương 25

Bước đi trong bán sinh quyển với Michael Tolland, Rachel Sexton cảm tưởng như có lớp sương mù hư ảo đang bao vây lấy mình.

Corky và Ming đi sát đằng sau cô.

- Cô không sao chứ? Tolland nhìn cô và hỏi.

Rachel ngước lên nhìn ông ta, nở nụ cười yếu ớt.

- Cảm ơn ông. Chắc chỉ vì có quá nhiều sự kiện.

Cô nhớ lại một phát kiến của NASA vào năm 1996 - ALH 84001 - một thiên thạch từ sao Thuỷ mà NASA tuyên bố rằng có chứa các vi khuẩn hoá thạch. Buồn thay, chỉ vài tuần sau buổi họp báo ầm ĩ của NASA, một số nhà khoa học dân sự lên tiếng chứng minh rằng dấu vết của sự sống thực ra chỉ là cặn bã của dầu lửa tạo ra bởi sự ô nhiễm trên trái đất. Sai lầm đó đã khiến uy tín của NASA bị ảnh hưởng nghiêm trọng. Tờ New York Time đã nhân cơ hội này châm biếm NASA và đặt cho nó cái tên mới: NASA - không phải lúc nào cũng chuẩn xác (NASA - NOT ALWAYS SCIENATFICALLY ACCURATE).

Cũng trong cùng số báo ấy, nhà cổ sinh học Steephn Jay Gould đã đúc kết lại toàn bộ vấn đề của phát kiến mang ký hiệu ALH84001 bằng cách chỉ ra rằng bằng chứng trên hòn đá chỉ là những hoá chất đã được dùng để suy diễn thái quá, chẳng phải là xương hay vỏ ngoài của sinh vật xa lạ nào hết.

Tuy nhiên, lần này NASA đã tìm ra những chứng cứ không thể chối cãi. Không một nhà khoa học đa nghi nào có thể lên tiếng để chất vấn những mẫu hoá thạch này. NASA lần này không trưng ra bức ảnh lờ mờ về hình dạng được cho là của một con vi khuẩn nữa họ đưa ra hẳn những mẫu đá mà trên đó người ta có thể dùng mắt thường quan sát những cấu trúc sinh học hiện lồ lộ trước mắt. Con chấy dài bằng bàn chân!

Rachel bật cười nhớ lại mình đã từng say mê bài hát Những con nhện sao Thuỷ của ca sĩ David Bowie đến mức nào. Chắc không từ ngữ nào có thể lột tả được niềm vui sướng vô bờ của chàng ca sĩ đồng tính người Anh đó khi anh ta được biết đến phát kiến này.

Trong khi lời và giai điệu của bài hát vẫn đang văng vẳng trong tâm trí Rachel thì Corky vượt lên đi bên cạnh cô.

- Mike đã khoe với cô về bộ phim tài liệu chưa?

- Chưa, - cô đáp, - nhưng tôi rất muốn được nghe.

Ông ta vỗ lưng Tolland:

- Kể đi. anh bạn. Hãy cho cô ấy biết vì sao Tổng thống Hoa Kỳ lại quyết định mời một chuyên gia bơi bằng ống thở làm bộ phim tài liệu về thời khắc quan trọng nhất trong lịch sử khoa học tự nhiên đi.

Tolland hét lên:

- Thôi đi Corky, tôi xin anh đấy.

- Thôi được để tôi nói vậy. - Corky nói và len vào giữa hai người. - Có thể cô đã biết rằng tối nay Tổng thống sẽ tổ chức cuộc họp báo để công bố cho cả thế giới biết sự kiện trọng đại này. Và bởi vì phân nửa dân số thế giới chỉ là những kẻ thông minh nửa vời nên ông ấy đã yêu cầu Mike diễn giải câu chuyện này một cách đơn giản cho phù hợp với họ.

- Cảm ơn anh. Corky. Hay ho lắm. - Ông ta nói rồi quay sang nhìn Rachel - ý anh ấy là có quá nhiều dữ liệu khoa học khô khan thuần tuý cho nên Tổng thống tin, là một bộ phim tài liệu với những hình ảnh phong phú sẽ khiến cho đại đa số người Mỹ thấy dễ hiểu hơn, vì không phải ai cũng có bằng thạc sĩ và tiến sĩ về vật lý học.

- Cô biết không - Corky nói với Rachel. - Tôi còn nghe kể rằng Tổng thống Hoa Kỳ là fan hâm mộ ruột của Đại dương kỳ thú nữa kia. - Ông ta vừa nói vừa giả vờ lúc lắc cái đầu ra vẻ kinh ngạc - Zach Herney - kẻ thống trị cả thế giới - vẫn thường yêu cầu thư ký ghi lại các chương trình của Mike để xem cho thư giãn sau những ngày làm việc căng thẳng cơ đấy.

Tolland nhún vai:

- Phải nói ông ta là người có gu đấy.

Lúc này Rachel càng thấy rõ kế hoạch của Tổng thống tỉ mỉ và tài tình đến mức nào. Chính trị là một trò chơi trên các phương tiện truyền thông. Rachel có thể tưởng tượng trước cử tri cả nước sẽ thấy hào hứng đến thế nào khi khuôn mặt đáng tin cậy như Michael Tolland xuất hiện trong buổi họp báo. Zach Herney đã chọn đúng người cần chọn để quảng cáo cho phát kiến phi thường của NASA Những kẻ hoài nghi sẽ chẳng có cơ hội lên tiếng chỉ trích những dữ liệu của Tổng thống một khi chúng đã được đích thân các nhà khoa học tiếng tăm xác thực.

Corky nói tiếp:

- Để hoàn thành bộ phim tài liệu này, Mike đã phỏng vấn tất cả các nhà khoa học dân sự cũng như các chuyên viên của NASA. Tôi xin thề có huân chương danh dự của tôi rằng cô sẽ là nhân vật tiếp theo được phỏng vấn đấy.

Rachel quay sang ông ta:

- Tôi á? Ông đang nói cái gì vậy? Tôi làm gì có chút kiến thức chuyên môn nào! Tôi chỉ là chuyên viên tổng hợp tin thôi mà.

- Thế tại sao Tổng thống lại yêu cầu cô đến đây?

- Ông ta vẫn chưa nói cho tôi biết lý do.

Corky thoáng cười:

- Cô là chuyên viên sẽ tổng hợp và xác minh tin này cho Nhà Trắng đúng không nào?

- Đúng, nhưng không phải trên phương diện khoa học.

- Và cô còn là con gái của chính người đang xây dựng cương lĩnh tranh cử dựa trên vấn đề chi tiêu của NASA, đúng không?

Rachel bắt đầu hiểu ra vấn đề.

- Thưa cô Sexton, phải thừa nhận rằng những lời do chính cô nói ra sẽ làm cho bộ phim tài liệu có thêm sức thuyết phục. Nếu Tổng thống đã mời cô đến đây thì chắc chắn ông ấy sẽ yêu cầu cô tham gia đấy.

Rachel một lần nữa nhớ đến lời phỏng đoán của William Pickering rằng cô sẽ bị lợi dụng.

Tolland nhìn đồng hồ đeo tay:

- Chúng ta đi thôi, chắc sắp kéo được lên rồi đấy.

- Kéo được lên cái gì cơ? - Rachel hỏi.

- NASA đang cho kéo tảng thiên thạch đó lên. Chắc sắp lên đến mặt đất rồi.

- Các ông cho kéo lên tảng đá nặng tám tấn đang bị chôn sâu dưới 200 foot băng đá ư?

Corky trông đầy hào hứng:

- Chẳng lẽ cô tưởng NASA định bỏ tàng đá hi hữu này nằm im ở chỗ mà họ đã phát hiện ra nó ư?

- Không, nhưng... - Không có dấu hiệu nào cho thấy người ta đang tổ chức trục vớt tảng đá đó lên hết. - Thế NASA định kéo nó lên bằng cách nào?

Ông ta liền đáp:

- Chuyện nhỏ! Cô nên nhớ rằng quanh đây có vô số nhà khoa học chuyên về tên lửa đấy.

- Bậy nào! - Ming mắng ông ta và quay sang nói với Rachel - Bác sĩ Marlinson rất thích trêu chọc mọi người. Sự thật là mọi người đã phải bàn cãi về chuyện làm thế nào để đưa được tảng đá đó lên. Và tiến sĩ Mangor đã đưa ra một biện pháp rất khả thi.

- Tôi chưa được gặp tiến sĩ Mangor.

- Nhà băng hà học tại Trường Đại học New Hampshire đấy.

Tolland nói tiếp.

- Đó là nhà khoa học dân sự thứ tư và là người bên ngoài cuối cùng được Tổng thống mời đến. Và ông Ming nói đúng đấy chính Mangor đã có phương pháp khả thi.

- Thế à? - Rachel nói. Thế anh chàng đó đã đưa ra phương pháp gì vậy.

- Anh chàng à? - Ông Ming cười thoảng - tiến sĩ Mangor là một phụ nữ đấy.

- Cái đó còn phải bàn thêm đã. - Corky làu bàu và quay sang Rachel - Tiện thể xin báo trước là tiến sĩ Mangor sẽ ghét cô cho mà xem.

Tolland nhìn Corky đầy bực bội.

- Này, tôi đảm bảo thế đấy!. Ông ta vẫn khăng khăng. - Cô ta đâu có thích phải cạnh tranh.

Rachel chẳng hiểu tí gì:

- Tôi không hiểu, cạnh tranh gì cơ?

Tolland bảo cô:

- Cô đừng để ý làm gì cho mệt. Đáng tiếc là Hội đồng Khoa học Quốc gia quên không thẩm định một sự thật rằng Corky vẫn còn là một đứa trẻ vị thành niên. Cô và tiến sĩ Mangor sẽ hợp nhau ngay thôi. Cô ấy là người rất giỏi việc và được tôn vinh là một trong những chuyên gia băng hà học hàng đầu thế giới. Cách đây mấy năm, cô ấy còn đến tận Nam Cực để nghiên cứu sự trôi dạt của băng hà nữa cơ.

- Lạ thật. - Corky nói, - tôi nghe nói bên Đại học New Hampshire đã đóng tiền để cử cô ta xuống đó để họ được yên ổn một thời gian đấy chứ.

- Lại còn thế này nữa chứ, - tiến sĩ Ming nghiêm trang nói - tiến sĩ Mangor còn suýt nữa mất mạng ở đó nữa đấy! Cô ấy gặp bão, bị lạc và phải sống bằng mỡ cá voi những năm tuần liền rồi mới được tìm thấy.

Corky thì thầm vào tai Rachel:

- Nghe nói chẳng ai chịu đi tìm cô ta cả.

Chương 26

Ngồi chung xe với ngài Thượng nghị sĩ, Gabrielle Ashe cảm tưởng con đường từ đài CNN trở về dài hơn hẳn lệ thường. Trên cùng hàng ghế với cô. Thượng nghị sĩ đang nhìn ra ngoài đường, rõ ràng rất hả hê về cuộc tranh luận vừa rồỉ.

- Họ lại phái Tench đi tranh luận trên truyền hình chiều nay nữa. - Ông ta nở một nụ cười rất điển trai nhìn Gabrielle - Nhà Trắng sợ thật rồi.

Gabrielle gật đầu, nhưng bụng không đồng tình. Khi Marjorie lên xe, cô thoáng nhìn thấy vẻ mặt thoả mãn của bà ta. Vẻ mặt ấy khiến Gabrielle lo lắng.

Điện thoạỉ cầm tay của ngài Thượng nghị sĩ đổ chuông, ông vội lục túi. Giống như những chính trị gia khác, Sexton có vài số điện thoại khác nhau, tuỳ tầm quan trọng của đối tác mà ông chọn số để cho họ. Người đang gọi lúc này được xếp vào loại quan trọng bậc nhất; vì được ông cho số cá nhân, số mà đến cả Gabrielle cũng còn ngần ngại mỗi khi phải gọi.

- Thượng nghị sĩ Sedgewick Sexton xin nghe. - Giọng ông du dương.

Vì trong xe khá ầm ĩ nên Gabrielle không thể nghe thấy tiếng của người gọi, nhưng ngài Thượng nghị sĩ thì nghe rất chăm chú và hồ hởi trả lời.

- Tuyệt lắm. Tôi rất hài lòng nhận được điện của anh. 6 giờ có được không? Tuyệt. Tôi có một căn hộ ở ngay thủ đô Washington. Kín đáo. Tiện nghi. Anh có địa chỉ rồi đúng không?

- Thế thì hẹn gặp tối nay.

Sexton tắt máy, đầy vẻ mãn nguyện.

- Một fan hâm mộ mới của Thượng nghị sĩ à? - Gabrielle hỏi.

- Số lượng fan đang tăng theo cấp số nhân. - Ông trả lời. - Đây là một gã rất nặng ký.

- Hẳn rồi. Gặp ngài tại nhà riêng?

Sexton vẫn thường bảo vệ sự riêng tư của mình chẳng khác nào một con sư tử bảo vệ nơi trú ẩn duy nhất của nó. Ông nhún vai:

- Ừ. Tôi muốn tạo mối quan hệ thân tình. Một khoảng thời gian riêng tư sẽ rất có lợi. Thỉnh thoảng cũng rất cần những mối quan hệ cá nhân kiểu này, cô biết không. Để tạo dựng niềm tin ấy mà.

Gabrielle gật đầu, lôi lịch trình làm việc của Thượng nghị sĩ ra xem.

- Có xếp ông ta vào lịch làm việc không ạ?

- Khỏi cần, đằng nào tối nay tôi cũng định chỉ ở nhà thôi.

Gabrielle tìm thấy trang lịch ngày hôm nay và Thượng nghị sĩ đã viết tay hai chữ P.E. vào ô buổi tối, có thể là chữ viết tắt của việc riêng - "buổi tối riêng tư", hoặc "mặc xác thiên hạ" - không ai biết chắc từ chính xác trong đầu ông là gì. Thỉnh thoảng Thượng nghị sĩ vẫn dành cho mình một buổi tối P.E. - trong căn hộ riêng ấy tắt bỏ điện thoại và tận hưởng thú vui riêng của mình - nhấm nháp rượu Brandy cùng vài người bạn cũ và gạt hẳn chính trị ra khỏi đầu.

Gabrielle nhìn ông ngạc nhiên:

- Thế là Thượng nghị sĩ để cho công việc xen vào những buổi tối đặc biệt được đánh dấu P.E. - ấn tượng thật.

Một hôm tôi đã tình cờ gặp gã này trong lúc rảnh rỗi. Và chúng tôi đã chuyện trò một lúc. Có vẻ rất hợp nhau.

Gabrielle rất muốn hỏi xem người bí ẩn vừa gọi là ai, nhưng Thượng nghị sĩ tỏ ra không muốn tiết lộ. Cô đã học được thói quen không tọc mạch khi không phải lúc.

Chiếc xe rẽ ra khỏi đường vành đai và hướng về phía văn phòng của Sexton. Gabrielle liếc nhìn tờ thời gian biểu lần nữa và chợt linh cảm rằng Thượng nghị sĩ đã biết trước sẽ có cuộc gọi này.

Chương 27

Một giàn giáo ba chân cao khoảng 18 foot làm bằng vật liệu composit được dựng lên trên nền băng, bên trong bán sinh quyển, trông nửa giống tháp Effel, nửa giống giàn khoan dầu. Rachel quan sát và không thể tưởng tượng nổi làm thế nào mà giàn giáo này có thể kéo được tảng đá lên.

Bên dưới giàn giáo, mấy chiếc tời đã được vít vào những đĩa thép gắn chặt vào nền băng bằng bu lông. Những sợi dây cáp lớn được lồng vào chiếc tời và một loạt ròng rọc phía trên cao. Từ những chiếc ròng rọc ấy, các sợi cáp buông thẳng xuống những lỗ khoan trên băng dưới chân giàn giáo. Mấy nhân viên lực lưỡng của NASA lần lượt kéo căng sợi dây cáp. Mỗi lần kéo, sợi dây lại nhích lên vài inch, chẳng khác gì những thuỷ thủ đang kéo dây neo.

Chắc chắn mình đang bỏ sót một chi tiết nào đó rất quan trọng, Rachel thầm nghĩ khi cùng mọi người đến gần giàn giáo. Có vẻ như những anh chàng này đang kéo tảng đá lên xuyên qua băng.

- Mẹ kiếp, đều tay vào! - Một giọng nữ thé thé cất lên.

Rachel ngước mắt lên và thấy một phụ nữ mặc bộ quần áo ấm màu vàng dính đầy dầu mỡ. Dù chị ta đang quay lưng vê phía mình, Rachel đoán ra ngay đây là người đang chỉ đạo toàn bộ nhóm người này. Vừa ghi ghi chép chép, chị ta vừa oai vệ đi tới đi lui y như một huấn luyện viên đang cơn thịnh nộ.

- Đồ đàn bà các anh chỉ được cái suốt ngày kêu mệt!

Corky gọi lớn:

- Norah ơi, đừng bắt nạt mấy anh chàng tội nghiệp đó nữa, ra đây vui vẻ với anh nào!

Chị ta không thèm quay lại:

- Lại Marlinson hả? Nghe giọng nói eo éo là nhận ra ngay! Về ăn no cho lớn đã rồi quay lại đây nói chuyện với chị nhé!

Corky quay sang nói với Rachel:

- Đấy, cô ta là thế đấy.

- Tôi nghe thấy đấy nhá, anh chàng thiên văn học kia. - Tiến sĩ Mangor đốp lại, vẫn không ngừng ghi ghi chép chép - Nếu anh định sờ đít tôi thì nhớ là riêng cái quần đã nặng 30 pound rồi đấy.

- Đừng nghĩ thế - Corky cũng nói lớn - anh không say mê cặp mông của em đâu, anh yêu tính đanh đá cá cầy của em cơ!

- Thế à?

Corky cười lớn:

- Này Norah, tin buồn đây, em không phải là phụ nữ duy nhất được Tổng thống mời đến đây đâu.

- Dĩ nhiên. Tổng thống mời cả anh nữa còn gì.

Tolland giờ mới lên tiếng:

- Norah, xuống đây một chút, anh giới thiệu với em một người nào.

Nghe thấy giọng Tolland, Norah lập tức dừng tay và quay lại.

Dáng vẻ đanh đá của chị ta cũng biến mất ngay tức khắc.

- Mike! Mấy tiếng rồi em chưa nhìn thấy anh đấy! - Mặt cô ta sáng bừng lên.

- Anh phải chỉnh sửa bộ phim.

- Đoạn phỏng vấn em thế nào?

- Trông em rất xinh đẹp.

- Nhờ có các kỹ xảo đặc biệt đấy. - Corky nói chêm vào.

Khuôn mặt nhăn nheo của Tolland hơi ửng đỏ lên khi ông ta giới thiệu:

- Norah, anh xin giới thiệu với em: Rachel Sexton. Cô Sexton làm bên tình báo và đến đây theo lời mời của Tổng thống. Cha cô ấy chính là Thượng nghị sĩ Sedgewick Sexton.

Lời giới thiệu làm Norah có vẻ hơi bất ngờ.

- Tôi không có ý định giả vờ hiểu tất cả những gì ông ấy vừa nói đâu nhé. - Chị ta không buồn cởi găng tay ra khi chìa ra bắt tay Rachel một cách khá hờ hững. - Chào mừng cô đến nơi tận cùng của trái đất.

Rachel mỉm cười. Cô ngạc nhiên thấy Norah Mangor có vẻ mặt khôn ngoan và đáng yêu, dù điệu bộ có hơi đanh đá. Mái tóc xám của chị ta được cắt ngắn trông khá sinh động, và hai con mắt thì rất sắc sảo và tinh tường - hai viên pha lê trong suốt. Rachel thích vẻ tự tin của người phụ nữ này.

- Norah, - Tolland bảo chị ta - Em có thể bớt chút thì giờ để giải thích cho Rachel hiểu công việc em đang làm không?

Norah nhướng lông mày:

- Đã có hai ông anh đây làm việc đó rồi còn gì nữa? Anh ơi là anh!

Corky rên lên:

- Thấy chưa Mike? Tôi đã bảo cậu rồi mà.

Norah dẫn Rachel đi quanh giàn giáo xem xét, còn Tolland và những người khác vừa đi vừa nói chuyện phía sau.

- Cô có nhìn thấy những lỗ khoan bên dưới giàn giáo này không? - Norah giơ tay chỉ, giọng nói chát chúa vừa rồi giờ chuyển thành say sưa khi chị ta kể về công việc đang tiễn hành.

Rachel gật đầu, nhìn sâu xuống bên dưới những lỗ khoan. Mỗi lỗ có đường kính khoảng một foot và đều có một sợi dây cáp được giòng qua.

Đó là những lỗ khoan còn lại khi chúng tôi khoan lấy mẫu đá và chụp X quang tảng thiên thạch. Bây giờ chúng tôi tận dụng những lỗ khoan này để giòng móc sắt xuống và bắt vít vào tảng đá. Sau đó thả những sợi cáp sắt dài khoảng hai trăm foot xuống để khớp vào các móc sắt đó, và giờ đây chỉ cần kéo lên là xong. Mấy anh chàng ẻo lả kia sẽ phải kéo khoảng hai tiếng đồng hồ nữa thì tảng đá mới lên được.

- Có một chỗ tôi chưa hiểu. - Rachel nói. - Tảng đá bị chôn sâu dưới lớp băng đá rất dày cơ mà. Làm sao mà kéo lên được?

Norah đưa tay chỉ luồng sáng màu đỏ tươi chiếu thẳng từ đỉnh giàn giáo xuống một lỗ nhỏ. Rachel đã nhìn thấy luồng sáng đó từ trước nhưng lại ngỡ đó chỉ là chiếc đèn thông thường dùng để đánh dấu vị trí làm việc của họ, vị trí của viên đá.

- Đó là chiếc đèn bán dẫn chiếu tia laze. - Norah nói.

Rachel quan sát luồng sáng kỹ hơn và nhận thấy đúng là nó đã khiến cho băng chảy nước, tạo thành một lỗ thủng nhỏ xíu, và những tia sáng đỏ chiếu xuống tận tít bên dưới.

- Luồng sáng đó rất nóng. - Chị ta nói. Chúng tôi vừa nung nóng tảng thiên thạch vừa kéo lên từng tí một.

Rachel kinh ngạc hiểu ra kế hoạch của người phụ nữ này vừa đơn giản vừa thông minh đến mức nào. Norah chỉ cần chiếu luồng sáng ấy xuống băng cho đến khi nó khoan được một lỗ thủng xuyên qua lớp băng dày và nung nóng tảng thiên thạch. Tảng đá không thể bị chùm tia làm cho nóng chảy, nhưng nó hấp thu nhiệt lượng của tia laze, ấm lên, và làm cho băng bao quanh nó tan chảy ra. Trong khi các chàng trai của NASA kéo nó lên, cả sức ép lẫn nhiệt lượng của tảng đá sẽ khiến băng tan, tạo thành lối lên cho chính nó. Lượng băng tan thành nước sẽ chảy xuống lấp đầy lỗ hổng phía bên dưới tảng thiên thạch khổng lồ. - lấp đầy chỗ trống.

Giống như dùng con dao nóng để cắt một khoanh bơ.

Norah chỉ tay vào những chàng nhân viên của NASA:

- Vì máy cũng không thể chịu được sức nặng của tảng đá này nên tôi phải dùng sức người.

- Xạo đấy! - Một trong những anh chàng đang làm việc nói xen vào - Vì chị ta muốn chúng tôi phải nhễ nhại mồ hôi nên mới bịa ra thế này!

- Làm gì mà nóng thế, - Norah không chịu kém cạnh - Mấy anh chàng ỏn ẻn nhà anh chả kêu lạnh suốt mấy hôm nên tôi mới phải ra tay cứu chữa cho chứ. Kéo tiếp đi.

Tất cả bọn họ cười phá lên.

- Những chóp nhọn kia dùng làm gì? - Rachel hỏi và chỉ vào những chiếc cọc hình chóp màu cam trông như cọc tiêu trên đường cao tốc xếp quanh chân giàn giáo chẳng theo một trật tự nào. Cô cũng đã nhìn thấy những chiếc cọc tương tự được xếp xung quanh toà nhà.

Đó là loại dụng cụ điển hình của giới băng hà học. - Norah trả lời. Chúng tôi gọi là SHABA. Dùng để báo cho mọi người biết nguy hiểm. Cô nhấc một chiếc cọc lên, để lộ ra lỗ khoan hình tròn sâu hoắm xuống trên mặt băng. - Không nên dẫm chân vào đây.

Rồi chị ta để lại chiếc cọc vào chỗ cũ. - Chúng tôi phải khoan băng để kiểm tra độ tiếp nối cấu trúc của nó. Tương tự như bên ngành khảo cố học, niên đại của một vật thường được quy định bởi độ dày của những lớp bao phủ bên trên nó. Càng ở dưới sâu thì niên đại của nó càng lớn. Do đó, chúng tôi tính toán lớp băng phủ lên trên một vật để tìm ra niên đại chính xác của vật đó. Cần phải tiến hành khoan những vị trí khác nhau trên cùng một bề mặt để đảm bảo rằng đây là một phiến băng liền, chưa một lần bị ảnh hưởng của động đất, khe nứt, tuyết lở, vân vân... - Thế các vị thấy dòng sông băng này thế nào?

- Hoàn hảo. - Norah đáp. - Một phiến băng liền hoàn hảo. Không một dấu vết dị thường nào. Vì thế chúng tôi xếp tảng thiên thạch này vào loại "rơi êm". Nó đã nằm yên trong sông băng, không động cựa, không ai chạm đến suốt từ năm 1716.

Rachel lại hỏi:

- Làm thế nào mà biết được chính xác đến từng năm?

Câu hỏi dường như khiến Norah ngạc nhiên.

- À, đó chính là lí do người ta đã mời tôi đến đây đấy. Tôi biết đọc băng mà. - Chị ta chỉ tay vào một dãy những chiếc cọc hình nón trên băng. Cọc nào trông cũng giống như một trạm điện thoại công cộng, lại có cắm những lá cờ màu da cam ở trên. Những lỗ khoan kia chính là bảng ghi chép của băng đấy. - Rồi Norah dẫn Rachel đến bên một chiếc cọc - Nếu nhìn kỹ sẽ thấy có những lớp khác nhau.

Rachel cúi xuống và bất ngờ nhìn thấy dường như có những lớp băng với độ dày mỏng, độ sáng và trong suốt khác nhau. Có tầng chỉ mỏng bằng tờ giấy, có tầng dày đến gần một inch.

Cứ sau mỗi mùa đông thì phiến băng lại có thêm một lớp tuyết mới. - Norah nói. Và mỗi mùa xuân nó lại tan đi mất một lớp. Cho nên mỗi lớp là dấu vết của một năm. Người ta thường bắt đầu đếm tử lớp, trên cùng, tức là từ mùa đông sau cùng.

- Giống như đếm những vòng tròn trong một thân cây phải không?

- Không hoàn toàn đơn giản như vậy, cô Sexton ạ. Trong trường hợp này ta phải đo đạc những lớp chồng lên nhau dày tới cả trăm foot cần phải lấy các dấu hiệu khí hậu học làm chuẩn - lượng tuyết rơi, các chất ô nhiễm trong không khí, đại loại như thế.

Lúc này thì Tolland và những người khác đến bên họ. Ông ta mỉm cười nói với Rachel:

- Cô thấy hiểu biết của cô ấy về băng tuyết có đáng nể không?

- Thật kỳ lạ! - Rachel cảm thấy vui sướng khi được gặp lại ông ta. - Đúng thế chị ấy vô cùng hiểu biết.

- Và nhân tiện xin nói thêm, con số 1917 mà Norah đưa ra là hoàn toàn chính xác. NASA cũng đã tìm ra đúng con số đó trước khi chúng tôi đặt chân tới nơi này. Tiến sĩ Mangor đã tự khoan băng, tự tiến hành kiểm tra, và làm việc độc lập khi xác minh phát kiến của NASA.

Điều này quả là ấn tượng.

- Còn một sự trùng lặp ngẫu nhiên nữa. - Norah nói thêm - 1716 cũng chính là năm mà những nhà thám hiểm đầu tiên ghi nhận hiện tượng một quả cầu lửa lớn rơi xuống phía bắc Canada. Tảng thiên thạch này ngày ấy đã được đặt tên là "Jungersol Fall" - tên của người dẫn đầu đoàn thám hiểm đó.

- Vì thế - Corky nói tiếp. - niên đại của tảng đá và các sự kiện lịch sử là những bằng chứng để chứng minh rằng chúng ta đang xem xét chính tảng thiên thạch mà Jungersol đã quan sát được năm 1716.

- Tiến sĩ Mangor ơi! - Một trong những anh chàng đang kéo tời kêu lớn:

- Nhìn thấy chiếc khoá yếm trên cùng rồi đây này!

- Sắp xong việc rồi đây, các chàng trai. - Norah nói. - Giây phút lịch sử đây!

Chị ta trèo lên chiếc ghế ngay cạnh đó và lấy hết sức nói thật to:

- Năm phút nữa thôi, hỡi anh em!

Từ khắp mọi ngóc ngách trong bán sinh quyển, y như bầy chó của Pavlov nghe thấy tiếng chuông báo giờ cho ăn, các nhà khoa học bỏ hết những việc đang làm và đổ về khu vực giàn giáo.

Norah Mangor hai tay chống nạnh nói:

- Nào, chúng ta cùng kéo Titanic lên nào.

Chương 28

- Mọi người tránh ra nào? - Norah vừa nói lớn vừa đi đi lại lại giữa đám đông. Các anh chàng kéo tời đứng tản sang một bên. Norah kiểm tra độ căng và độ liên kết của dây tời thêm một lần cuối cùng.

- Kéo! - Một trong những chàng trai hô lên. Tất cả đồng loạt kéo dây tời lên thêm sáu inch nữa.

Khi những sợi dây tời được tiếp tục kéo lên, Rachel cảm nhận thấy đám đông mỗi lúc một lớn thêm, thảy đều đang chờ đợi.

Corky và Tolland đứng ngay gần cô, háo hức chẳng khác nào trẻ con mong nhìn thấy ông già Nôen. Đối diện họ, bên kia lỗ khoan lớn, Rachel thấy bóng dáng to lớn nặng nề của Lawrence Ekstrom, cũng đang đợi xem tảng đá xuất hiện.

- Anh em ơi! - một chàng trai NASA hào hứng. - Sếp cũng đến rồi kìa!

Những sợi cáp liên tục được kéo từ dưới hố khoan lên đã chuyển từ màu trắng bạc sang màu vàng.

- Sáu foot nữa thôi! Đều tay vào!

Tất cả những người đang đứng quanh giàn giáo lặng phắc. Ai cũng đang nóng lòng được nhìn thấy vật thiêng sắp xuất hiện trước mắt - ai cũng muốn được trông thấy hình ảnh đầu tiên của tảng đá.

Và Rachel được nhìn thấy.

Lớp băng phủ bên trên mỏng dần, và tảng thiên thạch bắt đầu lộ ra. Lúc đầu chỉ là một hình khối lồi lồi thuôn dài, nhưng mỗi lúc một gần bề mặt và hình dáng của nó càng rõ ràng hơn.

- Mạnh nữa lên! - Một kỹ thuật viên hô to. Tất cả bọn họ kéo căng dây tời, và chiếc ròng rọc kêu ken két.

Năm foot nữa thôi! Đều tay vào!

Rachel thấy lớp băng đá bên trên tảng đá bắt đầu bị đội lên như thế một con quái vật đang trở dạ và sắp sửa sinh con. Trên mặt băng, quanh chùm tia sáng màu đỏ tươi, băng tan ra, để lộ ra một phần bề mặt của tảng đá lớn.

- Tử cung mở rồi! - Có người hô to. - Mở chín trăm xăng ti mét rồi đây này.

Tiếng cười giòn gĩa phá tan bầu không khí im lặng.

- Được rồi! Tắt đèn laze đi!

Đèn tắt, chùm tia sáng biến mất.

Và rồi giây phút trọng đại đã đến.

Tảng đá phá vỡ lớp bề mặt băng với tiếng huýt trầm trầm, hơi bay lên nghi ngút, và hình khối khổng lồ của nó hiện ra, một cách thần bí. Cánh đàn ông tiếp tục kéo căng dây tời cho đến khi toàn bộ tảng đá nhô hẳn lên khỏi lỗ thủng lớn trên băng, nước rỏ tong tong xuống hố nước nóng đang bốc hơi nghi ngút.

Rachel như bị thôi miên.

Đung đưa trên dây tời, nước rỏ ròng ròng, hòn đá xù xì đang ánh lên dưới ánh điện nê ông, nó ánh lên những tia sáng màu đỏ tím. Một đầu của tảng đá khá nhẵn và thuôn, chắc chắn đó chính là phần đã bị bầu khí quyển nung cháy khi rơi xuống trái đất.

Nhìn lớp vỏ ngoài cháy xém, Rachel mường tượng hình ảnh tảng đá rơi xuống bề mặt trái đất như một quả cầu lửa. Không thể tin nổi cuộc đó đã cách đây vài thế kỷ. Lúc này, con quái vật bị sa bẫy đang treo chung chiêng dưới xích sắt, nước rỏ tong tỏng.

Cuộc săn lùng kết thúc.

Đến lúc này Rachel mới thấy hết tính chất kịch tính của toàn bộ sự kiện này. Hòn đá ngay trước mắt cô được sinh ra trên một hành tinh khác cách xa vạn dặm. Và bên trong nó là những bằng chứng - chứng cứ thì đúng hơn - rằng nhân loại không hề đơn côi trong vũ trụ bao la.

Hình như tất cả mọi người đều có cảm giác rất hân hoan, và tất cả cùng vỗ tay, huýt sáo vang dội. Thậm chí cả ngài Giám đốc dường như cũng không thể không bị ảnh hưởng của bầu không khí này. Ông ta vỗ vai những đồng nghiệp của mình, chúc mừng họ.

Chứng kiến quang cảnh này, Rachel bất chợt cảm thấy mừng cho NASA. Họ đã từng có những thời kỳ khó khăn. Nhưng tất cả đã đổi thay, và họ xứng đáng được hưởng giây phút này.

Lỗ thủng lớn giờ trông như một cái ao nhỏ bên trong bán sinh quyển. Mặt nước của chiếc ao có độ sâu hai trăm foot vỗ ì ọp vào bờ băng một lúc rồi cuối cùng mới chịu nằm yên. Mực nước bên trong thấp hơn mép băng bên ngoài khoảng bốn foot, hiển nhiên là do thể tích của hòn đá vừa được lấy ra khỏi lòng phiến băng, và còn do nước có tính chất gĩan nở khi đóng thành băng.

Norah Mangor ngay lập tức xếp những chiếc cọc hình nón xung quanh lỗ băng lớn. Dù mép băng rất dễ nhìn thấy, nhưng bất kỳ ai sơ ý sảy chân xuống đây sẽ bị nguy hiểm đến tính mạng.

Thành băng xung quanh vừa cao vừa dựng đứng, và không ai có thể tự leo lên khỏi vực thẳm này.

Lawrence Ekstrom ì ạch tiến về phía họ. Ông ta đến bên Norah Mangor và xiết chặt tay chị ta một cách nhiệt thành. - Chị cừ lắm, tiến sĩ Mangor ạ.

- Tôi không thích những lời ngợi khen suông đâu nhé. - Norah đáp.

- Dĩ nhiên rồi. - Rồi ông ta quay sang Rachel - Thưa cô Sexton, chuyên viên luôn hoài nghi của chúng ta đã tin chưa nào?

Rachel không thể nén nổi nụ cười:

- Phải nói là kinh ngạc sững sờ thì mới chính xác.

- Tốt lắm, vậy mời cô đi theo tôi!

Rachel theo ông Giám đốc đến bên chiếc hộp sắt lớn trông giống những chiếc công ten nơ người ta vẫn thường chất lên tàu thuỷ. Chiếc hộp sắt được sơn rằn ri và ba chữ viết tắt nổi bật: PSC.

- Cô sẽ vào trong này để liên lạc với Tổng thống. - Ông ta nói.

"Buồng thông tin mật di động đây", Rachel nghĩ thầm. Những buồng thông tin di động kiểu này vẫn được dùng trong quân sự, nhưng Rachel chưa thấy nó được dùng trong thám hiểm vũ trụ bao giờ. Nhưng tất nhiên, Ekstrom trước đây đã làm việc trong Nhà Trắng, nên không lạ gì ông ta có trong tay thiết bị hiện đại này. Vẻ mặt nghiêm trang của hai người lính đang cầm súng đứng gác khiến cho Rachel có một trực cảm vô cùng rõ ràng rằng nếu Giám đốc NASA không trực tiếp ra lệnh thì không ai được phép vào bên trong.

- Có vẻ như mình không phải là người duy nhất bị bắt cóc kiểu này.

Ekstrom vắn tắt ra lệnh với một trong hai người lính và quay sang nói với Rachel "Chúc cô may mắn" rồi ông ta đi.

Một người lính gạt chốt trên cánh cửa, và cánh cửa mở ra. Một kỹ thuật viên xuất hiện và ra hiệu bảo Rachel vào trong. Cô theo chân anh ta.

Bên trong PSC thật ngột ngạt và tối tăm. Nhờ ánh sáng xanh mờ ảo phát ra từ một màn hình vi tính duy nhất đang hoạt động, Rachel nhìn thấy những giá cao để điện thoại, radio và những thiết bị liên lạc vệ tinh. Rachel mơ hồ cảm thấy nỗi lo lắng vô cớ. Bầu không khí ở đây thật khó chịu, chẳng khác nào trong công sự dã chiến giữa mùa đông.

- Mời ngồi, thưa cô Sexton. - Người kỹ thuật viên chỉ chiếc ghế đẩu xoay trước một màn hình phẳng. Anh ta điều chỉnh chiếc micro trước mặt cô, rồi để lên lòng Rachel một chiếc tai nghe hiệu AKG rất lớn. Sau khi kiểm tra lại lần nữa số mật khẩu lộ trình, anh ta đánh một dãy ký tự dài vào máy tính. Trên màn hình trước mặt Rachel xuất hiện chiếc đồng hồ đang đếm ngược 00:60 GIÂY Anh ta gật gù vẻ hài lòng khi chiếc đồng hồ bắt đầu đếm ngược:

- Còn một phút nữa thì kết nối sẽ hoàn thành. - Rồi anh ta quay sang trái, bước ra ngoài, đóng cửa đánh sầm. Rachel nghe tiếng chốt cửa bị khoá lách cách.

Hay thật.

Ngồi trong bóng tối, chờ đợi, cô nhận ra đây là giây phút riêng tư duy nhất cô có được suốt từ sáng sớm tới giờ. Sáng sớm nay thức dậy, cô không hề biết trước một ngày mới đầy ắp sự kiện đến thế này đang chờ đón mình. Sự sống bên ngoài trái đất. Hôm nay, huyền thoại được nhắc đến nhiều nhất trong lịch sử loài người sẽ không còn là huyền thoại nữa.

Lúc này cô bắt đầu nhận thức được tác động tiêu cực to lớn của tảng thiên thạch lên sự nghiệp của cha mình. Dù cho việc chi tiêu của NASA không thể nào là một vấn đề thực sự có tầm ảnh hưởng sâu rộng như quyền nạo thai, phúc lợi xã hội, chăm sóc sức khoẻ cộng đồng, thì chính cha cô đã chủ tâm biến nó thành một vấn đề.

Giờ đây, chính nó sắp sửa giáng cho ông một đòn chí tử.

Chỉ vài giờ nữa, người Mỹ sẽ tha hồ bàn tới bàn lui về phát kiến của NASA. Vô số nhà khoa học sẽ ngạc nhiên đến tròn xoe mắt, và xúc động chảy nước mắt. Lũ trẻ con thì sẽ được thả sức tưởng tượng. Trong giây phút lịch sử này, vấn đề những tờ đô la, những đồng xu tiết kiệm mà cha cô đề xướng sẽ bị bóng tối bao phủ. Ngài Tổng thống sẽ đạt được vị thế của vị anh hùng dân tộc, và cha cô với diện mạo của một doanh nhân thiển cận, đầu óc hẹp hòi, không hề mang trong mình chút dấu vết nào của dòng máu phiêu lưu mạo hiểm mà dân tộc này tôn thờ - sẽ len lỏi vào giữa quang cảnh hồ hởi rạng rỡ ấy.

Máy tính phát một tiếng bíp, Rachel ngước nhìn lên.

00:05 giây.

Đột nhiên màn hình máy tính trước mặt cô nhấp nháy, rồi biểu tuợng của Nhà Trắng bắt đầu xuất hiện. Sau thoáng chốc, biểu tượng ấy được thay bằng khuôn mặt của Tổng thống Herney.

- Xin chào Rachel. - Ông ta nói, ánh mắt đầy vẻ tinh anh. Tôi đoán là cô vừa trải qua một buổi chiều đầy ắp những ấn tượng

Chương 29

Văn phòng của Thượng nghị sĩ Sedgewick Sexton nằm trong toà nhà Phillip A. Hart, phố C, phía đông bắc đồi Capitol. Đặc trưng của toà nhà là rất nhiều mảng khối hình tứ giác ghép lại với nhau, và nhiều nhà phê bình kiến trúc đã nói rằng trông nó giống nhà tù hơn là toà nhà văn phòng. Và nhiều người làm việc trong toà nhà này cũng có cảm giác y hệt như thế.

Trên tầng ba, Gabrielle Ashe đang sải đôi chân dài kiều diễm trong phòng. Trên màn hình máy tính của cô vừa có thông điệp điện tử mới, và cô băn khoăn không biết nên ứng phó thế nào.

Hai dòng đầu tiên như sau:... TRÊN CNN SEDGEWICK ĐÃ GÂY ẤN TƯỢNG TỐT.

TÔI CÓ THÊM THÔNG TIN MỚI NỮA ĐÂY.

Đã hai tuần nay, Gabrielle đều nhận được những bức thư kiểu này. Người gửi thư dùng địa chỉ nặc danh, mặc dù cô đã phát hiện được tên miền của Nhà Trắng. Có lẽ người cung cấp tin giấu mặt này là nhân viên của Nhà Trắng. Dù người đó là ai thì những tin được cung cấp theo kiểu này đã trở thành nguồn tin quý giá, kể cả tin về cuộc gặp bí mật giữa Giám đốc NASA và Tổng thống.

Lúc đầu Gabrielle không tin ngay những tin tức được cung cấp, nhưng rồi cô kinh ngạc nhận thấy chúng luôn chính xác và rất có ích - từ những chi tiêu quá độ của NASA, những chương trình tìm kiếm sự sống ngoài trái đất của NASA vừa tốn kém vô cùng vừa không đem lại kết quả nào, thậm chí cả những đợt thăm dò dư luận nội bộ cho thấy NASA có thể trở thành một lí do khiến cử tri quay lưng lại với Nhà Trắng.

Để làm ra vẻ quan trọng, Gabrielle không cho ngài Thượng nghị sĩ biết rằng họ đang nhận được sự trợ giúp tình nguyện của một nhân viên Nhà Trắng. Thay vào đó, cô thường báo tin cho ông theo kiểu đây là "nguồn tin riêng của cô". Sexton luôn tỏ ra là người nhạy cảm và đủ hiểu biết để không hỏi xem đó là người nào. Cô biết rằng ông tưởng Gabrielle có mối quan hệ tình ái với một nhân vật nào đó. Vấn đề là ông không hề cảm thấy chút lấn cấn nào về chuyện này.

Gabrielle ngừng đi đi lại lại và đọc bức thư vừa được gửi đến. Hàm ý của nó rất rõ ràng: Ai đó bên trong Nhà Trắng muốn thấy Sedgewick Sexton thắng cử và đang ngấm ngầm giúp đỡ bằng cách trợ lực cho ông để tấn công vào NASA.

Nhưng người này là ai? Tại sao lại thế?

Một kẻ phản bội muốn nhảy khỏi con tàu sắp đắm. Gabrielle quả quyết. Chuyện một nhân viên nào đó của Nhà Trắng lo sợ Tổng thống đương nhiệm sắp bị thất cử và lén lút giúp đỡ đối thủ đang trên thế thắng của ông ta với hi vọng kiếm một chỗ làm trong nhiệm kỳ Tổng thống tiếp theo không phải là chuyện hiếm ở Wasshington. Có lẽ nhân vật nào đó đã đánh hơi được thế thắng của Sexton và quyết định hành động sớm.

Những dòng chữ đang hiện trên màn hình khiến Gabrielle cảm thấy bồn chồn không yên. Bức thư này rất khác những bức thư cũ.

Hai dòng đầu thì không có vấn đề gì, nhưng hai dòng sau thì lại không như vậy:

CỔNG PHONG CHỨC PHÍA ĐÔNG, 4G 30 PHÚT ĐẾN MỘT MÌNH Người này chưa bao giờ yêu cầu gặp mặt trực tiếp. Tuy nhiên, cô cho rằng có nhiều cách khác tế nhị hơn nhiều so với đi gặp nhau trực tiếp thế này. Cổng phong chức phía đông? Cả Washington này chỉ có một cổng phong chức. Bên trong Nhà Trắng sao? Liệu đây có phải là một trò đùa không nhỉ?

Gabrielle biết chắc cô không thể trả lời qua đường thư điện tử, tất cả những thư cô gửi cho người này đều bị báo về là không tìm được địa chỉ. Đó là địa chỉ nặc danh. Lẽ dĩ nhiên.

Có nên hỏi ý kiến Thượng nghị sĩ không nhỉ? Cô nhanh chóng cho rằng như thế là không nên. Ông ấy đang họp. Hơn nữa, nếu cho ông ấy biết về bức thư này thì có nghĩa là phải nói toàn bộ sự thật.

Suy cho cùng, người này chọn chỗ gặp mặt giữa thanh thiên bạch nhật như thế cũng là để cho Gabrielle an tâm. Dù sao thì người này cũng đã giúp đỡ cô suốt hai tuần qua. Dĩ nhiên đây là một người bạn.

Đọc lại bức thư điện tử lần cuối xong, Gabrielle xem đồng hồ.

Cô còn một giờ đồng hồ nữa.

Chương 30

Giờ đây, khi tảng thiên thạch đã được kéo lên khỏi sông băng, Giám đốc NASA cảm thấy đỡ hẳn cảm giác bực bội. Mọi thứ đều đã đâu vào đấy ông vừa tự nhủ vừa đi băng qua bán sinh quyển để tiến về phía phòng làm việc của Micheal Tolland. Từ giờ sẽ chẳng còn kẻ nào dám động đến mình nữa.

- Thế nào rồi? - Ekstrom hỏi, chân sải bước đến ngay sau lưng nhà bác học làm truyền hình.

Tolland nhìn màn hình vi tính trước mặt, trông ông rất mệt mỏi nhưng hồ hởi:

- Phần hậu kỳ sắp xong rồi. Tôi đang dán nốt những cảnh do các chuyên gia của anh tự quay. Một loáng là xong ngay.

- Tốt lắm. Tổng thống yêu cầu Ekstrom chuyển đoạn phim về Nhà Trắng càng sớm càng tốt.

Ekstrom đã tỏ ra hoài nghi khi Tổng thống quyết định mời Tolland tham gia dự án này, nhưng sau khi xem qua những đoạn phim còn chưa hoàn thiện, Giám đốc NASA không còn nghĩ như trước nữa. Những lời giải thích sinh động của ngôi sao truyền hình này, xen kẽ với những lởi phát biểu của các nhà khoa học dân sự, đã được gói gọn một cách tài ba trong thời lượng 15 phút. Tolland đã dễ dàng đạt được cái mà các nhà khoa học của NASA thường không thể thực hiện nổi - miêu tả những phát kiến khoa học một cách dễ hiểu đối với những người Mỹ bình thường mà không hề có vẻ trịch thượng.

Ekstrom bảo ông ta:

- Khi nào xong thì anh hãy mang ngay phim tới khu báo chí nhé. Tôi sẽ cử người gửi ngay phiên bản số hoá của bộ phim cho Tổng thống.

- Vâng, thưa ngài Giám đốc.

Ekstrom ra khỏi phòng, và khi đi ngang qua "khu báo chí" giờ đã được bài trí đẹp đẽ, ông không thể không cảm thấy đầy hưng phấn. Một tấm thảm xanh lam lớn đã được trải trên sàn, chính giữa thảm là chiếc bàn kiếu hội nghị được bố trí mấy chiếc micro, một phù hiệu của NASA, và một lá cờ Hoa kỳ rất lớn được căng lên làm phông nền. Tảng thiên thạch đã được chuyển lên chiếc xe kéo trang trí lộng lẫy và được bày ở vị trí trang trọng ngay trước chiếc bàn. Ở chính giữa "khu báo chí".

Ekstrom hài lòng nhận thấy một bầu không khí hội hè bao rùm gian phòng. Khá nhiều nhân viên của ông đang xúm xít quanh tảng đá, sờ tay vào mặt đá hãy còn ấm nóng, chẳng khác gì những người đi cắm trại đang vây quanh ngọn lửa trại.

Ông quyết định đã đến lúc ăn mừng. Ekstrom tiến về phía mấy hộp giấy bày rải rác xung quanh căn phòng. Sáng hôm nay ông vừa lệnh đưa chúng từ Greenland tới.

- Chúng ta cùng uống mừng nào? - ông nói lớn, tay phân phát bia lon cho đám nhân viên đang vui như tết.

- Ôi! Cảm ơn sếp! - Có người hét ầm lên.

- Cảm ơn sếp! Bia lạnh nghiêm đấy nhé!

Ekstrom mỉm nụ cười hiếm hoi:

- Bia ướp đá mà lại!

Ai cũng cười.

- Đợi chút! - Lại có người hét lên, giọng ra vẻ trách móc - Đây là bia Canada! Lòng yêu nước của sếp để đâu rồi?

- Chúng ta phải tiết kiệm, các bạn ạ. Bia này rẻ nhất đấy.

Lại những tiếng cười giòn gĩa.

- Mọi người chú ý! - Một nhân viên truyền thông của NASA bắc loa, nói. - Chúng tôi sắp sửa bật đèn trường quay, quý vị có thể sẽ bị tối một lúc đấy ạ.

- Cấm không ai được lợi dụng hôn hít gì đâu nhé! - Tiếng một nhân viên lanh lảnh. - Chương trình không cấm trẻ em đấy nhé!

Ekstrom cười lớn, hoà vào niềm vui rạo rực của đội ngũ nhân viên khi những bóng đèn được chỉnh lại vị trí lần cuối.

- Bật đèn trường quay nhé! Năm, bốn, ba, hai... Ngôi nhà tối dần đi khi những chiếc đèn halogien đồng loạt bị tắt. Trong vòng vài giây sau đó, tất cả chìm trong bóng tối mịt mùng.

Có người giả bộ kêu thét lên.

- Ai véo mông tôi thế này! - Mọi người vừa hét vừa cười như nắc nẻ.

Chỉ sau một giây, bóng tối bị xé nát bởi những ngọn đèn trong trường quay đồng loạt sáng trưng. Loá mắt. Công đoạn chuyển nguồn sáng thế là hoàn tất; khu phía bắc của bán sinh quyển đã biến thành một trường quay truyền hình. Những khu khác trong ngôi nhà lớn trông chẳng khác gì nhà kho tăm tối. Ánh sáng từ trường quay này hắt lên mái nhà hình vòm, tạo thành những mảng tối dài khi những bức tường bơm hơi đổ bóng dài trên khu làm việc giờ không một bóng người.

Ekstrom tiến vào vùng tối, hài lòng thấy tất cả mọi người đang vui vẻ bên tảng thiên thạch. Ông tưởng như mình là ông già Nôen đang nhìn ngắm lũ trẻ chơi đùa quanh cây thông.

"Có Chúa biết họ đáng được như thế", ông thầm nghĩ, không hề biết tai hoạ lớn đang lơ lửng trên đầu. Chương 31

Trở trời.

Luồng gió katabatic từ đỉnh thổi xuống giật mạnh trại của đội Delta, tạo ra tiếng hú ảm đạm như báo hiệu thời tiết sắp xấu. Delta-Một đã lót ván chống bão xong và bước vào trong lều cùng hai đồng đội của mình. Họ đã từng trải qua kiểu thời tiết này. Sẽ chẳng kéo dài bao lâu.

Delta-Hai chăm chú quan sát những hình ảnh truyền về từ vi robot đang bay trong phòng phía bắc của ngôi nhà lớn.

- Cậu xem đi! - Anh nói.

Delta-Một tiến lại. Toàn bộ ngôi nhà chìm trong bóng tối, trừ vùng sáng trong căn phòng phía bắc. Phần còn lại của toà nhà chỉ hiện ra mờ mờ. - Có gì bất thường đâu, - anh nói - họ đang chỉnh lại ánh sáng để chuẩn bị cho buổi truyền hình đấy mà.

- Không phải chuyện ánh sáng. - Delta-Hai chỉ hình tròn màu đen trên mặt băng - hố nước còn lại sau khi tảng đá đã được lấy lên. - Đấy mới là vấn đề kia.

Delta-Một nhìn cái lỗ. Vẫn thấy có những chiếc cọc hình nón cắm xung quanh, và mặt nước có vẻ phẳng lặng. - Có thấy gì đâu.

- Cậu nhìn lại đi! - Anh nói và dùng đũa điều chỉnh robot bay xuống sát mặt nước theo hình xoắn ốc.

Trong khi Delta-Một quan sát kỹ cái ao nước nhỏ phẳng lặng ấy, anh phát hiện thấy điều gì đó và nhảy dựng lên - Cái gì?

Delta-Ba đến bên họ. Cả anh cũng đầy vẻ hoảng hốt:

- Lạy Chúa tôi, tại cái lỗ đó à? Nước sẽ gây ra chuyện ư?

- Không, - Delta-Một trả lời - chắc chắn không phải là nước đâu.

Chương 32

Dù đang ở trong một gian phòng bằng kim loại cách thủ đô Washington những ba ngàn dặm, Rachel vẫn cảm thấy căng thẳng chẳng khác gì được triệu hồi vào tận trong Nhà Trắng. Trên màn hình của chiếc máy điện đàm có hình ảnh trước mặt cô, gương mặt Tổng thống Zach Herney hiện lên vô cùng sắc nét, ông đang ngồi trong phòng thông tin của Nhà Trắng, ngay trước bức phù hiệu Tổng thống. Hệ thống viễn thông này hoạt động cực kỳ chuẩn xác, chỉ trừ sự chậm trễ hầu như không thể nhận thấy được, cảm tưởng như Tổng thống đang ở đâu đó quanh đây, cách vài bức tường.

Cuộc nói chuyện giữa hai người diễn ra vui nhộn và thẳng thắn. Tổng thống có vẻ vui, mặc dù không hề ngạc nhiên, khi Rachel có những nhận xét rất tốt về phát kiến của NASA và việc ông đã mời Micheal Tolland làm phát ngôn viên. Tổng thống có vẻ rất vui, thậm chí còn tỏ ra hài hước.

- Tôi tin chắc cô sẽ đồng ý với tôi rằng. - giọng nói của ông lúc này đã nghiêm túc hơn. - trong một thế giới lý tưởng, phát kiến này sẽ chỉ thuần tuý có tính chất khoa học mà thôi. - Ông ngừng một lát, vươn người về phía trước, khuôn mặt choán cả màn hình. - Buồn thay, chúng ta đang sống trong một thế giới không lý tưởng, và phát kiến này sẽ ngay lập tức biến thành một thứ bung xung trên chính trường, ngay thời điểm tôi công bố tin này.

- Dựa trên những chứng cứ hết sức thuyết phục mà ngài đã có được tôi nghĩ cả công chúng lẫn đối thủ của ngài chỉ còn biết công nhận sự thật mà thôi.

Herney cười buồn:

- Đối thủ của tôi trên chính trường sẽ phải tin khi tận mắt chứng kiến, Rachel ạ. Điều tôi lo là họ sẽ không thấy thích những gì họ nhìn thấy đâu.

Rachel nhận thấy Tổng thống tỏ ra rất thận trọng, không nhắc đến tên cha cô, chỉ dùng những cụm từ như "đối thủ" hay "phe đối lập trên chính trường".

- Tổng thống cho rằng đối thủ của ông sẽ vì những động cơ chính trị mà cáo buộc đây là một xảo thuật hay sao? - Cô hỏi.

- Bản chất của cuộc chơi là thế mà. Họ chỉ cần rêu rao lên rằng họ nghi ngờ, rằng phát kiến này chỉ là một tiểu xảo chính trị của NASA và Nhà Trắng, thế là lập tức phải đối diện với một cuộc điều tra. Báo chí sẽ nhanh chóng quên mất là NASA đã tìm thấy những bằng chứng của sự sống trong vũ trụ, và họ sẽ bu vào bất cứ dấu hiệu nào có thể dùng để làm bằng chứng rằng đây là âm mưu của Nhà Trắng. Và bất kỳ lời nói bóng gió nào đến một âm mưu mờ ám liên quan đến sự kiện này sẽ không có lợi cho khoa học, cho Nhà Trắng, cho NASA và thẳng thắn mà nói, cho toàn nước Mỹ.

Phải chãng vì thế mà Tổng thống cho trì hoãn việc công bố sự kiện này cho đến khi ngài có đủ những lời xác thực của các nhà khoa học danh tiếng?

- Mục tiêu của tôi là sẽ công bố tin này một cách khách quan đến nỗi bất kỳ ý tưởng hoài nghi nào sẽ bị chặn tận gốc, ngay khi nó còn chưa kịp phôi thai. Tôi muốn sự kiện này được công bố với tất cả sự trang trọng và vinh quang xứng tầm với nó. Với công trạng của mình, NASA đáng được như thế.

Trực giác của Rachel bắt đầu rung chuông báo động. Ông ta muốn gì ở mình đây?

- Dĩ nhiên, - Tổng thống nói tiếp - với vị thế có một không hai của mình, cô có thể giúp tôi. Với kinh nghiệm của một chuyên viên phân tích tin, với mối quan hệ ruột rà giữa cô và đối thủ của tôi, cô chính là người có tư cách để thông báo phát kiến này.

Rachel cảm thấy mỗi lúc một thêm thất vọng. Ông ta muốn lợi dụng mình...Pickering đã nói trước rồi, y như rằng!

- Tóm lại là, - Herney nói tiếp - Tôi đề nghị cô đứng ra thông báo tin này với tư cách cá nhân, với tư cách là một chuyên viên tình báo đang làm việc cho tôi... Và với tư cách con gái của chính đối thủ của tôi.

Thế đấy! Ván bài đã lật ngửa hết.

Herney yêu cầu mình đứng ra xác thực sự kiện này.

Rachel tưởng Zach Herney cao hơn loại chính trị gia hiểm ác ấy cái đầu. Nếu công khai xác nhận tin này, cô sẽ biến câu chuyện về tảng thiên thạch kia thành một vấn đề mang tính chất cá nhân giữa hai cha con cô, và ngài Thượng nghị sĩ sẽ không thể công kích độ tin cậy của phát kiến này mà không công khai làm hại tư cách cá nhân của con gái mình - một bản án tử hình cho ngài ứng cử viên với cương lĩnh "gia đình là trên hết".

- Thưa Tổng thống, thành thật mà nói thì tôi thấy choáng khi ngài yêu cầu tôi làm việc đó.

Ngài Tổng thống có vẻ giật mình:

- Tôi tưởng cô sẽ hào hứng nhận lời giúp tôi chứ.

- Hào hứng ư? Thưa Tổng thống, chưa kể đến những sự khác biệt giữa hai cha con chúng tôi, chỉ riêng để nghị này đã là điều không tưởng. Chưa cần trận đấu chí tử trên các phương tiện truyền thông đó thì tôi cũng đã phải đương đầu với bao nhiêu vấn đề gia đình rồi. Đúng là tôi không yêu quý ông ấy, nhưng ông ta chính là cha của tôi. Và đưa tôi ra làm đối thủ của chính cha đẻ mình trên truyền hình quả là hành động dưới tầm của ngài.

- Hượm đã nào! - Herney huơ huơ hai tay ra vẻ đầu hàng. - Nào đã ai nói gì đến chuyện công khai hay không đâu?

Rachel im lặng một lát.

- Tôi tưởng ngài định yêu cầu tôi xuất hiện trên chương trình truyền hình lúc tám giờ tối nay cùng với ông Giám đốc NASA?

Herney cười ha hả trong máy.

- Rachel, cô nghĩ tôi là loại người nào chứ? Chẳng lẽ cô tưởng tôi yêu cầu cô cầm dao đâm lén chính cha mình trên truyền hình sao?

- Nhưng ngài đã nói là... - Và cô tưởng ông Giám đốc NASA chịu chia sẻ ánh đèn trường quay với con gái người đã kịch liệt công kích ông ấy sao? Tôi không muốn làm cô bị hẫng, nhưng Rachel ạ, cuộc họp báo tối nay sẽ chỉ bàn về khía cạnh khoa học mà thôi. Tôi không nghĩ là kiến thức của cô về thiên thạch, về hoá thạch, hay cấu trúc băng hà sẽ mang lại độ tin cậy về khoa học cho chương trình.

Rachel đỏ mặt.

- Thế ngài định thế nào?

- Tôi có kế hoạch phù hợp với vị trí của cô hiện nay.

- Thưa Tổng thống?

- Vì cô là chuyên viên tổng hợp tin của Nhà Trắng, cô sẽ thông báo vắn tắt với nhân viên của tôi về sự kiện trọng đại này.

- Ngài yêu cầu tôi xác thực tin này với nhân viên của ngài à?

Herney có vẻ vẫn cảm thấy khoái trá về sự hiểu lầm vừa rồi:

- Đúng thế đấy! Sự hoài nghi bên ngoài thực ra không có gì đáng sợ so với những gì tôi đang phải đương đầu ngay trong đội ngũ nhân viên của tôi lúc này. Uy tín của tôi trong lnnơ chính nội bộ của mình đang bị để doạ. Chính nhân viên của tôi đang yêu cầu tôi phải cắt bớt các khoản chi cho NASA, nhưng tôi đã bỏ ngoài tai. Đó là hành động tự sát về mặt chính trị.

- Đến tận thời điểm này sao?

Chính xác. Như chúng ta đã trao đổi sáng nay, thởi điểm của phát kiến này khiến cho bất kỳ chính trị gia hoài nghi nào cũng phải đặt dấu hỏi, và lúc này chính nhân viên của tôi lại là những kẻ hoài nghi nhất. Cho nên, khi họ được thông báo tin này, tôi muốn người nói cho họ biết sự thật sẽ là... - Tổng thống vẫn chưa cho cộng sự của ngài biết về tảng thiên thạch này ư?

- Chỉ một vài cố vấn cấp cao mà thôi. Ưu tiên số một của tôi là giữ bí mật phát kiến này.

Rachel sững sờ: Chả trách họ có thể nổi loạn chống lại ông ấy.

- Nhưng đây không phải là lĩnh vực chuyên sâu của tôi. Làm sao có thể coi chuyện về một tảng thiên thạch là một tin tình báo được cơ chứ?

Theo cách nghĩ truyền thống thì đúng là vậy, nhưng quả thực sự kiện này có đầy đủ các yếu tố của lĩnh vực chuyên sâu của cô đấy - khối lượng dữ liệu khổng lồ cần được giản lược, tầm quan trọng lớn về mặt chính trị... - Thưa Tổng thống, tôi không phải là chuyên gia về thiên thạch học. Sao không để cho ông Giám đốc NASA thông báo tin này cho các cộng sự của ngài?

- Cô đùa đấy à? Ai cũng ghét ông ấy, trong con mắt đội ngũ nhân viên của tôi bây giờ. Ông ta chẳng khác gì nhà buôn xảo quyệt cứ dụ tôi dính vào hết phi vụ tồi tệ này đến hợp đồng thất bại khác.

Điều này thì Rachel hiểu.

- Thế còn Corky Marlinson thì sao?

Ông ấy đã được huân chương về vật lý học. Uy tín của ông ấy chắc chắn lớn hơn tôi nhiều. Cộng sự của tôi toàn là những chính trị gia, Rachel ạ, không phải các nhà khoa học. Cô đã gặp ông Marlinson rồi đấy. Tôi cũng biết là ông ấy rất giỏi, nhưng nếu tôi đưa một nhà thiên thạch học tới nói chuyện với những kẻ có bộ não trái phát triển ở đây những trí thức chỉ chuyên về xã hội học, thì sẽ chẳng làm nên cơm cháo gì. Tôi cần một người khác cơ. Và cô chính là người đó, Rachel ạ. Nhân viên của tôi biết công việc cô làm, và vì họ biết cô là ai, nên để trình bày vấn đề này một cách không thiên vị thì cô là người thích hợp nhất.

Thái độ nhã nhặn của Tổng thống bắt đầu tác động đến tâm trí của Rachel.

- Ít ra thì Tổng thống hãy thừa nhận rằng vì tôi là con của đối thủ hiện nay của ngài nên mới có lời đề nghị này.

Tổng thống cười một cách vô tư.

- Dĩ nhiên là như vậy. Nhưng mà Rachel này, dù cô có nghĩ thế nào đi nữa thì bằng cách này hay cách khác, nhân viên của tôi cũng sẽ được thông báo về sự kiện này. Cô là người thích hợp nhất. Cô vốn đã có sẵn kỹ năng tổng hợp tin, cô lại còn là con gái của chính người đang muốn đá đít tôi ra khỏi Nhà Trắng. Nên nhìn từ góc độ nào thì cô cũng là sự lựa chọn khôn ngoan nhất trong trường hợp này.

- Ngài nên đi làm kinh doanh thì hợp hơn.

- Trên thực tế thì tôi đang làm việc đó còn gì nữa. Cả cha cô cũng thế. Và thật thà mà nói thì tôi muốn có một thoả thuận có lợi cho cả đôi bên. - Tổng thống bỏ kính và nhìn thẳng vào mắt Rachel.

Cô chợt nhận thấy một cái gì đó ở ông ta giống cha mình biết mấy.

- Tôi đang để nghị cô vì thiện chí mà giúp tôi, Rachel ạ. Và hãy nhớ rằng đây cũng là nhiệm vụ của cô nữa đấy. Thế cuối cùng là thế nào nào? Có hay là không đây? Cô có đồng ý thông báo cho nhân viên của tôi không nào?

Rachel cảm tưởng như đang bị sập trong chiếc bẫy có nhãn mác PSC. Thật khó mà từ chối được. Dù cách xa tới ba ngàn dặm, Rachel vẫn cảm nhận được sức mạnh ý chí của Tổng thống. Vả lại, cô hiểu rằng dù mình có ưng thuận hay không thì đây cũng là một đề nghị hợp lý hợp tình.

- Tôi có một đề nghị. - Cô nói.

Herney nhướng lông mày:

- Đó là...?

- Tôi sẽ gặp nhân viên của ngài một cách kín đáo. Không phóng viên. Đây sẽ là buổi thông báo trong nội bộ, không công khai trên báo chí.

- Tôi hứa trên danh dự của Tổng thống. Tôi đã chọn lựa sẵn một địa điểm rất "nội bộ".

Rachel thở dài:

- Thế thì được ạ.

Vẻ mặt ngài Tổng thống sáng bừng lên:

- Tuyệt lắm.

Rachel xem đồng hồ, ngạc nhiên thấy đã quá bốn rưỡi chiều.

- Hượm đã nào, - cô nói, đầy băn khoăn - nếu truyền hình trực tiếp vào lúc tám giờ thì không kịp được. Dù có đi chiếc máy bay kinh tởm mà ngài nhét tôi vào như lúc sáng thì cũng phải mất hai giờ đồng hồ mới về đến Nhà Trắng. Tôi lại còn phải chuẩn bị và... Ngài Tổng thống lắc đầu:

- E là tôi chưa kịp nói rõ điểm này. Cô sẽ thông báo từ chính địa điểm cô đang ngồi đó.

- Ồ, - Rachel do dự - thế Tổng thống định lúc nào?

- Sẵn sàng cả rồi, - Herney vừa nói vừa cười nhăn nhở - Ngay bây giờ có được không? Tất cả mọi người đều đã có mặt, và đang chăm chú ngắm nhìn một màn hình trắng tinh. Họ đang đợi cô đấy.

Rachel sững sờ:

- Thưa Tổng thống, tôi chưa có sự chuẩn bị nào hết, tôi chắc là không thể... - Cô cứ nói cho họ biết sự thật thôi, có gì khó khăn đâu?

- Nhưng mà... - Rachel này, - Tổng thống nhoài người về phía trước và nói, nhớ là tất cả mọi quy trình cô đọng hay giải thích dữ liệu đều là để phục vụ cuộc sống. Chuyên môn của cô là thế mà. Hãy kể cho họ nghe những gì đang diễn ra ở đó. - Tổng thống giơ tay với nút điều khiển hệ thống sau lưng mình, nhưng chưa ấn nút ngay - Và tôi đã bố trí để cô được lên tiếng từ một vị trí đầy quyền lực, cô sẽ thấy thích cho mà xem.

Rachel chưa hiểu Tổng thống định nói gì, nhưng không còn thời gian để hỏi nữa rồi. Ông đã ấn nút.

Màn hình trước mặt Rachel trống không trong một tích tắc. Rồi khi hình ảnh bắt đầu xuất hiện trở lại, cô thấy mình bị đặt trong một tình thế khá gay cấn. Trước mặt cô là phòng bầu dục trong Phủ Tổng thống. Đầy chặt những người. Thảy đều phải đứng. Toàn bộ nhân viên Nhà Trắng dường như đã tập trung lại. Và tất cả đều đang chăm chú nhìn cô. Rachel nhận thấy cô đang được nhìn họ từ bàn làm việc của chính Tổng thống.

Lên tiếng từ một vị trí đầy quyền lực. Rachel vã mồ hôi.

Từ vẻ mặt của họ, có thể thấy là cả họ lẫn Rachel đều ngạc nhiên như nhau.

- Cô Sexton đấy à? - Một thứ giọng chua như dấm cất lên.

Rachel quan sát từng người và phát hiện ra người vừa nói. Đó chính là người phụ nữ cao kều ngồi ngay hàng ghế đầu tiên.

Marjorie Tench. Vẻ ngoài đặc biệt của bà ta thật không lẫn vào đâu được.

- Xin cảm ơn sự xuất hiện của cô, thưa cô Sexton. - Marjorie Tench nói, giọng đầy mãn nguyện. - Tổng thống vừa cho chúng tôi biết rằng cô muốn thông báo với chúng tôi một sự kiện nóng hổi.

Chương 33

Nhà cổ sinh vật học Wailee Ming thích thú ngồi trong bóng tối, trầm tư suy nghĩ. Sự kiện sắp diễn ra tối nay đang khiến từng thớ thịt trong người ông rạo rực. Chẳng mấy chốc mình sẽ là nhà cổ sinh vât nổi tiếng nhất thế giới. Ông ta hi vọng Micheal Tolland sẽ hào phóng đưa phần phát biểu của ông vào bộ phim tài liệu của mình trong tương lai thì mặt băng dưới chân rung nhẹ khiến ông nhảy dựng lên. Sống lâu ngày ở vùng Los Angeles nhiều động đất nên ông trở nên cực kỳ nhạy bén với mọi rung động của mặt đất Tuy nhiên, lúc này ông ta cho rằng những rung động này là hoàn toàn bình thường. Chẳng qua là do băng nứt ra thôi mà, ông ta thở phào, tự trấn an. Nhưng Ming vẫn không thể quen hẳn với hiện tượng này. Đêm nào cũng có vài tiếng nỏ kèm theo rung động nhẹ do một tảng băng hà lớn đã đứt gãy ra ở đâu đó trên dòng sông băng rộng lớn để trôi ra biển. Norah đã miêu tả hiện tượng này với những ngôn từ thật hoa mỹ. Những núi băng mới đang chào đời... Ông Ming đứng lên và vươn vai. Ông đưa mắt nhìn bao quát bán sinh quyển, và dưới ánh đèn trường quay rực rỡ, ai nấy đang chuẩn bị cho chương trình phát sóng. Ông không phải là kiểu người hợp với hội hè đàn đúm nên đã một mình tìm chỗ kín đáo này.

Khu làm việc vắng tanh trong bán sinh quyển lúc này như mang dáng dấp ma quái, thậm chí còn có vẻ khá thê lương. Một luồng hơi lạnh phả tới, và ông cài cúc áo khoác lên tận cằm.

Xa xa trước mắt ông là lỗ hống trên băng, vết tích đường đi lên của tảng thiên thạch. Giàn giáo khổng lồ đã được dỡ đi, còn lại cái hố sâu nằm đơn độc, bao quanh bởi những chiếc cọc hình tháp.

Ông Ming đi thơ thẩn đến bên cái hố, dừng lại ở khoảng cách an toàn, và quan sát hố nước sâu hai trăm foot đang nằm im lìm. Rồi nước sẽ mau chóng đông lại, và sẽ chẳng còn lại chút dấu vết nào của con người ở nơi này.

- Cái ao con này quả là một cảnh đẹp, dù là trong đêm tối, ông ta thầm nghĩ.

Trong bóng đêm trông càng đẹp.

Ông ta hơi phân vân, rồi sau đó quả quyết.

- Có vấn đề rồi.

Chăm chú quan sát hố nước, ông ta bắt đầu cảm thấy băn khoăn. Ming dụi mắt, nhìn lại cái hố một lần nữa, rồi đưa mắt nhìn chăm chú toàn bộ toà nhà lớn..., nhìn đến khu báo chí đang rộn ràng cach đó 50 mét. Ông ta biết ở khoảng cách này trong bóng tối thì không ai có thể trông thấy mình.

Không biết có nên nói cho ai đó biết chuyện này không?

Rồi ông ta quay lại cái hố, băn khoăn không biết nên làm gì. Hay đây chỉ là ảo ảnh? Chỉ là sự phản chiếu kì lạ trên mặt nước thôi?

Băn khoăn, ông ta bước qua những chiếc cọc hình tháp, ngồi xuống để quan sát cho rõ. Nước thấp hơn mặt băng bốn foot. Và ông ta rúi hẳn xuống để nhìn. Rõ ràng là có cái gì đó rất lạ. Ông ta vẫn chỉ lờ mờ cảm nhận được nó, nhưng phải đến khi đèn tắt hết thì cái đó mới rõ hẳn.

Ông ta đứng phắt dậy. Chắc chắn phải thông báo chuyện này.

Ông ta hối hả tiến về phía trung tâm báo chí. Đi mới được mấy bước thì ông ta lại đã đứng khựng lại. Lạy Chúa tôi. Ming quay lại cái hố, tròn mắt nhìn. Giờ thì ông ta đã hiểu ra vấn đề.

- Không thể nào! - ông ta thốt lên.

Tuy nhiên, ông biết đó là cách giải thích duy nhất hợp lý. Phải nghĩ cho kỹ, Ming tự dặn mình - Chắc chắn phải có một lý do khác hợp lý hơn. Nhưng càng nghĩ, ông ta càng tin chắc vào những gì mình vừa nhìn thấy. Không thể giải thích theo bất kỳ cách nào khác cả! Không tưởng tượng nổi rằng cả NASA lẫn Corky Marlinson có thể bỏ qua chi tiết quan trọng đến thế, nhưng ông ta không lấy thế làm điều.

Bây giờ thì đó chính là phát minh của Ming!

Sung sướng đến phát run lên, ông ta lao ngay vào khu làm việc gần đó để tìm một cái cốc. Lúc này ông ta cần một ít nước để làm thí nghiệm. Ai mà ngờ được chuyện này cơ chứ! Chương 34

- Với tư cách là chuyên viên tình báo của Chính phủ, - Rachel vừa nói vừa cố giữ cho giọng nói khỏi run rẩy khi phát biểu trước một màn hình đặc kín những mặt người. - công việc của tôi là đến những địa điểm nhạy cảm về chính trị trên khắp thế giới, phân tích tình hình, rồi báo cáo lại cho Nhà Trắng.

Một giọt mồ hôi lăn xuống thái dương, Rachel chấm nhẹ. Cô thầm rủa Tổng thống đã giao cho mình nhiệm vụ khó khăn này mà không thèm báo trước lấy một lời.

- Trong đời, tôi chưa bao giờ đến một nơi nào lạ lùng đến thế này. - Rachel khoát tay chỉ mọi vật xung quanh. - Chắc quý vị có thể cảm thấy khó tin, nhưng sự thật là tôi đang nói chuyện với quý vị từ một phiến băng hà dày 300 foot phía bắc vòng chí tuyến.

Những khuôn mặt trên màn hình bắt đầu có vẻ kinh ngạc. Dĩ nhiên họ biết là phải có lí do thì mới có cuộc họp này trong phòng bầu dục, nhưng không ai tưởng tượng nổi đó lại là câu chuyện liên quan đến một sự kiện tận trên vòng chí tuyến.

Mồ hôi lại tiếp tục lăn xuống, Rachel bực bội thầm. Không thể cho phép mình thế này được! Nếu mẹ cô ở trong tình huống này, chắc chắn bà sẽ nói: Khi nào cảm thấy có gì nghi ngờ thì phải nói ra! Câu ngạn ngữ này của người Ankie hoàn toàn đúng với một nguyên tắc sống cơ bản của bà - đó là nói hết sự thật ra rồi thì người ta có thể vượt qua mọi thử thách khó khăn, dù ở bất kỳ hoàn cảnh nào.

Hít một hơi thật dài, Rachel ngồi thẳng dậy trước ống kính camera:

- Xin lỗi, có thể quý vị đang tự hỏi vì sao tôi lại toát mồ hôi dù đang ở tận phía bắc vòng chí tuyến... Tôi đang run.

Những khuôn mặt trên màn hình hơi có vẻ ngạc nhiên. Một số người cười một cách gượng gạo.

- Thêm vào đó, sếp của các vị chỉ báo trước cho tôi có 10 giây đồng hồ, và rồi tôi phải đối thoại tnrc diện với toàn thể nhân viên của Nhà Trắng. Kiểu thử thách như thế này không phải là thứ mà tôi chờ đợi sẽ diễn ra trong chuyến thăm phòng bầu dục lần đầu trong đời.

Lần này nhiều tiếng cười hơn.

Không những thế, - cô nói tiếp, đưa mắt nhìn xuống tận phía cuối màn hình - tôi không ngờ là mình lại được ngồi bên bàn của Tổng thống, hay nói đúng ra là trên bàn!

Câu nói này mang lại những tiếng cười vui vẻ thật lòng. Các cơ bắp Rachel bắt đầu gĩan ra, và cô thấy thư gĩan. Cứ việc nói thẳng hết với họ.

- Tình hình là như sau. - Lúc này thì giọng nói của Rachel đã trở lại bình thường. Rõ ràng và thoải mái. Trong những tuần vừa qua, Tổng thống Herney không thường xuyên xuất hiện trên các phương tiện thông tin đại chúng, không phải là vì ông không đoái hoài gì đến chiến dịch tranh cử, mà là vì còn bận bịu với một vấn đề khác mà ông tin rằng quan trọng hơn chuyện bầu cử nhiều.

Rachel ngừng lời, đưa mắt nhìn thính giả.

Tại phiến băng Milne ở Cực Bắc, người ta đã phát hiện thấy một thứ. Vào lúc tám giờ tối nay, Tổng thống sẽ công bố phát kiến này cho toàn thế giới được biết. Phát kiến này là của một nhóm công dân Hoa Kỳ gần đây đã phải trải qua những tình huống không lấy gì làm dễ chịu. Đã đến lúc vận rủi của họ chấm dứt. Tôi đang nói đến NASA. Các vị có thể tự hào vì Tổng thống của chúng ta, với một niềm tin sáng suốt, đã kiên định ủng hộ NASA ngay cả trong những lúc khó khăn nhất. Giờ đây, có lẽ sự kiên định của Tổng thống được đền đáp.

Lúc này Rachel mới thực sự cảm nhận được tầm quan trọng lịch sử của giây phút này. Cổ họng cô như muốn nghẹn lại, Rachel nói một cách khó khăn.

- Với tư cách là nhân viên ngành tình báo chuyên về tổng hợp và phân tích tin, tôi là một trong số ít người đã được Tổng thống mời đến để xác minh phát kiến của NASA Tôi đã đích thân xem xét đồng thời tham khảo ý kiến của các nhà khoa học, cả những người làm việc cho NASA lẫn những người khác, những người có bản lĩnh khoa học vững vàng và không thể bị ảnh hưởng của các yếu tố chính trị. Theo nhận định của cá nhân tôi thì những gì tôi sắp trình bày là thật và không bị ảnh hưởng bởi bất kỳ định kiến nào. Không những thế, cá nhân tôi nghĩ rằng, với niềm tin dành cho nhân viên của mình và nhân dân Mỹ, Tổng thống đã tỏ ra hết sức thận trọng. Dù rất vui mừng muốn thông báo tin này từ tuần trước, nhưng ông đã không làm thế.

Rachel thấy những người trên màn hình ngạc nhiên đưa mắt nhìn nhau. Tất cả đều hướng về phía cô, ánh mắt chăm chú chờ đợi. Cô đã thu hút được sự chú ý của họ.

- Thưa các quý ông, quý bà, tin là sau khi tôi trình bày xong, các vị sẽ đồng ý với tôi rằng đây là thông tin quý giá nhất được bàn đến trong toàn bộ lịch sử của phòng bầu dục này.

Chương 35

Hình ảnh được robot truyền về trại của Đội Delta trông chẳng khác gì trích đoạn của một bộ phim mà người ta đem đến dự liên hoan phim - khung cảnh mờ tối, lỗ thủng trên băng lấp loá nước, một người châu Á ăn vận rất đàng hoàng đang nằm xoài trên mặt băng, chiếc áo khoác lông lạc đà to xù trông như hai cái cánh. Rõ ràng là ông ta đang cố lấy nước ở dưới hố lên.

- Phải chặn ông ta lại. - Delta-Ba nói.

Delta-Một gật đầu đồng ý. Phiến băng Milne mang trong nó bí mật mà họ được giao nhiệm vụ phải bảo vệ.

- Chặn ông ta thế nào bây giờ? - Delta-Hai hỏi, tay vẫn cầm cần điều khiển. - Những robot này làm gì có vũ khí.

Delta-Một nhíu mày. Chiếc vi robot đang bay trong bán sinh quyển thuộc loại hình thu nhỏ để thích hợp với những chuyến bay dài. Khả năng tấn công của nó chẳng hơn gì con muỗi.

- Phải báo cáo với chỉ huy. - Delta-Ba nói.

Delta-Một chăm chú nhìn nhà khoa học Wailee Ming đơn độc đang ngồi ngay trên mép hố nước. Xung quanh không một bóng người, và cái lạnh của Bắc Cực còn có tác dụng làm giảm độ vang của âm thanh.

- Đưa gậy điều khiển cho tôi.

- Anh định làm gì? - Người lính đang cầm cần điều khiển, hỏi.

- Làm việc mà chúng ta đã được huấn luyện kỹ. - Delta-Một giật lấy cần - Phải tự ứng biến.

Chương 36

Wailee Ming nằm sấp bên hồ nước, tay phải vươn qua mép hố, cố lấy nước lên làm mẫu. Ông không nhìn nhầm. Lúc này, cách mặt nước chỉ chừng một mét, mọi thứ rõ mồn một.

Không thể tưởng tượng nổi!

Vươn người thêm chút nữa, ông ta cố với xuống mép nước. Chỉ còn vài inch nữa là tới.

Không thể vươn tay dài hơn nữa, ông ta nằm xuống gần mép hố hơn. Ming bấm mũi ủng xuống mặt băng, tay trái bám chặt mép hố. Ông ta lại cố vươn tay phải xuống thật sâu. Cần chạm. Ông ta nhích tới thêm một chút nữa. Được rồi! Miệng cốc đã chạm được đến mặt nước. Nước bắt đầu chảy vào cốc, và ông ta kinh ngạc quan sát.

Rồi, thật bất ngờ, việc đó xảy ra. Một mảnh kim loại bé tí tẹo từ bóng tối lao thẳng ra như một hòn đạn, ông ta mới thoáng thấy nó được một tích tắc thì đã bị nó bay vào mắt phải.

Bản năng bảo vệ mắt của loài người thật mạnh mẽ, cho nên mặc dù lí trí bảo Ming rằng bất kỳ cử động bất thình lình nào cũng sẽ khiến ông ta bị mất thăng bằng, ông ta co rúm người lại. Đó là một phản ứng vì ngạc nhiên chứ không phải vì bị đau. Tay trái của ông ta, vì ở gần mắt nhất, giơ lên để che bên mắt bị tấn công. Vừa đưa tay lên. Ming đã nhận ra ngay sai lầm rửa mình. Toàn bộ sức nặng của cơ thể vốn đã dồn về phía trước, giờ lại mất điểm tựa, ông ta lảo đảo. Nhà cổ sinh học phản ứng quá muộn. Ông ta vứt bỏ cái cốc bấu chặt vào bờ mép - nhưng không kịp - Ming ngã nhào xuống cái hố đen ngòm.

Mặt nước chỉ cách bờ có bốn foot, nhưng vì ngã dúi đầu xuống nên ông ta tưởng như vừa đâm đầu xuống vỉa hè với vận tốc năm mươi dặm một giờ. Làn nước giá lạnh trùm kín mặt ông ta giá buốt đến mức tưởng như đó là axit bỏng. Cảm giác hãi hùng ngay lập tức ùa đến.

Đầu chúc xuống, trong bóng tối mịt mùng, lúc đầu ông ta không biết phải lên hướng nào. Chiếc áo khoác lông lạc đà ngăn không cho nước lạnh tràn vào người, nhưng chỉ được một hai giây.

Nổi được đầu lên. Ông ta thở gấp, và đó ung là lúc nước ùa vào đến ngực và lưng, cái lạnh bó lấy cơ thể như gọng kìm thép.

- C... ứ... u...! Ông ta hổn hển, nhưng không đủ sức để hét to lên.

Ming thấy cơ thể đã cạn hết sinh khí.

"Cứ...u!" Ngay cả chính ông ta cũng không thể nghe thấy tiếng kêu của mình. Ông nhoài về phía mép lỗ băng và cố bò lên. Nhưng trước mặt là bức tường băng dựng đứng. Không bám được vào đâu, ông ta đạp mạnh chân vào băng, cố tìm một điểm tựa. Không được ông ta cố vươn lên mép hố, chỉ một foot nữa là chạm.

Cơ bắp của ông ta bắt đầu phản xạ kém đi. Ming cố quẫy mạnh hai chân, vươn người lên để bấu vào miệng hố. Cơ thể nặng như đá đeo, hai buồng phổi co thắt lại như thể một con mãng xà lớn đang quấn chặt lấy ông ta. Sau vài giây, chiếc áo khoác sũng nước bắt đầu kéo ông ta chìm xuống. Ông ta tìm cách rũ bỏ chiếc áo, nhưng không thể.

- Cứu tôi với...!

Cảm giác hãi hùng bây giờ bủa vây tứ phía.

Ông ta đã đọc ở đâu đó rằng chết đuối là cái chết đáng sợ nhất.

Và nhà cổ sinh vật xấu số không thể tưởng tượng được ông ta sẽ có ngày trải qua cảm giác đó. Các cơ bắp lúc này không còn tưân theo chỉ đạo của não bộ nữa, và ông ta cố gắng vẫy vùng để giữ cho đầu khỏi bị chìm. Trong khi những ngón tay lạnh buốt cố bám vào thành của cái bẫy băng, bộ quần áo nặng trịch cứ lôi ông ta xuống.

Lúc này những tiếng kêu thét chỉ còn là những tiếng vang trong tâm trí ông ta mà thôi.

Và rồi điều đó đã xảy đến.

Ông ta bị chìm. Người đàn ông châu Á này không bao giờ tưởng tượng sẽ có ngày mình phải trải qua cảm giác kinh hãi khi thấy cái chết đang ập đến, ấy thế mà chính nó đang hiện hữu... Ông ta chìm dần xuống đáy hố băng sâu hai trăm foot. Muôn vàn ý nghĩ vụt qua tâm trí. Những khoảnh khắc ấu thơ. Sự nghiệp. Nỗi băn khoăn không hiểu người ta có tìm thấy xác nình không, hay thân xác ông ta sẽ chìm sâu xuống đáy, và vĩnh viễn sẽ bị vùi lấp trong lăng mộ băng hà này.

Hai lá phổi căng ra đòi khí ô xy. Nhưng Ming cố nhịn thở, đồng thời quẫy đạp để nhô lên mặt nước. Hít thở. - Cố chống lại bản năng ấy, ông mím chặt môi. Hít thở. - Những nỗ lực vô vọng để ngoi lên. Hít thở. - Trong thoáng chốc, ông không thể nào chống lại bản năng của mình được nữa, bản năng hít thở đã chiến thắng trong cuộc chiến sinh tử với nỗ lực của ý chí bắt đôi môi phải mím chặt lại.

Wailee Ming hít thở.

Nước ùa vào phổi, chẳng khác gì một loại dầu bỏng rát ập vào những mô cơ dễ tốn thương bên trong buồng phối. Như thế ông đang bị lửa đốt từ bên trong cơ thể. Tai ác thay, nước không làm người ta chết ngay tắp lự. Những giây khắc hít nước vào trong phổi mới khủng khiếp làm sao, càng thở càng đau đớn, càng thở càng không có được thứ mà cơ thể đang đòi hỏi khẩn thiết.

Cuối cùng, ông Ming chìm sâu hẳn xuống khoảng tối tăm lạnh lẽo bất tỉnh. Ông thấy sung sướng được giải thoát. Trong màn nước đen thẳm xung quanh như có muôn vàn đốm sáng li ti. Đó là cảnh tượng đẹp nhất mà ông từng nhìn thấy trong đời. Chương 37

Cổng phía đông của Nhà Trắng toạ lạc trên đại lộ Hành Pháp, giữa Bộ Tài chính và bãi cỏ Đông. Hàng rào và những cọc bê tông mới được xây dựng thêm sau khi những doanh trại thuỷ quân lục chiến ở Beirut bị tấn công, khiến cho khu này mất hẳn vẻ hiểu khách vốn có của nó.

Đứng ngoài cổng, Gabrielle Ashe xem đồng hồ tay, bắt đầu cảm thấy mỗi lúc một thêm bồn chồn. Đã 4g45, và vẫn chưa có ai đến.

CỔNG PHÍA ĐÔNG, 4G30. ĐẾN MỘT MÌNH.

Tôi đến rồi đây. Cô thầm nghĩ. Sao chẳng thấy ai hết?

Gabrielle quan sát những khách du lịch đi lướt qua, mong chờ có người sẽ đáp lại ánh mắt dò tìm rủa mình. Một số người đàn ông nhìn cô, nhưng rồi đi tiếp. Gabrielle bắt đầu nghĩ có lẽ cô đã sai lầm khi đến đây. Và lúc này, hình như người lính mật vụ đang đứng trong vọng gác bắt đầu để ý đến cô. Gabrielle bắt đầu nghĩ rằng người đưa tin đã đổi ý. Vì thế, ngước nhìn lần cuối cùng dinh Tổng thống bên trong hàng rào, cô thở dài và quay gót.

- Cô Gabrielle Ashe phải không? - Người lính gác gọi với theo.

Gabrielle quay lại, trả lời thất thần.

- Sao cơ?

Người đàn ông trong bốt gác vẫy vẫy tay. Người này có khuôn mặt khá nghiêm nghị, dáng hơi gầy. - Đối tác của cô đã sẵn sàng làm việc với cô. - Anh ta mở khoá cổng và ra hiệu bảo cô vào trong.

Chân Gabrielle không muốn bước:

- Tôi phải vào trong à?

Người gác cổng gật đầu:

- Người đó nhờ tôi xin lỗi giùm vì đã để cô phải đợi.

Gabrielle nhìn cánh cổng đã mở sẵn, vẫn không muốn bước lên. Có chuyện gì thế này? Gabrielle không ngờ sự việc lại tiến triển theo hướng này.

- Cô là Gabriell Ashe đúng không? - Người gác cổng hỏi lại, lần này có vẻ đã nôn nóng.

- Vâng, đúng là tôi, nhưng mà... - Tôi khẩn thiết đề nghị cô hãy đi theo tôi.

Gabrielle bước theo anh ta một cách miễn cưỡng. Cô vừa ngập ngừng bước thì hai cánh cổng đã đóng sập lại ngay sau lưng. Chương 38

Hai ngày ròng rã không có mặt trời đã khiến cho nhịp sinh học trong cơ thể Micheal Tolland bị xáo trộn. Dù theo đồng hồ mới là lúc chiều muộn, cơ thể ông cứ một mực đang là lúc nửa đêm. Ông vừa hoàn tất bộ phim tài liệu của mình, copy tất cả bộ phim sang một đĩa số hoá, và đang đi ngang qua khu nhà lờ mờ tối. Đến khu báo chí sáng rực rỡ, ông giao chiếc đĩa cho một nhân viên kỹ thuật truyền hình của NASA được giao nhiệm vụ phụ trách bộ phim.

Anh ta giơ chiếc đĩa lên và nói:

- Cảm ơn Mike. Đây chắc là thứ ai cũng muốn xem lấy một lần trong đời đây.

Tolland cười mệt mỏi:

- Tôi hi vọng Tổng thống hài lòng.

- Dĩ nhiên ông ấy sẽ hài lòng. Xong việc rồi, ngồi đây thư gĩan với chúng tôi một chút nào.

- Thôi cảm ơn cậu.

Đứng giữa khu báo chí sáng trưng, Tolland đưa mắt quan sát đội ngũ nhân viên của NASA đang vui vẻ tiệc tùng. Dù rất muốn nhập bọn với họ, ông cảm thấy kiệt sức, đầu óc mụ mị. Ông đưa mắt tìm Rachel Sexton, nhưng có lẽ cô vẫn còn đang trao đổi với ngài Tổng thống.

Ông ta muốn Rachel xuất hiện trên truyền hình, ông thầm nghĩ. Và cũng chẳng có gì đáng chê trách; Rachel là một điểm nhấn hoàn hảo cho đội ngũ phát ngôn viên về tảng thiên thạch. Bên cạnh dáng vẻ kiều diễm, Rachel có phong thái tự tin và đĩnh đạc mà rất ít phụ nữ có được. Dù sao thì hầu hết những phụ nữ mà ông thường tiếp xúc đều làm bên truyền hình - một là những người có quyền lực nhưng tàn nhẫn, hai là những "ngôi sao" cực kỳ ăn ảnh - và cái cô có chính là thứ họ luôn thiếu.

Rút lui khỏi đám nhân viên NASA đang vui vẻ cười nói, ông băng qua những hành lang ngoằn ngoèo hệt như mê cung của toà nhà, và băn khoăn không biết các nhà khoa học dân sự khác đã biến đi đằng nào hết. Nếu chỉ can cảm thấy mệt bằng một nửa ông bây giờ, chắc họ đã đến khu phòng ngủ để tranh thủ chợp mắt trước khi buổi truyèn hình bắt đầu. Xa xa phía trước. Ông thấy những chiếc cọc hình nón SHABA xung quanh hố băng. Đứng dưới mái vòm trơ trọi của toà nhà, những ký ức xa xăm như vọng về một cách ma quái Tolland cố không để chúng tràn lấp tâm trí mình.

Quên những bóng ma ấy đi, nhà hải dương học tự nhủ. Mỗi khi ông mệt mỏi hoặc thấy cô đơn như lúc này, chúng lại thường ùa về.

Giá có nàng ở bên mình thì hạnh phúc biết bao, giọng nói trong tâm trí cứ rỉ rả. Trong bóng đêm, cô đơn, tâm trí ông chợt tìm về dĩ vãng.

Celia Birch và ông yêu nhau hồi cả hai cùng học cao học. Vào một ngày Valentine, ông mời nàng đi ăn tối ở nhà hàng mà họ cùng yêu thích. Sau món chính, người bồi bàn bưng ra món tráng miệng bông hồng duy nhất và chiếc nhẫn kim cương. Celia hiểu ngay.

Mắt ngấn lệ, nàng khẽ nói một lời mà thôi, và mang lại cho trái tim Tolland cảm giác ngất ngây hạnh phúc mà ông sẽ nhớ mãi đến lúc đau bạc răng long.

- Vâng.

Với bao ước vọng tươi đẹp, họ mua một ngôi nhà nhỏ gần Pasadena, và Celia trở thành giáo viên. Dù thu nhập chẳng đáng là bao, đó vẫn là bước khởi đầu tốt đẹp, và ngôi nhà cũng rất gần Viện Hải dương học San Diego, nơi Tolland đã được nhận vào làm. Vì công việc. Ông thường phải vắng nhà mỗi lần từ ba đến bốn ngày, nhưng mỗi giây phút họ được bên nhau đều tràn đầy hạnh phúc.

Mỗi chuyến công tác, Tolland thường quay lại những chuyến thám hiểm của mình. Một lần, ông mang về nhà đoạn phim quay một chú cá mực lớn nhìn thấy từ cửa sổ tàu ngầm - một loài cá mực chưa ai nhìn thấy bao giờ. Vừa quay, ông vừa say sưa bình luận, từng lời nói bên máy quay trong chiếc tàu ngầm ấy đều toát lên niềm say mê.

Có thể khẳng định rằng có tới hàng ngàn loài sinh vật ởđ ộ sâu này, giọng ông say sưa, chưa hề được con người biết đến! Chúng ta chỉ mới biết sơ qua về mặt biển mà thôi! Ở độ sâu này có biết bao điều kỳ thú đợi con người xuống khám phá!

Những lời giải thích súc tích cùng với sự say mê của chồng đã khiến Celia bị mê hoặc. Cô chợt nảy ra ý định đem đoạn phim đến chiếu cho học sinh xem, và bọn trẻ cũng say mê không kém. Các giáo viên khác cũng mượn đoạn phim để chiếu cho học sinh của họ. Các bậc phụ huynh thì muốn sao lại chiếc đĩa. Dường như ai nấy đều háo hức đợi đoạn phim tiếp theo của Micheal. Thế là Celia lại nảy ra một ý mới. Cô liên lạc với người bạn học của hai người ở đài NBC và gửi đoạn phim đến đó.

Sau đó hai tháng, một hôm Micheal Tolland rủ vợ đi dạo một vòng trên bờ biển Kingman. Đối với hai người, đó là bãi biển đặc biệt, nơi đã chứng kiến tất cả những hi vọng và mộng mơ của đôi uyên ương trẻ tuổi.

- Anh có chuyện này muốn nói em nghe. - Tolland nói.

Celia dừng bước để cho những con sóng nhẹ mặc sức mơn man đôi bàn chân xinh xắn, nắm chặt tay chồng:

- Gì vậy anh?

Tolland nói như reo:

- Tuần trước, đài NBC đã gọi cho anh. Họ đề nghị anh đứng ra chủ biên một loạt phim tài liệu về đại dương.

- Tuyệt quá!

- Họ bảo muốn thử nghiệm chương trình đầu tiên ngay đầu năm sau! Em thấy thế nào?

Khuôn mặt Celia bừng sáng, nàng hôn Tolland:

- Anh giỏi lắm, anh yêu.

Sau đó sáu tháng, một hôm, đang chèo thuyền cùng Tolland gần Catalina thì Celia thấy đau ở mạng sườn. Vài tuần sau đó cơn đau vẫn không hết, nhưng cả hai vẫn cố không chú ý đến nó.

Nhưng rồi những cơn đau trở nên không thể chịu đựng nổi, và cô đi khám.

Bao mộng mơ của Tolland về cuộc sống vợ chồng phút chốc tan thành mây khói. Nàng ốm, ốm nặng.

- Bệnh lym-pho-ma ở dạng đã tiến triển. - Bác sĩ kết luận. - Bệnh rất hiếm gặp ở tuổi của nàng, nhưng đã có người bị rồi.

Hai vợ chồng đến vô số bệnh viện, hỏi không biết bao nhiêu chuyên gia. Nhưng câu trả lời họ nhận được thì chỉ có một. Không thể chữa được.

Anh quyết không đầu hàng đâu! Ngay lập tức, Tolland bỏ việc ở viện Hải dương học, quên phắt những bộ phim tài liệu cho đài NBC, dồn hết tâm lực để giúp đỡ Celia. Nàng cũng rất kiên cường chịu đựng mọi đau đớn, và chính vì thế mà ông càng yêu nàng gấp bội. Ông dắt vợ đi dạo trên bờ biển Kingman, tự tay nấu cho nàng những món ăn bổ dưỡng, chuyện trò với nàng về những gì hai người sẽ cùng thực hiện khi nàng khỏi bệnh.

Nhưng sự việc không như họ ao ước.

Chỉ sau bảy tháng, Micheal Tolland đã phải chứng kiến người vợ yêu dấu của mình hấp hối trong bệnh viện ông thậm chí không thể nhìn thấy những đường nét yêu dấu trên khuôn mặt nàng. Sức tàn phá của căn bệnh ung thư quái ác quả là khủng khiếp. Nàng chỉ còn da bọc xương. Những giờ khắc cuối cùng mới nghiệt ngã làm sao.

- Micheal. - Nàng gọi anh, giọng yếu ớt. - Đến lúc em phải ra đi rồi.

- Đừng em! - Hai mắt ông đẫm lệ.

- Anh sẽ tiếp tục sống - Celia nói - anh phải sống tiếp. Hãy hứa với em là anh sẽ tìm cho mình một tình yêu mới.

- Anh sẽ chẳng bao giờ yêu bất kỳ ai khác. - Và đó là sự thật.

- Rồi anh sẽ học được cách quên em đi.

Celia ra đi vào một ngày chủ nhật quang đãng giữa tháng sáu.

Michael Tolland thấy mình chẳng khác nào một con tàu giữa biển khơi cuồng nộ, la bàn gãy nát, dây neo đứt tơi tả. Có những tuần ông như muốn phát điên lên. Bạn bè ai cũng muốn giúp, nhưng Tolland quá tự trọng, và không chịu để cho ai thương hại mình.

Mình cần phải lựa chọn, cuối cùng ông cũng tự nhận ra, hoặc là làm việc, hoặc là chết.

Dằn trái tim đau lại, ông lao vào Đại dương kỳ thú. Và chính chương trình ấy đã cứu vớt cuộc đời ông. Trong vòng bốn năm tiếp theo đó, những bộ phim của ông đã cất cánh: Dù bạn bè đã nhiều lần mai mối, ông chẳng duy trì nổi mối quan hệ nào cho ra hồn. Mỗi lần hẹn hò là một lần thêm thất vọng, cuối cùng ông thôi không hẹn hò nữa, và đổ tại lịch làm việc sít sao nên bản thân mình không thể duy trì được các mối quan hệ xã hội. Tuy nhiện, những người bạn thân của ông thì hiểu; đơn giản là Michael Tolland vẫn chưa sẵn sàng.

Lỗ thủng trên băng do tảng thiên thạch để lại giờ ở ngay trước mắt Tolland, bứt ông khỏi những suy nghĩ đau đớn. Ông gạt những ký ức giá buốt ấy ra khỏi tâm trí, đến bên cái hố sâu. Trong toà nhà mái vòm mờ tối, mặt nước bên trong miệng hố chợt ánh lên vẻ đẹp siêu thực và ma mị. Nước trong hố lấp loáng như cái ao trăng. Những gợn sáng lóng lánh trên bề mặt chợt thu hút sự chú ý của ông, như thế có người đã rắc lên đó thứ bột lóng lánh màu xanh lục. Ông chăm chăm nhìn mặt nước lấp loá... Có cái gì thật kỳ lạ.

Thoạt nhìn ông tưởng những gợn lấp loá kia là do phản chiếu ánh sáng của những ngọn đèn bên trong bán sinh quyển. Nhưng giờ ông đã nhận ra không phải thế. Mặt nước này lung linh ánh sáng màu lục, và như thể nó đang hít thở một cách nhịp nhàng, như thế mặt nước là một cơ thể sống, và đang tự toả sáng.

Băn khoăn, ông vượt qua những chiếc cọc hình nón để nhìn gần hơn.

Từ chái nhà đối diện của bán sinh quyển, Rachel bước từ trong phòng PSC ra ngoài trời tối. Bị mất phương hướng trong bóng tối, cô dừng lại giây lát. Lúc này bán sinh quyển chẳng khác gì cái hang lớn và nguồn sáng duy nhất là những tia sáng rực rỡ hắt ra từ khu báo chí bên bức tường phía bắc. Cảm thấy bất an trong bóng tối, cô hành động theo bản năng, tiến về phía có ánh sáng.

Rachel cảm thấy khá hài lòng về hiệu quả của báo cáo vừa rồi trước nhân viên Nhà Trắng. Lấy lại được bình tĩnh sau những tiểu xảo bất ngờ của Tổng thống, cô trình bày trôi chảy những gì mình biết về tảng thiên thạch. Vừa nói, cô vừa quan sát vẻ mặt những cộng sự của ngài Tổng thống chuyển dần từ kinh ngạc sang tin tưởng lạc quan, và cuối cùng là sự nể phục tuyệt đối.

- Sự sống trên vũ trụ à? - Một người trong số họ thốt lên. - Nghĩa là gì thế?

- Đơn giản thôi, - người khác đáp lời, - chúng ta sẽ thắng cử.

Chân bước về phía khu báo chí, Rachel nghĩ đến giây phút sự kiện này được công bồ, không thể không tự hỏi liệu cha cô có đáng bị cỗ xe tranh cử của ngài Tổng thống đè bẹp chỉ bằng một cú ra đòn hay không.

Dĩ nhiên, câu trả lời là có.

Mỗi khi thấy mềm lòng trước cha mình, Rachel chỉ cần nhớ đến mẹ cô. Catherine Sexton. Những nỗi đau, những tủi nhục mà ông ta bắt mẹ cô phải chịu đựng thật là khủng khiếp... Đêm nào ông cũng về nhà muộn, say xỉn, người sặc sụa mùi nước hoa. Luôn mồm nói dối, tán gái liên tục, nhưng ông ta lại luôn tỏ ra vô cùng ngoan đạo, vì biết Catherine sẽ không bao giờ li dị.

Có đấy, cô quả quyết, Thượng nghị sĩ Sedgewick Sexton bị như thế là đáng đời lắm.

Đám người trưng khu báo chí thật vui nhộn. Ai nấy cũng hồ hởi cụng li. Rachel len qua đám đông, tưởng như mình lại trở thành cô nữ sinh năm thứ nhất lần đầu bước chân vào phòng ăn của trường đại học. Cô thắc mắc không biết Michael Tolland biến đâu mất.

Corky Marlinson đột nhiên đứng lù lù ngay cạnh cô.

- Cô đang tìm Mike phải không?.

Rachel hơi giật mình:

- À..., không..., không hẳn như thế.

Corky lắc đầu không tin:

- Tôi biết chứ. Mike vừa mới đi khỏi đây xong. Có khi anh ta tranh thủ chợp mắt một lát rồi cũng nên.

Ông ta đưa mắt nhìn khắp ngôi nhà mái vòm mờ tối.

- Mà biết đâu vẫn có thể tìm được anh ta cũng nên. - Rồi ông ta mỉm cười tinh quái và đưa tay chỉ - Lúc nào nhìn thấy nước mà anh chàng chả như bị thôi miên.

Rachel nhìn theo hướng tay chỉ của ông ta, và thấy bóng Michael Tolland bên miệng hố sâu, đang chăm chăm nhìn mặt nước.

- Anh ấy làm gì thế? - Cô hỏi. - Chỗ đó nguy hiểm lắm.

Corky cười ngoác:

- Có khi đang tìm xem có lỗ rò nào không đấy! Ta ra đấy đi.

Hai người băng qua toà nhà tối, đến bên cái hố. Gần đến nơi, Corky gọi lớn:

- Này, gã người nhái kia, quên bộ đồ lặn ở nhà à?

Tolland quay lại. Dù trong bóng tối. Rachel ngay lập tức nhận thấy vẻ mặt của Mike rất đăm chiêu. Các đường nét trên khuôn mặt được chiếu sáng theo kiểu gì đó rất kỳ dị, như thế ánh sáng phát ra từ đâu đó dưới chân ông.

- Ổn cả chứ anh Mike? - Cô hỏi.

- Hình như có vấn đề. - Ông chỉ tay xuống mặt nước.

Corky bước qua những chiếc cọc, đứng cạnh Micheal bên miệng hố. Nhìn xuống nước, ông ta chợt mất hẳn vẻ bông lơn cười cợt. Rachel cũng bước qua những chiếc cọc, đến bên họ. Nhìn xuống hố, cô ngạc nhiên thấy muôn vàn gợn nhỏ màu xanh lục lóng lánh. Y như bụi nê ông đang trôi nổi trên mặt nước. Một vẻ đẹp mê hồn. Tolland nhặt mảnh băng vỡ và quăng xuống nước.

Những gợn sóng nước phát sáng như lân tinh, ánh những tia màu xanh bất chợt.

- Mike này, - Corky nói, vẻ không thoải mái - anh biết đó là cái gì đúng không?

Tolland, nhăn trán:

- Dĩ nhiên tôi biết đó là cái gì, nhưng không thể hiểu thế nào mà nó lại ở đây. Chương 39

- Khuẩn hình roi đấy. - Tolland vừa đăm đắm nhìn xuống mặt nước sáng lóng lánh vừa nói.

- Này anh chàng ngạo mạn kia, nói cho rõ xem nào. - Corky làu bàu.

Theo trực cảm của Rachel thì hai người đàn ông này không nói đùa.

- Không biết bằng cách nào, - Tolland nói, - nhưng chắc chắn trong nước có những khủng trùng hình roi phát sáng.

- Thế có nghĩa là gì? - Rachel hỏi. Nói tiếng Anh đi các vị.

- Đó là những sinh vật đơn bào phù du có khả năng oxi hoá một loại chất xúc tác phát quang tên là luceferin.

- Đây mà là tiếng Anh sao?

Tolland thở dài và quay sang ông bạn của mình:

- Corky này, liệu có khả năng tảng thiên thạch chúng ta vừa lôi lên có chứa các sinh vật đang sống không nhỉ?

Corky cười phá lên.

- Này Mike, đừng có đùa nữa.

- Tôi đâu có đùa.

- Không thể nào, Mike ạ. Cậu cứ tin tôi đi, nếu NASA biết là có những sinh vật có xuất xứ vũ trụ sống trong tảng thiên thạch đó thì họ chẳng đời nào lại lôi nó lên làm gì.

Tolland có vẻ chỉ thoả mãn phần nào, nhìn mặt ông thì thấy ông còn có những mối nghi ngờ trầm trọng hơn thế nhiều.

- Chưa lấy kính hiển vi ra soi thì không thể chắc được, - ông nói, nhưng tôi thấy đây là một chủng khủng trùng phát quang thuộc họ pyrrophyta. Cái tên đó có nghĩa là gỗ lửa. Giống trùng này sống nhan nhản khắp biển Bắc Cực.

Corky nhún vai:

- Thế thì tại sao anh lại còn phải hỏi tôi chúng có xuất xứ từ vũ trụ hay không?

- Bởi vì tảng thiên thạch này bị vùi lấp trong băng tuyết, tức là nước tinh khiết từ trên trời rơi xuống. Và nước trong cái hố này vừa tan ra từ một phiến băng có tuổi đời những ba thế kỷ. Làm cách nào mà những sinh vật biển này lại có mặt ở đây được?

Lập luận của Tolland làm cả ba người im lặng hồi lâu.

Rachel đứng bên mép hố và cố hiểu những gì nhìn thấy trên mặt nước. Sinh vật phù du phát sáng trong hố băng. Thế có nghĩa là sao?

- Chắc chắn bên dưới phải có một vệt nứt. - Tolland nói. - Đó là cách giải thích duy nhất. Những con trùng phát sáng phù du này đã vào đây theo một đường nứt khiến cho nước biển xâm nhập được tới đây.

Rachel không hiểu.

- Thâm nhập vào à? Từ đâu? - Cô nhớ lại cuộc đi trên chiếc xe IceRover. - Chỗ này cách bờ biển phải đến hai dặm cơ mà?

Cả hai người đàn ông quay sang nhìn Rachel với ánh mắt rất khác lạ.

- Thực ra thì, - Corky nói - biển ở ngay dưới chân chúng ta đấy Phiến băng này đang nổi trên mặt nước.

Rachel sững sờ nhìn họ, lòng bối rối.

- Đang nổi bổng bềnh ư? Chẳng phải chúng ta đang ở trên sông băng hay sao?

Đúng là chúng ta đang ở trên sông băng, - Tolland đáp, nhưng không ở trên đất liền. Nhiều khi sông băng chảy mạnh và kéo dài ra tận ngoài biển. Và bởi băng nhẹ hơn nước, nên nó cứ tiếp tục nở ra, nở xoè ra biển như một mảng băng khổng lồ. Đó chính là định nghĩa của phiến băng đấy..., phần nổi trên nước của một sông băng. - Ông ta ngừng một lát. - Thật ra thì chúng ta đang đứng cách đất liền khoảng một dặm.

Bị sốc. Rachel ngay lập tức cảm thấy bất an. Điều chỉnh lại toàn cảnh bức tranh của những gì xung quanh, cô chợt có cảm giác lo sợ.

Tolland dường như cảm nhận được sự sợ hãì của Rachel.

Ông ta dậm mạnh chân lên mặt băng để trấn an cô. - Cô đừng sợ, phiến băng này dày những ba trăm foot, tức là có độ dày bằng hai trăm chiều dài một bàn chân, và nổi lềnh bềnh như cục đá trong cốc nước. Các phiến băng thường rất ổn định. Xây cả một toà nhà chọc trời ở đây còn được nữa là.

Rachel gật đầu yếu ớt, vẫn không tin hẳn. Cùng với cảm giác hoảng hốt, cô bắt đầu hiểu giả thuyết của Tolland về sự xuất hiện của những sinh vật phù du này. Có nghĩa là ông ấy cho rằng có một vết nứt gãy chạy dài từ mặt biển lên tới tận đây, cho nên những sinh vật này mới xâm nhập được. Có lý, Rachel nghĩ, tuy nhiên vẫn còn một nghịch lý khiến cô băn khoăn. Norah Mangor quả quyết rằng phiến băng này rất hoàn hảo, chị ta đã khoan rất nhiều lỗ để kiểm tra cơ mà.

Cô ngước nhìn Tolland.

- Tôi nghĩ rằng sự toàn vẹn của phiến băng là dữ liệu căn bản nhất để tính niên đại của nó. Chẳng phải tiến sĩ Mangor đã khẳng định là không có vết nứt nào hay sao?

Corky nheo mày:

- Cũng có thể nữ hoàng băng tuyết có sai sót.

Đừng có nói ầm lên thế, Rachel thầm nghĩ, nếu không ông lại bị người ta phi dao nhọn vào lưng bây giờ.

Tolland vừa gãi gãi cằm vừa quan sát những con khủng trùng phát sáng.

- Rõ ràng là không còn cách giải thích nào khác. Chắc chắn có một vết nứt. Do trọng lượng của phiến băng tạo ra áp suất đối với mặt biển nên những con trùng này đã bị đẩy lên đây.

Vết nứt mắc dịch. Rachel thầm nghĩ. Nếu phiến băng này có độ dày ba trăm foot, và tảng thiên thạch được lấy lên từ độ sâu hai trăm, có nghĩa là vết nứt phải kéo dài suốt một trăm foot, xuyên qua băng đặc. Những lỗ khoan kiểm tra của Norah Mangor khẳng định là không có vết nứt nào.

- Nhờ anh một việc nhé. - Tolland bảo Corky. - Tìm Norah lại đây! Cầu Chúa cho cô ấy biết điều gì đó về phiến băng này nhưng chưa nói cho chúng ta biết. Và nhớ tìm cả ông Ming nữa. Biết đâu ông ấy lại giải thích được hiện tượng này.

Corky cất bước.

- Cậu nhanh chân lên đấy. - Tolland nói với theo, mắt vẫn không rời cái hố. - Tôi thề với anh rằng những sinh vật này đang nhạt đi nhanh lắm.

Rachel nhìn xuống. Quả vậy, màu xanh lúc này không còn sáng rõ như trước nữa.

Tolland cởi chiếc áo da khoác trên người ra và nằm rạp xuống miệng hố.

Rachel quan sát nhưng không hiểu.

- Anh Mike?

- Tôi muốn kiểm tra xem có nước mặn lọt vào đây không.

- Bằng cách cởi áo ra rồi nằm rạp xuống thế à?

- Đúng thế đấy. - Ông ta nằm hẳn xuống mép hố nước. Ông ta giữ một tay áo khoác, thả tay áo kia xuống sâu cho đến khi cổ tay áo bị ướt sũng. - Đây là một phép thử vô cùng chuẩn xác mà các nhà hải dương học tầm cỡ thế giới vẫn sử dụng. Gọi là phép "Liếm chiếc áo ướt".

Bên ngoài, trên phiến băng, Delta-Một đang vật lộn với chiếc cần điều khiển, cố giữ cho chiếc robot đã bị hư hại nặng bay là là ngay trên đầu nhóm người đứng bên miệng hố. Nghe những gì họ nói với nhau, anh biết là sự thật sẽ sớm bị lòi ra.

- Gọi chỉ huy đi. - Anh ra lệnh. - Có rắc rối lớn rồi đây. Chương 40

Từ khi còn ít tuổi, Gabrielle Ashe đã từng nhiều lần theo những tua du lịch vào thăm Nhà Trắng, lòng thầm ước ao sẽ có ngày được làm việc cùng đội ngũ những con người quyền thế, lập biểu đồ phát triển cho toàn bộ Hợp chúng quốc Hoa Kỳ. Tuy nhiên, lúc này cô chỉ ước sao mình đang có mặt tại bất kỳ một nơi nào khác trên hành tinh này.

Người nhân viên mật vụ dẫn Gabrielle từ cổng phía đông lại đây đưa cô vào một phòng nghỉ trang hoàng lộng lẫy, và Gabrielle càng băn khoăn không biết người đưa tin cho mình quyền thế đến mức nào. Thật là điên khi đi mời Gabrielle vào tận trong Nhà Trắng. Nhỡ người ta nhìn thấy mình thì sao nhỉ? Gần đây cô rất hay xuất hiện với tư cách là trợ lý đắc lực của Thượng nghị sĩ Sexton. Thế nào cũng có người nhận ra cô.

- Cô Ashe phải không ạ?

Gabrielle ngước nhìn lên. Một người lính gác với khuôn mặt đôn hậu mỉm cười chào đón cô rất thân thiện.

- Xin cô hãy nhìn vào đây! - Anh ta đưa tay chỉ.

Gabrielle nhìn theo hướng tay anh ta, và bị luồng sáng loé lên làm loá mắt.

- Cảm ơn cô. - Anh ta dẫn cô đến bên bàn và đưa cho Gabrielle cây bút. - Xin cô hãy ghi tên vào cuốn sổ ra vào này ạ. - Anh ta đẩy về phía cô cuốn sổ bìa da dày dặn.

Gabrielle nhìn cuốn sổ. Trang giấy trắng tinh mở sẵn trước mặt cô. Cô nhớ đã từng nghe nói rằng những người vào thăm Nhà Trắng đều ký tên trên một trang giấy trắng tinh, để đảm bảo bí mật chuyến viếng thăm của họ. Gabrielle ký tên.

Một cuộc hẹn bí mật mà thế này thì thật là quá lắm.

Bước qua cửa kiểm tra kim loại, cô thấy chiếc máy chạm nhẹ vào đầu mình.

Người lính gác mỉm cười:

- Chúc cô một chuyến tham quan như ý thưa cô Ashe.

Cô đi theo nhân viên mật vụ dọc theo hành lang khoảng 50 foot và đến bàn kiểm tra thứ hai. Tại đây, người lính gác khác đang ép plastic chiếc thẻ vừa mới được chiếc máy dèn dẹt in ra. Anh ta đục lỗ trên tấm thẻ, luồn dây vào, và lồng vào cổ Gabrielle. Chiếc thẻ vẫn còn ấm. Ẩnh in trên tấm thẻ vừa được chụp trước đó 15 giây ở cuối hành lang.

Thật ấn tượng. Ai dám bảo là Chính phủ hoạt động không hiệu quả cơ chứ?

Họ đi tiếp, nhân viên mật vụ tiếp tục dẫn Gabrielle đi sâu vào bên trong toà nhà. Càng vào sâu, cô càng cảm thấy không thoải mái. Người đã mời cô tới đây không hề có ý định giữ kín cuộc gặp này. Cô đã có thẻ ra vào, ký tên vào sổ ra vào, và giờ đang bước đi giữa thanh thiên bạch nhật ngay tầng trệt của Nhà Trắng, nơi luôn có rất nhiều khách tham quan lui tới.

Và đây là phòng Trung Hoa, - một hướng dẫn viên đang thuyết minh với đoàn khách của mình - nơi bà Nancy Reagan đã để những món đồ sứ mạ vàng có giá tới 953 đô la mỗi bộ, và làm dấy lên cả một cuộc tranh luận về việc tiêu thụ những món đồ có giá trị vào năm 1981.

Nhân viên mật vụ dẫn Gabrielle đi ngang qua nhóm khách đó, đến cầu thang hình vòng cung, lại thấy có một nhóm khách du lịch khác.

- Các vị sắp lên đến phòng phía đông có diện tích ba ngàn hai trăm foot vuông, - một hướng dẫn viên du lịch khác lại đang thuyết minh - nơi bà Agibai Adams đã từng đem quần áo của ông John Adams tới đó phơi khô. Và chúng ta sẽ đi qua phòng Màu Đỏ, nơi Dolley Madison chuốc rượu các nguyên thủ quốc gia trước khi Tổng thống James Madison mời họ ngồi vào bàn thương lượng.

Đám khách cười ầm ỹ.

Gabrielle được dẫn lên hết cầu thang, vượt qua không biết bao nhiêu dây chắn và vật chắn đường, tiến sâu hơn nữa vào trong toà nhà. Rồi họ bước vào một căn phòng mà cô mới chỉ được nhìn thấy trên sách báo và ti vi. Gabrielle thớ giốc.

Khách du lịch không được phép vào đây. Các bức tường của căn, phòng đều phồng lên tầng tầng lớp lớp những bản đồ thế giới treo chồng lên nhau. Đây chính là nơi Tổng thống Rooservelt ghi lại tiến trình của Chiến tranh Thế giới thứ Hai. Và buồn thay, đây cũng chính là nơi Tổng thống Clinton giở thói trăng hoa với cô thực tập sinh Monica Lewinsky. Gabrielle gạt những suy nghĩ vẩn vơ ấy khỏi tâm trí. Cái chính là căn phòng này thông với chái bên tây, khu làm việc của những nhân vật thật sự quyền thế.

Gabrielle không thể ngờ cô sẽ đặt chân đến nơi này. Cô tưởng những thông tin ấy là của một thực tập sinh vô danh nào đó làm việc ở một khu nào khác gần trần thế hơn kia. Điều đó hiển nhiên là không đúng.

Mình đang sang đến chái nhà phía tây... Nhân viên mật vụ dẫn cô đi hết hành lang trải thảm và dừng lại trước căn phòng không có biển đề trên cánh cửa Anh ta gõ cửa.

Tim Gabrielle đập thình thịch.

- Cửa mở đấy. - Có người bên trong nói vọng ra.

Anh ta mở cửa và ra hiệu bảo cô vào bên trong.

Gabrielle bước vào. Rèm cửa được kéo hết xuống, căn phòng tối mờ mờ. Thấy có người đang ngồi trong bóng tối, bên bàn làm việc.

- Cô Ashe đấy à? - Giọng nói như vọng ra từ sau đám mây khói thuốc lá - Mời cô vào.

Khi mắt đã quen với bóng tối, Gabrielle bắt đầu nhìn rõ một khuôn mặt rất quen, cô cứng người lại. Đây chính là người đã gửi thư điện tử cho mình ư?

- Xin cảm ơn cô đã đến. - Marjorie nói, giọng lạnh lùng.

- Bà... Tench ạ? - Gabrielle nói lắp bắp, chợt cảm thấy hụt hơi.

- Hãy gọi tôi là Marjorie. - Người đàn bà xấu xí ấy đứng dậy, mũi phà khói chẳng khác gì rồng lửa. - Chúng ta sẽ nhanh chóng trở thành bạn thân thiết của nhau đấy. Chương 41

Tolland lúc này trông tỉnh táo hẳn ra:

- Điều này cũng giải thích vì sao mức nước trong hố không hề thay đổi. - Ông quay ra Norah - Cô vừa nói loài phù du có mặt trong mẫu nước tên là....

- Gabrielle. Polyhedra. - Norah công bố. - Và giờ chắc anh muốn hỏi tiếp xem loài này có thể ngủ đông trong băng đá được không chứ gì? Anh sẽ cảm thấy hài lòng đấy, vì câu trả lời là: Có. Chắc chắn đấy. Loài phù du này từng sống tập trung thành từng quần thể lớn quanh các phiến băng, chúng tự phát sáng, và có thể chuyển sang trạng thái trong băng đá. Anh còn muốn hỏi gì nữa nào?

Mọi người nhìn nhau. Qua giọng nói của Norah, ai cũng cảm nhận rõ ràng rằng sẽ có câu "nhưng mà" nào đó - ấy thế mà dường như nhà khoa học này vừa khẳng định rằng giả thuyết của Rachel là đúng.

- Như thế có nghĩa là... Tolland phá tan im lặng - cô nói rằng điều đó có thể là đúng không nào? Giả thuyết này có đúng không đây?

- Đúng hoàn toàn, - Norah nói - nếu các vị chẳng có tí chất xám nào trong hộp sọ cả.

Rachel trừng mắt:

- Chị có thể nhắc lại câu đó được không?

Norah Mangor cũng trừng mắt nhìn Rachel:

- Tôi nghĩ rằng trong lĩnh vực chuyên sâu của cô, biết một ít còn nguy hiểm hơn cả không biết gì, đúng thế không? Thế thì, tin tôi đi, đối với ngành băng hà học cũng thế. - Norah thôi không đọ mắt với Rachel nữa, chị ta lần lượt nhìn bốn người đang đứng quanh mình. - Tôi xin được giải thích rõ ràng. Những túi nước biển đông cứng mà cô Sexton mường tượng ra quả có tồn tại. Các chuyên gia băng hà học gọi chúng là các khe hở. Tuy nhiên các khe này không có dạng cái túi như cô ấy tuởng tượng, chúng là một mạng lưới chằng chịt những tua đá mặn có bề ngang chỉ bằng sợi tóc. Tảng thiên thạch của chúng ta phải làm tan một mạng lưới dày đặc đến vô cùng thì mới có thể tạo ra được ba phần trăm nước biển trong hố với độ sâu ấy.

Ekstroml quắc mắt:

- Nói tóm lại là đúng hay sai?

- Làm sao mà đúng được. - Norah lạnh lùng đáp. - Không thể có chuyện đó. Nếu thế thì lúc khoan thăm dò tôi phải tìm thấy chứ.

- Người ta luôn luôn cho khoan thăm dò ở những vị trí tình cờ đúng không nào? - Rachel cật vấn. - Liệu có khả năng chỉ vì rủi ro mà không phát hiện được túi đá nước biển không?

- Tôi đã khoan ngay bên trên tảng đá. Sau đó lại khoan rất nhiều lỗ trong phạm vi vài mét ở hai bên. Không thể khoan gần hơn thế được nữa.

- Tôi chỉ hỏi thế.

- Còn một điều nữa. - Norah nói. - Những khe nước biển này chỉ có mặt ở những vùng băng theo mùa - những vùng băng đá hình thành rồi lại tan hết theo từng mùa. Phiến băng Milne thuộc loại băng vĩnh cửu - loại băng hình thành trên các đỉnh núi và giữ nguyên trạng thái cho đến khi nó phát triển ra đến vùng dễ nứt và rơi xuống biển. Nếu các vị thấy giả thuyết về những sinh vật phù du bị đông cứng là có lý lắm rồi, thì tôi xin đảm bảo rằng không thể có loài phù du đóng băng nào trong dòng sông băng này.

Lại im lặng.

Mặc dù bị bác bỏ thẳng thừng, bộ não có khả năng phân tích nhạy bén của Rachel vẫn cứ ủng hộ giả thuyết về những sinh vật phù du đóng băng. Bằng trực quan của mình, cô biết đó là lời giải đơn giản nhất cho bài toán này. Quy luật tối giản, cô thầm nghĩ. Dưới sự dẫn dắt của những bậc đàn anh ở NRO, quy luật ấy đã thấm vào tận máu Rachel. Khi có nhiều phương án giải thích cùng một lúc được đưa ra, cách đơn giản nhất thường là đúng nhất.

Hiển nhiên là Norah Mangor có nhiều thứ để mà mất nếu dữ liệu về phiến băng không chuẩn xác; biết đâu chị ta đã phát hiện ra sinh vật phù du, biết rằng mình đã sai lầm khi khẳng định tính chất đông đặc liền khối của sông băng, và giờ đây đang ra sức bưng bít.

- Nói tóm lại, - Rachel nói - tôi vừa báo cáo với toàn bộ nhân viên Nhà Trắng rằng tảng thiên thạch này được phát hiện trong lòng một phiến băng toàn nguyên; kể từ khi nó văng ra từ một tảng thiên thạch nổi tiếng Jungersol năm 1716, băng hà đã bảo vệ nó trước mọi tác động ngoại lai. Nhưng giờ đây... dường như chúng ta đang phải lật lại vấn đề.

Ông Giám đốc NASA yên lặng, vẻ mặt căng thẳng.

Tolland hắng giọng rồi nói:

- Tôi buộc phải đồng ý với Rachel. Trong hố nước này có nước biển và sinh vật phù du. Dù có giải thích cách nào đi nữa thì đây cũng không thể là một môi trường kín. Điều đó thì ta buộc phải thừa nhận.

Corky có vẻ không được thoải mái cho lắm:

- Thưa các vị, tôi không có ý định tỏ ra am hiểu về băng hà học ở đây, nhưng trong giới cổ sinh vật chúng tôi, cứ có một sai sót thì bước tiến bị kéo chậm lại hàng tỉ năm đấy. Liệu tỉ lệ nước biển và sinh vật phù du này có quan trọng đến thế không? Dù lớp băng hà bao xung quanh nó không được hoàn hảo cho lắm thì cũng chẳng ảnh hưởng đến tảng thiên thạch là mấy. Chúng ta vẫn có các mẫu hoá thạch. Chẳng ai đưa ra chất vấn nào về tính xác thực của chúng cả. Dù dữ liệu về phiến băng có sai sót chút đỉnh thì cũng chẳng làm sao. Điều cốt yếu vẫn là chúng ta đã phát hiện được bằng chứng về sự tồn tại của sự sống ngoài vũ trụ.

- Tôi xin lỗi. - Rachel nói. - Thưa tiến sĩ Marlinson, với tư cách là chuyên viên phân tích tức, tôi không thể đồng tình với ý kiến của anh được. Bất kỳ một lỗi nhỏ nào trong những dữ liệu mà tối nay NASA công bố đều có thể trở thành cái cớ để người ta nghi ngờ toàn bộ phát kiến này. Kể cả tính xác thực của các hoá thạch.

Corky há hốc mồm:

- Cô nói cái gì thế? Những mẫu hoá thạch đó còn gì để bàn cãi nữa nào?

- Tôi biết, tôi biết chứ. Nhưng nếu công chúng nghe phong thanh được rằng chính NASA cũng đang băn khoăn về dữ liệu của phiến băng, tôi đảm bảo họ sẽ ngay lập tức băn khoăn không hiểu NASA còn nói dối họ về những cái gì khác nữa.

Norah bước dấn lên phía trước, mắt nảy lửa:

- Dữ liệu về phiến băng của tôi không hề sai sót. - Chị ta quay sang ông Giám đốc - Tôi có thể chứng minh một cách khoa học là không hề có túi nước biển nào lẫn trong lòng phiến băng này.

Ông Giám đốc nhìn Norah hồi lâu, mãi mới hỏi:

- Bằng cách nào?

Norah trình bày kế hoạch; nghe xong, Rachel phải thừa nhận rằng dự định đó nghe rất có lý.

Ông Giám đốc thì có vẻ không tin tưởng lẳm:

- Và kết quả sẽ rõ ràng đấy chứ?

- Tôi đảm bảo trăm phần trăm. - Norah cam đoan. - Nếu có một chút xíu nước biển nào kẹt trong phiến băng này thì các vị sẽ được nhìn thấy ngay. Chỉ cần vài giọt tí xíu cũng sẽ làm thiết bị của tôi sáng rực lên y như quảng trường Times về đêm.

Cặp lông mày bên dưới mái đầu ngắn kiểu quân sự của ông Giám đốc nhíu hẳn lại:

- Không còn nhiều thời gian nữa. Một vài giờ nữa là đến lúc phải họp báo rồi.

- Chỉ cần hai mươi phút là xong.

- Cô vừa nói là sẽ phải đi ra xa đến đâu nhỉ?

- Không xa. Chỉ cần hai trăm mét là đủ.

Ekstrom gật đầu:

- Cô đảm bảo như thế là an toàn chứ?

Tôi sẽ đem theo pháo sáng. Và Mike cũng sẽ đi cùng tôi.

Tolland ngẩng phắt lên:

- Tôi ấy à?

- Anh sẽ phải đi với tôi, Mike! Chúng ta sẽ dùng dây để buộc chung người vào. Tôi sẽ cần hai cánh tay khoẻ mạnh khi có gió lớn.

- Nhưng mà... - Cô ấy nghĩ thế đúng đấy. - Ông Giám đốc nói. - Nếu đi thì không được đi một mình. Tôi sẽ cử mấy cậu bên tôi đi cùng cô ấy.

- Nhưng thật lòng mà nói thì tôi không muốn có thêm bất kỳ ai biết chuyện này. Đợi đến khi mọi thứ rõ tàng đã.

Tolland miễn cưỡng gật đầu.

- Tôi cũng muốn đi. - Rachel nói... Norah nhảy dựng lên như con rắn chuông:

- Cô đi để làm cái gì?

- Thật ra thì, - Ông Giám đốc nôi thêm như thế vừa tự nghĩ ra ý đó tôi cảm thấy là nếu cử cả một đội đúng quy chuẩn đi thì an toàn hơn. Đi có hai người thì cô biết làm thế nào nhỡ Mike bị trượt? Bốn người cùng đi thì an toàn hơn hắn. - Ông ta ngừng lời, đưa mắt nhìn Corky:

- Thế tức là hoặc anh, hoặc tiến sĩ Ming sẽ đi.

Ekstrom đưa mắt nhìn khắp bán sinh quyển.

- Không thấy ông Ming đâu cả nhỉ?

Từ nãy đến giờ không thấy đâu cả. Có lẽ ông ta tranh thủ đi ngủ rồi.

Ekstrom quay sang Corky:

- Tiến sĩ Marlinson, tôi không có quyền đề nghị ông việc này, nhưng mà...

- Sao nào? - Corky lên tiếng. - Ông thấy bốn người chúng tôi hợp nhau lắm phải không?

- Không được! - Norah pbản đối. - Đi bốn người sẽ rất chậm. Tôi và Mike đi là đủ rồi.

- Không được đi hai người. - Giọng ông Giám đốc nhất quyết. - Phải có lí do thì người ta mới quy định đội quy chuẩn phải gồm bốn thành viên chứ. An toàn là trên hết. Tôi không muốn để tai nạn xảy ra ngay trước buổi họp báo quan trọng nhất trong lịch sử NASA. Chương 42

Gabrielle Ashe cảm thấy mơ hồ lo lắng khi ngồi trong căn phòng ngột ngạt của Marjorie Tench. Bà ta có ý đồ gì đây? Ngồi sau chiếc bàn duy nhất trong phòng, Tench ngả người trên ghế, đầy vẻ khoan khoái trước sự lo lắng Gabrielle.

- Tôi hút thuốc có được không? - Bà ta hỏi, lấy từ trong bao ra một điếu thuốc nữa.

- Bà cứ tự nhiên. - Gabrielle nói dối.

Trước khi cô trả lời, bà ta đã châm xong điếu thuốc.

- Trong chiến dịch tranh cử này, cô và ngài ứng cử viên của cô quan tâm đến NASA nhiều đấy nhỉ.

- Đúng thế thật. - Gabrielle bốp chát, không thèm kiềm chế cơn giận dữ của mình. - Nhờ có một số lời khích lệ đầy sáng tạo. Tôi muốn được nghe lời giải thích.

Tench bĩu môi, giả bộ ngây thơ.

- Cô muốn biết vì sao tôi gửi thư điện tử và vạch đường cho cô tấn công NASA chứ gì?

- Những thông tin bà gửi cho tôi rất bất lợi cho ngài Tổng thống:

- Trước mắt thì quả vậy.

Giọng nói đầy ẩn ý của Tench khiến cô thấy bất an.

- Thế tức là sao?

- Bình tĩnh nào Gabrielle. Những bức thư của tôi có gì ghê gớm lắm đâu. Trước những bức thư ấy rất lâu thì Thượng nghị sĩ Sexton cũng đã chống lại NASA rồi. Đơn giản tôi chỉ giúp ông ta làm rõ thông điệp của mình. Khẳng định chắc chắn quan điểm của ông ấy.

- Khẳng định dứt khoát quan điểm của ông ấy ư?

- Chính xác. - Bà ta cười, phô ra hàm răng vàng xỉn. - Phải thừa nhận là chiều nay, trên CNN ông ấy đã làm việc đó rất hiệu quả.

Gabrielle nhớ lại phản ứng của Thượng nghị sĩ lúc bị bà ta hỏi dồn. "Đúng vậy, tôi sẽ giải tán NASA". Bị dồn vào thế bí, ông đã tự tạo ra một đường thoát. Làm thế là đúng. Chẳng phải thế sao? Nhưng nhìn ánh mắt thoả mãn của Tench, Gabrielle cảm thấy vẫn còn chi tiết nào đó mà cô chưa biết hết.

Bất chợt bà ta đứng dậy, dáng người lòng khòng làm xấu cả căn phòng. Điếu thuốc vẫn vắt vẻo trên môi, bà ta đến bên chiếc két chìm trong tường, lấy ra một phong bì dầy cộm, quay lại bên chiếc ghế rồi ngồi xuống.

Gabrielle nhìn chiếc phong bì dầy cộp.

Bà ta cười mỉm, mân mê chiếc phong bì trong lòng tay như thế một người đang chơi bài poker đang nâng niu con át chủ bài. Búng búng mấy móng tay vàng xỉn vào mép phong bì, làm cho giấy tờ bên trong kêu sột soạt rất khó chịu, bà ta có vẻ rất thích thú thấy Gabrielle đang dè chừng mình.

Gabrielle biết mình đang thần hồn nát thần tính, nhưng thoạt đầu, cô kinh hãi nghĩ rằng trong phong bì có bằng chứng về buổi tối đầy ái ân với ngài Thượng nghị sĩ. Lố bịch, cô nghĩ thầm.

Chuyện ấy diễn ra vào lúc rất khuya khoắt, và Sexton đã khoá trái cửa. Thêm nữa, nếu Nhà Trắng có bất kỳ bằng chứng nào, họ đã chẳng ngại ngần trưng ra trước bàn dân thiên hạ.

Có thể họ chỉ nghi ngờ thôi, Gabrielle nhủ thầm, nhưng chắc chắn không có bằng chứng.

Tench dụi tắt điếu thuốc lá.

- Cô Ashe này, không biết cô có tự ý thức được điều này không, nhưng cô đang can dự vào một cuộc chiến âm ỷ ở Washington từ năm 1996 đến giờ đấy.

Gabrielle không ngờ sẽ có đòn thí tốt này.

- Bà vừa nói gì cơ?

Tench châm một điều thuốc khác. Đôi môi mỏng quẹt và xám xịt uốn lượn:

- Cô đã bao giờ nghe ai nhắc đến Dự luật Khuyến kích thương mại hoá vũ trụ chưa?

Cô chưa bao giờ nghe nói tới. Gabrielle nhún vai, không hiểu.

- Thật à? Tench nói. - Tôi ngạc nhiên đấy. Đặc biệt là khi ngài nghị sĩ của cô có cương lĩnh tranh cử như thế. Năm 1996, Thượng nghị sĩ Wanker đã soạn thảo dự luật này. Trong đó, ông ấy chứng minh rằng sau khi đưa được người lên Mặt trăng, NASA chẳng làm được gì đáng kể. Dự luật kêu gọi tư hữu hoá NASA bằng cách đem bán cơ quan này cho những công ty kinh doanh vũ trụ tư nhân áp dụng cơ chế thị trường để thám hiểm không gian hiệu quả hơn, nhờ đó cất bỏ gánh nặng NASA khỏi hầu bao những người đóng thuế.

Gabrielle đã nghe nói rằng những người phản đối NASA đã đề nghị tư hữu hoá cơ quan này để giải quyết vấn đề, nhưng không ngờ đã có hẳn một dự luật chính thức về chuyện đó.

- Dự luật thương mại hoá này, - Tench nói tiếp - đã được trình lên nghị viện cả thảy bốn lần. Về đại thể thì nó cũng giống những dự luật đã hỗ trợ pháp lý thành công cho công cuộc tư hữu hoá những ngành công nghiệp của Chính phủ, ví dụ như sản xuất Uranium. Cả bốn lần, nghị viện đã thông qua. May mắn là lần nào Nhà Trắng cũng phủ quyết. Zach Herney đã hai lần phủ quyết dự luật này.

- Còn quan điểm của bà?

- Tôi cho rằng Thượng nghị sĩ Sexton chắc chắn sẽ ửng hộ dự luật này nếu ông ta trở thành Tổng thống. Tôi có lý do để tin rằng ngay khi vớ được cơ hội đầu tiên, ông ta sẽ bán ngay NASA cho các nhà thầu. Nói tóm lại, ngài ứng cử viên của cô sẽ chọn giải pháp tư hữu hoá NASA thay vì dùng tiền đóng thuế của người dân Mỹ để nuôi cơ quan này.

- Theo tôi được biết thì ngài Thượng nghị sĩ chưa bao giờ công khai bày tỏ quan điểm của mình về Dự luật Khuyến khích thương mại hoá vũ trụ.

- Đúng thế. Nhưng tìm hiểu kỹ đường lối chính trị của ông ấy thì tôi sẽ chẳng hề ngạc nhiên nếu ông ta làm điều đó.

- Cơ chế thị trường tự do luôn góp phần làm tăng hiệu quả Trong nhiều trường hợp khác thì là thế. - Bà ta trừng mắt. - Buồn thay, tư hữu hoá NASA thì lại là một ý tưởng kinh tởm, và phải có lý do thì tất cả những đời Tổng thống từ năm 1996 đến giờ đều chống lại dự luật này.

- Tôi đã nghe nhiều ý kiến chống lại tư hữu hoá ngành vũ trụ, Gabrielle nói - và tôi hiểu những trăn trở của bà.

- Thật thế à? - Tench nhoài hẳn người về phía Gabrielle - Cô đã nghe được lý lẽ gì của họ?

Gabrielle ngọ ngoạy trên ghế một cách khó chịu:

- Chủ yếu là những quan điểm của giới hàn lâm - thường gặp nhất là nếu tiến hành tư hữu hoá NASA thì cơ quan này sẽ nhanh chóng bị thương mại hoá và xa rời các mục tiêu khoa học thuần tuý.

- Đúng thế ngành khoa học vũ trụ sẽ bị bóp chết trong nháy mắt. Thay vì chi tiền cho các công trình nghiên cứu vũ trụ, các công ty kinh doanh vũ trụ sẽ vắt kiệt những tiểu hành tinh có khoáng chất, xây các khách sạn trong không gian cho khách du lịch, và cung cấp dịch vụ phóng vệ tinh nhân tạo. Các công ty tư nhân việc gì phải mất công nghiên cứu về nguồn gốc của vũ trụ, trong khi điều đó có thể tiêu tốn của họ hàng tỷ đô la, đã thế lại còn chẳng mang lại lợi lộc gì.

- Dỉ nhiên là thế. - Gabrielle phản bác. - Nhưng dĩ nhiên người ta sẽ thành lập quỹ nghiên cứu vũ trụ quốc gia để bảo trợ cho những công trình nghiên cứu mang tính học thuật.

- Chúng ta đã có sẵn một hệ thống như thế. Tên nó là NASA.

Gabrielle lặng im.

- Chuyện người ta từ bỏ khoa học cơ bản chạy theo lợi nhuận chỉ là khía cạnh nhỏ mà thôi. - Tench nói. Điều đó thật quá bé nhỏ so với tình trạng hỗn loạn kinh khủng nếu cho phép khu vực kinh tế tư nhân được quyền thao túng. Chúng ta sẽ có cả một miền tây hoang dã trên bầu trời. Sẽ có người nhận Mặt trăng và các tiểu hành tinh là thuộc sở hữu của họ, rồi dùng vũ lực để bảo vệ quyền sở hữu của mình. Nhiều công ty đã từng xin giấy phép để phóng lên quỹ đạo những bảng quảng cáo bằng đèn nê ông để đến khi đêm về, các tấm biển quảng cáo sẽ nhấp nháy đầy trời.

Đã từng có những đơn xin cấp phép xây dựng các khách sạn vũ trụ và những tụ điểm du lịch với những độc chiêu như phóng ra ngoài vũ trụ và tạo thành những đống rác trong quỹ đạo. Nói thật nhé, hôm qua tôi còn được đọc dự án của một công ty định biến vũ trụ thành nghĩa trang bằng cách phóng xác chết vào quỹ đạo. Cô có chấp nhận được cảnh các vệ tinh của chúng ta đâm phải xác chết hay không? Tuần trước, một ông tỉ phú nài nỉ tôi cho phép kéo một tiểu hành tinh về gần trái đất để khai thác kim loại quý trên đó nữa cơ. Tôi đã phải nhắc ông ta nhớ rằng làm như thế rất rủi ro và có thể gây ra những thảm hoạ toàn cầu! Cô Ashe này, tôi xin cam đoan với cô, nếu dự luật này được thông qua, trong đội quân ô hợp những công ty lao vào vũ trụ sẽ không có các nhà khoa học tên lửa đâu. Đó sẽ chỉ là các nhà kinh doanh với những túi tiền kếch xù, nhưng đầu óc mông muội mà thôi.

- Những lý lẽ rất thuyết phục. - Gabrielle đáp. - Và tôi đảm bảo Thượng nghị sĩ sẽ cân nhắc rất cẩn thận nếu ông ấy ở vị trí thông qua hay phủ quyết dự luật đó. Tôi xin hỏi tất cả những điều này thì liên quan gì đến cá nhân tôi đây?

Tench nheo mắt nhìn điếu thuốc trên tay:

- Rất nhiều người đang ao ước có cơ hội được kinh doanh trong vũ trụ và hiện đang ráo riết vận động hành lang để nhằm dỡ bỏ mọi rào cản. Quyền phủ quyết của Tổng thống là trở ngại duy nhất còn lại, cản trở ý đồ tư hữu hoá, cản trở tình trạng hỗn loạn kinh khủng trên vũ trụ, cho nên tôi đã cố vấn cho Zachary Herney phủ quyết dự luật ấy. Điều tôi e ngại là ngài ứng cử viên nhà cô sẽ chẳng cân nhắc tỷ mỉ được như thế đâu nếu như ông ta đắc cử.

- Xin nhắc lại tôi tin rằng ngài Thượng nghị sĩ sẽ cân nhắc mọi khía cạnh của vấn đề một cách tỉ mỉ nếu như ở vào vị trí phải xem xét đạo luật ấy.

Trong Tench có vẻ không tin:

- Cô có biết Thượng nghị sĩ Sexton đã chi bao nhiêu tiền để đánh bóng tên tuổi của ông ấy trên các phương tiện thông tin đại chúng hay không?

Câu hỏi này chẳng hề ăn nhập với đề tài mà họ đang bàn bạc.

Những số liệu đó vẫn được công khai trước cử tri mà.

- Mỗi tháng hơn ba triệu đô la đấy.

Gabrielle nhún vai. Khoảng chừng đó.

- Con số đó gần đứng.

- Đó là một khoản tiền rất lớn.

- Ngài Thượng nghị sĩ có rất nhiều tiền.

- Đúng thế, ông ta giỏi vạch chiến lược. Hay đúng ra là đã chọn vợ một cách khôn ngoan.

Tench dừng lại để nhả khói thuốc.

- Chuyện về bà vợ ông ta, bà Catherinee, buồn thật. Cái chết của bà ấy quả là đau đớn đối với ông ta. - Tiếp sau câu nói ấy là tiếng thở dài rất kịch, rõ ràng là giả dối. - Mà bà ấy chết đã được lâu đâu, phải không nhỉ?

Bà đi thẳng vào vấn đề đi, không thì tôi về đây.

Bà ta ho như rút phổi, rồi với tay lấy chiếc phong bì dầy cộp. Sau đó lôi ra tập tài liệu kẹp ghim và đưa ra cho Gabrielle.

- Số liệu tài chính của Sexton đấy.

Gabrielle xem tập tài liệu, đầy kinh ngạc. Những con số này liên quan đến mấy năm gần đây. Dù Gabrielle không biết gì nhiều về chuyện tiền nong của ngài Thượng nghị sĩ, cô vẫn linh cảm được đây là những dữ liệu xác thực - những tài khoản ngân hàng, những khoản tín dụng, những khoản cho vay, lợi tức cố phiếu, bất động sản, các khoản nợ, những thắng lợi và thua thiệt về tài chính. Đây là những dữ liệu cá nhân. Làm sao bà có được?

Chuyện đó cô không cần biết. Nhưng nếu cô xem kỹ những con số này, cô sẽ biết ngay những đồng đô la mà ông ấy đang chi tiêu là tiền gì. Sau khi Catherinee qua đời. Ông ấy đã tiêu tán gần hết những gì bà ấy để lại vào những khoản đầu tư dại dột, những hưởng thụ cá nhân, và dùng tiền để đổi lấy chút ít vinh quang trong những chặng đầu tiên của chiến dịch tranh cử, và cách đây sáu tháng, ngài ứng cử viên nhà cô đã khánh kiệt.

Trực giác mách bảo Gabrielle rằng đây là sự thật. Nhưng nếu Sexton đã khánh kiệt thì ông ấy không thể chi tiêu kiểu đó. Tuần nào ông ấy cũng thuê thêm những chỗ rất đẹp để quảng cáo cho mình.

- Ngài ứng cử viên nhà cô - Tench lại nói tiếp - đang tiêu nhiều tiền hơn Tổng thống những bốn lần, y thế mà lại chẳng còn lấy một xu tiền riêng.

- Chúng tôi nhận được rất nhiều khoản hiến tặng.

- Đúng thế, và cũng có vài khoản hợp pháp đấy.

Gabrielle ngẩng phắt lên:

- Bà vừa nói cái gì cơ?

Tench nhoài hẳn người qua bàn, và cô ngửi thấy cả mùi nicôtin trong hơi thở của bà ta.

- Gabrielle Ashe này, tôi sẽ hỏi cô một câu, và tôi khuyên cô nghĩ cho thật kỹ rồi hẵng trả lời. Lời cô nói ra sẽ quyết định liệu cô có phải ngồi tù vài năm hay không. Tôi hỏi cô, Thượng nghị sĩ Sextơn đang nhận những khoản tiền hiến tặng bất hợp pháp khổng lồ từ những công ty đang muốn làm ăn trên vũ trụ, những công ty sẽ hái ra tiền một khi NASA được đem ra tư hữu hoá, điều đó cô có biết hay không?

Gabrielle trừng mắt:

- Một lời buộc tội ngớ ngẩn!

- Tức là cô không hề biết chứ gì?

- Tôi tin rằng nếu ngài Thượng nghị sĩ nhận những khoản tiền lớn đến như vậy thì tôi phải biết chứ.

Tench mỉm cười lạnh lẽo.

- Gabrielle, tôi hiểu rằng Thượng nghị sĩ Sexton đã chia sẻ với cô nhiều thứ, nhưng tôi cam đoan rằng có rất nhiều điều cô chưa hề biết về con người này đâu.

Gabrielle đứng dậy.

- Cuộc gặp đến đây là kết thúc.

- Ngược lại thì đúng hơn. - Bà ta nói, tay lấy những tập tài liệu còn lại trong phong bì ra và trải đầy bàn. - Cuộc gặp bây giờ mới bắt đầu.

Chương 43

Trong bán sinh quyển, tại "phòng chuẩn bị", Rachel Sexton khoác lên người bộ quần áo bảo hộ vi khí hậu Mark IX của NASA, chợt thấy mình cũng giống phi hành gia. Bộ áo liền quần có mũ màu đen này giống hệt bộ đồ lặn bơm hơi. Bộ đồ gồm hai lớp vải không ngấm nước với những đường rãnh để bơm một loại gel đặc vào trong, giúp người mặc điều hoà thân nhiệt trong cả môi trường nóng lẫn môi trường lạnh.

Lúc này, đang đội chiếc mũ may rất khít trên đầu, Gabrielle chợt nhìn thấy ông Giám đốc NASA ông ta lặng lẽ đứng cạnh cửa ra vào, chả khác gì một anh lính gác, rõ ràng là không thoải mái khi phải để cho họ tiến hành điệp vụ nho nhỏ này.

Norah Mangor vừa giúp mọi người mặc quần áo bảo vệ vừa lầm bầm rủa xả.

- Đây có một bộ vừa to vừa ngắn này. - Chị ta nói, tay liệng cho Corky.

Tolland cũng đang mặc bộ quần áo bảo hộ.

Rachel vừa kéo phéc mơ tuya lên xong, Norah tìm cái khoá vòi bên mạng sườn Rachel và lắp vào một ống chất lỏng nối với chiếc hộp nhỏ trông giống bình khí nén của thợ lặn.

- Hít vào đi. - Norah bảo cô, tay mở van.

Rachel nghe một tiếng xì và cảm thấy chất gel đang được bơm vào bộ quần áo. Bộ quần áo nở phồng ra, áp chặt quanh cơ thể cô, khiến cho bộ quần áo vải bên trong dính chặt vào người. Có cảm giác giống như giơ bàn tay có đeo găng cao su dưới vòi nước chảy, chiếc mũ trùm đầu cũng phồng lên ốp chặt vào tai, làm cho mọi âm thanh đều thành ra lùng bùng. Chẳng khác gì cái kén.

- Ưu điểm của loại quần áo này, - Norah nói - Chính là lớp đệm. Có ngã cũng chẳng sợ đau.

- Đúng thế thật. Rachel cảm tưởng như được cuốn trong một lớp thảm dầy.

Norah đưa cho Rachel một lô dụng cụ - nào rìu đá, dây và khoá dây, súng bắn pháo sáng - rồi lần lượt giúp cô cài từng thứ một vào thắt lưng.

- Nhiều thế này cơ à? - Rachel hỏi. - Chỉ ra ngoài có hai trăm mét thôi mà.

Norah nhíu mày:

- Cô có đi hay không nào? -.

Tolland gật đầu nhìn Rachel động viên:

- Cô ấy chỉ cẩn thận một chút thôi mà.

Corky gài khoá van vào bình chất lỏng và tự bơm phồng bộ quần áo của mình, mặt đầy vẻ khoái trá:

- Cảm tưởng như tôi đang đeo bao cao su loại cực đại.

Norah rên lên, làm ra vẻ trịnh thượng:

- Chỉ được cái phét lác, trai tân như anh biết cái gì mà cũng làm ra vẻ?

Tolland ngồi xuống cạnh Rachel ông khẽ mỉm cười nhìn Rachel đi giầy, rồi cài bộ đế đinh vào.

- Cô có thật sự muốn đi không? - Rachel nhận thấy ánh mắt ông đằy vẻ che chở.

Rachel gật đầu ra vẻ tự tin, cố che giấu nỗi lo lắng đang tăng dần lên trong lòng. Chỉ hai trăm mét thôi... có gì đáng ngại đâu. - Anh thì lại thích đại dương phải không?

Tolland cười thành tiếng, vừa đi giầy vừa nói:

- Nhưng tôi vừa nhận ra là nước ở dạng lỏng thì đáng yêu hơn ở dạng rắn nhiều.

Tôi chưa bao giờ thích nước, bất kể là dạng nào. - Rachel nói. - Hồi bé, có lần tôi đi trượt băng và ngã lộn cổ xuống hồ. Từ đó trở đi lúc nào tôi cũng sợ nước.

Tolland nhìn cô, vẻ cảm thông:

- Tôi rất lấy làm tiếc. Khi nào xong việc ở đây, cô hãy lên tàu Goya chơi một chuyến. Tôi sẽ khiến cô nghĩ về nước khác đi. Thật đấy.

Lời mời khiến cô ngạc nhiên. Goya là con tàu nghiên cứu của Tolland, nổi tiếng vừa vì vai trò của nó đối với chương trình Đại dương kỳ thú, vừa vì hình dạng bên ngoài của nó rất lạ lùng. Rachel không thích lên con tàu đó, nhưng thật khó chối từ.

- Lúc này, tàu của tôi đang thả neo cách bờ biển New Jersey mười hai dặm. - Tolland vừa nói vừa hì hục cài bộ đinh để giầy.

- Ở đó chắc chẳng có gì đáng chú ý.

- Sai rồi! Thềm lục địa Atlantique là một nơi vô cùng kỳ thú. Chúng tôi đang chuẩn bị quay bộ phim tài liệu thì bị Tổng thống tóm được rồi lôi xềnh xệch đến đây.

Rachel cười lớn.

- Phim tài liệu về cái gì?

- "Sphyma mokarran".

Rachel nhíu mày:

- Nghe lạ tai quá.

Tolland đã gắn xong bộ đinh đế giầy và ngước nhìn lên.

- Thật đấy chúng tôi sẽ làm phim trong khoảng hai tuần. Từ Washington đến bờ biển Jersey đâu có xa xôi gì lắm. Khi nào rỗi hãy đến chỗ tôi chơi. Không lý gì lại sợ nước suốt đời. Thuỷ thủ đoàn của tôi sẽ trải thảm đỏ chào đón cô.

Norah Mangor nói loé xoé:

- Hai người có đi không đây? Hay để tôi mang nến và rượu sâm panh đến phục vụ? Chương 44

Gabrielle Ashe không biết nên làm gì với mớ tài liệu ngổn ngang trên bàn của Marjorie Tench. Nào là bản photocopy những bức thư, fax, những cuộc nói chuyện điện thoại, thảy đều chứng minh rằng Thượng nghị sỹ Sexton đang bí mật liên hệ với các công ty vũ trụ tư nhân. Tench đẩy về phía cô mấy tấm ảnh đen trắng:

- Việc này chắc cô chưa biết.

Gabrielle xem ảnh. Bức đầu tiên chụp cảnh Thượng nghị sỹ Sexton từ taxi bước xuống bãi đỗ xe ngầm dưới lòng đất. Ông ấy có bao giờ đi taxi đâu. Gabrielle xem bức ảnh thứ hai - chụp từ xa cảnh Sexton đang leo lên cabin chiếc xe tải mini màu trắng; có một ông già đang ngồi đợi sẵn bên trong.

- Ai đây? - Gabrielle hỏi, ngờ rằng đây chỉ là ảnh ghép.

- Một nhân vật to đầu của SFF (viết tắt của Space Frontier Foundation- ND) Gabrielle không tin vào tai mình.

- Hiệp hội vũ trụ ư?

SFF là nghiệp đoàn của những công ty vũ trụ tư nhân. Nó đại diện cho các nhà thầu khoán, các doanh nghiệp, các nhà tư bản - tất cả những tổ chức thuộc khu vực tư nhân muốn kinh doanh trong vũ trụ. Họ rất hay chỉ trích NASA, cho rằng chương trình nghiên cứu vũ trụ của Mỹ sử dụng những biện pháp thương mại không bình đẳng để ngăn không cho các công ty tư nhân tham gia phóng vệ tinh lên quỹ đạo.

- SFF hiện nay đại diện cho khoảng một trăm công ty lớn, - Tench nói, - Một số có lượng vốn rất lớn, và đang háo hức đợi Dự luật Khuyến khích thương mại hoá vũ trụ được phê chuẩn.

Gabrielle phân vân. Dĩ nhiên SFF có lý do để lớn tiếng ủng hộ Thượng nghị sỹ Sexton, mặc dù ông vẫn thận trọng không công khai ủng hộ họ, bởi những chiến thuật vận động hành lang của họ đang gây rất nhiều tranh cãi. Mới đây, SFF còn tung ra luận điệu rằng NASA thực ra là "công ty độc quyền bất hợp pháp - bởi lẽ dù lỗ nó vẫn cứ được phép hoạt động tiếp, như thế là bất công đối với các công ty tư nhân. Theo SFFl mỗi khi AT&T muốn phóng vệ tinh viễn thông lên quỹ đạo, một số công ty tư nhân chào giá 50 triệu đô la, cái mức rất phải chăng. Tuy nhiên, NASA lần nào cũng chen ngang và đưa ra mức giá chỉ 25 triệu, mặc dù trên thực tế NASA tiêu tốn gấp năm lần số tiền ấy để đưa được vệ tinh lên quỹ đạo! Kinh doanh với mức giá thua lỗ vẫn là cách NASA thao túng thị trường vũ trụ, các luật sư của SFF cáo buộc. Và người đóng thuế phải nai lưng ra mà trả.

- Những bức ảnh này cho thấy rằng, - Tench lại nói - ngài ứng cử viên nhà cô đang bí mật liên hệ với một tổ chức đại diện cho các công ty vũ trụ tư nhân. - Bà ta chỉ mấy tập tài liệu trên bàn. - Chúng tôi cũng có cả những biên bản ghi nhớ nội bộ của SFF kêu gọi các công ty thành viên đóng tiền - những khoản tiền tỉ lệ thuận với lượng vốn khổng lồ của họ - và chuyển vào tài khoản của Thượng nghị sĩ Sexton. Như thế có nghĩa là các công ty vũ trụ tư nhân đang tìm cách đẩy ông ta vào chiếc ghế Tổng thống. Và ai cũng có thể suy ra rằng ông ta đã ngầm thoả thuận với họ là sẽ tiến hành tư hữu hoá NASA nếu đắc cử.

Gabrielle nhìn đống tài liệu trên bàn, bị thuyết phục hoàn toàn.

- Liệu có phải bà đang muốn làm cho tôi tin rằng đối thủ của ngài Tổng thống đang dính líu đến chuyện tài chính bất hợp pháp hay không? Nếu thế thì sao các vị không cho công bố những tài liệu này đi?

- Thế cô muốn tin vào điều nào hơn?

Mắt Gabrielle toé lửa:

- Thẳng thắn mà nói thì tôi thán phục tài thuyết phục của bà, nhưng tôi thấy một cách suy luận khác thuyết phục hơn nhiều, đó là các nhân viên Nhà Trắng đã nguỵ tạo những tài liệu này.

- Điều đó có thể xảy ra, tôi thừa nhận. Nhưng sự thật không phải thế.

- Thế ư? Thế thì làm sao mà các vị có được những tài liệu lưu hành nội bộ này? Việc ăn cắp tài liệu nội bộ của chừng này công ty chắc chắn không nằm trong khả năng của Nhà Trắng.

- Cô nói đúng. Chúng tôi có được những thứ này vì có người tự nguyện hiến tặng.

Gabrielle không hiểu.

- Thật đấy, - bà ta khẳng định, - Chúng tôi nhận được rất nhiều tài liệu theo kiểu này. Rất nhiều đồng minh về chính trị của ông ấy không muốn để Tổng thống bị thất cử. Xin nhớ cho là ngài ứng cử viên nhà cô dự định cắt giảm chi phí ở mọi nơi - cả của những cơ quan ngay trong phạm vi Nhà Trắng. Chắc chắn ông ấy sẽ chẳng do dự gì cắt giảm ngay chi phí khổng lồ của FBI để giảm bớt chi phí của Chính phủ. Ông ấy còn nhắm đến cả IRS nữa. Rất có thể nhiều nhân viên của những cơ quan ấy cảm thấy bực mình.

Gabrielle hiểu ngầm ý của bà ta. Những người đang làm ở IRS và FBI có thể tìm cách thu thập những thông tin này. Và rất có thể họ đã tự nguyện gửi những tài liệu này đến Nhà Trắng, như một hình thức trợ giúp cho ngài Tổng thống để bảo vệ chiếc ghế của mình. Nhưng điều mà cô không thể tin được là chuyện ngài Thượng nghị sĩ dính líu vào chuyện tài chính bất hợp pháp.

- Nếu những con số này là chính xác, - Gabrielle chất vấn - mà nói thật tôi không tin là thế thì tại sao các vị không công khai cho cử tri được biết?

- Theo cô thì tại sao?

- Bởi vì chúng được thu thập bằng những biện pháp bất hợp pháp.

- Thu thập được bằng cách nào mà chả như nhau.

- Dĩ nhiên là khác chứ. Làm sao các vị dám thừa nhận những hành vi bất hợp pháp của mình cơ chứ?

- Cần gì phải thế? Chúng tôi chỉ cần xì tin cho giới báo chí, thế là các báo sẽ tha hồ chạy những dòng tít lớn với đầy đủ cả hình ảnh đàng hoàng. Công chúng chỉ tin là ông ta vô tội khi nào ông ta tự chứng minh được điều đó. Cái cách ông ta ông ổng phản đối NASA là bằng chứng rành rành cho thấy ông ta ăn hối lộ.

Gabrielle biết điều đó là đúng.

- Được thôi, - cô lại căn vặn tiếp, thế sao các vị chưa xì tin ra?

- Bởi vì làm thế thì tiêu cực quá. Ngài Tổng thống đã cam kết sẽ không tranh cử bằng những biện pháp tiêu cực, ông ấy đã nói là làm.

- Phải lắm! Bà vừa nói rằng vì cao thượng nên Tổng thống từ chối công khai hoá những thứ này. Phải chăng ông ấy sợ bị quy kết là tiêu cực?

- Làm như thế sẽ có tác động tiêu cực đến cả nước. Chuyện này dính líu đến hàng chục công ty tư nhân, mà không ít trong số đó là do những con người đáng kính gây dựng nên. Bôi nhọ Thượng nghị viện thì sẽ làm ảnh hưởng đến lòng tin của người dân. Vài chính trị gia tha hoá sẽ khiến các chính khách khác cảm thấy bị xúc phạm. Không được làm cho người Mỹ mất niềm tin vào Nhà nước. Đây sẽ là cuộc điều tra bẩn thỉu, có thể khiến một Thượng nghị sỹ và nhiều Giám đốc điều hành bị tống giam.

Mặc dù những lập luận của bà ta quả là có lý, Gabrielle vẫn cảm thấy nghi nghi hoặc hoặc.

- Tất cả những chuyện này thì liên quan gì đến tôi?

- Nói một cách đơn giản nhé, cô Ashe ạ, nếu chúng tôi tiết lộ những tài liệu này, ngài ứng cử viên của cô sẽ bị kết tội nhận tiền hiến tặng bất hợp pháp, mất ghế Thượng nghị sỹ, và rất có thể phải ngồi tù. - Bà ta ngừng một lúc. - Trừ phi... Gabrielle thoáng thấy ánh nhìn nham hiểm sâu trong đôi mắt bà cố vấn.

- Trừ phi làm sao?

Bà ta rít thuốc.

- Trừ phi cô giúp chúng tôi tránh tất cả những chuyện đó.

Bầu không khí nặng nề bao trùm căn phòng.

Tench ho khan.

- Cô Gabrielle, nghe cho kỹ đây, tôi quyết định chia sẻ với cô những thông tin này vì ba lí do. Thứ nhất, để cô thấy rằng Zach Herney là người tử tế, luôn đặt lợi ích quốc gia lên trên quyền lợi cá nhân. Thứ hai, để thông báo cho cô biết rằng vị ứng cử viên mà cô đang phò tá không đáng tin cậy như cô tưởng. Và thứ ba, để thuyết phục cô lời đề nghị mà tôi sắp đưa ra.

- Lời đề nghị đó là gì?

- Tôi muốn cho cô một cơ hội để hành động đúng đắn, một hành động ái quốc. Có thể cô không biết, nhưng cô đang ở vị thế trọng yếu, có thể cứu Washington khỏi những vụ tai tiếng khó chịu. Nếu cô nhận làm những gì tôi sắp đề nghị, có lẽ cô còn có thể kiếm được một việc trong Nhà Trắng cơ đấy.

Một việc làm trong Nhà Trắng ư? Gabrielle không tin vào tai mình.

- Thưa bà, tôi không biết bà nghĩ thế nào, nhưng tôi không thích bị ép buộc, khống chế, hay bị người khác lên giọng dạy bảo. Tôi tham gia vào chiến dịch tranh cử rủa ngài Thượng nghị sỹ vì tôi tin tưởng đường lối chính trị của ông ấy. Và nếu thế này là cách Zach Herney vẫn thường sử dụng quyền lực chính trị của mình, thì tôi không muốn dính dáng gì đến ông ta nữa! Nếu bà thu thập được tin tức gì về Thượng nghị sỹ Sexton, thì xin mời bà cứ việc rỉ tai giới báo chí. Xin phép được nói thẳng, tôi cho rằng những thứ này đều là nguy tạo hết.

Tench thở dài, trong thật đáng sợ.

- Gabrielle này, chuyện tài chính bất hợp pháp của ông Thượng nghị sỹ là thật đấy. Rất tiếc, tôi biết cô rất tin ông ta. - Rồi bà ta hạ giọng:

- Nghe kỹ nhé, vấn đề là thế này: Tôi và ngài Tổng thống sẽ công khai vấn đề này nếu cần, nhưng xét trên tầm vĩ mô thì điều đó chẳng hay ho gì. Vụ tai tiếng này liên quan đến nhiều công ty lớn của Mỹ. Nhiều người vô tội sẽ phải chịu hậu quả. - Bà ta rít hơi thuốc thật sâu, rồi nhả khói. - Tôi và ngài Tổng thống đều hy vọng rằng... sẽ có cách không gây hại đến thanh danh của ông Thượng nghị sỹ. Một cách mà... không người vô tội nào sẽ phải chịu hậu quả. - Bà ta đặt điếu thuốc lá xuống gạt tàn và khoanh tay trước ngực. - Nói một cách đơn giản là chúng tôi yêu cầu cô hãy công khai thừa nhận là đã dan díu với ngài Thượng nghị sỹ.

Gabrielle thấy toàn thân đông cứng. Giọng bà ta nói nghe vô cùng chắc chắn. Không thể nào, cô biết thế. Không có bằng chứng.

Họ chỉ ân ái với nhau một lần duy nhất, trong văn phòng ngài Thượng nghị sỹ, cửa thì khoá trái. Bà ta không có bằng chứng. Chỉ đoán mò thôi. Gabrielle cố giữ giọng nói điềm tĩnh.

- Bà suy diễn hơi nhiều bà Tench ạ.

- Chuyện gì? Chuyện hai người tằng tịu với nhau à? Hay chuyện cô sẽ cáo biệt ngài Thượng nghị sỹ?

- Cả hai.

Tench cười khẩy đứng dậy:

- Được rồi, chúng ta cùng nói trắng hết ra nhé.

- Bà ta đến bên cái két sắt chìm trong tường, lôi ra một phong bì màu đỏ, bên ngoài gắn xi niêm phong của Nhà Trắng. Bà ta mở phong bì rồi dốc tất cả những gì bên trong lên bàn trước mặt Gabrielle.

Hàng chục bức ảnh màu nằm ngổn ngang trên bàn, Gabrielle chợt thấy toàn bộ sự nghiệp tan tành ngay trước mắt. Chương 45

Bên ngoài bán sinh quyển, gió Katabaac gầm rú, khác hẳn bất kỳ loại gió nào khác trên đại dương mà Tolland đã từng gặp. Trên biển sức năng của gió là tạo ra thuỷ triều và những dòng chảy.

Tuy nhiên, gió katabatic chỉ có một tính năng vật lý duy nhất - là luồng khí lạnh rất nặng thổi dọc theo sông băng như một trận thuỷ triều. Tolland chưa bao giờ gặp phải loại gió nào mạnh đến thế này. Nếu thổi với tốc độ 20 hải lý, gió katabatic hẳn là giấc mơ của các thuỷ thủ, nhưng với tốc độ 80 hải lý như thế này, nó là cơn ác mộng với mọi người, kể cả khi ở trên đất liền. Tolland nhận thấy nếu ông dừng lại và ngả người về phía sau thì cơn gió hung dữ này sẽ lập tức đẩy ông trở về tư thế đứng thẳng.

Chưa hết, bên cạnh gió katabatic là phiến băng dốc thoai thoải liên tục đến tận mép nước. Độ dốc không cao, nhưng liên tục cho đến khi băng và nước biển giao nhau, cách đó hai dặm.

Dù đã đeo vào đế giầy bộ đinh đế hiệu Pitbull Rapido, ông vẫn cảm thấy không an lòng, dường như chỉ cần bước hụt một lần là sẽ bị gió cuốn dọc theo dốc băng thoai thoải dài vô tận này. Bài thuyết trình dài hai phút của Norah Mangor về các biện pháp an toàn trên băng giờ tỏ ra quá ít ỏi.

- Rìu đá Piranha, - Norah vừa nói vừa cài một dụng cụ có vẻ nhẹ có chữ Tolland vào thắt lưng của họ sau khi mọi người đã mặc xong bộ quần áo bảo hiểm. - Lưỡi dao quy chuẩn, lưỡi dao hình chuối, lưỡi dao hình cung tròn, búa đinh, rìu lưỡi vòm. Tất cả các vị phải nhớ rằng nếu có ai trượt chân hoặc bị gió cuốn đi thì phải một tay túm chặt lấy đầu rìu, tay kia bám vào băng, đâm mạnh lưỡi dao hình chuối xuống mặt băng, dồn trọng lượng cơ thể lên đó, rồi dận mạnh đinh đế giầy xuống.

Nói xong, Norah Mangor đeo cho mỗi người trong bọn họ một bộ dụng cụ như thế, sau đó cả nhóm ra khỏi ngôi nhà mái vòm, tiến vào bóng tối. Lúc này, cả bốn người đi xuôi theo dòng sông băng, cả nhóm buộc người chung vào một sợi dây, người trước cách người sau mười mét. Norah dẫn đầu, sau đó đến Corky, rồi đến Rachel, Tolland đi sau cùng... Càng đi xa, ông càng có cảm giác bất an. Dù đã có quần áo bảo hiểm, dù vẫn cảm thấy ấm, ông thấy mình giống như một phi hành gia cô độc một mình lang thang trên hành tinh xa xôi nào đó. Mây đen đang cuồn cuộn kéo đến, lấp kín Mặt trăng, cả phiến băng chìm trong bóng tối mịt mù. Gió katabatic mỗi lúc thối mạnh hơn, ép mạnh vào lưng ông. Ông căng mắt nhìn khoảng không bao la xung quanh, và bắt đầu nhận thức được hiểm hoạ thực sự đang rình rập. Dù mang theo rất nhiều thiết bị bảo hiểm của NASA, ông vẫn thấy ngạc nhiên là Giám đốc NASA sao có thể dễ dàng đến thế khi ném bốn sinh mạng vào nơi đầy hiểm nguy thế này, thay vì chỉ có hai; trong khi một người là con gái của một Thượng nghị sĩ, người kia là một nhà hải dương học nổi tiếng. Ông không ngạc nhiên khi nhận thấy mình đang lo lắng cho sự an toàn của Corky và Rachel. Là thuyền trưởng, ông có thói quen chịu trách nhiệm về những người xung quanh mình.

- Đừng vượt lên trước. - Norah hét lên thật to, nhưng không thể át được tiếng gió gào. - Cứ để cho xe trượt dẫn đầu đoàn nhé.

Chiếc xe trượt bằng nhôm mà Norah chất lên đó toàn bộ dụng cụ cần thiết trông khá giống chiếc tàu bay đa năng. Trên xe đầy những dụng cụ để thử nghiệm và những thiết bị an toàn mà mấy năm nay cô thường dùng. Tất cả mọi dụng cụ - bao gồm cả một bình ắc qui, đèn pháo sáng, mấy cái đèn pha đều được gói kỹ trong mảnh vải dầu. Dù chất nặng, chiếc xe vẫn nhẹ nhàng trượt thẳng về phía trước. Dù độ dốc hầu như không đáng kể, chiếc xe tự trượt xuống và Norah phải liên tục kìm bớt lại, như thế cho phép chiếc xe dẫn đường.

Cảm thấy khoảng cách giữa họ và ngôi nhà lớn đang tăng dần lên, Tolland ngoái lại đằng sau. Cách họ năm mươi mét, mái vòm cong nhợt nhạt của ngôi nhà đã biến mất hẳn trong bóng đêm thăm thẳm.

- Cô có biết cách tìm đường về không đấy? - Ông hét to. - Gần như chẳng nhìn thấy gì nữa rồi. - Ông chưa kịp dứt lời, đã nghe có tiếng xuỵt rất to, Norah vừa châm ngòi quả pháo sáng. Luồng ánh sáng hai màu đỏ và trắng tạo nên một vùng sáng có bán kính khoảng mười mét xung quanh họ. Sau khi lấy gót chân khoét một vệt lõm trên mặt băng, cô vun băng vụn thành ụ cạnh miệng hố, ở phía đầu ngọn gió. Xong xuôi, cô nện mạnh chiếc đèn pháo sáng xuống vết lõm ấy.

- Đồ chơi kỹ thuật cao đấy. - Norah kêu to.

Đồ chơi à? - Rachel hỏi, lấy tay che mắt trước luồng sáng bất ngờ.

- Của hãng Hansel và Gretel đấy. - Norah hét to. - Những cái đèn này sáng được một giờ liên tục - tha hồ thời gian cho chúng ta quay về.

Nói xong, Norah lại quay lên phía trước, dẫn đầu cả nhóm đi tiếp dọc dòng sông băng - lại một lần nữa đi vào đêm đen.

Chương 46

Gabrielle Ashe từ văn phòng của Marjorie Tench lao vụt ra ngoài, đâm sầm vào một thư ký. Chết điếng, cô không còn nhìn thấy gì khác ngoài những bức ảnh - những thân thể - chân và tay quấn chặt vào nhau. Mặt đầy thoả mãn.

Gabrielle không biết những bức ảnh đó được chụp bằng cách nào, nhưng cô biết rõ ràng chúng là những bức ảnh thật. Được chụp bên trong văn phòng của Thượng nghị sĩ Sexton, hình như từ trên cao, rất có thể từ một camera bí mật nào đó. Cầu Chúa phù hộ cho con. Trong một bức ảnh, Gabrielle và Sexton ăn nằm với nhau ngay trên bàn làm việc của ngài Thượng nghị sĩ, hai thân thể nằm loã lồ trên mặt bàn ngổn ngang tài liệu.

Đến phòng bản đồ thì Marjorie Tench đuổi kịp cô. Tay bà ta vẫn cầm chiếc phong bì màu đỏ đựng ảnh.

- Cô phản ứng mạnh như thế có nghĩa là những bức ảnh này là ảnh thật. - Bà cố vấn cao cấp của Tổng thống có vẻ đầy mãn nguyện. - Tôi hy vọng chúng làm cho cô tin rằng những tài liệu khác cũng đều xác thực. Cùng từ một nguồn đấy.

Lao sầm sập xuống cầu thang, Gabrielle đỏ bừng và nóng ran đến từng chân tóc. Lối ra ở chỗ quái nào không biết?

Chân dài, Tench dễ dàng theo kịp cô.

"Thượng nghị sĩ Sexton đã thề với cả thế gian rằng mối quan hệ giữa cô và ông ta chỉ thuần tuý về mặt tinh thần". Lời ông ta phát biểu trên ti vi nghe thật lâm li. Mặt bà ta vẻ đầy tự mãn.

- Trong phòng tôi vẫn còn đoạn băng ghi lại buổi ấy đấy. Cô có cần xem lại cho khỏi quên không?

Chẳng cần ai phải nhắc. Gabrielle nhớ quá rõ buổi họp báo ấy. Những lời phủ nhận của ngài Thượng nghị sĩ thật là sắt đá, cũng thật cảm động.

- Buồn thay, - bà ta nói tiếp, không hề tỏ ra thất vợng. - Thượng nghị sĩ Sexton đã nhìn thẳng vào mắt người dân Mỹ để nói dối một cách trắng trợn. Công chúng có quyền được biết. Và họ sẽ biết. Đích thân tôi sẽ làm việc này. Vấn đề bây giờ chỉ còn là bằng cách nào mà thôi. Tốt nhất là cô nên tự nói ra.

Gabrielle kinh hãi.

- Bà tưởng là tôi sẽ giúp bà làm nhục ngài Thượng nghị sĩ sao?

Mặt Tench đanh lại.

- Thế là tôi đã tử tế lắm rồi đấy, Gabrielle ạ. Tôi đã cho cô cơ hội để giữ lại chút thể diện bằng cách ngẩng cao đầu mà nói ra sự thận. Cô chỉ cần ký vào bản tuyên bố thừa nhận đã quan hệ tình ái.

Gabrielle đứng phắt lại:

- Cái gì?

Dĩ nhiên, nếu có bản tuyên bố có chữ ký thì chúng tôi có thể giải quyết việc này với ông Thượng nghị sỹ một cách nhẹ nhàng, và nước Mỹ sẽ tránh được một vụ tai tiếng bẩn thỉu. Đề nghị của tôi rất đơn giản: Cô hãy ký vào một bản thông cáo, và sẽ chẳng một ai nhìn thấy những bức ảnh này nữa.

- Bà muốn có một bản thông cáo à?

- Về mặt kỹ thuật thì tôi cần có một bản khai có tuyên thệ, nhưng ngay ở đây có sẵn một công chứng viên để... - Bà điên rồi. - Gabrielle lại đi tiếp.

- Bà ta vẫn theo sát bước cô, lúc này có vẻ rất tức tối. - Bằng cách này hay cách khác thì Thượng nghị sỹ Sexton cũng sẽ bị đổ, Gabrielle ạ. Và tôi đang cho cô cơ hội tự cứu mình để khỏi bị phơi trên mặt báo! Tổng thống là người tử tế nên ông ấy không muốn công khai những bức ảnh này. Nếu cô cho tôi bản khai đó, tất cả chúng ta sẽ giữ lại được một chút thể diện.

- Tôi không phải là một món hàng.

- Nhưng mà ngài ứng cử viên nhà cô thì là thế đấy. Ông ấy là người nguy hiểm, đã thế lại còn vi phạm pháp luật.

- Ông ấy vi phạm pháp luật ư? Chính các người đang giở trò đột nhập vào văn phòng của người khác và chụp ảnh lén đấy thôi? Bà đã nghe nói đến vụ Watergate chưa hả?

- Chúng tôi đâu có trực tiếp liên quan đến việc thu thập những thứ bẩn thỉu này. Nguồn gốc của những bức ảnh này cũng giống như những thông tin về khoản hiến tặng của SFF. Có người đang theo dõi sát sao nhất cử nhất động của hai thầy trò nhà cô đấy.

Gabrielle lao vụt qua quầy trực ban nơi cấp thẻ ra vào. Cô lột phăng cái thẻ, ném thẳng vào mặt người lính gác đang tròn mắt ngạc nhiên. Tench vẫn lẵng nhẵng đằng sau.

- Cô phải quyết định thật nhanh, cô Ashe ạ, - bà ta nói khi cả hai đã ra gần đến cổng chính - nếu cô không nộp cho tôi một bản khai trong đó thừa nhận đã ăn nằm với ông Thượng nghị sỹ, thì đúng tám giờ tối nay, Tổng thống sẽ công khai toàn bộ sự việc.

Gabrielle nhìn thấy cánh cửa và lao vội ra ngoài.

- Trên bàn của tôi, chậm nhất là tám giờ tối, Gabrielle ạ. Tỉnh táo mà suy nghĩ. - Bà ta tung cho cô cái phong bì đầy ảnh.

- Cô giữ những cái này đi, bé yêu. Chúng tôi còn nhiều lắm.

Chương 47

Đi xuôi dòng sông băng, dấn mình vào bóng đêm thăm thẳm, Rachel Sexton thấy một luồng gió buốt giá đang thổi. Rất nhiều hình ảnh cứ ám ảnh tâm trí, làm cô phải băn khoăn suy nghĩ - tảng thiên thạch, loài phù du phát sáng, những hậu quả của sai lầm rất có thể xảy ra khi Norah Mangor khoan thăm dò phiến băng.

Một cái đệm đá nước ngọt đặc liền khối hoàn hảo, Norah đã khẳng định điều đó, đã nhắc cho họ nhớ rằng chị ta đã khoan thăm dò ngay bên trên và xung quanh vị trí của tảng thiên thạch. Nếu dòng sông băng này có lẫn những tua nước mặt chứa sinh vật phù du thì chị ta phải biết ngay. Chắc chắn thế. Tuy nhiên, linh tính mách bảo Rachel rằng giả thuyết đơn giản nhất là giả thuyết đúng. Có những sinh vật phù du đông cứng trong lòng dòng sông băng.

Đi thêm mười phút nữa, cắm thêm bốn cái đèn pháo sáng nữa, Rachel và những người khác đã đi được khoảng hai trăm năm mươi mét. Bất thình lình. Norah dừng lại.

- Chính là chỗ này. - Chị ta nói, giọng chắc nịch y như thầy phù thuỷ chuyên tìm nguồn nước, bằng những cách thức thần bí, đã chọn được địa điểm tuyệt vời để khoan giếng.

Rachel quay lại đằng sau và nhìn ngược lên con dốc. Bán sinh quyển từ lâu đã chìm vào trong ánh trăng đêm mờ ảo, nhưng ánh sáng phát ra từ những cây đèn cắm trên tuyết thì rất rõ, ngọn đèn xa nhất đang lấp lánh như một ngôi sao ở phía xa. Tất cả những cây đèn cùng nằm trên một đường thẳng tuyệt đối, như thể đã được tính toán cẩn thận từ trước. Rachel thực sự thán phục kỹ năng của Norah.

- Đó là một lý do nữa để không vượt lên trước xe trượt. - Norah nói khi thấy Rachel thán phục dãy đèn thẳng tắp. - Xe trượt luôn chạy theo đường thẳng. Nếu cứ để cho nó chịu tác động của lực hấp dẫn và tuyệt đối không can thiệp vào, chắc chắn chúng ta sẽ đi trên một đường thẳng.

- Mẹo hay đấy, - Tolland từ phía sau nói lớn. - Ước gì chúng tôi cũng có nhiều mẹo nhỏ như thế để áp dụng mỗi khi ra khơi.

"Đây chính là ngoài khơi rồi còn gì", Rachel nghĩ, mường tượng trong đầu mặt biển tít sâu dưới chân họ. Trong một tích tắc sau đó, cô chợt để ý đến ánh đèn xa nhất. Tự nhiên nó biến mất, như thể ánh sáng vừa bị một vật lớn lướt qua che mất. Chỉ sau một tíc tắc, nó lại sáng. Rachel chợt cảm thấy lo lắng.

- Norah này, - cô gào thật to để át tiếng gió - ban nãy chị bảo là vùng này có gấu à?

Nhà băng hà học đang chuẩn bị cắm cây đèn phát sáng cuối cùng lên - hoặc là không nghe thấy gì, hoặc là đã cố tình lờ đi.

- Gấu Bắc Cực ăn thịt hải cẩu cơ. - Tolland nói thật to. - Chúng chỉ tấn công người khi con người xâm phạm lãnh địa của chúng thôi.

- Đây là nơi chúng vẫn ở có phải không? - Rachel không bao giờ phân biệt được địa cực nào có gấu, địa cực nào có chim cánh cụt.

- Đúng thế, - Tolland đáp. - Chính vì gấu nên người ta mới đặt tên đất này là Bắc Cực. Trong tiếng Hy Lạp, gấu có nghĩa là arktos.

Kinh thật. Rachel sợ hãi cố nhìn sâu vào bóng tối mịt mùng xung quanh.

- Nam Cực không có gấu. - Tolland nói. - Nên được đặt tên là anti-arktos - Cảm ơn Mike. - Rachel nói. - Nói về gấu thế là đủ rồi đấy.

Ông cười lớn:

- Phải rồi. Tôi xin lỗi.

Norah đã cắm xong cây đèn pháo sáng cuối cùng. Như những lần trước, luồng ánh sáng đỏ rực lại ôm trùm lấy họ, người nào trông cũng béo phị ra vì bộ quần áo bảo hiểm. Bên ngoài vùng sáng của bóng đèn, cảnh vật hoàn toàn mù mịt, như tấm vải liệm lớn màu đen bao trùm lên tất cả.

Rachel và những người khác cùng ngước nhìn lên, Norah đứng choãi chân, tay kéo chiếc xe trượt lùi lại vài mét, đến sát chỗ họ đang đứng, thận trọng trong từng thao tác. Sau đó vẫn giữ dây kéo thật căng, chị ta cúi xuống và lấy tay đẩy lưỡi phanh hình móng nhọn - những chiếc đinh bơn chĩa găm xuống mặt băng, giữ chiếc xe đứng im tại chỗ. Xong việc, chị ta đứng thẳng dậy, phủi quần áo sợi dây thừng quanh người Norah chùng hẳn xuống.

- Xong rồi. - Norah kêu to. - Bắt đầu vào việc nào.

Nhà tiến sỹ băng hà học đi vòng quanh chiếc xe trượt, đến cạnh mũi xe ở vị trí xuôi gió và bắt đầu tháo những chiếc khoá bướm cố định lớp vải bạt bảo vệ phủ kín dụng cụ. Cảm thấy từ đầu đến giờ mình hơi khắc nghiệt đối với Norah, Rachel tiến lên một bước, định giúp một tay bằng cách tháo những chiếc khoá ở đuôi xe.

- Chúa ơi, đừng! - Norah thét lớn, ngẩng phắt lên. - Đừng bao giờ làm như thế.

Rachel rụt tay lại, ngỡ ngàng.

- Đừng bao giờ mở khoá ở ngay đầu ngọn gió! - Norah nói. - Gió thổi ập vào ngay đấy! Chiếc xe này sẽ bay lên trời như diều đấy!

Rachel lùi lại.

- Xin lỗi tôi chỉ... Norah lừ mắt.

- Cả cô lẫn anh chàng cổ sinh vật kia đừng đi theo thì tốt!

Chẳng ai nên đi cùng chị cả, Rachel nghĩ thầm.

Mấy con gà mờ, Norah bực tức, thầm rủa ông Giám đốc cứ khăng khăng bắt Corky và Sexton cùng đi theo. Những kẻ khờ này có khi lại làm người khác chết oan không chừng. Chị ta thậm ghét phải lăng xăng chăm sóc những kẻ khác.

- Mikel! - Norah nói - anh hãy giúp tôi nhấc GPR xuống cái nào.

Tolland giúp Norah dỡ chiếc máy quét radar trong lòng đất (GPR) và đặt nó trên mặt băng. Chiếc máy này trông khá giống ba cái luỡi ủi tuyết nhỏ gắn song song trên khung nhôm. Toàn bộ chiếc máy dài không quá một mét, nó được nối với cái ổn áp và bình ắc quy để trên xe trượt.

- Radar đấy à? - Corky hỏi, cố hét to để át tiếng gió.

Norah lẳng lặng gật đầu. Máy quét radar trong lòng đất có độ phân giải cao hơn thiết bị PODS nhiều. Bộ phận phát của chiếc máy này sẽ truyền những làn sóng điện từ xuyên qua băng. Sóng này sẽ phản hồi với những tần số khác nhau khi gặp phải những chất liệu khác nhau. Nước tinh khiết khi đóng băng tạo thành những khối hình đá cuội. Tuy nhiên, nước biển đóng băng tạo thành những chùm tia vì nó có chứa natri. Đá nước muối làm cho sóng điện từ phản hồi không đều, và tần suất thấp hơn.

Norah khởi động máy.

- Tôi sẽ chụp ảnh cắt ngang toàn bộ phần băng xung quanh vị trí trục vớt tảng đá, - chị ta nói to - Phần mềm bên trong máy sẽ ghi lại hình ảnh và in ra. Đá nước biển sẽ là những đốm màu sẫm.

- In à? - Tolland ngạc nhiên. - In được ngay tại đây à?

Norah chỉ dây cáp nối từ máy GPR với chiếc máy khác được che phủ cẩn thận dưới vải tráng dầu. - Không còn cách nào khác.

Màn hình vi tính tiêu thụ quá nhiều năng lượng điện, cho nên những người nghiên cứu băng hà học trên thực địa thường dùng máy in. Màu không được rõ lắm, vì mực màu laze thường vón cục ở âm hai mươi độ C. Thời tiết ở Alaska đã dậy chúng tôi điều đó.

Norah yêu cầu mọi người đứng cạnh chiếc máy, nhưng xuôi theo hướng gió. Trong khi đó, chị ta chuẩn bị sắp xếp bộ phận phát để có thể quét chính xác vùng đã trục vớt tảng thiên thạch lên, cách xa khoảng ba sân vận động. Nhưng khi Norah nhìn về hướng mà họ vừa đi qua, chị ta không nhìn được gì.

- Mike này, tôi phải để bộ phận phát của GPR xếp thẳng hàng với vị trí của tảng thiên thạch, nhưng mấy cái đèn này làm tôi loá mắt. Tôi sẽ leo ngược lên dốc một chút và giơ tay thẳng một đường với những cây đèn thắp sáng, còn anh chỉnh máy nhé.

Tolland gật đầu, quỳ xuống bên cạnh chiếc máy.

Norah dận mạnh đinh đế giầy xuống mặt băng, nhoài người về phía trước và di chuyển ngược hướng gió, ngược dốc, về phía bán sinh quyển. Gió katabatic hôm nay thổi mạnh không ngờ, và sắp có bão. Nhưng không sao. Vài phút là xong ngay. Rồi sẽ ổn ngay thôi. Norah leo ngược dốc khoảng 20 mét, và ra khỏi vùng sáng, chiếc dây buộc cả nhóm vào nhau bị kéo căng ra.

Từ phía trên, Norah nhìn xuống. Khi mắt đã quen với bóng tối, thì thấy những cây đèn chiếu sáng đã nằm lệch về bên trái vài độ.

Chị ta điều chỉnh vị trí cho đến khi mình đứng trên cùng một đường thẳng với bóng đèn. Sau đó, chị ta dang hai tay ra như thể chúng là chiếc compa xoay người, nhìn thẳng về đúng hướng sáng.

- Tôi đứng thẳng hàng rồi đấy! - Chị ta hét to.

Tolland chỉnh máy GPR, rồi vẫy tay.

- Xong rồi!

Norah nhìn lên đỉnh dốc lần cuối cùng, thấy yên tâm vì đường về đã được chiếu sáng. Tuy nhiên chị ta thoáng nhìn thấy cái gì đó rất kỳ quặc. Trong một tích tắc, cây đèn gần nhất hoàn toàn biến mất. Norah chưa kịp nghĩ đến khả năng chiếc đèn ấy bị tắt thì nó đã sáng trở lại. Nếu là người không biết gì, Norah hẳn đã nghĩ ngay đến chuyện có người vừa xuất hiện xen giữa chị và cây đèn.

"Chắc chắn chẳng có ai ngoài này cả... Trừ khi ông Giám đốc NASA cảm thấy ân hận và đã cử một đội nhân viên đi hộ tống họ. Nhưng không thể có chuyện đó. Chắc chẳng có gì cả", Norah nhủ thầm. Đó chỉ là vì gió quá mạnh nên đèn bị bạt sáng một lúc mà thôi.

Norah quay về bên chiếc máy GPR.

- Để thật thẳng hàng rồi chứ?

Tolland nhún vai.

- Chắc là thẳng rồi.

Norah đến bên bộ điều khiển gắn trên xe trượt và nhấn nút.

Chiếc máy phát ra tiếng rè rè khó chịu rồi thôi ngay.

- Được rồi, - chị ta nói - xong rồi đấy.

- Đã xong rồi cơ à? - Corky hỏi.

- Lâu ở khâu chuẩn bị thôi. Chụp ảnh thì một giây là xong.

Trên xe trượt, máy in bắt đầu lạch xạch hoạt động. Từ sau một tấm mi ca để bảo vệ, nó nhả ra một tờ giấy dầy cuộn tròn. Norah đợi cho đến khi in xong hết, rồi lấy tờ giấy ra. Rồi mọi người sẽ thấy, chị ta nghĩ thầm, mang tờ giấy đến bên cây đèn để mọi người cùng nhìn cho rõ. Không thể lẫn nước biển vào đây được.

Norah đứng bên cây đèn, tay giữ mép tờ giấy, mọi người xúm xung quanh. Chị ta hít thật sâu rồi mở tờ giấy ra xem. Những gì thấy trên tờ giấy làm cho Norah kinh hãi nhẩy dựng lên.

- Lạy Chúa tôi! - Chị ta nhìn trừng trừng, như không tin vào chính mắt mình. Theo như dự kiến, bức ảnh chụp mặt cắt của cái hố sâu đầy nước còn lại sau khi trục vớt tảng thiên thạch. Nhưng Norah không thể ngờ rằng mình sẽ nhìn thấy mờ mờ hình một người lơ lửng trong hố. Máu trong huyết quản chị ta đông cứng lại.

- Ôi Chúa ơi...! Có một xác chết trong hố nước.

Những người khác cũng trân trối nhìn, kinh ngạc, im lặng.

Cái xác ấy nằm chúc đầu xuống trong cái hố hẹp, trông thật ma quái. Xung quanh cái xác dường như có một lớp vải liệm rất kỳ quặc. Giờ thì Norah nhận ra. Máy GPR đã ghi lại lờ mờ hình ảnh chiếc áo khoác dầy của nạn nhân, chiếc áo khoác dài bằng lông cừu trông rất quen.

- Đây chính là... ông Ming... - Norah thì thào. - Chắc ông ấy bị trượt chân..

Norah Mangor không ngờ rằng cú sốc khi thấy xác ông Ming trong hố nước chẳng thấm vào đâu so với một cú sốc nữa mà bức ảnh gây ra. Tiếp tục nhìn sâu xuống đáy hố nước, còn thấy một thứ nữa.

Phần băng đá bên dướt cái hố... Norah nhìn chằm chằm. Đầu tiên chị nghĩ đến khả năng máy bị hỏng. Nhưng rồi, xem lại thật kỹ, chị lờ mờ nhận thấy, rồi hiểu ra vấn đề. Trong khi gió vẫn quất mạnh khiến mép giấy đập phần phật, Norah chăm chú nhìn bức ảnh.

Nhưng mà... Không thể nào! Đột nhiên Norah hiểu ra sự thật, cảm tưởng như sự thật hãi hùng ấy vừa đào mồ chôn chính chị. Norah quên phắt tiến sĩ Ming.

Bây giờ thì Norah hiểu. Nước biển lẫn trong hố nước! Chị quỳ xuống bên cạnh cây đèn. Gần như nghẹn thở. Norah run bắn, tay vẫn giữ chặt tờ giấy.

- Lạy Chúa... tôi không thể ngờ. Thế rồi, đột nhiên trở nên vô cùng giận dữ, chị ta lao thẳng về phía bán sinh quyển của NASA.

- Lũ súc sinh! - Chị ta gào lên, át cả tiếng gió hú. - Lũ súc sinh đáng nguyền rủa!

Trong bóng đêm, chỉ cách đó 50 mét, Delta-Một đưa thiết bị bộ đàm lên sát miệng và chỉ nói vào máy có ba từ.

- Họ biết rồi. Chương 48

Đến khi Michael Tolland giật tờ giấy khỏi tay chị ta, Norah Mangor vẫn còn quỳ nguyên trên mặt băng. Vẫn còn run rẩy sau khi nhìn thấy xác tiến sĩ Ming trong hố nước. Tolland cố trấn tĩnh và nắm bắt tình hình.

Tolland thấy cái hố nước trong ảnh chạy từ mặt băng xuống độ sâu hai trăm foot. Rồi đến xác ông Ming. Ông đưa mắt nhìn xuống sâu hơn nữa, và thấy có cái gì đó rất bất thường. Thẳng cái hố xuống có một cột màu đen chạy suốt xuống đến tận mặt biển. Cột đá nước biển thẳng đứng đó rất to, to đúng bằng kích cỡ của tảng thiên thạch.

Lạy Chúa, - Rachel nhìn qua vai ông và thốt lên - cảm tưởng như cái hố nước chạy thẳng một mạch xuống tận mặt biển!

Tolland đứng lặng người, trí não ông vẫn phản kháng lại cách lý giải duy nhất hợp lý. Trông Corky cũng không kém phần kinh ngạc.

Norah thét lên:

- Có người đã khoan thủng phiến băng từ dưới lên! - Mắt chị ta long lên sòng sọc. - Có kẻ đã cố tình đặt tảng đá vào đó!

Với tính cách cầu toàn, Tolland không muốn tin những gì Norah vừa nói, nhưng là nhà khoa học, ông thừa hiểu rằng những lời đó có thể rất chính xác. Phiến băng Milne nổi bồng bềnh trên mặt nước, và có rất nhiều cách để tiếp cận bằng tàu ngầm. Vì trong môi trường nước, trọng lượng của mọi vật đều giảm đi đáng kể, chỉ cần một chiếc tàu ngầm không lớn hơn chiếc tàu nghiên cứu dành cho một người của ông cũng có thể di chuyển tảng đá. Con tàu có thể xuất phát từ đại dương, tiếp cận phiến băng từ bên dưới, rồi từ đó khoan ngược lên trên. Sau đó, con tàu có thể dùng cánh tay trọng lực hoặc khinh khí cầu đưa tảng đá lên vị trí đó. Khi tảng đá đã được đặt vào vị trí, nước biển sẽ tràn vào lấp kín lỗ hổng rồi bắt đầu đông cứng lại. Khi lỗ khoan đã đông cứng và có thể giữ được tảng đá ở nguyên vị trí, người ta sẽ rút cánh tay trọng lực ra, để mặc cho mẹ Thiên nhiên hàn gắn nốt lỗ hổng còn lại và che lấp hết mọi dấu vết của sự lừa dối.

- Nhưng tại sao? - Rachel hỏi, giằng tờ giấy từ tay Tolland để xem cho kỹ. - Tại sao người ta lại phải làm như thế? Máy GPR có trục trặc gì không?

- Đó là chuyện dĩ nhiên, tôi đảm bảo! Và bức ảnh này giải thích rất thoả đáng cho sự có mặt của sinh vật phù du và nước biển trong hố nước!

Tolland buộc phải thừa nhận, buồn thay, logic của Norah hoàn toàn thuyết phục. Loài khủng trùng hình roi phát sáng đã theo bản năng bơi ngược lên trên lỗ khoan, bị mắc kẹt ngay bên dưới tảng đá, rồi bị đông cứng lại. Sau đó, khi Norah nung nóng tảng đá, lớp băng ngay bên dưới mặt đá cũng tan theo, giải phóng những loài sinh vật phù du đó. Lần này, chúng lại theo bản năng tiếp tục bơi lên trên, đến tận mặt nước bên trong bán sinh quyển, và chết vì thiếu nước mặn.

- Thật là điên rồ! - Corky kêu lên, - NASA có trong tay một tảng thiên thạch có hoá thạch động vật, còn tìm đâu ra tảng đá đó thì có gì quan trọng? Sao họ lại phải giở giói ra chôn nó vào giữa phiến băng để làm gì cơ chứ?

- Ai mà biết được, - Norah đốp chát - nhưng thiết bị GPR không lừa dối đâu. Chúng ta đã bị lừa. Tảng thiên thạch đó không hề liên quan gì đến Jungersol Fall. Nó mới được ém vào đó gần đây thôi. Để lâu thì sinh vật phù du sẽ chết.

Chị ta đã xếp xong thiết bị GPR lên xe trượt và cài khoá. Phải quay lại và nói cho mọi người biết! Tổng thống sắp cung cấp cho công chúng những dữ liệu láo toét! NASA lừa dối Tổng thống!

- Đợi đã! - Rachel hét to. - Ít ra thì cũng phải chạy thử một lần nữa cho chắc đã. Thế này chưa kết luận ngay được. Ai sẽ tin chúng ta đây?

- Ai cũng phải tin, - Norah vừa nói vừa sửa soạn - Khi về đến bán sinh quyển, tôi sẽ khoan thăm dò một mũi nữa đúng tại mặt đáy của hố nước. Nếu lấy lên được đá nước biển. tôi đảm bảo là mọi người đều phải tin!

Norah nhả phanh trên bánh xe trượt, kéo xe về hướng bán sinh quyển, ngược lên dốc, dận mạnh đinh giầy xuống mặt băng và kéo xe nhẹ nhàng kỳ lạ. Chị ta quả là người rất sốt sắng với công việc.

- Đi thôi! - Norah thét lớn, kéo cả đội về phía trước, đi theo hướng có những cây đèn phát sáng. - Tôi không biết NASA định làm gì ở đây, nhưng tôi nhất định không để cho người ta lừa... Cổ Norah Mangor đột nhiên ngửa gập về phía sau như thế bị cái gì đập rất mạnh vào trán. Chị ta thét lên đau đớn, loạng choạng, rồi ngã ngửa xuống băng. Hầu như tức thì, Corky cũng thét lên và loạng choạng như thể bị ai túm chặt lấy vai rồi đẩy mạnh về phía sau. Nhà cổ sinh vật học ngã vật xuống băng, quằn quại đau đớn.

Ngay lập tức, Rachel quên bức ảnh, tiến sĩ Ming, tảng thiên thạch và đường ngầm kỳ quặc bên dưới phiến băng. Cô cảm thấy một viên đạn vừa bay sượt qua tai, suýt nữa thì trúng vào thái dương.

Theo bản năng, Rachel quỳ mọp xuống, Tolland cũng làm theo.

- Chuyện gì thế nhỉ? - Tolland thét lên.

Rachel nghĩ đây hẳn phải là một cơn bão tuyết - những cục băng bay vèo vèo từ trên đỉnh sông băng xuống - trông kiểu Corky và Norah bị hạ gục, Rachel biết rằng những cục băng này phải bay với tốc độ hàng trăm dặm một giờ. Kỳ lạ hơn nữa, một trận mưa rào rào những cục băng to bằng quả bóng lúc này chỉ tập trung vào Rachel và Tolland, rơi chi chít quanh họ, làm cho mặt băng bị cầy lên và bắn tung toé. Rachel cuộn người nằm sấp xuống, thúc đinh ở mũi giầy cắm chặt xuống băng, nhoài người tới lá chắn duy nhất trong tầm tay. Chiếc xe trượt. Một tích tắc sau, Tolland cũng bò đến núp bên cạnh cô. Ông nhìn Norah và Corky nằm phơi mình trên băng.

- Dùng dây kéo họ vào đây! - Miệng hét, tay ông túm sợi dây và bắt đầu kéo... Nhưng sợi dây đã bị quấn chặt quanh chiếc xe kéo.

Rachel nhét bức ảnh vào túi bộ quần áo bảo hộ Mark IX, và trườn về phía chiếc xe kéo, cố gỡ sợi dây bị mắc vào gần xe Tolland theo sát đằng sau cô.

Trận mưa đá đột nhiên tập trung vào chiếc xe kéo, như thế mẹ Thiên nhiên đã bỏ qua Corky và Norah, chỉ nhằm thẳng vào Rachel và Tolland. Một viên đá đâm mạnh vào tấm vải trên nóc xe kéo, bị mắc vào đó rời nẩy lên, và rơi đúng vào lòng Rachel.

Nhìn viên đá, Rachel sợ cứng người. Chỉ trong chớp mắt, nỗi kinh ngạc đã nhường chỗ cho sự hãi hùng. Những hòn đá này là nhân tạo. Cục băng nằm trên lòng Rachel là một hình cầu tròn trịa to bằng quả dâu tây. Bề mặt mịn và bóng, chỉ có một đường viền chạy xung quanh chu vi của nó, giống như quả đạn đúc bằng chì kiểu cổ dùng cho súng hoả mai. Những cục băng tròn xoe này, không nghi ngờ gì nữa, là do con người làm ra.

Đạn băng... Là người am hiểu quân sự, Rachel đã nghe nhiều về loại đạn mới được thử nghiệm - vũ khí ngẫu tác (IM) - những khẩu súng trường có thể nén tuyết thành đạn, súng trường sa mạc có thể nung chảy cát thành những viên đạn thuỷ tinh, súng bắn nước có thể phụt tia nước bắn ra với vận tốc có thể làm gẫy xương đối phương.

Vũ khí ngẫu tác có những ưu điểm rất đáng kể so với vũ khí thông thường, bởi vì đạn được chế tạo ngay tại chỗ, cho phép binh lính tác chiến trong mọi địa hình mà không cần phải mang theo đạn.

Những quả đạn băng đang bắn thẳng vào người họ lúc này, Rachel biết, được tạo ra "có chủ đích" bằng tuyết được tiếp vào báng súng.

Như chuyện thông thường trong giới tình báo, càng biết nhiều thì người ta càng dễ nhận thấy tình hình đáng sợ trước mắt. Đây không phải trường hợp ngoại lệ. Lúc ấy, Rachel đã thầm ước giá cô không hề biết gì, nhưng những hiểu biết về vũ khí ngẫu tác ngay lập tức dẫn cô đến một kết luận đáng sợ: Họ đang bị một đội lính tinh nhuệ nào đó tấn công, bởi họ là lực lượng duy nhất ở Hoa Kỳ được sử dụng loại vũ khí ngẫu tác thử nghiệm này trên thực địa.

Sự có mặt của một đơn vị vũ trang tinh nhuệ lại dẫn Rachel đến suy luận thứ hai, còn hãi hùng hơn thế nữa: Khả năng sống sót khi bị tấn công gần như không tồn tại.

Dòng suy nghĩ loạn xạ của Rachel bị cắt ngang khi một viên đạn băng bay trúng vào lỗ hổng trên xe trượt, sượt qua một loạt dụng cụ trên nóc xe, văng vào bụng Rachel. Bất chấp lớp đệm dầy của bộ quần áo bảo hộ, Rachel tưởng như mình vừa bị võ sĩ hạng nặng thụi vào bụng. Đau nổ đom đóm mắt, cô ngã ra sau, phải túm chặt đuôi xe để giữ thăng bằng. Michael Tolland vội bỏ sợi dây buộc vào người Norah mà ông đang kéo để đỡ Rachel, nhưng không kịp. Rachel ngã ngửa, kéo theo cả một đống dụng cụ. Cả cô lẫn Tolland nằm lẫn vào giữa đống thiết bị điện tử ngổn ngang.

- Đấy là, đạn đấy... - Cô hổn hển, nói không ra hơi. - Chạy đi!Chương 49

Đoàn tàu điện ngầm Washington Metrorail vừa rời ga Federal Triangie, Gabrielle thầm ước giá nó có thể chạy nhanh hơn nữa. Cô ngồi co cứng trong một góc, lơ đãng nhìn những bóng người lướt qua ngay sát bên. Chiếc phong bì lớn màu đỏ của Marjorie Tench nằm trên đùi cô, tưởng chừng nặng cả chục tấn.

Mình phải nói chuyện với ngài Sexton! Lúc này đoàn tàu đang dần tăng tốc, hướng tới văn phòng ngài Thượng nghị sĩ. Phải nói ngay lập tức!

Giờ đây, ngồi trong toa tầu mờ tối, nhìn những bóng sáng hắt qua cửa sổ tàu, Gabrielle tưởng như mình đang ngồi trên chuyễn tàu trong mơ. Những bóng sáng vụt qua rồi tắt lịm, hệt như những bóng đèn màu nhấp nháy trong sàn nhảy nào đó. Nhìn phía nào cũng thấy những đường hầm hun hút y như những hẻm núi sâu.

Ước gì tất cả những chuyện đó đều không có thật. Thẫn thờ nhìn chiếc phong bì trong lòng, Gabrielle mở ra, rồi cầm một bức ảnh để xem. Trong một tích tắc, bóng đèn huỳnh quang trong toa chợt nhấp nháy, bức ảnh hiện lên như một ảo giác hãi hùng - Thượng nghị sĩ Sexton đang nằm trong văn phòng, trần như nhộng, hướng vẻ mặt đầy thoả mãn về camera, bên cạnh ông là Gabrielle, cũng không một mảnh vải che thân.

Cô thở giốc, dúi ngay bức ảnh vào phong bì, tay lẩy bẩy đậy lại thật kỹ.

Thế là hết.

Khi đoàn tàu đã lên khỏi đường ray ngầm trong lòng đất và lăn bánh đến gần L Enfant Plaza, Gabrielle lục túi tìm điện thoại cầm tay và bấm số máy cá nhân của ngài Thượng nghị sĩ. Chỉ nghe thấy giọng thu sẵn trong hộp thư thoại của ông. Thất vọng, cô bấm số máy văn phòng của ông. Lần này thì cô thư ký nghe máy.

- Gabrielle đây mà. Thượng nghị sĩ có ở đó không?

Người thư ký có vẻ bực bội.

- Cô biến mất đi đằng nào thế? Ông ấy tìm cô mãi.

- Tôi có cuộc họp, không ngờ lại lâu thế. Cho tôi nói chuyện với ông ấy ngay.

- Cô phải đợi đến sáng mai thôi. Ông ấy về Westhrook rồi.

Khu căn hộ cao cấp Westbrook là nơi ở của Thượng nghị sĩ tại thủ đô.

- Tôi gọi về nhà nhưng không thấy ông ấy nghe máy. - Gabrielle nói.

Ông ấy đã lên lịch cho tối nay là dành cho việc riêng rồi. - Cô thư ký nói. - Thượng nghị sĩ ra về rất sớm.

Gabrielle cau có. Việc riêng. Quá bồn chồn lo lắng, cô quên mất ngài Sextơn đã dự định dành buổi tối nay để ở nhà một mình. Và Thượng nghị sĩ cương quyết không để bất kỳ ai làm phiền mình trong những buổi tối việc riêng như thế. "Nếu toà nhà đó bốc cháy thì hãy đập cửa nhà tôi", ông vẫn thường nói vậy, "còn nếu là những việc khác thì hãy đợi đến sáng hôm sau". Gabrielle tự quyết định coi như nhà Thượng nghị sĩ đang cháy.

- Chị hãy nối máy hộ tôi đi.

- Không thể được.

- Việc này nghiêm trọng lắm, tôi thực sự... - Không được mà, theo đúng nghĩa đen của từ đó đấy. Trước khi ra về, ông ấy còn để lại máy nhắn tin trên bàn và dặn kỹ là tối nay đừng làm phiền ông ấy. Giọng cương quyết lắm. - Cô ta hơi ngập ngừng. - Cứng rắn hơn lệ thường đấy.

- Khỉ thật. Thôi được, cảm ơn cô! - Gabrielle gác máy.

"L Enfant Plaza", - tiếng loa thông báo - dừng tại tất cả các ga.

Nhắm mắt lại, Gabrielle cố thư giãn đầu óc, nhưng những hình ảnh kinh hãi cứ ùa vào tâm trí... Những bức ảnh hãi hùng chụp cô và ngài Thượng nghị sĩ... Đống tài liệu buộc tội ngài Thượng nghị sĩ ăn hối lộ. Tai cô vẫn còn văng vẳng giọng nói rin rít của Tench.

"Cô hãy xử sự cho đúng đắn. Hãy ký vào bản khai đi. Thừa nhận vụ việc đi". Đoàn tàu vào đến sân ga, phanh kêu ken két, và Gabrielle cố mường tượng xem ngài Thượng nghị sĩ sẽ làm gì nếu những bức ảnh này đến tay cánh nhà báo. Ý nghĩ đầu tiên nảy ra trong đầu khiến cô thực sự bị sốc và thất vọng.

Ngài Sexton sẽ nói dối.

Chẳng lẽ đây là trực cảm đầu tiên của cô về ứng cử viên mà cô đang phò tá ư, Đúng thế. Ông ấy sẽ nói dối..., rất đạt:

Trong trường hợp Gabrielle không chịu thú nhận mà những bức ảnh này vẫn đến tay cánh nhà báo, ngài Thượng nghị sĩ chỉ cần tuyên bố đây là những bức ảnh giả mạo. Đây là thời đại kỹ thuật số, và bất kỳ ai đã từng vào mạng đều có thể dễ dàng nhìn thấy những bức ảnh giả được tút lại rất kỹ, trong đó khuôn mặt của các ngôi sao điện ảnh được ghép vào thân mình của người khác, thường là của những kẻ chuyên nghề khiêu dâm trong những cảnh quay dâm dật. Gabrielle từng chứng kiến khả năng nói dối của ngài Thượng nghị sĩ khi ông nhìn thẳng vào ống kính camera mà nói dối một cách ngon lành về mối quan hệ của họ; chắc chắn ông sẽ khiến cho cả thế giới phải tin rằng những bức ảnh đó chỉ là thủ đoạn nhằm làm hại sự nghiệp của ông. Thượng nghị sĩ sẽ tỏ ra rất phẫn nộ, và có thể còn bóng gió nói rằng chính Tổng thống đã lệnh cho tay chân bày trò giả mạo này.

Chả trách Nhà Trắng chưa dám công bố những bức ảnh này.

Gabrielle ngẫm thấy rằng những bức ảnh cũng có thể phản lại họ y như khổ nhục kế lần trước. Dù trông rất sinh động và tự nhiên chăng nữa thì rất có thể chúng sẽ chẳng đi đến đâu cả.

Gabrielle chợt thấy đầy hi vọng.

Nhà Trắng không thể chứng minh đó là những bức ảnh thật.

Đơn giản, nhưng đòn tấn công phủ đầu của bà Tench đối với cô quả là hiệu quả: Thừa nhận mối quan hệ của cô với ông ta đi, nếu không sẽ phải vào tù đấy. Nhà Trắng cần cô thừa nhận vụ việc đó, nếu không những bức ảnh sẽ chẳng có giá trị gì. Niềm tin chợt loé lên trong Gabrielle giữa những giờ khắc bấn loạn này.

Khi đoàn tàu dừng trên sân ga, những cánh cửa lên xuống đã mở sẵn, cũng là lúc một cánh cửa xa xăm chợt hé ra trong tâm trí Gabrielle, mở ra lối đi triển vọng.

Rất có thể tất cả những gì bà Tench nói với mình về vụ hối lộ đều là giả dối... suy cho cùng thì Gabrielle đã nhìn thấy những gì? Dù gì đi nữa thì cũng chẳng có gì xác thực cả - vài bản photocopy các chứng từ ngân hàng, một bức ảnh xám xịt chụp cảnh Thượng nghị sĩ trong một ga ra ô tô. Rất có thể bà ta đã xảo quyệt cho cô xem những chứng từ tài chính giả mạo đó cùng với những bức ảnh sex thật vì hi vọng rằng cô sẽ tin tất cả đều là sự thật. Mánh đó gọi là "xác thực bằng cách liên tưởng" mà các chính trị gia vẫn thường xuyên sử dụng cách này để khiến công chúng tin vào những ý tưởng không rõ ràng và dễ hiểu.

Ngài Thượng nghị sĩ vô tội, Gabrielle tự bảo mình, Nhà Trắng đã lâm vào tình thế tuyệt vọng, và họ bày đặt ra canh bạc này để doạ cho cô sợ, hòng công khai vụ việc đó. Họ muốn Gabrielle từ bỏ ngài Thượng nghị sĩ một cách ầm ỹ và tai tiếng. "Hãy rút lui ngay khi vẫn cờn có cơ hội", bà Tench đã bảo cô thế. Cô có cơ hội đến muộn nhất là tám giờ tối nay. Trò lừa gạt bằng cách dùng tối hậu thư này quả là đáng sợ. A, mọi tình tiết đều ăn khớp, cô thầm nghĩ.

Trừ một chi tiết... Miếng ghép duy nhất không khít trong trò ghép hình này là những bức thư chống phá NASA mà Tench gửi cho cô. Từ đó có thể suy ra là NASA muốn Thượng nghị sĩ bộc lộ rõ quan điểm chống NASA của ông, để lợi dụng điều đó mà làm hại ông. Hay chính chi tiết này cũng trùng khớp nốt? Gabrielle vừa nhận ra rằng chính những bức thư điện tử đó cũng có thể được lý giải một cách rất logic.

Nhỡ những bức thư đó không phải do bà Tench gửi thì sao? Rất có thể bà ta đã khui ra kẻ phản bội, sa thải người đó, rồi can thiệp bằng cách dùng địa chỉ đó để gửi thư cho cô, dàn xếp cuộc gặp này. Rất có thể bà ta giả vờ cố ý gửi những bức thư đó cho cô, để đẩy cô lên vị trí này.

Động cơ tàu đang phì hơi xì xì tại nhà ga L Enfant Plaza, cửa lên xuống sắp đóng.

Gabrielle đưa mắt nhìn sân ga, đầu óc quay cuồng. Cô không biết những suy luận của mình là đúng hay chỉ là những mơ tưởng hão huyền, nhưng dù có chuyện gì đi nữa thì cô cũng phải cho Thượng nghị sĩ biết chuyện này ngay - bất kể tối nay ông có việc nêng hay không cũng mặc.

Tay cầm chặt chiếc phong bì, Gabrielle vội bước xuống sân ga ngay trước khi cửa lên xuống đóng sập lại. Cô đã xác định được cái đích cần phải đến.

Khu căn hộ Westbrooke.

Chương 50

Hoặc phải chống trả, hoặc phải tháo chạy.

Là nhà sinh vật học, Tolland biết rằng khi một sinh vật cảm nhận được hiểm hoạ, sẽ có rất nhiều thay đổi về sinh lý.

Adrenaline dâng tràn lên vỏ não, nhịp tim tăng mạnh, thúc đẩy bộ óc phải đưa ra những quyết định có tính bản năng nhất - hoặc là chống trả, hoặc là tháo chạy.

Bản năng trong Tolland bảo ông hãy tháo chạy, ấy thế nhưng lý trí nhắc nhở rằng ông và Norah Mangor cùng bị buộc vào một sợi dây. Và dù sao thì cũng chẳng biết chạy đi đường nào. Nơi trú ẩn duy nhất trong bán kính vài dặm chính là trong bán sinh quyển; và những kẻ tấn công này, bất kể chúng là ai, đã chiếm giữ vị trí trên đỉnh dốc băng, chặn mất lối thoát ấy. Phía sau ông, phiến băng nở rộng ra thành một dải đồng bằng dài hai dặm phủ lên trên mặt biển băng giá. Tháo chạy về hướng đó có nghĩa là đối mặt với cái chết. Tuy nhiên, cản trở chính lại là những người khác Tolland biết ông không thể bỏ mặc họ. Norah và Corky đang nằm phơi mình trên băng, được nối với Tolland và Rachel bằng một sợi dây.

Tolland cúi rạp bên cạnh Rachel khi những hòn đạn băng tiếp tục nã như mưa xuống chiếc xe trượt đã bị lật sấp ông chộp lấy vài thứ dụng cụ, cố tìm một thứ vũ khí nào đó, súng bắn pháo sáng, radio, hay bất kỳ cái gì.

- Chạy đi! - Rachel hét to, vẫn thở một cách khó nhọc.

Sau đó, làn mưa đạn ngưng đột ngột. Dù gió vẫn đang giật, đêm đột nhiên trở nên yên tĩnh, như thể cơn bão đã bất ngờ tan hẳn.

Lúc ấy, đang thận trọng nhòm qua khe xe trượt, Tolland chứng kiến cảnh tượng hãi hùng nhất trong đời.

Trượt ra chỗ sáng một cách nhẹ nhàng từ bóng tối, ba hình bóng ma quái xuất hiện, chân đeo ván trượt tuyết. Những người này mặc áo liền quần bảo hộ màu trắng. Họ không dùng sào trượt tuyết mà cầm trên tay những khẩu súng trường lớn mà ông chưa từng thấy. Ván trượt của họ trông cũng rất lạ lùng, ngắn và hiện đại trông giống giầy Rollerblades kéo dài ra.

Một cách điềm tĩnh như thể biết rằng đã nắm chắc phần thắng, những người này dừng lại bên nạn nhân gần nhất - Norah Mangor giờ đã bất tỉnh. Tolland run run nhổm người lên để nhòm cho rõ những người này. Họ quay những cặp kính bảo hộ điện tử kỳ lạ về phía ông, nhìn chằm chằm. Rõ ràng là chẳng quan tâm lắm.

Ít nhất là lúc này.

Delta-Một chăm chú nhìn người đàn bà nằm bất tỉnh trên băng, không chút ân hận. Anh đã được đào tạo để thi hành mệnh lệnh mà không cần biết lý do.

Người đàn bà này mặc bộ quần áo giữ nhiệt màu đen dầy, một bên mặt bị sưng to. Chị ta thở gấp, khó nhọc. Một viên đạn từ những khẩu súng trường của họ đã bắn trúng vào má, khiến chị ta bất tỉnh.

Giờ là lúc hoàn tất công việc.

Khi Delta-Một quỳ xuống bên người đàn bà không quen biết, hai đồng đội của anh chĩa súng về những mục tiêu còn lại - một người đàn ông bé nhỏ nằm bất động trên băng ngay gần họ, và hai nạn nhân khác đang nấp sau chiếc xe trượt lật úp. Mặc dù họ có thể dễ dàng tiến tới để kết liễu tất cả, nhưng những nạn nhân kia không có vũ khí và cũng chẳng thể chạy đi đâu. Cố giết tất cả bọn họ ngay lúc này là hành động bất cẩn. Đừng bao giờ chút nhỏ trọng tâm chú ý nếu không thực sự cần thiết. Hãy thanh toán từng đối thủ một.

Theo đứng bài bản, Đội Delta sẽ kết liễu từng đối tượng một. Tuy nhiên, điều đặc biệt chính là không một dấu vết nào có thể hé lộ những lý do khiến những người này phải chết.

Cúi xuống bên người đàn bà, Delta-Một tháo găng tay giữ nhiệt và vốc một nắm tuyết. Anh ta gang miệng nạn nhân ra rồi nhét tuyết vào họng. Delta-Một nhét thật đầy, ấn tuyết xuống tận khí quản. Trong vòng ba phút chị ta sẽ chết.

Phương pháp này có tên là "belaya smert" - cái chết trắng, do mafia Nga nghĩ ra. Nạn nhân sẽ bị chết ngạt trước khi tuyết trong miệng tan ra. Nhưng sau khi chết rất lâu, cơ thể người vẫn còn đủ ấm để làm đám tuyết ấy tan hết. Dù người ta có thể nghi ngờ, nhưng không ai tìm thấy được bất kỳ hung khí hay bằng chứng nào để chứng minh cho hành động giết người. Cuối cùng thì người ta cũng có thể nghĩ ra nguyên nhân thực sự, nhưng lúc ấy thì chúng đã có đủ thời gian. Những viên đạn băng sẽ hoà lẫn vào băng tuyết xung quanh, và vết sưng phồng trên mặt người đàn bà này sẽ trông giống như hậu quả của cú ngã chí mạng - chẳng có gì đáng ngạc nhiên khi gió thổi mạnh đến mức này.

Ba người còn lại cũng sẽ bị hạ sát theo kiểu này, sau đó Delta-Một sẽ chất họ lên xe, kéo đi xa vài trăm mét và lại buộc họ vào dây rồi bố trí hiện trường giả. Vài giờ nữa người ta sẽ tìm thấy những thi thể đã đông cứng, hiển nhiên giống hệt những nạn nhân của thời tiết xấu. Dĩ nhiên, những người đi tìm sẽ băn khoăn không hiểu những người này ra ngoài trời để làm gì Suy cho cùng thì những cây đèn báo sáng của họ đã tắt hết, thời tiết thì thật kinh khủng, bị lạc lối trên phiến băng Milne có nghĩa là cái chết sẽ ập đến tức thì.

Lúc này, Delta-Một đã nhồi xong tuyết vào cổ họng người đàn bà. Trước khi chuyển sang những nạn nhân khác, anh tháo cái móc nối vào sợi dây của nhóm trên thắt lưng chị ta. Sau này có thể móc vào lại nhưng lúc này anh không muốn những nạn nhân kia nghĩ đến chuyện kéo chị ta ra chỗ khác.

Hành động giết người này quả là dã man quá sức tưởng tượng của Tolland. Sau khi đã tháo sợi dây buộc vào Norah Mangor, cả ba bắt đầu quay sang Corky.

Cần phải tìm cái gì đó!

Corky lúc này đã tỉnh lại, đang rên rỉ, gắng sức ngồi dậy, nhưng một người lính ấn ông ta xuống, ngồi đè cả người lên rồi dùng tay và chân ghìm chặt chân tay Corky xuống tuyết. Corky kêu thét lên đau đớn, nhưng tiếng kêu lập tức bị cơn gió dữ át đi.

Kinh hãi đến phát điên, Tolland lục lọi những đống dụng cụ đổ xuống từ chiếc xe trượt. Chắc chắn phải có thứ gì đó! Một thứ vũ khí nào đó! Chắc chắn phải có! Nhưng ông chỉ tìm thấy những dụng cụ phân tích băng, thảy đều bị trận mưa đạn băng vừa nãy phá tan tành. Cạnh ông. Rachel đang chới với cố thu người ngồi dậy bằng cách dựa người vào cây rìu đá.

- Phải chạy đi... Mike... Tolland nhìn chiếc rìu mắc ở cổ tay Rachel. Có thể dùng làm vũ khí được. Đại loại vậy. Ông mường tượng cảnh dùng chiếc rìu tí xíu đó để tấn công ba người lính được vũ trang đến tận chân răng kia.

Làm thế là tự sát.

Rachel vừa ngồi hẳn dậy, Tolland chợt nhìn thấy một vật sau lưng cô. Cái túi dù rất to. Thầm cầu Chúa trong túi đó có khẩu súng bắn pháo sáng hay chiếc radio, ông bò qua người Rachel, tay lần cái túi. Trong túi có một tấm vải Mylar rất to, được gấp cẩn thận. Chẳng ích gì. Trong túi dụng cụ nghiên cứu biển của Tolland cũng có một cái gần giống thế này. Đây là quả khinh khí cầu loại nhỏ được chế tạo để vận chuyển những dụng cụ quan trắc khí hậu có trọng lượng chỉ bằng chiếc máy tính cá nhân. Cái khinh khí cầu của Norah chẳng làm được nên trò trống gì trong hoàn cảnh này, nhất là khi không có bình khí helium để gắn kèm vào.

Nghe tiếng Corky đang vật vã, Tolland càng tuyệt vọng. Hoàn toàn tuyệt vọng. Thất bại thảm hại. Đúng như những gì ông thường nghe mọi người nói về chuyện người ta thường nhớ lại những khoảnh khắc quan trọng trong đời trước lúc lâm chung, những kỷ niệm ấu thơ chợt ùa về lấp đầy tâm trí Tolland. Trong vòng một tích tắc, ông nhớ lại thuở còn ở trên chiếc thuyền buồm tại cảng San Pedro, tập bay trên trục buồm lớn - một thú tiêu khiển ưa thích của các thuỷ thủ - bám tay vào dây tời, đu đưa ngay trên mặt biển, lúc như lao thẳng xuống mặt nước cuồn cuộn, lúc lại hả hê tung người lên cao hệt như một đứa trẻ đang đu trên xà đơn phó mặc sinh mạng cho sợi dây buồm và những ngẫu hứng của gió biển.

Tolland lập tức nhìn như muốn nuốt chửng chiếc khinh khí cầu Mylar trong tay, hoá ra tâm trí ông đâu đã chịu đầu hàng, ông vừa nảy ra một giải pháp! Bay trên trục buồm lớn.

Trong khi Corky vẫn đang đơn độc vật lộn với ba người lính kia, Tolland giật mạnh lớp vải bảo hộ bao quanh chiếc khinh khí cầu ông không ảo tưởng rằng đây là biện pháp hữu hiệu, nhưng ở lại đây có nghĩa là cả ba người sẽ phải chết. Ông lôi mạnh khinh khí cầu ra. Có một dòng chữ in trên móc gài hàng: CẨN TRỌNG: KHÔNG SỬ DỤNG KHI TỐC ĐỘ GIÓ QUÁ 10 HẢI LÍ.

Cẩn trọng cái con khỉ. Cố giữ tay thật chặt để khinh khí cầu không nở phồng ra, Tolland bò đến bên Rachel lúc này đang nằm nghiêng một bên. Ông đọc thấy vẻ ngỡ ngàng trong mắt cô khi quỳ xuống sát Rachel và hét lớn:

- Giữ lấy cái này!

Ông đưa cho Rachel khinh khí cầu được gấp cẩn thận rồi dùng tay kia móc cái móc gài vào thắt lưng mình, sau đó ông lăn người và kéo chiếc móc ấy để gài vào thắt lưng Rachel.

Lúc này hai người đã bị buộc làm một.

Bị buộc chặt vào nhau ngang thắt lưng.

Sợi dây buộc giữa hai người lòng thòng kéo dài trên tuyết đến chỗ Corky đang giãy giụa, rồi tiếp tục kéo dài thêm mười mét nữa đến tận chỗ cái móc nằm chỏng chơ bên cạnh Norah Mangor.

Norah thì không cứu được nữa rồi, Tolland tự nhủ, mình cũng có thể làm gì cho cô ấy nữa.

Ba kẻ kia đang xúm lại bên Corky, chúng đã vốc được một nắm tuyết sắp sửa nhồi vào cổ họng nhà cổ sinh vật. Tolland biết họ không còn thời gian để chần chừ nữa.

Tolland giật mạnh chiếc khinh khí cầu trên tay Rachel. Chất vải dù này nhẹ như giấy, và rất chắc chắn. Đây rồi.

- Bám chắc nhé!

- Mike? - Rachel lên tiếng. - Cái gì...

Tolland huơ huơ tấm vải trên đầu. Cơn gió dữ lập tức ùa vào giật tung các nếp xếp, tấm vải căng rộng ra như cánh dù giữa gió xoáy. Không khí lùa đầy vào, quả khinh khí cầu căng phồng lên đánh phựt, trên tay ông, tất cả chỉ trong tích tắc.

Tolland cảm thấy bị kéo rất mạnh ở thắt lưng, và ngay tức thì.

Ông biết mình đã đánh giá không hết sức mạnh của loại gió katabatic này. Chỉ trong chớp mắt, ông và Rachel đã bị kéo gần như lơ lửng trong không khí, xuôi xuống dưới dốc băng. Sau một tích tắc, ông thấy thắt lưng bị giật mạnh lần nữa khi sợi dây nối với Corky Marlinson bị kéo căng ra. Cách ông hai mươi mét, ông bạn khốn khổ đang khiếp hãi của ông bị giật mạnh khỏi tay lũ sát thủ, làm cho một tên chới với ngã lộn nhào. Corky kêu lên thất thanh khi bị kéo lê trên băng với tốc độ kinh hoàng, suýt va vào chiếc xe trượt bị lật úp bên cạnh đống dụng cụ ngổn ngang. Một sợ dây khác cũng bị lôi lượt sượt bên Corky... Sợi dây đáng ra được móc vào Norah Mangor.

Mình đâu có thể làm được gì hơn, Tolland tự nhủ.

Cả ba bị kéo lê trên băng chẳng khác gì những con rối bị buộc vào nhau. Đạn băng vãi như mưa quanh họ, nhưng Tolland biết những hung thủ kia chẳng thể làm gì được nữa. Sau lưng ông, bóng ba người lính mặc quần áo trắng đứng trong quầng sáng toả ra từ những cây đèn đang mờ dần đi.

Lúc này, Tolland thấy băng tuyết đang sượt qua dưới bộ áo liền quần bảo hộ trên người ông với tốc độ mỗi lúc một cao hơn, và cảm giác nhẹ nhõm vì thoát chết nhanh chóng tan biến. Phía trước họ, ở khoảng cách không đầy hai dặm, điểm tận cùng dốc đứng như bờ vực của phiến băng Milne đang đợi sẵn, và tiếp đến..., cách mặt băng một trăm foot..., là những con sóng chết người của Biển Bắc

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Com

Tags: #brown#dan