Truyen2U.Net quay lại rồi đây! Các bạn truy cập Truyen2U.Com. Mong các bạn tiếp tục ủng hộ truy cập tên miền mới này nhé! Mãi yêu... ♥

Phần Không Tên 13

Mặt đất run rẩy, dân chúng trong thôn đã khóc gào inh ỏi, giặc Thát tràn tới

nhanh như một đàn châu chấu.NGƯỢC VỀ THỜI MINH

Nguyệt Quan

www.dtv-ebook.com

Chương 196 Quyết Phải Chém Đầu

Thanh thế của giặc Thát khiến cho tất cả mọi người đều sững sờ ngay lập tức.

Bọn chúng từ trên núi ùa xuống, vừa gào thét vừa tràn vào thôn xóm, những người

dân kinh hoảng bỏ chạy tán loạn trên đường đều bị trường đao nương theo thế ngựa

phi của bọn chúng vớt qua không phí chút sức lực nào, đầu lăn lông lốc.

Dù chỉ là một tốp lính men theo đường mòn trong núi kéo đến đánh lén, cướp

bóc lương thực, giặc Thát vẫn giữ nguyên thói quen công kích đối thủ như lúc ở

trên thảo nguyên. Chúng không vội xâm nhập vào nhà dân cướp bóc tài vật mà

xông thẳng liền một mạch, cậy vào thanh thế hung hãn và bạo ngược để phá vỡ đội

hình đối phương, hòng đập tan mọi dũng khí phản kháng của kẻ địch.

Trước đó, nhận được tin tình báo thôn trang nhỏ bé này không hề có quan binh

trú đóng nên bọn chúng định tràn xuyên qua thôn rồi bọc lại để phòng ngừa thôn

dân chạy trốn, như vậy chiến mã xông đến cuối thôn sẽ liền lập tức quay lại, bắt đầu

cướp giết từng nhà.

Song đám giặc Thát đi đầu xông đến cổng thôn phía đối diện lại ngạc nhiên

trông thấy mấy trăm quan binh đang bày trận đón sẵn ở đó, giương cung lắp tên, tên

kín như rừng.

Tuy bọn chúng không kịp phân tích tại sao trong thôn lại đột nhiên xuất hiện

một đội quan binh, song bộ hạ của Hỏa Sư đều là những tên lính hung hãn nhất

trong các bộ lạc Mông Cổ Thát Đát, đội quân nghìn người được phái đến cướp bóc

lương thực này lại càng kiêu dũng thiện chiến nên chỉ sau thoáng kinh ngạc, chúng

liền ngang nhiên hò hét múa tít vũ khí xông tới.

Giặc Thát phía sau trông thấy tình huống này cũng đều vọt ngựa tiến đến, vừa

phi vừa lấy cung lắp tên. Người Mông Cổ rất giỏi kỹ thuật vừa cưỡi ngựa vừa bắncung, hết sức thành thạo việc kéo cung lắp tên trên lưng ngựa, trong nháy mắt bọn

chúng đã tiến vào trạng thái sẵn sàng công kích.

Trông thấy tình hình như vậy Dương Lăng cũng không dám trì hoãn thêm.

Trong thôn giấu không tới bốn trăm thớt ngựa khỏe để tránh tai mắt kẻ địch, đội

quân này là lính đánh bộ, một trận mưa tên sẽ chỉ có thể ngăn chặn giặc trong chốc

lát. Nếu để giặc Thát xông vào trong trận, e rằng mấy trăm người đều sẽ bỏ mạng

tại chỗ.

Nơi đây gần Đại Đồng như vậy, phía trước lại có Trường Thành cách trở, giặc

Thát chưa từng xuất hiện ở nơi này, thêm vào đó quân chủ lực của Bá Nhan đã

chuyển hướng tấn công sang Hồ Khẩu, Bình Thuận nên Dương Lăng không hề nghĩ

rằng trên núi sẽ lại đột nhiên xuất hiện một tốp giặc Thát. Thật đúng là "bọ ngựa bắt

ve sầu, chim sẻ rình sau lưng".

Nếu giặc Thát muốn vòng qua Trường Thành để đột kích hậu phương quân

Minh thì bọn chúng chỉ có nước lén lút đi xuyên qua mấy đoạn núi cao hiểm trở

giữa những rặng núi non trùng điệp chưa được xây dựng Trường Thành phòng thủ.

Nhưng những lối ấy khó đi vô cùng nên đại quân không thể đi qua, một ngàn người

này hẳn đã là cực hạn.

Nghĩ đến đây, Dương Lăng lập tức quyết định. Y quát lớn:

- Mặc kệ là quan hay cướp, tất cả đều là người Hán. Bắt cướp là chức trách mà

giết giặc là trách nhiệm thiêng liêng, món nợ giữa chúng ta sau này sẽ tính. Hôm

nay chỉ giết giặc Thát! Các huynh đệ, động thủ!

Tiếng cung ngân rền, dưới mệnh lệnh của Dương Lăng bốn trăm cung tiễn thủ

lập tức chuyển hướng, hàng loạt mũi tên gắn đuôi lông chim như cơn mưa rào điên

cuồng ập xuống đầu đám giặc Thát đang phóng tới như bay.

Đám giặc Thát đang thúc ngựa phi nhanh kêu la đau đớn rồi ngã rạp một mảng,

mấy con ngựa lùn tráng kiện Mông Cổ trên lưng còn cắm đuôi tên hí lên đau đớn,

quay đầu bỏ chạy, thi thể vẫn còn móc vào bàn đạp bị chúng kéo lê trên tuyết tạo

thành một dải máu dài.Mắt thấy hơn nghìn thiết kỵ trong thôn đang ùn ùn kéo tới, trong lòng Dương

Lăng lại trở nên bình tĩnh cực kỳ. Mặc dù gần như y chưa từng đích thân cầm đao

xông pha chiến trường nhưng lại đã tận mắt chứng kiến nhiều trận kịch chiến. Nay

mấy trăm thị vệ đều chỉ tuân theo lệnh mình, y nhất định phải bảo toàn tính mạng

của các huynh đệ. Đó là trách nhiệm của y.

Dương Lăng quét mắt một lượt, nghiêm giọng quát lớn:

- Cửa thôn chật hẹp, không có lợi cho kỵ binh giặc Thát xông tới. Thị vệ đại nội

lên ngựa, chận cửa thôn lại cho bản quan! Những người khác lập tức lui về hướng

núi Bạch Đăng, dựa núi mà thủ!

Sau thoáng kinh ngạc, đám thị vệ đại nội đã khôi phục dũng khí, nghe lệnh lập

tức vịn yên nhún người lên ngựa, vung phác đao chuôi dài phi đến cửa thôn. Bình

thường Lưu Đại Bổng Chùy vẫn nói giọng kinh sư, lúc này quá kích động, gã la lớn

bằng giọng Sơn Đông quê nhà:

- Mẹ nó[*], cái con bà mẹ nó, sao lại có nhiều tên giặc Thát điên từ Lục Câu Lý

tràn ra như thế này?

[*: câu chửi đổng cửa miệng của người Lai Dương vùng Sơn Đông, theo ]

Nói đoạn gã liền cầm côn sắt định nhảy lên ngựa. Ngũ Hán Siêu kéo gã lại,

quát:

- Ngươi làm cái gì vậy? Cho dù ngươi giết một nghìn tên giặc Thát mà đại nhân

có mệnh hệ gì thì ngươi cũng sẽ không có chỗ mà khóc đâu! Bảo vệ đại nhân rút về

núi Bạch Đăng ngay!

Từ dạo bị người ta xỏ mũi suýt nữa hại chết Dương Lăng, đương nhiên Ngũ

Hán Siêu luôn bảo hộ sát bên Dương Lăng không dám rời xa nửa bước. Ở cửa thôn

người chết ngựa ngã, đánh đến không thể tách rời, người ngựa địch ta hòa quyện lẫn

nhau. Giặc Thát cậy vào khoái mã xông lên, sức mạnh thế nhanh, còn hai mươi viên

thị vệ phòng thủ cửa thôn cậy vào võ nghệ cao cường, cạnh bên lại có phiên tử

không ngừng bắn tên chi viện, tạm thời vẫn có thể ngăn chận giặc Thát. Nhưng đámngười Dương Hổ vẫn đứng nguyên tại chỗ, vẻ mặt do dự. Ngũ Hán Siêu sợ bọn họ

sẽ đột ngột ra tay đả thương người mình nên đành phải chằm chằm để ý đến bọn họ,

không dám lơ là.

Trông thấy Dương Lăng vẫn điềm tĩnh như không, Hồng Nương Tử vứt tấm

ván gỗ trong tay rồi đi đến trước ngựa của mình, phóng người lên ngựa, đao thép

nắm chặt trong tay, cất giọng trong trẻo:

- Họ Dương kia! Chỉ mong ngươi nhớ câu nói này: "Mặc kệ là quan hay là

cướp, tất cả đều là người Hán." Hôm nay bọn ta sẽ giết giặc Thát trước.

Nói rồi nàng đưa mắt ra hiệu với Dương Hổ. Dương Hổ nhìn giặc Thát đang

đằng đằng sát khí ùn ùn kéo đến, lại nhìn Dương Lăng ở gần ngay trước mặt, do dự

chưa quyết. Thôi Oanh Nhi tức giận quát to:

- Đương gia! Ân oán cá nhân sau này hẵng tính! Giặc Thát là kẻ thù của tất cả

người Hán chúng ta, ngài còn do dự cái gì?

Nói rồi nàng nổi giận đùng đùng trừng mắt với Dương Hổ, thúc mạnh bụng

ngựa, vụt xông về phía cửa thôn. Hoắc Ngũ Thúc sợ cháu gái gặp chuyện không

hay, thấy vậy cũng búng người nhảy lên lưng ngựa như một con đại bàng, giật dây

cương, chúm môi huýt gió một tiếng chói tai, xông về phía giặc Thát.

Dương Hổ thấy vậy thì chỉ đành giậm chân, ra lệnh:

- Lên ngựa! Giết giặc Thát!

Sáu bảy tay cướp hung hãn nghe thấy lão đại mở lời, lập tức ào ào lên ngựa,

cũng xông thẳng về phía cửa thôn. Hồng Nương Tử tinh thông thuật cưỡi ngựa, chỉ

cần dùng hai chân để điều khiển chúng theo ý muốn một cách dễ dàng, tiến lui thoải

mái; đúng là còn thành thạo hơn đám người Mông Cổ cưỡi ngựa suốt tháng quanh

năm. Thanh đao thép trong tay nàng bay lên lượn xuống, trong khoảnh khắc liền đã

có ba bốn tên giặc Thát bị nàng chém rơi khỏi ngựa. Thôi Oanh Nhi thúc ngựa xông

vào trận địa của giặc, chận bốn thớt chiến mã không người đó lại, rồi quay ra đằng

sau kêu to:- Quan binh nào giỏi cưỡi ngựa hãy qua đây mấy người, đoạt ngựa giết giặc

Thát!

Bọn quan binh thấy một người con gái mà cũng kiêu dũng như vậy, lập tức nổi

lòng háo thắng, liền có bốn tên quan binh khoác cung giắt đao, tranh nhau lên ngựa.

Giặc Thát ruổi ngựa xông ào ạt đến, tiếng hò hét biến thành tiếng gầm rống. Chỉ

nghe tiếng cung bật liên tiếp, tên rít chói tai, giặc Thát cũng thả tay bắn tên đáp trả,

ba mũi lang nha tiễn xé gió bay tới, dễ dàng xuyên qua giáp nhẹ, cắm vào thân

người.

Không biết là cung thủ nào có cánh tay khỏe mạnh siêu quần, hẳn là mới vừa sử

dụng cung ba thạch, một phát tên ghim chéo dưới xương sườn một viên thị vệ đại

nội mới vừa chém chết hai tên giặc Thát, đẩy hắn văng ra khỏi ngựa, kéo bay hơn

một trượng mới nặng nề rơi xuống đất.

Dương Lăng thấy vậy giận muốn rách mí mắt, gầm lên:

- Bắn tên! Bắn tên! Áp chế bọn chúng!

Lại một trận mưa tên được trút xuống. Nhân mã của song phương không ngừng

ngã khỏi lưng ngựa, những dũng sĩ vừa rồi còn dồi dào sinh khí trong chốc lát đã

biến thành một đống bùn nhão dưới vó ngựa. Không biết tự lúc nào, hơn hai mươi

phiên tử mang theo hỏa súng lợi dụng sự che chắn của nhà cửa hai bên đường đã

bắt đầu nổ súng bắn về phía giặc Thát.

Đoàng đoàng đoàng, một loạt tiếng súng vang lên, khói súng tức thời bao trùm

khắp cửa thôn. Kinh hoảng bởi những tiếng nổ inh tai, những con chiến mã mất chủ

bỏ chạy tán loạn. Sự dũng mãnh của giặc Thát quá nửa dựa vào sức ngựa, chiến mã

vừa bị hoảng loạn lập tức dẫn tới đội hình rối loạn, nhuệ khí cũng vì vậy mà bị sút

giảm.

Dương Lăng hồi hộp nhìn chằm chằm về phía cửa thôn. Y phát hiện những thị

vệ đại nội nọ võ nghệ tuy cao, nhưng khi chém giết lại không nhanh nhẹn và gọn

ghẽ bằng đám cướp chuyên nghiệp. Chỉ cần mấy động tác bổ, chém, đỡ, đập hết sức

đơn giản đi kèm với những tiếng gầm thị uy, thanh đao trong tay bọn cướp xoay vầnnhư dải lụa, nội trong ba đao, sau tiếng binh khí va chạm leng keng song phương ắt

có một người ngã ngựa.

Mà võ công những thị vệ đại nội này tập luyện đều là tránh, xoay, nhảy, chuyển,

kỹ xảo công kích có thực có hư. Nếu như đơn đả độc đấu, trong số mã tặc này ngoại

trừ Dương Hổ, Hồng Nương Tử và Hoắc Ngũ Gia ra, hiếm có kẻ nào có thể đấu

hơn mười hiệp với bọn thị vệ đại nội, nhưng trên chiến trường giết giặc, cách đánh

của bọn sơn tặc lại hung mãnh và hữu hiệu hơn.

Trông thấy vậy Dương Lăng không khỏi máy động trong lòng. "Nếu quân đội

chúng ta cũng có thể luyện tập phương pháp bổ, chém đơn giản mà hiệu quả như

vậy, vứt bớt những động tác màu mè không thực tế, thì không những việc huấn

luyện dễ dàng hơn rất nhiều mà sức chiến đấu hiệu quả cũng sẽ được nâng cao một

cách mau chóng."

Hai trăm viên phiên tử ở hậu đội đã bắt đầu lật đật rút về phía núi Bạch Đăng.

Ngũ Hán Siêu vội khuyên:

- Đại nhân, hãy mau rút về núi Bạch Đăng! Ngài mà không đi, đám huynh đệ sẽ

không dám rút lui đâu. Đã có người chạy vào thành báo tin rồi, chỉ cần chúng ta lên

núi cố thủ chừng nửa ngày là viện quân sẽ tới rồi!

Nếu theo ý riêng của Ngũ Hán Siêu thì chàng hận không thể bắt Dương Lăng

cưỡi khoái mã tự chạy về thành một mình. Song đại soái lâm trận lại quay ngựa bỏ

chạy trước, bỏ mặc sĩ tốt thì sau này đừng hòng chỉ huy quân đội được nữa, Dương

Lăng quyết sẽ không đồng ý. Hơn nữa quân Minh có ít kỵ binh, nếu như giặc Thát

nhanh trí sẽ biết ngay y là một nhân vật quan trọng mà giục ngựa đuổi theo thì chí

nguy; chi bằng lên núi đợi viện binh còn an toàn hơn một chút.

Dương Lăng gật nhẹ đầu, lên ngựa xong xuôi bèn ra lệnh cho một viên bách hộ:

- Cho bộ tốt lần lượt thoái lui, mau chóng tránh lên núi Bạch Đăng. Kỵ binh

chận hậu, cốt phải giữ vững cửa thôn!

Y mới vừa nói đến đây, một cây giáo dài chừng năm thước đã rít gió bay tới,Ngũ Hán Siêu hét lên:

- Đại nhân cẩn thận!

Rồi chàng cố vung thanh kiếm trong tay chận lại. "Keng" một tiếng, kiếm và

giáo cạ vào nhau tạo nên một tia lửa dài. Cây giáo bị đổi hướng cắm "phập" vào

trong tuyết ngay trước ngựa Dương Lăng, sâu phải hơn một thước, đuôi giáo rung

lên "vù vù". Sức lực ấy thực khiếp người.

Tuy Ngũ Hán Siêu dùng xảo kình để giảm lực, nhưng vẫn bị lực va chạm chấn

cho hổ khẩu tê rần. Dương Lăng và Ngũ Hán Siêu thấy uy lực ngọn giáo mạnh mẽ

như vậy đều sợ đến toát mồ hôi lạnh. Lúc này cây giáo thứ hai lại rít gió lao tới.

Lưu Đại Bổng Chùy cười lớn vung cây côn sắt cứng chắc trong tay lên, "cạch" một

tiếng, cây giáo nọ đã bị đập gãy làm hai.

Đằng xa, có mấy tên giặc Thát đang bảo vệ một gã cao to vạm vỡ khoác áo da

thú lệch vai. Do khoảng cách xa đến mấy chục mét cộng thêm trong không trung

vẫn còn khói súng chưa tan nên trông không rõ tướng mạo gã đó, nhưng Dương

Lăng cảm giác hắn không phóng giáo bừa. Hắn đã phát hiện ra mình là thủ lĩnh của

đội quân Minh này.

Ngũ Hán Siêu sốt ruột giục:

- Đại nhân, đi thôi! Tránh lên núi Bạch Đăng!

Chàng ta và Lưu Đại Bổng Chùy bảo vệ Dương Lăng quay đầu ngựa phóng

như bay về phía núi Bạch Đăng. Đằng xa gã thủ lĩnh giặc Thát căn dặn với thủ hạ

mấy câu, bọn tùy tùng bên cạnh liền quát hô to mệnh lệnh bằng tiếng Mông Cổ.

Hai đội thiết kỵ bắt đầu mau chóng chỉnh đốn đội ngũ, rồi phi vòng sang hai

bên thôn trang; một số tên khác bắt đầu xông vào nhà thôn dân tháo dỡ cửa nhà và

bàn trà làm khiên chắn đơn sơ nhắm tấn công quyết liệt vào cửa thôn.

Bốn trăm quan binh bộ binh đeo phác đao chuôi ngắn, chiến đấu trên bộ thì ai

nấy đều là cao thủ nhất lưu, nhưng gặp phải nhóm dũng sĩ thúc ngựa xông tới nhưbão táp thì ắt đại bại không phải nghi ngờ, có thể chạy lên núi Bạch Đăng sớm được

khắc nào thì sẽ có thêm cơ hội sống khắc nấy. Thế nên hai dặm đường tuyết mấp

mô gập ghềnh đó bọn họ chạy như bị ma đuổi, khi đến dưới chân núi Bạch Sơn thì

đã như nỏ mạnh hết đà, người nào người nấy đều thở phì phò như trâu.

Viên bách hộ trưởng đứng trên một tảng đá lớn, mặc dù tim cũng đập như trống

làng nhưng hắn vẫn cố quát lớn:

- Lập tức lên núi, phòng thủ mọi nẻo đường! Viện quân sẽ chóng đến thôi.

Nhanh lên, mau lên núi!

Đám phiên tử xốc lại tinh thần, trèo xuôi theo sườn dốc phủ tuyết lên núi. Sườn

núi phía trước không dốc mấy, kiện mã phi vội cũng leo lên được, Dương Lăng

phóng ngựa đến lưng chừng núi thì quay đầu nhìn lại xa xa về phía sau. Trên đồng

tuyết trắng ngần, ba trăm kỵ binh đang phóng băng băng đuổi theo; hai cánh là hai

đội giặc Thát đã vòng qua thôn trang để truy đuổi, quãng đường của bọn chúng trở

nên xa hơn một chút, vốn hai dặm đường đã biến thành ba dặm. Phía trước bọn

chúng, ở chính giữa con đường là đám thị vệ đại nội và bọn Dương Hổ đã từ bỏ

phòng thủ rút lui, sau lưng là chủ lực giặc Thát đang đuổi sát không tha.

Dọc đường rút chạy Dương Hổ cảm thấy tức giận và khổ sở không thôi: "Thật

là xui xẻo cái con bà mẹ nó quá đi. Sớm biết vậy thì đừng tới đây còn hơn, không

chừng đã có thể mượn tay đám giặc Thát nhổ cái gai trong mắt này đi rồi.

Giờ thì hay rồi! Các huynh đệ thủ hạ tuy rằng có lúc cũng xuống núi cướp bóc

dân chúng, là tử địch với quan binh, nhưng bọn họ lại căm ghét và hận thù giặc

Thát hơn, càng có cảm giác bài xích dân tộc theo bản năng hơn. Gặp phải giặc Thát

liền bỏ chạy mất dạng, đó là hành vi của Hổ Tử ca ngồi ghế trại chủ lục lâm phương

bắc đấy ư? Huống hồ vợ mình đã xông lên, người của sơn trại Thôi gia cũ chắc

chắn cũng sẽ không bỏ chạy, một mình mình có muốn trốn chạy cũng không chạy

được."

Nhằm cướp bóc được nhiều, giặc Thát đều tranh thủ vận chuyển lương thảo về

trước khi quan binh hay tin kéo đến, vì vậy ngựa của đám giặc tập kích Lý Gia tập

này cưỡi đều là giống ngựa tốt. Do đó bọn chúng đuổi càng lúc càng sát đám ngườiDương Hổ, chỉ còn trong chốc lát nữa là bắt kịp.

Hai mươi viên thị vệ chỉ còn lại mười hai mười ba người, mã tặc Bá Châu cũng

chết mất hai, giặc Thát dần đuổi tới, giáp công hai mặt. Đám người Dương Hổ và

Hồng Nương Tử vung những cây đao dính máu chém trái bổ phải, vừa chạy vừa

đánh.

Hồng Nương Tử đã đánh giết đến sôi máu, thanh mã đao trong tay hoá thành

từng vòng sáng lạnh lẽo, chân thúc ngựa, đao phong rít xoay bốn bề, đánh mở một

con đường máu. Qua khoé mắt nàng liếc thấy ở hai bên đường giặc Thát đang hò

hét đánh thốc tới, lúc này mà rời khỏi quân Minh bỏ chạy vào đồng hoang sẽ chỉ rơi

vào vòng vây trùng trùng của giặc rồi kiệt sức mà chết. Không còn sự chọn lựa nào

khác, bọn họ đành phải cùng chạy lên núi Bạch Đăng.

Giặc Thát đuổi tới càng lúc càng đông. Một tên vượt lên trước mặt bọn họ,

ghìm mạnh cương ngựa rồi xoay người, "vù" một tiếng, một đường sáng lạnh lẽo

lướt qua không trung, trường đao bổ nhanh từ trên cao xuống như chớp giật, chém

thật mạnh xuống đầu Hồng Nương Tử.

Thôi Oanh Nhi cả kinh. Ngựa đang phi rất nhanh, không kịp ghìm cương dừng

lại, hơn nữa sau lưng vó ngựa như sấm, truy binh đuổi theo rất đông. Nàng liền giật

cương, thúc ngựa trượt sang bên hai bước, cùng trong nháy mắt, thanh đơn đao

trong tay được lật lên, quét ngang một nhát. Lưỡi đao bén ngót nương theo thân

người, cắt bung chiếc áo da trước bụng gã Thát Đát vừa chém hụt một đao nọ, mũi

đao nhọn hoắt đâm thủng bụng gã.

Hai ngựa lướt qua cạnh nhau trong nháy mắt, Thôi Oanh Nhi nhân mã hợp

nhất, quất mạnh mặt đao vào đùi ngựa. Gã đó lảo đảo ngã từ trên ngựa xuống, đầu

vừa tiếp đất, lập tức bị vó một thớt chiến mã đang phi tới không tránh kịp đạp lún

vào trong tuyết, đã hoàn toàn không còn phản ứng gì.

Hồng Nương Tử giật ngựa tránh đao sang bên nên hơi thoáng khựng lại, sau

lưng liền có hai thớt ngựa đuổi tới, hai ánh đao sắc lẹm và lạnh lẽo cũng bổ tới như

hình với bóng. Hơn hai mươi thớt kiện mã này đang chạy một mạch về phía núi

Bạch Đăng, khoảng cách giữa hai người vào tầm hai thân ngựa, cho dù là DươngHổ và Hoắc Ngũ Thúc ở gần nhất cũng không kịp cứu viện.

Hoắc lão ngũ la lên:

- Oanh Nhi cẩn thận, phía sau!

Thôi Oanh Nhi chợt sử một chiêu "Đăng Lý Tàng Thân" linh hoạt trượt xuống

bụng ngựa, hai đao nọ chém vào không khí, ba ngựa đã dàng ngang một hàng. Như

một con cá, nàng dán sát thân hình vào thân ngựa, luồn xuống bụng ngựa đang phi

nước đại rồi nhô lên từ phía bên kia, ngồi trở lại lên lưng ngựa đồng thời nhổm hơn

nửa người ra khỏi lưng ngựa, đâm một đao vào sườn tên giặc Thát nọ.

Đến núi Bạch Đăng rồi!

Dương Lăng canh đúng thời cơ, quát hạ lệnh:

- Bắn tên!

Một loạt tên bắn cấp tập bay qua khỏi đầu đám thị vệ và Dương Hổ ở đằng

trước, nhằm vào đám giặc đang Thát đuổi theo phía sau. Đám người Dương Hổ

nhân cơ hội liền tăng tốc lên núi, mấy tên giặc Thát theo sau không dám đơn độc

rượt theo bèn lập tức giảm tốc độ lại, trơ mắt nhìn bọn họ chạy thoát lên núi.

Xông được lên núi, đám người Dương Hổ ghì cương ngựa thở hổn hển, ngước

đầu trông thấy Dương Lăng, vẻ mặt hai bên đều có phần quái dị. Mới vừa nãy còn

là đối thủ sống chết với nhau, nay lại phải cùng chung kẻ địch, cùng chống giặc

ngoài. Thế nhưng sánh vai tác chiến cùng mình lại là kẻ thù mà không phải là bằng

hữu, tâm tình ấy thực khó mà diễn tả nên lời.

Dương Hổ và Dương Lăng bốn mắt nhìn nhau, tâm tình phức tạp vô cùng.

Dương Hổ không nói gì, chỉ dẫn người phe mình lặng lẽ đi đến đứng sau lưng

những cung tiễn thủ đang căng thẳng trụ vững vàng ở sơn khẩu rồi vẫn ngồi trên

ngựa nhắm mắt lại điều hòa hô hấp, một hồi lâu sau mới thở ra một hơi thật dài.

Hồng Nương Tử nhìn Dương Hổ rồi lại ngó sang Dương Lăng, bất giác lộ một

nụ cười khó xử nơi khoé môi.Dương Lăng căng thẳng chăm chú quan sát dưới núi. Nhân mã quân Thát đã tập

hợp lại, đứng ngay chính giữa, được vây quanh như muôn vàn tinh tú chầu trăng là

gã trung niên tráng kiện khoác áo da thú lệch vai nọ. Tuy rằng bọn chúng trèo đèo

lội suối đóng vai kẻ cướp, song đằng sau lại có một lá cờ giương cao.

Thông qua những tin tức tình báo mà Hàn Lâm đưa đến, Dương Lăng sớm đã

thấu hiểu nhiều điều về thực lực của các nhóm bộ lạc Thát Đát và mối quan hệ giữa

bọn họ. Trên lá cờ này tuy không có chữ, chỉ vẽ một biểu trưng, song y vẫn có thể

nhìn ra một ít mấu chốt. Bá Nhan Khả Hãn là hậu duệ trực hệ gia tộc cao quí của

Thành Cát Tư Hãn, cờ hắn lấy sói làm biểu trưng, mà lá cờ này lại vẽ một con phi

ưng đỏ rực như lửa. Với sự hiểu biết của y, đây hẳn là tướng sĩ thuộc nhóm bộ lạc

Hỏa Sư.

Dương Lăng không khỏi hơi biến sắc. "Đây là bộ đội tinh nhuệ nhất của Thát

Đát, không phải là bộ lạc nhỏ lén đột nhập vào biên quan cướp bóc. Nếu như bọn

chúng cướp xong tài vật lập tức trở về thì thôi, còn nếu tướng lĩnh đội quân này

không ngốc mà lập tức hạ lệnh tấn công lên núi, binh sĩ phe mình mỗi người chỉ

mang theo một ống tên thì sẽ có thể chống đỡ được bao lâu?"

Y ngoái đầu đưa mắt nhìn về phương xa, tuyết trăng mênh mông, viện binh vẫn

chưa thấy bóng dáng gì. Trái tim Dương Lăng trĩu nặng, sắc mặt trở nên nghiêm

trọng.

Tướng lĩnh Thát Đát dưới núi là bộ hạ của Hỏa Sư, tên Tác Lạp Địa. Một sĩ tốt

vừa trình lên cho hắn một mớ cung nỏ và hỏa súng ngắn không mấy hữu dụng trên

chiến trường do bọn chúng vừa thu được trong tay những quân Minh tử trận. Tác

Lạp Địa nhìn những cung nỏ được chế tạo tinh xảo hơn cung nỏ biên quân hay dùng

rất nhiều này, rồi lại cầm hỏa súng ngắn hiếm thấy lên ngắm nghía một lúc, khoé

miệng lộ ra một nụ cười đắc ý.

Hắn ngửa mặt lên trời cười lớn:

- Ông trời phù hộ Thổ Mặc Đặc(1) Mông rồi! Đội quân Minh này tuyệt không

phải là biên quân thông thường, thủ lĩnh bọn chúng nhất định là một nhân vật quan

trọng của địch. Bá Nhan Đại Hãn hiện tại đang rất bất mãn với Quách Lặc Tânkỳ(*), các bộ lạc đều hoài nghi dũng khí của kỳ chủ chúng ta, nếu như chúng ta có

thể giết chết đại nhân vật này của quân Minh, uy danh của Hỏa Sư sẽ lần nữa chấn

động thảo nguyên đại mạc.

(*: như huyện, tỉnh)

Tác Lạp Địa giơ bội đao lên cao, hô lớn:

- Hỡi các dũng sĩ! Trên núi có một thủ lĩnh quan trọng của quân Minh, giết

được hắn sẽ vinh quang hơn cướp hằng nghìn hằng vạn dê bò. Viện quân của chúng

sẽ mau chóng kéo đến. Vì sự vẻ vang và sinh tồn của bộ lạc, chúng ta hãy xông lên

giết chết bọn chúng!

Tiếng hét hò như sấm, giặc Thát reo hò ầm ỹ, đại đội nhân mã dưới mệnh lệnh

của Tác Lạp Địa bắt đầu liều mạng xông lên núi. Tên trút như mưa, giặc Thát cũng

không ngừng bắn tên đáp trả, nhất thời trời rợp mưa tên, không ngừng có người kêu

la thảm thiết rồi ngã xuống. Hai viên bách hộ quân Minh căng thẳng thúc giục sĩ tốt

áp chế đợt tấn công của giặc Thát.

Nhưng chỉ có mưa tên dày đặc mới có thể ngăn cản sức tiến công của bọn

chúng, mà tên trong ống dùng một mũi thì ít đi một mũi. Khi từng thi thể ngã xuống

trên sườn núi, thì túi tên của quân Minh cũng đã đồng thời trống rỗng. Hai viên

bách hộ quyết đoán thật nhanh, lập tức thưa với Dương Lăng:

- Đại nhân! Ty chức xin dẫn binh ngăn trở bọn chúng, ngài hãy mau xuống núi

từ phía khác, tin rằng viện binh cũng sắp đến thôi.

Dứt lời hai viên bách hộ liền bạt đao khỏi vỏ, quát lớn:

- Các huynh đệ, hãy xông xuống núi! Sườn núi không lợi cho chiến đấu trên

ngựa, đừng để bọn chúng tấn công lên đỉnh núi!

Vừa nói vừa chạy dẫn đầu xuống phía sườn núi.

Trên trời, một con chim ưng đầu trọc đang lượn quanh kêu lên một tiếng thê

lương, trận chiến giáp lá cà đã bắt đầu...Mục tiêu của giặc Thát là Dương Lăng. Theo phán đoán của Tác Lạp Địa, vị

tướng lĩnh trẻ tuổi mà đội quân mấy trăm quan binh được trang bị vũ khí tinh xảo

đang ra sức bảo vệ này nhất định là một nhân vật rất quan trọng của quân Minh, nói

không chừng chính là hoàng đế nhà Minh mà Kỳ chủ từng nói tới. Nếu đúng là hắn,

thì cho dù mình có cùng toàn quân bỏ mạng nơi đây mà kéo được hắn chôn cùng thì

nào có hề gì?

Nhiệt huyết sôi trào, Tác Lạp Địa tổ chức một đội cảm tử trăm người, bất chấp

thương vong xông qua sự ngăn trở của quân Minh, đánh thẳng về phía Dương Lăng.

Bọn thị vệ đại nội cũng bạt đao xông lên trước, chiến trường lan rộng, đám người

Dương Hổ cũng không thể không tham gia kiên trì chống đỡ.

Thanh bảo kiếm Ngũ Hán Siêu quen dùng đã gãy, chàng ta nhặt lấy một chiếc

phác đao bảo hộ Dương Lăng vừa đánh vừa lui. Đỉnh núi lồi lõm gồ ghề, đất vàng

đồi núi trộn lẫn với nham thạch bị bào mòn tạo thành nhiều hố nông lẫn hang động,

khiến bọn họ không thể cưỡi ngựa, chỉ có thể rút lui từng bước một.

Càng lúc càng có nhiều thành viên đội cảm tử của giặc Thát để ý tới vai trò đặc

thù của Dương Lăng nên lũ lượt kéo sang. Giặc Thát có trên nghìn người, lúc tấn

công lên núi bị chết mất hơn hai trăm, nay còn khoảng tám trăm tinh binh. Quân

Minh trên núi cộng lại không quá bốn trăm người, dù nhờ vào địa lợi, song vẫn bị

mưa tên của đối phương bắn cho tử thương hơn trăm người. Mặc dù ai nấy đều ra

sức liều mạng, song hoàn toàn không thể ngăn bọn chúng đến gần Dương Lăng

được.

Ngũ Hán Siêu và Lưu Đại Bổng Chùy cũng bắt đầu đại chiến với giặc Thát.

Ngũ Hán Siêu sốt ruột đến toát mồ hôi trán, một đao quét ngang đón đỡ binh khí

của mấy tên giặc Thát, quay đầu gầm lên:

- Đại nhân, mau rút đi! Lên ngựa mà chạy! Thuộc hạ không chiếu cố tới nổi

đâu.

Đoạn chàng phi thân qua, một tay chộp Dương Lăng, tay kia cầm đao, mắt đỏ

ngầu, tính cắp y xông ra khỏi vòng vây.Có điều chàng mới vừa búng người mấy bước, mấy tên dũng sĩ Thát Đát can

đảm không sợ chết đã nhào tới cản đường. Cầm cây phác đao nặng trịch bằng một

tay, uy lực giảm mạnh, Ngũ Hán Siêu đành buông Dương Lăng ra, gầm lên một

tiếng, hai tay cầm chắc thanh đao đánh văng mấy tên giặc Thát ra xa.

Nhác thấy chiến sự không ổn, Dương Hổ vừa chiến đấu cùng giặc Thát vừa tiến

đến gần Thôi Oanh Nhi nói nhỏ:

- Tình hình không ổn. Giặc Thát đang nhắm vào tên họ Dương, chúng ta đi thôi.

Mau! Nếu chậm trễ thì bất kể quan binh đắc thế hay giặc Thát thủ thắng cũng đều

không phải là kết quả tốt cho chúng ta đâu.

Thôi Oanh Nhi hừ nhạt một tiếng đáp:

- Chạy đi đâu chứ? Trên đỉnh núi không cưỡi ngựa được, vừa đánh vừa lui thôi.

Dương Lăng đang ở đây, quân thủ vệ Đại Đồng tất sẽ liều chết chạy lại.

Một chiêu chánh thủ đao(*) đỡ lấy cây thác thiên xoa của tên giặc Thát, nàng

lại thuận thế bước lên, sử một chiêu phản thủ đao(**) chặt đứt tay gã, tung cước đá

văng gã đi, đoạn quay đầu lại liếc Dương Hổ nói vội:

- Dương Lăng là khâm sai, đại diện cho Hoàng đế, đại diện cho triều đình. Hôm

nay đứng trước mặt mấy trăm quan binh y đã mở miệng nói bất kể là quan hay cướp

chỉ giết giặc Thát thôi thì quyết sẽ không nuốt lời. Quan binh đến thì sợ gì chứ?

(* và **: kiểu cầm vũ khí xuôi và ngược. Chánh thủ đao là cầm xuôi, mũi

đao/kiếm chĩa về phía trước, thiện công; phản thủ đao là cầm ngược, mũi đao/kiếm

chĩa ra sau, thiện thủ)

Dương Hổ thầm tức giận trong lòng, nhưng lúc này thật sự không phải là lúc để

cãi cọ với thê tử, đành phát tiết lửa giận lên người bọn giặc Thát, khiến đao pháp

càng trở nên mạnh mẽ. Trong mỗi tiếng gầm quát của hắn lại thấy đầu óc bay, chân

tay cụt, thế như chẻ tre.

Thấy trượng phu mình oai phong như vậy, Thôi Oanh Nhi cũng không khỏi vuimừng mỉm cười. Nàng thoáng quay đầu trông thấy bọn Dương Lăng đang bị vây

bởi hơn chục tên giặc Thát, Ngũ Hán Siêu và Lưu Đại Bổng Chùy thế như cọp điên,

đỡ trái hở phải, liều mình chống đỡ. Bọn thị vệ chung quanh muốn sáp lại gần

nhưng bọn chúng đều đang chém giết sinh tử cùng giặc Thát, sợ rằng vừa xoay

người liền sẽ bị đao bén kề cổ, chỉ nóng lòng lo lắng mà lại không thể giúp gì.

Nàng vội quát một tiếng, phi thân phóng đến, nhún người mấy cái liền đã đáp

xuống cạnh Dương Lăng, vừa kéo tay y vừa gắt:

- Là một đại nam nhân mà thực là vô dụng. Theo ta đi!

Nàng túm chặt lấy Dương Lăng, xoay người chạy về phía sau. Mặt đất trên đỉnh

núi nhấp nhô cao thấp, khắp nơi tuyết trắng chất dày, với địa thế như vậy, nàng căn

bản không thể mang Dương Lăng phi thân, chỉ có thể lôi y chạy như điên mà thôi.

Thôi Oanh Nhi vừa vung đao đỡ đòn mấy tên giặc Thát vừa kéo y chạy nhanh

hơn. Vừa vượt lên mấy bước, nàng chợt cảm thấy đống tuyết dưới chân hơi bị hẫng,

thầm kêu không hay. Nàng vừa định vặn người mượn lực hông để khỏi ngã thì

Dương Lăng đang bị tay nàng kéo không kịp dừng lại đã va vào người khiến nàng

bị trượt chân, cả người ngã vào trong hố tuyết. Tay phải nàng đang nắm chặt Dương

Lăng không kịp buông ra khiến y cũng bị lôi ngã theo nàng xuống dưới.

Chỗ này thực chất là một cái hố sâu; do tuyết rơi nhiều, mà lại nhớp dính, nên

mặc dù phía dưới trống trơn, tuyết đọng bên trên vẫn dần lấp miệng hố lại, khiến

người ta không thấy có chút dị trạng nào. Những lúc tuyết lớn rơi đầy trời, những

giếng nước dưới lòng đất trên vùng bình nguyên cũng sẽ xuất hiện loại hiện tượng

này, dân bản xứ gọi nó là "quỷ phong tỉnh" (giếng ma lấp - ND). Người đi đường

không nắm rõ địa hình, khi đi đường tắt ngang qua đạp phải sẽ ngã vào mà chết

đuối.

Hồng Nương Tử vốn có thể dừng lại, nhưng bị Dương Lăng va đụng nên ngã

xuống, vù cái đã rơi xuống hơn hai trượng. Nàng cũng mặc không thể tóm lấy

Dương Lăng nữa, trong lúc khẩn cấp vội vứt đao mà cố bám víu vào chung quanh.

Vách đá nham thạch bị nước mưa xói mòn nên nàng không thể bám chắc, thân hình

chỉ hơi dừng lại một chút rồi lại tiếp tục rơi xuống ngay.Cứ như vậy, rơi rơi dừng dừng, rơi xuống phải đến sáu bảy trượng sâu, rốt cuộc

nàng cũng bấu được vào một khối nham thạch nhô ra. Hồng Nương Tử vừa thở

phào một hơi thì Dương Lăng cũng đã rơi tới. Vừa đụng vào người nàng, Dương

Lăng không hề suy nghĩ gì liền theo bản năng ôm chặt lại, thân thể trượt từ từ

xuống người Hồng Nương Tử, hai tay y liền ôm chặt lấy đùi nàng.

Thân thể Hồng Nương Tử thoáng trĩu xuống, suýt nữa tuột tay, may mà lực tay

nàng khoẻ, liền vội cố sức bấu lấy mỏm nham thạch. Trong cái bóng tối như bưng

lúc này nàng mới giật mình phát hiện Dương Lăng đang ôm chặt lấy hai đùi, đầu ép

vào mông mình, liền vừa giận vừa ngượng vội quát bảo:

- Vô lại! Buông ta ra!

Dương Lăng sợ đến độ tim đập thình thịch, cảm thấy Thôi Oanh Nhi đang vùng

vẫy hai chân, y liền vội kêu lên:

- Không buông được! Không buông được! Buông ra ta sẽ ngã chết đó!

Mặc dù đang ngượng gần chết nhưng Thôi Oanh Nhi vẫn cảm thấy mắc cười

không thôi. Nàng tức giận:

- Ai thèm quan tâm ngươi chết hay không? Còn không buông tay ta sẽ đạp

ngươi xuống đó. Như... như vậy còn thành ra thể thống gì?

Tuy mặc áo bông rất dày, nàng vẫn rất nhạy cảm nhận biết được bộ ngực áp

phía sau hai đùi mình đang đập như đánh trống. "Xem ra bỗng nhiên bị ngã thực đã

khiến vị đại nhân này sợ lắm đây, mà không phải là y có ý vô lễ". Nghĩ vậy nàng

bèn mềm lòng, ngữ khí dịu lại:

- Ngươi bám vào vách đá ấy, đừng ôm ta!

Dương Lăng sợ chọc giận nàng ta, bèn định thần lại một chút, rồi một tay bấu

chặt cặp đùi chắc nịch thẳng tắp của Hồng Nương Tử, một tay sờ soạng chung

quanh. Trái phải và trước sau đều trống trơn, chút ánh sáng le lói trên miệng hố

không đủ để soi nhìn, cũng không biết cái hang này rộng bao nhiêu. Chỗ HồngNương Tử bắt trúng là khối nham thạch nhô ra, vách tường nham thạch phía đối

diện lại hơi lõm vào một chút. Y quào thử lại bốc phải một nắm bùn, bùn đất rơi

xuống dưới hố rào rào, sợ quá lật đật rụt tay về.

Do bận bịu tìm chỗ bám, y cảm thấy tay còn lại sắp không còn đủ sức ôm Hồng

Nương Tử nữa, liền vội rụt tay về ôm tiếp, uể oải bảo:

- Chung quanh không thấy thứ gì có thể nắm lấy. Cô đừng cử động, để tôi trèo

lên trên rồi cùng bám lấy mỏm đá là được.

Hồng Nương Tử sững người. Nàng cảm thấy Dương Lăng quấn chặt lấy cơ thể

đang treo lơ lửng của mình, hai tay cài vào nhau lần lên đến hông, người thoáng

dịch lên trên, hai đùi tức thì kẹp chặt lấy chân mình, tiếp đến lại tới hai tay xích lên,

cứ thế xen kẽ, vậy mà đã sắp ôm lên tới ngực mình. Hồng Nương Tử hốt hoảng gào

lên:

- Ngươi làm cái gì vậy?

Lúc này hai tay Dương Lăng đã lủi tới giữa ngực và bụng nàng, nghe nàng

quát, hai tay y lại trượt xuống, ôm chặt lấy eo cô nàng. Từ nhỏ đến giờ ngoại trừ

trượng phu ra, nàng có bao giờ từng bị người khác thân cận đến thế đâu? Thế là

nàng lập tức ngượng đỏ chín mặt mày, vừa giận vừa xấu hổ mắng y:

- Vô lại, mau dừng tay!

Dương Lăng vội ngừng mọi "hoạt động" lại. Một lúc sau, y mới ngượng ngập

nói:

- Sự cấp tòng quyền, tôi... dù sao thì cứ ôm như vậy cũng không phải là cách

hay.

Thôi Oanh Nhi ngượng đến quẫn trí, mắng:

- Tòng quyền cái rắm á! Thực là đồ vô dụng, Đại Minh hết thời rồi mới đẻ ra

cái thứ tướng quân bất tài như ngươi!Dương Lăng thật sự sợ chọc cho nàng ta giận mà đạp mình xuống dưới hang

sâu, đành thiểu não đáp:

- Vậy... vậy tôi không động đậy gì như vầy thì chắc được chứ?

Hai người đều mặc quần áo dầy cộm, da thịt không có mấy cảm giác, nhưng ôm

chặt như vậy lại khiến trong lòng Hồng Nương Tử rất khó chịu. Hiện nay hai tay

nàng đang bám lấy mỏm đá, Dương Lăng thì ôm chặt eo nàng, cho dù nàng thực có

bản lĩnh thông thiên đi nữa thì chuyện đạp y xuống cũng đâu phải dễ dàng gì!

Nhưng nếu cứ để y ôm lấy nàng như vậy thì thực không ra thể thống gì cả! Hồng

Nương Tử không còn cách nào khác đành bảo:

- Ngươi đừng cử động, để ta kéo ngươi lên!

Nói đoạn nàng hít một hơi dài, bắt đầu lần mò dò một chỗ lõm hơn để bám chặt

vào khối đá. Tiếp đó nàng vươn một cánh tay ra sau lưng tóm lấy áo Dương Lăng,

dặn dò:

- Buông tay để ta kéo ngươi lên! Ngươi nhích sang bên này sẽ có thể bám được

vào mỏm đá.

Buông tay ra, chỉ dựa vào một tay nàng ta túm áo mình? Tim Dương Lăng lại

bắt đầu đập thình thịch. Nhưng bảo y cứ ôm người ta một cách vô sỉ như vậy, y lại

không thể làm được (TJ: em làm được! ). Hết cách, Dương Lăng đành phải nắm lấy

vạt áo nàng, quấn chặt trong tay rồi mới thả lỏng hai chân.

Hồng Nương Tử nín thở, vận sức kéo người y lên. Vừa kéo lên được nửa thước

nàng liền phát hiện hai tay y đang nắm chặt vạt áo của mình, không khỏi dở khóc

dở cười quay đầu lại bảo:

- Ta sẽ không ném ngươi xuống đâu, còn không b...

Lúc này nàng đã kéo Dương Lăng lên đến ngang tầm với mình, do sợ hơi thở

nặng nề của mình sẽ phà vào mặt người ta nên Dương Lăng cũng đã nín thở lại.

Hang tối như bưng, không nhìn thấy gì, Thôi Oanh Nhi không hề phát hiện mặt ygần kề đầu mình. Lúc này vừa quay đầu môi nàng đã vừa khéo lướt nhẹ lên má phải

Dương Lăng, chạm nhẹ vào môi y.

Dương Lăng chỉ cảm thấy một vật gì mềm mại và ấm áp thoáng chạm vào môi

mình rồi tách ra, trong nháy mắt liền sững người, liền biết ngay môi nàng vừa vô ý

lướt qua, đây nào phải chuyện đùa! Nín thở hồi lâu nên y cũng không thể nín được

nữa, hơi thở nặng nề không kiềm được mà phà lên má, lên cổ Hồng Nương Tử.

Bên ngoài tiếng chém giết đã bớt dần, cũng có thể... chỉ là ảo giác.

Trong hang yên tĩnh đến đáng sợ, trong bóng tối Dương Lăng cũng không nhìn

thấy được Hồng Nương Tử đang có vẻ mặt gì. Y chỉ sợ Thôi Oanh Nhi thẹn quá hoá

giận sẽ giết mình diệt khẩu, hai tay càng bám áo nàng đến chặt. Qua một lúc sau, y

mới nghe tiếng Thôi Oanh Nhi lúc này đã quay đầu đi nói:

- Buông tay! Bây giờ ngươi vịn hai tay lên là sẽ có thể sờ được một khối đá rồi.

Âm thanh của nàng vẫn rất bình tĩnh, chỉ đến mấy chữ cuối cùng mới thấy hơi

run run.

Dương Lăng cũng không dám nói gì khác, hai người rất ăn ý, nín thinh không

nhắc đến sự đụng chạm vô ý khi nãy. Y cố lấy can đảm buông tay, lần mò lên trên

từ từ, đầu tiên sờ phải một mu bàn tay mềm mại, liền vội dịch sang bên một chút,

thử một lúc rồi mới bám chặt lấy mỏm đá đó, đoạn thở dài nói:

- Tốt rồi! Nhưng mà... sức lực tôi có hạn, sợ sẽ không cầm cự được lâu. Bên

ngoài... cũng không biết thắng bại thế nào rồi.

Thôi Oanh Nhi đáp khẽ:

- Khi nào ngươi hết sức thì ta sẽ đỡ ngươi lên. Thắng bại bên ngoài... chỉ đành

phó thác cho trời thôi.

- Ôi! - Dương Lăng thở dài, lo lắng ngước đầu nhìn lên - Nếu viện quân còn

chưa đến, người của tôi sẽ toàn quân chết sạch thôi! Giặc Thát chỉ cần ném thêm vài

tảng đá xuống, hai ta liền sẽ bỏ mạng ở...Y vừa nói đến đây, khoé mắt chợt như thấy có vật gì rơi xuống, tiếp đó mũi

chợt đau nhói, nước mắt lập tức tràn ra. Một hòn đá cỡ nắm tay từ trên rơi xuống đã

đập trúng mũi y.

Dương Lăng không kịp trở tay, theo phản xạ đưa một tay xuống thoa mũi, cánh

tay kia bám vào chốn ẩm ướt trơn trợt, khớp đốt ngón tay lại bị tê cóng nên không

trụ được, cả người y vụt cái liền rơi xuống.

- Cái đ...!

Tiếng chửi còn chưa kịp thốt ra khỏi miệng, Dương Lăng chợt thấy miệng hang

tối sầm, một giọng nói vùng Lai Dương xen lẫn tiếng khóc rưng rức đang gào thét

bên trên:

- Đại soái! Bà mẹ nó sao ngài lại ngã chết thế này!

Chú thích:

(1) một trong hai kỳ (tương đương huyện) thuộc lãnh thổ đặc khu Tuy Viễn

thuộc Nội Mông xưa, phiên âm từ Tumed.NGƯỢC VỀ THỜI MINH

Nguyệt Quan

www.dtv-ebook.com

Chương 197 Thằng Ngang Sợ Thằng Càn

-------------------

Nếu Kinh Kha thật sự hành thích vua Tần thành công, thì những kẻ kế thừa đớn

hèn như Phù Tô(1) hay ngu đần như Hồ Hợi(2) liệu sẽ có thể thống nhất sáu nước?

Nếu thời Hán Sở tranh hùng mũi tên bắn trúng ngực Lưu Bang đó nhích lên thêm

ba tấc nữa, thì lịch sử sẽ phát triển như thế nào?

Nếu lúc Lý Thế Dân chinh phạt Vương Thế Sung không nhờ Uất Trì Kính Đức

một mình một ngựa cứu chúa, thì lịch sử sẽ có cục diện ra sao? Nếu Triệu Tử Long

chưa từng cứu sống A Đẩu ở đồi Trường Bản... Nếu ... chỉ có thể là nếu...

Lưu Đại Bổng Chùy hoàn toàn không hề hay biết lúc mình tranh chạy đến

miệng hang khóc gào đã khiến cho một hòn đá nhỏ do hai tay gã vô tình chạm phải

rơi xuống cũng suýt chút nữa đã làm thay đổi tất cả từ đây, song đôi chân khoẻ

khoắn của Thôi Oanh Nhi trong nháy mắt đã kịp sửa chữa lại.

Lúc Dương Lăng trượt xuống, y đã quơ trúng nhưng không kịp giữ chặt lấy áo

nàng. Nhưng ngay khi giật mình phát hiện, trong nháy mắt Thôi Oanh Nhi đã đưa

hai chân ra kẹp chặt y lại.

Thân thể đang trượt xuống của Dương Lăng vì vậy mà giảm tốc, y liền vội lại

ôm chặt lấy chân nàng. Hai bắp đùi của Thôi Oanh Nhi cực kỳ mềm dẻo và rất

khoẻ, nàng cũng không ước lượng được y đã trượt xuống tới đâu, chỉ biết mình đã

kẹp được người y, liền vội dồn thêm sức vào hai chân, hỏi vội:

- Ngươi làm sao rồi?

Dương Lăng thở gấp mấy hơi, màng nhĩ lùng bùng, khàn khàn đáp lại:- Tôi bám được vào cô rồi, nhẹ... nhẹ chút, đùi cô kẹp cổ tôi... chặt quá, thở...

thở không... nổi...

Hồng Nương Tử thoáng đỏ mặt, may mà hang tối như bưng mà cũng chẳng còn

ai để nhìn thấy. Nàng hơi buông lỏng hai chân, Dương Lăng thừa dịp níu chặt lấy áo

nàng rồi vội vã bò lên thêm chút, hai tay ôm chặt lấy vai nàng. Lần này y đã luồn

vào phía trong Thôi Oanh Nhi, mặt đối mặt với nàng, tư thế rất là mờ ám.

Dương Lăng thở hổn hển nói:

- Đa tạ... đa tạ cô cứu mạng.

Mặt nóng bừng bừng, Hồng Nương Tử quay đầu đi, giọng căng thẳng:

- Không cần cảm ơn ta! Nếu như ngươi cứ như vậy mà chết đi thì cho dù giặc

Thát có rút lui, mấy người chúng ta cũng đừng hòng sống sót rời khỏi nơi này. Chỉ

mong đại nhân lời nói đáng giá nghìn vàng, chịu giữ lấy lời hứa là được.

Dương Lăng từng thấy Hồng Nương Tử trong trang phục phụ nữ, biết nàng hào

sảng oai hùng, mặt xinh dáng đẹp, nhưng nàng không những là nữ tặc mà còn là vợ

người ta, mình và nàng ta ôm nhau như vậy quả thực chẳng ra thể thống gì. Y nghe

vậy bèn vội đáp:

- Cô yên tâm! Tôi là khâm sai triều đình, lời nói đại biểu cho đương kim Hoàng

thượng và triều đình, sẽ không bao giờ thất tín.

Mặc dù âm thanh từ dưới hang truyền ra bên ngoài rất nhỏ, nhưng ở trên miệng

hang Lưu Đại Bổng Chùy vẫn lờ mờ nghe thấy có chút động tĩnh, gã bèn vội chổng

mông thò đầu vào trong hang nhòm nhòm, song chỉ thấy một mảng tối om, chả thấy

gì khác. Lưu Đại Bổng Chùy bất giác có phần hoảng sợ.

Hắn ngẩng đầu nhìn chung quanh thấy toàn là binh sĩ cầm đao cầm kiếm, Ngũ

Hán Siêu mặt mướt mồ hôi song vẫn mở to hai mắt đứng một bên, tư thế giống như

muốn đá hắn một cú bắn xuống hố vậy. Lá gan Lưu Đại Bổng Chùy bất giác hơi to

lên, hắn lấy hết sức gọi xuống dưới:- Đại soái! Ngài còn sống hay là chết rồi? Ngài hãy kêu lên một tiếng đi!

Hai người Dương Lăng ở dưới hang nói chuyện nhỏ nhẹ còn không sao, hắn

quỳ ở bên trên căng họng kêu lớn như vậy, âm thanh vang vọng tràn xuống ào ào

như một hồi sấm sét, chấn động khiến cho bụi đất bám chung quanh vách hang rơi

lả tả. Dương Lăng và Hồng Nương Tử vội nhắm nghiền hai mắt, cúi đầu dựa sát

vào nhau để tránh. Đợi cho bụi bặm bớt rơi, Dương Lăng mới vội ngẩng đầu hét

vọng lên:

- Con bà nó, đừng có hét nữa! Suýt chút nữa ta bị ngươi hét chết rồi, mau kéo ta

lên đi!

Hét xong y lại vội nhắm nghiền mắt và cúi đầu, quả nhiên lại một đống bụi đất

nữa rơi xuống. Ở bên trên Lưu Đại Bổng Chùy nghe rõ mồn một, thế là hắn bèn

nằm bệt ra trước miệng hang, há miệng cười ha hả như một con ếch đang đớp lấy

không khí, đồng thời nhìn ngang liếc dọc reo lên:

- Đại soái còn sống, ha ha ha! Ta đã nghe được rồi, đại soái vẫn còn sống, ta

nghe thấy đại soái mắng ta rồi!

Nghe vậy Ngũ Hán Siêu mới khôi phục thần hồn, vội ra lệnh:

- Mau lên! Mau kiếm dây thừng cứu đại nhân lên!

Đám phiên tử đang mất hồn mất vía liền như gà mắc tóc, tên nào tên nấy hết

nhìn đông rồi lại nhìn tây, nhìn cả buổi song lại không thấy có cái gì có thể dùng để

cứu đại soái. Bởi vợ mình cũng bị rơi xuống hố, sống chết không rõ, nên Dương Hổ

thực nóng lòng không thua gì bọn Ngũ Hán Siêu, trông thấy vậy thì không khỏi

phát bực. Hắn sải bước vụt sang, chụp lấy sợi dây thừng quấn móc câu của một viên

phiên tử giắt bên hông xuống, giật mấy cái thử độ dai rồi liền quát:

- Ai còn móc câu thừng chão lấy ra buộc vào nhau, nhanh chút đi!

Mấy viên phiên tử khi nãy dùng móc câu kéo sập chòi trong Lý Gia tập lật đật

bước qua, lấy bốn sợi thừng móc câu tết lại thành một sợi dây dài khoảng tám chíntrượng. Dương Hổ ngồi xổm trước miệng hang, vừa chầm chậm thả dây thừng

xuống vừa lấy hơi gọi lớn:

- Nương tử! Nàng vẫn ổn chứ?

Hắn vốn biết bản lĩnh thê tử tài giỏi hơn mình, nếu cái tên Dương Lăng vô dụng

đó mà còn sống thì thê tử nhất định sẽ không đến nỗi xảy ra chuyện gì. Quả nhiên

dưới hang vọng lên tiếng Hồng Nương Tử:

- Trên đó thả dây xuống, dưới này sẽ không trông thấy rõ đâu. Hãy hơi đong

đưa qua lại một chút!

Dương Hổ mừng rơn, liền vội vừa thả dây thừng xuống vừa đong đưa nhè nhẹ

qua lại, móc câu buộc ở đầu dây thừng chạm vào vách đá dưới hang phát ra những

âm thanh lanh lảnh. Ngũ Hán Siêu lật tay cầm kiếm, nhìn Dương Hổ chằm chằm,

nếu trong lúc cứu người hắn dám có dị tâm thì chàng sẽ lập tức rút kiếm chém chết

hắn ngay. Dương Hổ chỉ liếc mắt nhìn chàng ta cười khẩy.

Thôi Oanh Nhi nghe tiếng để nhận biết vị trí, đợi khi tiếng động phát ra ngay

bên tai liền vội quơ tay tóm lấy. Nàng một tay vẫn bám chặt mỏm đá, một tay lấy

dây thừng quấn quanh bụng Dương Lăng mấy vòng, sau đó đặt móc câu vào tay y

rồi nói:

- Ngươi nắm lấy dây thừng mà lên!

Dương Lăng tự biết sở trường của mình không phải là võ nghệ cá nhân. Mặc dù

đường đường là Xưởng đốc, song đến nơi này y lại như mãnh hổ xuống biển, hoàn

toàn không có đất dụng võ, cho nên cũng không khách sáo với nàng, vội cảm ơn

một tiếng rồi bám chặt lấy dây thừng để Dương Hổ kéo lên.

Thấy Dương Lăng ló đầu ra khỏi miệng hang, các phiên tử không kiềm được

reo hò hoan hô ầm ĩ. Ngay khi Dương Lăng vừa ngã xuống hang, Ngũ Hán Siêu

liền như phát điên, xông thẳng vào giữa đám giặc Thát, liều mình chém giết gần hai

mươi tên Mông Cổ kiêu dũng, cả người như tắm máu. Bản thân chàng cũng bị

thương vài chỗ song vẫn không hề hay biết gì. Giờ trông thấy Xưởng đốc thoát rađược rồi, chàng mới trút được một hơi trọc khí, gần như ngã gục xuống đất.

Lưu Đại Bổng Chùy toét cái miệng to đùng cười to, hai mắt tít lại như một

đường chỉ. Dương Lăng mới được kéo ra hơn một nửa thì hắn đã liền nhảy bổ tới

ôm lấy y kéo ra khỏi miệng hang.

Dương Lăng vội tháo dây thừng ra, Dương Hỏ lại thả dây xuống dưới. Lưu Đại

Bổng Chùy trông thấy giữa sống mũi Dương Lăng sưng lên một cục đỏ tấy thì lấy

làm lạ hỏi:

- Đại nhân! Ngài ngã xuống hang, thân thể không hề bị thương tích gì, cớ sao

lại bị dập mũi thế?

Dương Lăng tức mình trừng mắt nhìn gã. Lúc này y mới chợt phát hiện chung

quanh không ngừng có tiếng chém giết, không khỏi ngạc nhiên hỏi:

- Giặc Thát chưa lui sao? Sao bọn chúng không tấn công lên núi vậy, viện binh

của chúng ta đã đến rồi ư?

Ngũ Hán Siêu kéo người y giữ lại, báo:

- Đại nhân hồng phúc tề thiên, quân cầu cứu đi đến nửa đường liền gặp được

binh mã của Kinh thiên tổng dưới trướng Đỗ tổng binh đang trở về Đại Đồng. Giặc

Thát thấy đại nhân rơi xuống hang cũng không còn hăng hái tiếp tục công kích núi

Bạch Đăng nữa, hiện đang đại chiến cùng Kinh thiên tổng dưới núi!

Nghe nói đó là một vị thiên tổng, Dương Lăng lúc này mới hơi yên tâm. Dưới

trướng thiên tổng ít nhất có đến hàng nghìn binh đinh, cộng thêm hơn ba trăm người

trên núi, so nhân số với bên địch cũng không kém cạnh gì. Có điều không biết dưới

trướng vị thiên tổng này có bao nhiêu kỵ binh, nếu đều là bộ binh thì nên sớm bảo

hắn lên núi mới được, bằng không bộ tốt đấu với kỵ binh, thắng thì thắng nhỏ, bại

sẽ bại lớn.

Dương Lăng quay đầu lại nhìn thấy Hồng Nương Tử Thôi Oanh Nhi đang nắm

dây thừng bằng một tay đã được Dương Hổ kéo lên, toàn thân vẫn trong trang phụcđàn ông, nhưng tóc tai tán loạn, hai má ửng hồng. Cặp mắt trong vắt xinh đẹp vừa

ló khỏi hang vừa khéo chạm ánh mắt của y, bèn vội dời ánh mắt đi, nhún người

nhảy lên miệng hang. Cử chỉ như thẹn như sợ, không ngờ lại rất có phong vị phụ

nữ.

Dương Hổ hiếm khi thấy vợ mình lộ ra dáng vẻ như vậy nên không khỏi sinh

nghi; hắn liếc sang Thôi Oanh Nhi với vẻ hoài nghi, rồi lại liếc nhìn Dương Lăng.

Dương Lăng chỉ vì muốn sống sót nên mới gạt bỏ mọi kiêng kị giữa nam nữ, tự

thấy không thẹn với lòng, vì vậy thản nhiên đón lấy ánh mắt hắn, rồi quay đầu bảo

Ngũ Hán Siêu:

- Đi! Nhìn xem chiến cuộc thế nào.

Phần lớn phiên tử thủ ở rìa đỉnh núi, đi theo bên cạnh y chỉ có mấy chục thân

vệ, mọi người nghe đại nhân mở lời liền vây quanh hộ vệ y đi quan sát trận địa.

Hoắc ngũ gia và mấy tên mã tặc ngơ ngác nhìn nhau, lúc này có ý muốn chạy,

nhưng vừa rồi hỗn chiến một trận, ngựa còn vứt dưới sườn núi, khắp dưới chân núi

lại toàn là lính, biết chạy đằng nào?

Thôi Oanh Nhi tuy biết tình huống trong hang là bất đắc dĩ, song vẫn có phần

hổ thẹn với trượng phu, cho nên vẻ mặt lúc mới ra khỏi hàng có hơi bối rối ngượng

nghịu, lúc này cũng đã bình tĩnh trở lại. Nàng vén tóc mai, điềm nhiên nói:

- Dương Lăng đã nói rồi, hôm nay quyết sẽ không động thủ. Quan binh cũng

không phải đều là hạng không giữ tín nghĩa, lời của người này muội tin tưởng được!

Dương Hổ bất mãn hừ một tiếng. Có điều nếu thật sự muốn đi, hiện tại gã cũng

chẳng có chỗ nào để chạy, nay cũng chỉ còn đành tin tưởng Dương Lăng sẽ biết giữ

chữ tín mà thôi. Tình hình chiến đấu dưới núi có quan hệ đến sinh tử của bọn họ,

mấy người bọn họ cũng đi đến rìa núi tìm chỗ bằng phẳng để đứng rồi cùng nhìn

xuống dưới.

Lúc này dưới núi đang triển khai một hồi đại chiến. Vị Đỗ Nhân Quốc này

Dương Lăng chưa gặp bao giờ, nhưng lại đã nghe đại danh của lão từ lâu,vũ khí của

lão là cây đại khảm đao sống dày, nặng phải sáu mươi cân hơn, nghe nói là đệ nhấtdũng tướng của Đại Minh. Lão đã từng giữa chiến trường vung một đao bổ con

ngựa đang phi nước đại làm đôi, được giặc Thát khiếp sợ coi là chiến thần.

Chỉ tiếc là vị "chiến thần" này chỉ coi trọng võ nghệ cá nhân, chưa từng suy

tính gì đến mưu lược chiến trận, vừa gặp quân giặc liền xung phong lên phía trước,

dẫn đại quân ùa tới như ong vỡ tổ. Tuy lão dũng mãnh không gì sánh được, một cây

đại đao vừa được vung lên, đúng thực là người cản giết người, Phật cản giết Phật,

oai phong rất mực, nhưng lại không có chút tác dụng nào với thắng bại của cả cuộc

chiến, vì vậy lão đánh trận phần thắng thì ít phần thua thì nhiều.

Có điều sự sùng bái cá nhân của biên quân đối với lão lại lên đến đỉnh điểm, rất

nhiều mãnh tướng coi lão là tấm gương vẻ vang của tam quan. Năm xưa huyện lệnh

Mẫn Văn Kiến của Kê Minh từng là một thiên tổng dưới trướng lão, tác phong đánh

trận cũng giống hệt lão ta.

Mà hiện tại vị Kinh thiên tổng dưới núi này lại là nghĩa tử của Tổng binh Đại

Đồng Đỗ phong tử (lão Đỗ điên) nọ, tuổi vừa tam tuần, tính tình khát máu hiếu sát

hệt như nghĩa phụ Đỗ Nhân Quốc của hắn. Giặc Thát do hắn tự tay chém chết

không tới một nghìn cũng có tám trăm, được tướng sĩ tam quan xưng là Quỷ vương.

Kinh thiên tổng lấy đó làm vinh dự, liền cho làm một lá cờ to, trên viết ba chữ "Quỷ

Vương Kinh" thật lớn; thực là có hiệu quả người lạ tránh xa, quỷ ma ra hóng.

Hắn chạy tới vừa đúng lúc, tuy là trùng hợp song không phải không có nguyên

nhân. Sau khi nhận được tin Đoá Nhan Tam Vệ đã khởi hành đi Đại Đồng, một mặt

Dương Lăng cho tăng cường mật thám và trinh sát gián điệp trong thành, mặt khác

lệnh cho Chỉ huy sứ Thái Nguyên Vệ là Trương Dần dẫn quân đi đến bãi Kim Sa

chờ lệnh, đồng thời do quân chủ lực của Thát Đát đã chuyển hướng tấn công sang

Hồ Khẩu, y bèn truyền lệnh điều đội quân tăng viện cho quan ải phía Bắc trở về Đại

Đồng.

Sau khi nhận được quân lệnh, Kinh thiên tổng dẫn quân trở về, đi đến nửa

đường thì gặp được viên phiên tử do Dương Lăng phái đến Đại Đồng cầu cứu. Vừa

thấy có quan binh, gã phiên tử đó lập tức bỏ yên xuống ngựa, lật đật chạy đến báo

tin và thỉnh cầu chi viện.Không đợi nghe hết, Kinh thiên tổng liền đã hào hưng lên ngựa, dẫn đại quân

rời khỏi quan đạo, thọc sườn đánh tới núi Bạch Đăng. Bộ hạ Quỷ Vương Kinh chỉ

có ba trăm kỵ binh, khi tiền quân xông đến dưới chân núi Bạch Đăng thì bộ tốt ở

hậu quân vẫn còn đang ở ngoài mấy dặm.

Kinh thiên tổng cũng chẳng thèm bận tâm đến đến binh pháp "cánh trái vu hồi,

cánh phải bọc sườn, chủ lực hợp công trung lộ" gì cả, cứ thế mà dẫn hơn ba trăm kỵ

binh phân tán rải rác ùa tới như một cơn gió, hò hét đánh vào trong trận địa quân

giặc. Bọn họ cậy vào nhuệ khí mà tràn tới, xung phong vỗ mặt, đội quân cầm đại

đao đánh thốc tới không gì cản nổi, tức thì mưa máu tóe tung, giặc Thát bị giết đến

trở tay không kịp.

Dương Lăng đứng trên đỉnh núi, nhìn thấy một vị tướng quân vận đồ đen toàn

thân đẫm máu, áo choàng sau lưng hệt như một đám mây đen, đại đao trong tay

vung cao, ánh sáng lạnh lẽo vừa loé lên, liền có một tên giặc Thát cản đường bị một

đao chém cho cả người lẫn binh khí thành hai khúc. Đội kỵ sĩ sau lưng hắn cũng

đều hung hãn vô cùng, liều mình chiến đấu, dáng như loài cọp điên.

Dương Lăng kích động, hỏi:

- Người này thực là dũng mãnh, hắn chính là Kinh thiên tổng dưới trướng Đỗ

tổng binh ư?

Một viên phiên tử đáp lời:

- Dạ! Đại nhân, người này chính là Quỷ Vương Kinh danh vang khắp tam quan!

Ngũ Hán Siêu khen ngợi:

- Một đao chém cho cả người lẫn binh khí thành hai khúc, cây đao trong tay hắn

ít nhất cũng xấp xỉ năm mươi cân, thực là một viên mãnh tướng!

Dương Lăng quan sát chiến cuộc dưới núi, thấy giặc Thát đã không còn ham

chiến, đang rút lui dần, xa xa còn có một toán quân Minh khôi giáp xiêu vẹo chạy

lại, thì thoáng nhẹ nhõm trong lòng, cười nói:- Ừ! Người này xông pha trận mạc quả thực là một viên mãnh tướng, không

thẹn tên gọi Quỷ vương! Chỉ không biết mưu lược chiến trận thế nào, nếu như hắn

ta hữu dũng hữu mưu, ấy thực là phước cho Đại Minh ta vậy!

Sách Lạp Địa nghe được tin báo rằng vị thanh niên nghi là tướng lĩnh trọng yếu

của quân Minh đó đã rơi xuống hang núi. Hắn thấy ngọn núi tuy không cao lắm

song cũng phải hơn trăm trượng, nếu rơi xuống sẽ không có hy vọng sống sót gì,

thế là hài lòng thoả ý. Hắn vừa đang định cho quân rút nhanh thì bất ngờ bị một

toán quân Minh đánh tới, mà toán quân địch đó còn không thèm dùng đến bất cứ

binh pháp gì.

Đây đúng thật là "quyền cước lung tung, trúng thầy thầy chết". Tuy hắn cũng là

một tướng lĩnh Thát Đát từng trãi cả trăm trận lớn nhỏ, thế nhưng quân đội mệt mỏi,

lại bị đối phương xông vào làm rối loạn đội hình, nhất thời không có cách nào phản

kích hữu hiệu. Thế là hai đoàn quân quấn chặt vào nhau, tức thì sa vào khổ chiến.

Quỷ Vương Kinh xung phong đi đầu, đại đao trong tay vừa vung lên, đầu người

liền bay mất, một thân thể cường tráng ngã rầm xuống đất. Một tên giặc Thát trông

thấy từ xa, bèn móc ra một sợi dây quăng quấn chân ngựa quay quay, nhắm chuẩn,

buông tay ném tới.

Kinh thiên tổng đang thúc ngựa đuổi theo một tên giặc Thát đã bị chém gãy

binh khí thì thình lình đôi chân ngựa bị quấn vào dây thừng, chiến mã ngã rầm

xuống đất. Mấy tên giặc Thát lợi dụng thời cơ lập tức múa may binh khí thúc ngựa

chạy tới.

Vị thiên tổng này phản ứng cực nhanh, trong chớp mắt ngựa vừa ngã xuống, hai

chân hắn đã rời khỏi bàn đạp, hai chân giẫm lên lưng ngựa một cái, mượn lực búng

của chân cộng lực đàn hồi của lưng ngựa mà nhảy vọt lên. Lúc chiến mã ngã rầm

xuống đất khiến cho một mảng tuyết bắn tung thì hắn cũng đã từ trên không đáp

xuống, vung một chiêu lực phách Hoa Sơn, sức mạnh và tốc độ kết hợp một cách

hoàn mỹ, trường đao từ trên cao bổ xuống giữa tiếng quát kinh thiên!

Một tên giặc Thát đang thúc ngựa chạy ngang phía trước trông thấy một đao

không thể đỡ được bổ xuống như sấm sét liền nghiêng người trượt nhảy khỏi chiếnmã. Trong tiếng quát như sấm rền của Kinh thiên tổng, nhát đao của hắn đã bổ đứt

yên ngựa, bổ gãy xương sống của nó. Một thớt ngựa lùn khoẻ mạnh của Mông Cổ

cứ vậy mà bị bổ làm đôi, một cột máu phun lên, tức thì hắn biến thành một huyết

nhân không rõ hình dáng.

Chỉ thấy tên huyết nhân này lau mặt, xoay bước vặn lưng, đại đao vút ngang.

Trong một tiếng gầm dữ tợn, "vù" một cái, lưỡi đao như cái quạt gió đã chém xéo

đến một con tuấn mã đang đứng chồm trên hai chân trước, hí dài vì sợ hãi...

Chú thích:

(1) Con cả của Tần Doanh Chính, tin vào thư giả mạo của Triệu Cao và Lý Tư

mà rút kiếm tự vẫn.

(2) Con thứ mười tám của Tần Doanh Chính, là vị vua cuối cùng của nhà Tần,

giết hại nhiều đại thần, tôn thất và là nguyên nhân Tần bị mất nước.NGƯỢC VỀ THỜI MINH

Nguyệt Quan

www.dtv-ebook.com

Chương 198 Đồng Sàng Dị Mộng

-------------------

Quyển năm - Quần ma loạn vũ - Chương 198 Đồng Sàng Dị Mộng

------------------------

Hai xác ngựa đổ xuống, máu tươi phun khắp đầu khắp mặt Kinh thiên tổng, hắn

khuỳnh hai chân, tay cầm chắc đại đao, mặt nanh mày ác, hệt như quỷ dữ giáng

trần.

Đám giặc Thát tính tranh thủ thừa cơ xông lại tiêu diệt hắn nay trông thấy vậy

thì sợ đến khiếp hồn, suýt nữa đã không cầm nổi cương ngựa. Ngựa chúng cũng

kinh hãi hí lên điên cuồng, chồm hai vó trước lên không, chẳng dám bước tới một

bước. Việc chỉ trong nháy mắt, song cũng đã đủ cho vị thiên tổng vung tiếp hai đao.

Quỷ Vương Kinh vẫn đứng trên mặt đất, hắn chùng người theo mã tấn, đại đao

vung ngang một đường. Đao vừa chém ngang, bốn chân ngựa rụng xuống đất, con

ngựa tội nghiệp biến thành một con ngựa "nhộng" hí thảm một tiếng rồi ngã bộp

xuống đất, lăn lộn đau đớn, thuận đà đè tên giặc Thát ngã ngựa, kéo theo vệt máu

đỏ tươi.

Kinh thiên tổng thuận đà giật ngược chuôi đao, thụi vào ngực một tên giặc Thát

đang sững sờ khiến gã hộc máu ngã ngựa, tiếp đó hắn giật lấy dây cương, cướp

ngựa xoay mình nhảy lên, máu nhuộm đỏ cả khuôn mặt, trông như quỷ sứ từ chín

tầng địa ngục đến chốn trần gian, vừa cười gằn vừa xông trận chém giết tiếp.

Đám người Dương Hổ trông thấy tình hình đó cũng bất giác thầm tắc lưỡi, hóa

ra trong quan binh cũng có chiến tướng hung hãn vũ dũng như vậy. Không chỉ riêng

một mình Quỷ Vương Kinh, trên người mỗi kỵ sĩ trong đội quân của hắn phi đếnđây đều nhuộm đỏ máu tươi, của giặc có, của mình có, của chiến mã cũng có, thậm

chí lưỡi đao mũi giáo cũng loang lổ vết máu, sát khí ấy thực khác hẳn với đám quan

binh vệ sở mà bọn họ từng gặp. Thấy vậy đám cướp dữ này cũng không khỏi rét

run.

Lúc này từ xa vọng lại từng hồi tiếng vang như sấm rền, rõ là có một đại đội kỵ

binh đang tung vó phi đến. Giặc Thát đang chiến đấu kịch liệt nghe thấy liền rét

lạnh cả lòng, đó có thể là viện quân của ai? Lúc này, nơi này, quyết không thể là

người của bọn chúng.

Đám người Dương Lăng ngoái đầu lại nhìn. Bên kia núi, vô số kỵ binh ùn ùn

kéo tới, tiếng vó ngựa đinh tai nhức óc, cờ hiệu rõ là quân thủ vệ Đại Đồng. Phiên

tử trên núi đồng loạt hoan hô, tướng sĩ liên quân dưới núi càng đánh càng hăng, khí

thế càng tăng, quả là người như hổ, ngựa như rồng.

Tuy giặc Thát dũng mãnh không hề sợ chết nhưng lúc này cũng không khỏi vì

vậy mà bắt đầu núng thế. Nhận thấy khi này mà không chạy sẽ không còn kịp nữa,

Sách Lạp Địa bèn lập tức cho vẫy cờ ra lệnh cho toàn quân rút lui. Suy cho cùng đội

quân của hắn xuất chinh đánh trận hàng ngày kinh nghiệm vô cùng phong phú, vì

thế hoảng mà không loạn, bắt đầu tấn tốc co cụm lại, dần dần rút lui. Giặc Thát ở

hậu trận giương cung lắp tên bắn ra không ngừng, ngăn cản quân Minh đang như

những kẻ cuồng sát nổi điên tiến lại.

Tên phiên tử được cử đi cầu cứu nửa đường gặp phải binh mã của Kinh thiên

tổng, chưa kịp tường trình xong thì đã bị hắn ta bỏ lại sau mông ngựa cho hít bụi.

Trông thấy vị tướng quân đó vui sướng xông lên phía trước, chẳng thèm ngó ngàng

gì đến quân sĩ của mình, viên phiên tử hơi ngớ người, cũng không biết viên tướng

này có đáng tín nhiệm hay không. Suy tính một lúc, y bèn vẫn quyết định theo lệnh

cũ, lên ngựa chạy gấp về Đại Đồng báo tin cho yên tâm hơn một chút.

Tham tướng thủ thành hay tin cả kinh. Vừa may lúc này Tổng binh Đỗ Nhân

Quốc tuần thành đến đây, nghe nói khâm sai gặp phải tập kích ngoài thành, tức thì

lão cũng hơi kinh hãi. Đây nào phải chuyện đùa, ví như khâm sai thay vua đi tuần

thú mà bị giặc giết ngay trong khu vực phòng thủ của mình, vậy chẳng phải rấtnguy cho mình ư?

Năm xưa Đỗ Nhân Quốc hiệu xưng Đỗ Phong Tử, tính nóng như lửa, giết

người như ngoé, nhưng những năm nay tuổi tác đã cao nên tính tình cũng cẩn trọng

hơn một chút. Lão định thần lại, hỏi rõ quân số giặc Thát rồi lập tức điểm đủ ba

nghìn nhân mã theo lão đi cứu giá. Đại quân xuất thành, lúc này vừa mới tới.

Dẫn đầu là một đội khinh kỵ, khi xông đến gần liền bắn một loạt hoả lực trước,

"đoàng đoàng đoàng" hạt sắt bay ra đầy trời, tức thì quân giặc ngã ngựa một mảng,

song chết không nhiều, đa số biến thành người mặt rỗ, ôm lấy khuôn mặt đầy máu

mà gào thét. Liền đó đội khinh kỵ tản ra, đại đội thiết kỵ hai tay cầm chắc trường

mâu đâm tới, đội hình giặc Thát vừa mới co cụm lại lập tức bị đánh cho tan tác.

Lúc này thì giặc Thát cũng đã bừng lửa giận. Bọn chúng quanh năm chinh

chiến với quân Minh, biết rõ thủ thắng chủ yếu dựa vào ưu thế kỵ binh, bằng không

sức chiến đấu của từng binh sĩ cũng không hơn biên quân là bao. Nay quân số

không bằng quân Minh, đội quân này lại toàn kỵ binh, bọn chúng hoàn toàn chẳng

còn cách nào chạy thoát, xem ra hôm nay ắt phải chịu cảnh toàn quân bị diệt rồi.

Sách Lạp Địa vung đao hô lớn:

- Hỡi các dũng sĩ, Hỏa Sư vô địch sẽ báo thù cho chúng ta! Hãy xông lên, giết

thêm được một quân Minh, máu chúng ta chảy ra sẽ càng thêm quang vinh, chói

lọi!

Hơn năm trăm tên giặc Thát bị thương lẫn mệt mỏi tuyệt vọng nâng đao cầm

thương, dưới sự lãnh đạo của Sách Lạp Địa xông lên nghênh đón đại quân của Đỗ

Phong Tử, đằng sau là Quỷ Vương Kinh vẫn đang truy sát không ngừng. Chỉ trong

khoảnh khắc năm trăm người ngựa đã bị chôn vùi trong "dòng thép chảy" cuốn

trào...

Lưu Đại Bổng Chùy xem đến hớn hở mặt mày, xoa tay xắn áo một lúc rồi nhịn

không được mà khẩn cầu:

- Đại soái! Tiêu hạ nhìn mà ngứa ngáy tay chân, xin cho tiêu hạ cũng đi giếtmấy tên giặc Thát đi, trả thù một phần cho ngài!

Dương Lăng được hắn nịnh đến bật cười, bèn gật đầu. Lưu Đại Bổng Chùy lập

tức chạy tới sơn khẩu dắt một thớt ngựa rồi xoay người nhảy lên, tay cầm cây côn

sắt xông thẳng xuống núi.

Trông thấy tình hình như vậy, Hồng Nương Tử bèn cố lấy hết dũng khí bước

đến bên cạnh Dương Lăng, ôm quyền nhắc:

- Xin thỉnh Dương tướng quân!

Dương Lăng quay người lại, thấy mấy người Dương Hổ đang nhìn mình chằm

chằm, y buột miệng hỏi:

- Ồ, Dương phu nhân! Có chuyện gì vậy?

Thôi Oanh Nhi giận lắm, muốn móc mắt Dương Lăng ra ngay lập tức. Nàng

tính tình cao ngạo, thật không thể nào mở miệng yêu cầu Dương Lăng thả bọn họ đi

cho nên chỉ gọi một tiếng, trông chờ Dương Lăng sẽ mở miệng thực hiện lời hứa

của y. Giờ thấy Dương Lăng còn làm ra vẻ không hiểu, nàng không khỏi trợn mắt,

cúi đầu oán hận mắng nhỏ:

- Ngươi... thật vô lại!

Lời mắng tuy nhỏ song Dương Lăng lại nghe rõ mồn một. Y thoáng ngẩn

người, liền lập tức sực nhớ lúc giặc Thát tấn công mình đã từng nói hôm nay chỉ

giết giặc ngoài, không phân quan chia cướp. Lúc này khoé mắt y đã chú ý đến Ngũ

Hán Siêu đứng bên cạnh mình đang lặng lẽ đưa một tay vào trong túi giắt lưng, hiển

nhiên chỉ cần mình nói một câu không thả người thì sẽ lập tức ra tay đánh giết.

Thôi Oanh Nhi cũng trông thấy động tác của Ngũ Hán Siêu. Đôi mắt to tròn

xinh đẹp của nàng tức thì nheo lại đầy vẻ uy hiếp, ánh mắt quét từ dưới lên trên

người Dương Lăng, quan sát y kỹ càng một lượt, thoáng nhìn chằm chằm vào cổ

họng y, rồi liếc sang Ngũ Hán Siêu khiêu khích. Ý bảo ngươi mà dám động thủ thì

ta sẽ giết Dương Lăng trước.Dương Lăng thu hết sự giao phong âm thầm của hai người vào trong mắt. Y suy

nghĩ một chút rồi cao giọng bảo:

- Khi nãy giặc Thát cũng đã giết mất mấy huynh đệ của các người! Quý phu thê

tinh thông võ nghệ, nếu muốn xuống núi báo thù cho huynh đệ thì cũng là dốc sức

vì nước, bản quan sẽ không ngăn trở!

- Ớ?

Thôi Oanh Nhi hơi ngẩn người, rồi chợt hiểu y đang kiếm cớ cho bọn mình rút

lui. Nàng nhìn Dương Lăng với ánh mắt kỳ quái, rồi mới chắp tay chào:

- Như vậy... Đa tạ tướng quân, dân nữ cáo từ!

Dương Lăng bỗng trầm giọng:

- Cô giết ta chỉ là chuyện búng tay, ta diệt lục lâm Bá Châu cũng chỉ là chuyện

trong nháy mắt, hy vọng cô tự thu xếp cho ổn thoả.

Thân thể yêu kiều của Thôi Oanh Nhi thoáng run lên, vụt ngẩng đầu nhìn

Dương Lăng, vừa vặn đón lấy ánh mắt nghiêm nghị của y. Giọng y vẫn trầm mà

chắc nịch:

- Từ nay về sau hãy mai danh ẩn tính, thiên hạ rộng lớn có biết bao chỗ để đi.

Nếu lại thấy vợ chồng cô làm điều ác, ta nhất định sẽ dùng vũ lực mà tiêu diệt. Đến

lúc đó hoạ lây cửu tộc, hối hận không kịp đâu!

Tuy biết kẻ đứng trước mặt này luận võ nghệ thực không chịu nổi một đòn của

mình, nhưng lúc này khí phách uy nghiêm của y lại sắc bén vô cùng, còn bén nhọn

hơn cả đao kiếm, Thôi Oanh Nhi nhất thời không chịu nổi bèn cụp mắt xuống.

Hồng Nương Tử tự cảm thấy đối diện với y mà mình yếu thế như vậy, trong

lòng buồn nản không thôi. Như nàng, Hồng Nương Tử danh truyền khắp chốn lục

lâm phương bắc có mấy khi khuất phục cuối đầu trước mặt người khác như vậy.

Nhưng vẻ mặt kiên cường chính trực của Dương Lăng lại khiến nàng lần đầu tiên

cảm thấy mình kêu gọi tụ tập chốn núi rừng cũng vậy, mà khởi binh tạo phản cũngvậy, đều là lý lẽ không đúng, khí thế không đủ. Nàng mím môi, thấp giọng chào:

- Cách biệt từ đây, không hẹn ngày gặp lại!

Dứt lời nàng liền quay người rời đi, nhanh nhẹn bước qua đám phiên tử cầm

đao, không hề quay đầu mà chạy thẳng đến nơi để ngựa trên đỉnh núi. Dương Hổ

không biết hai người thì thầm to nhỏ những gì, trông thấy ánh mắt quái dị của mấy

tên thủ hạ mình, trong lòng hắn cực kỳ khó chịu. Hừ một tiếng, hắn cũng đi theo

Hồng Nương Tử.

Mấy tên mã tặc vặn mình lên ngựa, phóng đi, bụi tuyết cuốn tung dưới vó. Bọn

họ xông thẳng xuống núi, không thèm ngoái đầu lại, phóng xa về hướng đông.

Dương Lăng đưa mắt dõi theo bóng hình bọn họ dần hoá thành một chấm đen,

rồi mới khẽ thở dài một tiếng:

- Chỉ mong không gặp từ đây! Bằng không dẫu cho các người có muôn vàn lý

do để tạo phản, lẽ trời có thể dung tha, quốc pháp cũng sẽ không thứ tội. Lúc đó ta

chỉ còn nước giết các ngươi để trừ ác mà thôi!

Dương Lăng nói xong, vừa quay đầu lại đã thấy hai ông "quan công" rảo bước

đến chỗ y.

Một vị tuổi trạc ngũ tuần, đầu beo mắt tròn vo, già mà sung khoẻ. Vị khác chưa

tới ba mươi, mũ đen giáp đen, bước chân nhẹ nhàng, nhanh nhẹn như beo, trông kỹ

khuôn mặt rất là thanh tú, hoàn toàn không giống cái dáng dấp quỷ vương chém giết

trên chiến trường, ngạo nghễ nhìn sinh linh bằng nửa con mắt khi nãy.

Bọn họ mỗi người xách một cây đại đao dính máu thịt bê bết, trên áo bào chiến

giáp vẫn còn đang nhểu máu....

**************************

Tuấn mã phóng nhanh đến hơn mười dặm, Hồng Nương Tử đầy bụng phẫn uất

mới ghìm mạnh cương dừng lại. Đằng trước tuyết trắng mênh mông, bốn cõi đều là

non hoang đường vắng, không chút sức sống; chiến mã phả hơi phì phì, từng cụmhơi trắng lượn lờ toả ra trong không trung.

Hồng Nương Tử ngửa mặt thở ra một hơi thật dài, ngựa gõ móng lộp cộp, thân

hình thoáng phập phù theo thân ngựa. Nàng khẽ vuốt ve bờm ngựa sơ cứng như dây

thừng, mắt liếc sang Dương Hổ đã chạy lên bên cạnh đang nhìn nàng chằm chằm,

không nói tiếng nào.

Những người khác phi đến cách vài thân ngựa thì đều gò cương chậm bước.

Dương Hổ thúc ngựa đi quanh Thôi Oanh Nhi mấy vòng rồi mới dừng lại, hơi

nhổm người thấp giọng hỏi:

- Nương tử, sao vậy?! Có phải... tên tiểu tử Dương Lăng đó đã vô lễ với nàng

không?

Mày liễu dựng ngược song Thôi Oanh Nhi lại nén nhịn, nàng quay đầu đi, cất

giọng lạnh nhạt:

- Y có bản lĩnh đó sao?

Thế nhưng chợt nhớ lại tình cảnh trong hang, nhớ lại nụ hôn xẹt qua môi như

đá lửa, môi nàng không khỏi như muốn sưng lên; nhớ lại y ôm chặt lấy đùi mình,

đầu áp vào mông liền cảm thấy mông như cũng hơi ngứa ngáy, cũng không biết là

do tâm lý hay vì cưỡi ngựa.

Nàng lúng túng quay đầu nhìn hắn, chán nản nói:

- Hổ ca, chúng ta hãy trở Bá Châu có được không? Đừng nói gì đến giành giang

sơn, trị thiên hạ nữa, hãy ở trong núi sâu mà sống một cuộc sống êm đẹp cho yên.

Muội bỗng dưng rất chán ghét việc dùng vũ lực của mình, tự cho là đang thế thiên

hành đạo, thực ra... chúng ta không thể thay đổi được gì.

Rồi giọng nàng trầm xuống:

- Gã Dương Lăng đó, chỉ một ngón tay là muội đã có thể giết chết y, nhưng thế

thì đã sao? Y nói rất đúng, năng lực chúng ta chỉ có vậy. Chúng ta có thể giết tham

quan, y có thể tạo nên quan tốt; ta có thể đoạt nhà giàu, cướp bạc đưa cho ngườinghèo, khiến nhà nhà đều hoá nghèo, y lại có năng lực khiến trăm họ có ăn có mặc,

ai nấy đều hoá giàu. Ha ha!... Người ta mới thật sự có bản lĩnh! Chút bản lĩnh này

của chúng ta thực ra chỉ là cái dũng của kẻ thất phu, chả được tích sự gì cả.

Dương Hổ vuốt ve cổ ngựa, hỏi với ánh mắt quái dị:

- Nương tử, nàng đang nói cái gì vậy? Nếu như để các huynh đệ biết ngay cả

nàng cũng nghĩ như vậy, đại sự của chúng ta còn có thể thành hay sao? Họ Dương

đó rốt cuộc đã nói với nàng những gì? Trước giờ nàng chưa từng nghe ai khuyên

nhủ, vậy mà nay lại nghe theo lời y. Nàng...

Thôi Oanh Nhi ngắt lời hắn, lạnh lùng bảo:

- Y không hề nói gì cả, tự muội có mắt thì thấy thôi. Y mang mấy thứ hoa mầu

nọ về cho trồng trọt khắp nơi sẽ còn cứu giúp được nhiều người hơn chúng ta cướp

giàu giúp nghèo đó. Mà huynh... lại muốn giết người, hủy hoại hoa mầu!

Khi giặc Thát xông vào thôn, nếu y cho loạn tiễn giết chúng ta rồi bỏ chạy dưới

sự bảo hộ của đám thị vệ, chỉ qua lộ trình mười dặm đã về đến Đại Đồng thì giặc

Thát vị tất đã đuổi kịp y, nhưng y lại thả đám khâm phạm chúng ta, chỉ tập trung

toàn lực giết giặc Thát. Thế thiên hành đạo? Rốt cuộc thì ai mới đang thế thiên hành

đạo?

Dương Hổ bị ánh mắt sắc bén của nàng trừng cho rúm người lại, liền đó nổi

giận vặn lại:

- Thiên hạ này là của bọn chúng, bọn chúng đương nhiên phải làm mấy chuyện

này, kết quả không phải vẫn có rất nhiều người chết đói đó ư? Kết quả không phải

vẫn là giặc Thát năm nào cũng đến đánh ư? Nếu để chúng ta đoạt được thiên hạ, hừ

hừ!

Thôi Oanh Nhi cười khổ, hỏi:

- Hổ ca! Huynh lúc nào cũng nói đoạt thiên hạ này, đoạt thiên hạ nọ, vậy rốt

cuộc huynh dựa vào cái gì để đoạt thiên hạ? Đoạt thiên hạ rồi sẽ lại dựa vào cái gìđể cai quản, dựa vào những huynh đệ trên núi của chúng ta ư? Khi đó chúng ta đi

cướp ai đây? Cướp dân chúng của chính mình sao?

Dương Hổ không đồng ý, bèn phản bác:

- Ơ hay! Mây theo rồng, gió theo cọp, đợi đến khi đại sự chúng ta đã thành rồi,

tự nhiên sẽ có người tài đến dựa dẫm, cần gì lo lắng đến mấy chuyện đó vào lúc

này?

Trông thấy hai người bọn họ đang đấu võ miệng, Hoắc ngũ gia vội thúc ngựa

tiến đến, ho khan một tiếng tự xa, đến lúc ngựa tới gần lão mới hoà nhã cười hỏi:

- Cháu Hổ à, bây giờ chúng ta đi đâu đây? Nay đã bại lộ hành tung, đã không

thể trở về Đại Đồng được rồi!

Dương Hổ cao giọng đáp:

- Ngũ thúc, bọn họ đoán chúng ta đã đi, chúng ta lại càng không đi! Tiêu gia

trại có một vị hảo hữu đồng đạo lục lâm đã ẩn cư, chúng ta hãy tới đó tránh nạn một

thời gian. Nếu tên hôn quân đó mà chết, chúng ta mưu đoạt thiên hạ sẽ càng dễ hơn

nhiều. Huống hồ hôm nay chúng ta chết mất ba huynh đệ, không thể để bọn họ cứ

chết uổng như vậy, món nợ này chúng ta nhất định phải tính hết lên đầu hôn quân,

phải tính lên đầu cái tên Dương Lăng đó!

- Chúng ta đi!

Dương Hổ cất tiếng gọi đồng bọn rồi giục ngựa nhằm về hướng bắc phóng đi.

Trên khuôn mặt mịn màng như ngọc như sứ của Thôi Oanh Nhi tràn đầy vẻ thất

vọng, nàng đưa mắt nhìn theo bóng lưng Dương Hổ, chợt cảm thấy thật xa lạ. Trước

đây thấy hắn hào sảng nghĩa hiệp, uy vũ bất khuất, võ công tuy không bằng mình

nhưng cũng là trang hảo hán quang minh lỗi lạc trong đám cường đạo, sao giờ mình

lại chỉ cảm thấy hắn thật nông cạn đến thế, thật hám lợi như vậy?

Hôm nay nếu không phải nhờ có một tốp giặc Thát vô tình xông nhào tới thì

nhóm bọn họ đã trúng kế của Dương Lăng mà bị loạn tiễn bắn chết rồi, còn muốngiết Hoàng đế ư? Nhìn thấy oai phong của quân Minh hôm nay, chỉ sợ ngay cả hình

dạng Hoàng đế như thế nào còn chưa kịp nhìn thấy thì bản thân đã bị loạn đao chém

thành đống thịt vụn rồi.

Hoắc ngũ gia thấy Thôi Oanh Nhi do dự không tiến, bất giác ghìm cương ngựa

khuyên nhủ:

- Oanh Nhi! Không phải ngũ thúc muốn nhắc nhở con, nhưng con là vợ của

cháu Hổ. Tục ngữ đã có câu cưới gà theo gà, cưới chó theo chó, nay cháu Hổ đã

ngồi lên ghế giao ỷ (ý là làm lão đại) của lục lâm phương bắc, luận thanh danh hay

địa vị đều không thua kém con đâu.

Toàn bộ tài sản tích góp của trại cũ đều dùng để mua vũ khí trang bị cả rồi. Lão

gia tử rất hy vọng cô gia có thể cai trị giang sơn, mà con là khuê nữ duy nhất của

lão gia tử, tương lai sẽ là Hoàng hậu nương nương. Lúc đó thúc thúc cũng sẽ cao

hứng cho con. Đừng vì chút chuyện nhỏ mà đã nổi nóng! Cháu Hổ là đàn ông, trong

nhà thì nhường con thế nào cũng được, nhưng ngoài cửa thì con cũng nên chừa chút

thể diện cho vị đại ca lục lâm hắn với chứ, được không?

Thôi Oanh Nhi nhíu chặt cặp mày đen mướt, thở dài buồn khổ rồi lặng lẽ gật

đầu. Nàng quất mạnh roi vào mông ngựa, phóng theo Dương Hổ.

Bông tuyết, không biết tự khi nào đã bắt đầu rơi lả tả...

Hoắc ngũ gia dõi nhìn theo bóng lưng cô quạnh của cô cháu gái, thở dài sườn

sượt rồi cũng vung roi giục ngựa phi theo. Tuyết nhẹ nhàng rơi phủ đầy mặt đất, chỉ

trong phút chốc đã xoá tan mọi dấu vết...NGƯỢC VỀ THỜI MINH

Nguyệt Quan

www.dtv-ebook.com

Chương 199 Phượng Hoàng Bắt Nạt Rồng Con

- Thông tri cho cửa hàng da biết thích khách Di Lặc giáo vẫn chưa lộ diện, hẳn

là bọn chúng vẫn còn người trong thành, chú ý nghiêm ngặt đến mọi khuôn mặt lạ!

Khoan, chờ đã! Đã lùng tra sai hướng rồi! Di Lặc giáo mở hương đường ở khắp nơi,

tín đồ rất đông, Đại Đồng là thành lớn ắt sẽ có phân đà bí mật của bọn chúng.

Cho điều tra dân bản địa! Di Lặc giáo ở Thiểm Tây tạo phản thất bại là vào bốn

năm về trước phải không? Vậy điều tra xem bắt đầu từ bốn năm về trước cho đến

nay có hộ gia đình lớn nào từng có hành động khả nghi hoặc từng có người xứ khác

trọ lại nhiều ngày trong nhà bọn họ hay không, đặc biệt chú ý những nhà từng có

đạo sĩ ra vào.

- Dạ!

- Hôm trước mới vừa có người thu mua một mớ gia súc bỏ ở Lý Gia tập, hôm

nay liền có giặc Thát trèo non lội suối chạy lại đúng lúc, nhất định là có mật thám

báo tin, việc này cũng phải điều tra luôn! Đồng thời quan phủ cũng phải điều tra,

cho họ điều tra qua lai lịch của tên thương gia đó, xem hắn từng qua lại với những

ai, và trong đám bọn họ ai có thể xuất thành đi lên phương bắc.

- Dạ.

- Hôm nay thấy núi Bạch Đăng dễ công khó thủ, nhất là trên đỉnh núi lồi lõm

gập ghềnh, làm sao để thiên tử kết minh với người ta ở đó được chứ? Ờ, phải tìm

một lý do nào đó,... Rồi! Cứ bảo là quan binh Đại Đồng tiêu diệt hoàn toàn giặc

Thát lẻn vào tấn công ở đó, vì tuyên dương công trạng này, bản quan muốn xây

đình dựng bia trên đỉnh núi. Thừa dịp hãy cho san phẳng đất đai, ngầm bắc hỏa

pháo chung quanh, còn trên dốc thoải hãy cho đào hố bẫy ngựa, chôn chông sắt, chỉ

giữ lại một con đường lên núi.- Dạ!

- Trong khi chôn cất giặc Thát bị giết, phát hiện thấy giáp lót vai, yên ngựa,

móng sắt đóng chân ngựa, mũ sắt,... thậm chí phần lớn binh khí đều có nguồn gốc

từ trung nguyên, hiển nhiên có người lén tuồn lên phương bắc bán cho giặc. Buôn

lậu trà muối kiếm tí tiền thì cũng không sao, nhưng đem bán quân nhu, khí giới cho

địch là tội không thể tha. Điều tra cho bản quan!

- Dạ!

- Chủ lực của Thát Đát đã di chuyển về hướng Bình Thuận, Hồ Khẩu, thế mà

Hỏa Sư, đệ nhất mãnh tướng của Thát Đát, lại ở lại không đi, còn phái người cướp

bóc lương thảo, vẻ như muốn ở lại lâu dài. Khả năng lớn nhất chính là kế ly gián

của chúng ta đã có hiệu quả, Bá Nhan đã bắt đầu nảy lòng nghi ngờ hắn.

Theo lý thì bọn chúng không thể biết chuyện Hoàng đế xuất kinh tuần thú, có

điều an nguy của Hoàng thượng là chuyện lớn như trời, cẩn thận là hơn. Ra lệnh

cho vị Chỉ huy sứ Thái Nguyên là Trương Dần cấp tốc xua quân lên bắc để tiếp

ứng; thám mã trinh sát chú ý nghiêm ngặt hết thảy mọi động tĩnh của Hỏa Sư!

- Dạ!

- Đúng rồi, Trương Dần thông qua cửa của Vũ Định hầu Quách Huân mới làm

quan, bản lĩnh thống lĩnh quân đội của người này thế nào? Tuy rằng quân thủ vệ Đại

Đồng đủ để ứng phó với đại quân của Bá Nhan, nhưng hắn là quân cờ dự bị duy

nhất của bản quan. Nếu hắn tài cán tầm thường, khó tránh sẽ làm lỡ chuyện lúc

nguy ngập.

- Hồi bẩm Xưởng đốc đại nhân, dựa theo căn dặn của ngài, ti chức đã điều tra

qua tất cả những tướng lĩnh quan trọng ở tiền phương. Trương Dần này là người

Trương gia, một họ lớn tại Sơn Tây, tuy là chi họ xa, song trên gia phả thuộc hàng

chữ Đức(1), vai vế rất cao.

Ông ta nguyên là Binh bị đạo(2) của Đại châu thuộc Sơn Tây, thao luyện hương

quân, đào sửa thành trì, lập pháp trữ lương, sửa sang doanh trại, quản quân có phép,đạo tặc bốn phương không kẻ nào dám quấy nhiễu Đại châu, rất được người địa

phương khen ngợi. Sau khi ông ta đến Thái Nguyên nhậm chức, việc chỉnh đốn

quân kỷ và thao luyện sĩ tốt thực cũng có khuôn có phép lắm.

- Ừm, vậy thì tốt! Đúng rồi, hôm nay vị tướng trong quân Đại Đồng tên Kinh

Phật Nhi được xưng là Quỷ vương đó quả là kiêu dũng thiện chiến, có thể nói là

một viên mãnh tướng. Tiếc là bản quan thấy hắn cùng lắm chỉ là một vị thiên hộ,

đánh trận chỉ biết xung phong lên đầu, binh sĩ bị hắn chỉ huy thành một đạo quân ô

hợp.

Nhìn khí thế tác chiến của hắn đáng sợ như vậy, nhưng nếu thật sự đụng phải

một vị tướng biết binh thư, chỉ cần bày ra chút kế nhỏ liền sẽ có thể dụ cho hắn

trúng phải phục kích, toàn quân bị diệt. Người này đặt vào đúng chỗ thì là một nhân

tài, đặt nhầm chỗ sẽ là một tai họa. Chốc nữa sai người đi dò hỏi qua ý tứ của hắn,

xem hắn có chịu gia nhập Nội xưởng hay không. Nếu như có, bản quan sẽ đến gặp

Dương tổng chế, Đỗ tổng binh đòi người.

- Dạ!

- Ngoài ra sai người chú ý đến hoạt động của đám người Dương Hổ. Nếu bọn

hắn lên đường trở về Bá Châu thì tạm thời không cần đụng vào. Từ đây về sau nếu

bọn họ chịu hối cải là tốt nhất; nếu lại tiếp tục dấn thân làm sơn tặc, vẫn giữ cái

nghề không tiền đồ này thì cũng không sao, nhưng nếu không chịu trở về Bá Châu,

nhất định lòng gian chưa hết, gặp phải giết ngay!

- Dạ!

- Huynh đệ nào bị thương thì mời lang trung chữa trị rồi cho nghỉ ngơi cẩn

thận. Huynh đệ bị tử trận thì đưa vào hòm mai táng, ghi lại danh tính, về kinh rồi an

ủi gia đình, cấp tiền tử tuất cho thật hậu.

- Dạ!

- Ừm! Cứ vậy đã, các ngươi lui xuống trước đi.Nhìn đám bộ hạ từng người lui ra, Dương Lăng thở dài một hơi, bước đến ngồi

trên ghế dựa, cầm chén trà dỡ nắp ra, đưa lên miệng thổi lay lay những lá trà xanh

biếc trôi nổi trong nước.

Hơi nóng vờn quanh khuôn mặt y. Chợt nhớ lại cái chạm môi mềm mại mà tiêu

hồn cùng Hồng Nương Tử, Dương Lăng bất giác gợn sóng lòng, trên mặt thoáng nở

một nụ cười xấu xa.

Cái tên Dương Hổ đó đúng là chấp mê bất ngộ, năm lần bảy lượt muốn giết

mình, rõ biết bị Di Lặc giáo lợi dụng thế mà còn không biết hối cải, lại cứ đuổi theo

đến Đại Đồng, lần này coi như là vừa mất phu nhân lại thiệt quân rồi còn gì.

("bồi liễu phu nhân hựu chiết binh", các bạn xem Tam Quốc Chí, đoạn Tôn phu

nhân qui Thục, ý là mất cả chì lẫn chài )

Hơi nước hơ nóng cục u trên trán khiến y cảm thấy đau tấy một hồi. Dương

Lăng vội dời chén đi, xoa nhẹ cái trán sưng vù của mình, thầm nghĩ: "Vợ hắn tuy

không đọc sách, song lại cũng hiểu chút lý lẽ. Chậc! Tiếc thật, một đoá hoa nhài

cắm bãi..."

Ngay lúc đó, khung cửa chợt mở ra kêu két, một bóng người dịu dàng lách

nhanh vào, lo lắng sốt ruột hỏi:

- Biểu ca, Đại Bổng Chùy nói anh bị thương, mau để em xem thử.

Dương Lăng ngước mắt nhìn lên, trông thấy một người thiếu nữ vận áo vải

nhiều màu sặc sỡ, cài hoa, vội vội vàng vàng bước vào, khuôn mặt xinh xắn động

lòng người đầy vẻ lo lắng. Theo sát phía sau là Hoàng đế Chính Đức, vua của một

nước, đang thậm thà thậm thụt như đứa hầu nhỏ của nàng cùng chạy theo vào.

Dương Lăng mỉm cười vui vẻ. Hiện tại Đường Nhất Tiên không phải tuân theo

nhiều quy củ như khi còn ở trong vương phủ nhưng không biết tại sao, chọn lụa tơ

đoạn gấm cho nàng thì nàng không thích, lại cứ thích mặc áo quần đơn giản mà tiện

nhẹ. Bộ áo vải ghép nhiều mảnh nhiều màu(*) này hệt như quần áo ăn mày thời nay

vậy, rất hợp cho người con gái trong thời kỳ nổi loạn như nàng mặc, tuy không caoquý, song lại tăng thêm mấy phần anh tú. (* thủy điền y: tựa như áo cà sa, may ghép

nhiều mảnh vải, nhiều màu sắc với nhau; là mẫu áo thời trang ở đời Minh).

Nhìn thấy một cục u sưng phù đỏ ửng trên trán Dương Lăng, Đường Nhất Tiên

xót lòng chau mày lại. Nàng nâng nhẹ gương mặt Dương Lăng lên, bàn tay thon thả

nhẹ nhàng xoa khuôn mặt y, chúm môi thổi nhè nhẹ, hỏi khẽ:

- Biểu ca, sao anh lại bị đập trúng ở đây vậy? Suýt chút nữa là mắt bị thương

rồi, còn đau không? Có cần mời thầy lang không?

Giữ lấy cổ tay mềm mại của cô nàng, Dương Lăng cười đáp:

- Không sao đâu! Hôm nay đại ca định dụ một ông phật sống xuất hiện, không

ngờ lại thả nhầm mồi, dụ nhầm một con hổ dữ. Nếu chỉ có thế thôi thì cũng chưa

sao! Đại ca đang tính bắt hổ, tự dưng lại có một bầy sói đói chạy lại. Ui chao, thật là

rối tinh rối mù lên. Còn về phần vết thương này, ha ha, không nhắc tới thì hơn.

Đường Nhất Tiên lương thiện trong sáng, lanh lợi đáng yêu. Thấy cô nàng quan

tâm săn sóc mình như vậy, Dương Lăng thấy ấm áp trong lòng. Tuy không có quan

hệ máu mủ, song hiện tại y lại cảm thấy giữa mình và Đường Nhất Tiên tồn tại một

loại tình cảm thân thiết và khắng khít. Tình cảm này tuyệt không phải là cảm giác

áy náy vì nàng ta giúp mình nên bị kẻ thù gây hại khiến phải gặp nạn, mà là niềm

yêu mến xuất phát tự đáy lòng.

Đường Nhất Tiên bị y chọc đến bật cười, nàng dịu dàng mỉm cười:

- Biểu ca lại nói gì đâu rồi, em nghe mà chẳng hiểu gì cả. Khi nãy em còn tính

đợi đại ca về dẫn em và Tiểu Hoàng đi dạo phố, xem bộ dạng của anh bây giờ.

Chậc! Chắc là em ở nhà với biểu ca rồi.

- Tiểu Hoàng? - Dương Lăng cúi xuống nhìn quanh, không thấy dưới chân nàng

có con chó nhỏ nào đi theo, vội hỏi: - Tiểu Hoàng đâu? Trong dịch quán làm gì có

chó? Em nhặt được ở ngoài đường à?

- Ớ?!Đường Nhất Tiên thoáng ngẩn ra, liền đó ngó sang Chính Đức cười ngặt nghẽo.

Hoàng đế Chính Đức dở khóc dở cười, liếc Đường Nhất Tiên đang cười sằng sặc rồi

chỉ vào mũi mình bảo:

- Hồi bẩm đại nhân, Tiểu Hoàng chính là tại hạ, tại hạ chính là Tiểu Hoàng.

Dương Lăng sợ giật nảy người, nhưng khi thấy hoàng đế Chính Đức đang rất

lấy làm vui thích, y cũng không tiện nói gì thêm. Đường Nhất Tiên cười đến đỏ mặt

đỏ mày, phất tay bảo Chính Đức:

- Đi, đến chỗ miệng giếng ở hậu viện đập lấy vài miếng nước đá vụn! Lấy thêm

cái khăn mặt! Ta giúp biểu ca chườm một tí cho mau tan máu bầm.

- Ờ!

Chính Đức đáp, co giò định chạy đi, Dương Lăng vội gọi giật lại:

- Khoan đã, không cần đâu! Trán đã sưng rồi, chườm đá sẽ chỉ đau thêm thôi,

để nó từ từ tự tan đi.

Chính Đức vừa dừng chân lại, Đường Nhất Tiên liền trừng mắt ngọc ra lệnh

tiếp:

- Vậy thì đi tìm dịch thừa xin ít mỡ chồn* đi.

(*TheJoker: tra thấy con này giống con lửng, họ chồn núi, thôi thì gọi chung là

chồn cho dễ hiểu)

Vừa định xoay người, Chính Đức nghe vậy lại vội chạy nhào đi. Dương Lăng

vừa mới nhấc người lên, giơ tay, há miệng định nói gì thì hắn đã chạy mất. Y chưa

biết phải làm sao thì Đường Nhất Tiên đã dìu y, khuyên bảo:

- Anh à! Anh ngồi xuống đi! Thật không biết anh kiếm ở đâu ra cái tên thân

binh ngốc đó nữa, cái gì cũng không hiểu, cái gì cũng không biết, cái gì cũng phải

để em dạy cho. Có điều... tính tình hắn cũng tốt, cả ngày cười hề hề, thực cũng

không đáng ghét lắm.Dương Lăng cười gượng mấy tiếng, thầm nhủ: "Không biết nói vậy có tính là

báng bổ nhà vua không ta?"

Chính Đức nào biết dịch thừa đang ở chỗ nào, mà thật ra tất cả dịch thừa cũng

đã bị đuổi đi từ trước rồi, trong cả dịch quán đều là người của Dương Lăng. Thế là

hắn chạy một mạch về viện nhà mình, vừa hò hét một hồi thì ngay lập tức bọn thị vệ

thủ hạ cuống cuồng chạy nháo nhào đi tìm thuốc, chỉ chốc sau liền đem về cho hắn

sáu bảy lọ mỡ chồn. Chính Đức mừng rỡ lấy vạt áo bọc lại, lật đật chạy về thư

phòng Dương Lăng.

Thuốc đưa thì chậm, nhưng mang đến lại nhiều, Đường Nhất Tiên lấy ngón tay

vét một miếng mỡ chồn, vừa cẩn thận bôi lên trán Dương Lăng vừa cảm rảm càm

ràm. Trước kia Đường Nhất Tiên được người ta dạy dỗ ở "Thì Hoa quán", Dương

Lăng không hề biết cái miệng líu ríu này của nàng không hề được nhàn rỗi tí nào.

Chính Đức đứng một bên gật đầu khom lưng, mặt mày tươi rói, bị nàng ta mắng mỏ

mà lòng lâng lâng phơi phới, chả biết đến trời trăng mây gió gì nữa.

Dương Lăng thấy vậy, trong lòng vui mừng hết sức. Tuy rằng y phụng lệnh

Chính Đức chuộc Đường Nhất Tiên ra khỏi "Thì Hoa quán", nếu vị cô nương này

còn ở lại nơi đó, sớm muộn gì cũng sẽ là người mệnh khổ, trầm luân chốn khói hoa.

Nhưng đã đích thân cứu cô nương này ra, y liền cảm thấy mình phải có một phần

trách nhiệm săn sóc cô ta.

Thêm vào đó Đường Nhất Tiên đã vì mình mà rơi xuống vực mất trí nhớ, và

nay lại có tình cảm như vậy với mình, nếu như Chính Đức chỉ chủ tâm đùa bỡn với

nàng, hoặc Đường Nhất Tiên không thích Hoàng đế thì nhất định y sẽ tìm cách ngăn

cản bọn họ gặp mặt. Song nay thấy Chính Đức yêu quý nàng như châu như ngọc,

còn bên cạnh mình có nhiều thân binh như vậy nhưng Đường Nhất Thiên lại chỉ

thích quở mắng đày đọa mỗi hắn, hiển nhiên giữa đôi thiếu nam thiếu nữ này đã hơi

có tình cảm đặc biệt, chẳng qua bản thân nàng cũng chưa nhận ra mà thôi.

Dương Lăng nhè nhẹ thở ra một hơi dài, nghĩ thầm: "Trở về kinh phải bảo Văn

Tâm nghĩ cách chữa trị cho nàng ấy xem sao. Dù sao thì mất kí ức vẫn là một điều

phải nuối tiếc, chỉ còn lại thân xác, sao có thể xem là Đường Nhất Tiên trước kiađược? Ái thê Tô Tam, Tuyết Lý Mai của mình cùng nàng ta tình như tỷ muội, kết

giao với nhau từ nhỏ; nếu như không thể khôi phục lại trí nhớ của Nhất Tiên, hai

nàng nhất định cũng sẽ hối tiếc suốt đời."

Đường Nhất Tiên bôi mỡ chồn xong xuôi một lượt, ngắm nghía kỹ lưỡng một

hồi rồi chun mũi lại hết sức đáng yêu, cười khanh khách:

- Biểu ca! Giờ trán anh sáng ngời, ấn đường bóng loáng, ra đường nhất định sẽ

nhặt được một thỏi vàng to.

Chính Đức cũng thích thú chen vào:

- Thỏi vàng thì có gì mà quí hiếm? Nhìn cái trán này ấy à, không luyện đến ba

trăm năm đạo hạnh sẽ không có đâu. Lần này đại nhân ra ngoài, không biết chừng

sẽ có thể nhặt được đại mỹ nhân về đây.

Đường Nhất Tiên trừng mắt với hắn, nhiếc móc:

- Ngươi suy nghĩ bậy bạ gì đó? Thật không biết lớn nhỏ gì cả! Nhặt mỹ nhân gì

chứ, anh của ta mới tròn hai mươi thôi mà ta đã có tới ba biểu tẩu rồi.

Chính Đức bị bẽ mặt, ngượng ngùng im miệng. Đường Nhất Tiên nhướng đôi

mày cong nhìn hắn tra hỏi:

- Sao? Ngươi không phục hả?

Chính Đức vội lắc đầu đáp:

- Không có! Đâu có! Nào dám! Ờm... Tôi đang nghĩ là... cả ngày ở riết trong

dịch quán cũng không có chuyện gì làm, nếu ra ngoài đi dạo một chút thì... thật ra

cũng không đến nỗi nào đâu.

Đường Nhất Tiên nghe vậy cũng hào hứng, tán đồng:

- Ừm, hai ngày trước ở trong vương phủ ta nghe nói ngày mai trên phố "Hoa

lỗi" có trưng bày "Thập nhị cẩm bình". Bình phong có thể lấy ra cho người tathưởng lãm như vậy, ắt hẳn đều là trân phẩm thượng hạng.

Khẽ cắn chiếc môi anh đào tươi tắn nghĩ ngợi một chốc, nàng giật nhẹ vạt áo

Dương Lăng nài nỉ một cách đáng thương:

- Anh à! Ngày mai chúng mình đi xem một chút có được không?

Được?? Dẫn Đường Nhất Tiên đi đương nhiên là không thành vấn đề, nhưng

"Tiểu Hoàng" sẽ chịu ở nhà sao? Mặc dù hiện trong thành Đại Đồng giống như binh

doanh, có thể nói là đã rất an toàn rồi lại còn an toàn hơn nữa. Không ai có thể nhận

ra Hoàng đế. Đừng nói là người trong Di Lặc giáo, thậm chí là quan viên toàn Đại

Đồng đi chăng nữa, ngoại trừ mấy người Đại vương, Hồ Toản và Dương Nhất

Thanh ra, cho dù Chính Đức đi ngay trước mặt bọn họ, chỉ cần hắn không mặc long

bào thì ai biết được hắn là Hoàng đế?

Chớ nói là người ở nơi đây, ngay cả quan lại trong kinh, mấy người phẩm hàm

thấp phải đứng xa xa hoặc mấy lão cận nặng vẫn vào chầu tuy trông thấy Hoàng đế

mỗi ngày, song chỉ cần hắn không mặc long bào thì vẫn không thể nhận ra vị đại gia

này. Thế nhưng bớt được việc nào hay việc nấy! Chỉ trong vòng vài ngày nữa Đoá

Nhan Tam Vệ sẽ đến rồi, đừng để xảy ra chuyện gì thì vẫn hay hơn.

Thế nhưng tiểu mỹ nhân như Đường Nhất Tiên đã mềm mỏng yêu cầu thì quả

thực không nỡ cự tuyệt. Dương Lăng định dằn lòng lắc đầu, chợt thấy Chính Đức

đang đứng sau lưng Nhất Tiên vừa gật đầu vừa dựng tay như đao vung ra ngoài cửa,

thái độ kiên quyết, như thể thúc giục y ưng thuận.

Đường Nhất Tiên dõi theo ánh mắt Dương Lăng nhìn ra đằng sau, trông thấy

vậy không khỏi ngạc nhiên hỏi:

- Ngươi đang làm gì đấy?

Tay của Chính Đức đứng sựng lại trên không như bị vọp bẻ, một chốc sau hắn

mới ấp úng:

- Tôi là thị vệ của đại nhân. Nếu đại nhân muốn ra ngoài, tôi đương nhiên phảihộ vệ bên người, ờ... tôi đang luyện tập võ công.

Đường Nhất Tiên bất giác rên lên một tiếng chán nản, lập tức giơ tay lên cốc

vào đầu hắn một cái, giọng không vui:

- Đồ ngu! Chưa thấy ai ngu gì mà ngu dữ như ngươi vậy đó! Nước đến chân

mới nhảy thì trễ quá rồi còn gì?

Hoàng đế Chính Đức cười gượng gạo không thôi. Dương Lăng suy nghĩ một

chút song vẫn thấy không ổn. Việc bản thân y bị bắt cóc ngay trên một con phố sầm

uất của kinh sư, coi như là nhất thời sơ ý mà bị lật thuyền trong cống đi, không tính.

Nhưng hôm nay vốn đã sắp đặt mọi thứ thoả đáng, cục diện tróc nã thích khách bám

đuôi đi theo vốn mười phần chắc chín rồi, thế mà đột nhiên từ trên trời rơi xuống

một đội quân giặc Thát đến đánh cướp kiếm ăn, suýt tí nữa thì đã sinh ra lắm

chuyện, có thể thấy trên đời không có gì là tuyệt đối.

Y bèn lắc đầu, ậm ờ đáp:

- Việc này... biểu ca vẫn còn rất nhiều công vụ phải làm, ngày mai có thời gian

rỗi hay không cũng chưa thể nói trước được. Đến lúc đó hẵn tính nhé.

Đường Nhất Tiên ngoan ngoãn gật đầu:

- Ừm, vậy biểu ca nghỉ ngơi cho khoẻ. Anh mới ở bên ngoài về, chắc còn chưa

ăn cơm phải không?

Đúng vào lúc này, Ngũ Hán Siêu chợt mở nhẹ cửa phòng bước vào. Vừa thấy

Chính Đức và Đường Nhất Tiên đều có mặt ở trong phòng, chàng không khỏi hơi

ngẩn người, rồi ôm quyền thưa:

- Ti chức ra mắt đại nhân, ra mắt tiểu thư.

Chính Đức và Đường Nhất Tiên quen trò chuyện cười đùa với nhau; Đường

Nhất Tiên cũng không cảm thấy luôn miệng quát nạt hắn thì có gì là quá đáng,

nhưng nàng lại rất tôn trọng những thuộc hạ khác của Dương Lăng. Nghe vậy, nàng

liền cũng vội nghiêm chỉnh đáp lễ:- Ra mắt Ngũ đại nhân!

Dương Lăng hỏi Ngũ hán Siêu:

- Sao? Có chuyện quan trọng gì à?

Ngũ Hán Siêu gật đầu đáp:

- Dạ, đại nhân! Có một chuyện quan trọng...,

Nói đến đây chàng ta thoáng ngừng lại. Đường Nhất Tiên hiểu ý, liền vội nói:

- Biểu ca bận bịu công vụ, để em đi làm vài món ăn thanh đạm, nấu một chén

cháo tẻ xanh (*)cho anh.

(*: nguyên văn "bích canh": một loại gạo tốt, có màu xanh, nấu thơm; được sử

dụng trong hoàng cung, nhà quý tộc)

Rồi như một chú chim én nhỏ, nàng nhẹ nhàng xoay người bước đi. Vừa đi

được mấy bước, trông thấy Chính Đức vẫn còn đứng tại chỗ trong phòng, nàng liền

gọi:

- Ngươi còn đứng ỳ ra đấy làm cái gì? Đi, giúp ta một tay! Đừng có làm vướng

bận mọi người ở đây!

Chính Đức đành phải bất đắc dĩ bước theo nàng ra ngoài.

Dương Lăng vội hỏi Ngũ Hán Siêu:

- Có chuyện gì quan trọng vậy?

Ngũ Hán Siêu đến gần Dương Lăng thưa nhỏ:

- Binh mã của Miêu công công Tây xưởng và của tham tướng Hứa Thái đã trở

về rồi.

Dương Lăng nghe xong liền phấn chấn tinh thần, mừng rỡ:- Tốt quá! Chỉ gần năm nghìn tinh kỵ mà dám thâm nhập đại mạc, Miêu Quỳ vì

lập công mà mạo hiểm quá rồi, bản quan vẫn luôn lo lắng cho bọn họ, bọn họ trở về

thì tốt rồi. Hiện tại bọn họ đang đóng quân ở nơi nào? Bản quan phải đi thăm bọn

họ mới được.

Vẻ mặt Ngũ Hán Siêu trở nên có phần cổ quái, chàng đáp:

- Dương tổng chế phái người phi ngựa đến báo, chính là muốn mời đại nhân đi.

Bởi vì... bởi vì khi đại quân của Miêu công công và Hứa tham tướng trở về còn

cướp thêm một người phụ nữ mang về nữa.

Dương Lăng nghe vậy liền sững người ra, lông mày nhíu lại.

Quân đội đơn độc ngoài biên tái, lúc nào cũng đối mặt với nguy hiểm chết

người, y vốn cũng không hy vọng những mãnh tướng biên quân này dọc đường

đánh giết sẽ không cướp đoạt tiền bạc châu báu, không lăng nhục phụ nữ. Thế

nhưng ngang nhiên mang phụ nữ về là đã vi phạm quân kỷ nghiêm trọng rồi.

Miêu Quỳ là thái giám, tuy rằng thái giám cũng có kẻ thích mỹ nữ, song hiển

nhiên Miêu Quỳ hứng thú với quyền lực hơn nhiều. Tự ý dẫn đàn bà về doanh, tám

chín phần mười là chủ ý của vị võ trạng nguyên Hứa Thái rồi.

Không biết người phụ nữ nọ xinh đẹp đến cỡ nào mà có thể khiến cho Hứa

tham tướng có tiền đồ như gấm lại dám bất chấp mối nguy bị ngự sử hặc tội mà

cướp mang về?

Nghĩ đến đây, Dương Lăng không khỏi giật đánh thót trong lòng. Dương Nhất

Thanh trị quân rất nghiêm, nhưng hắn mới tới, vẫn chưa thể tạo được đủ ân uy với

tướng sĩ tam quan. Hứa Thái là bộ hạ của Tổng binh Đại Đồng Đỗ Nhân Quốc, lại

là chiến tướng của cánh quân đơn độc xâm nhập đất giặc lập được công to. Ắt hẳn

bởi không tiện lấy quân pháp chế tài hắn, cho nên Dương Nhất Thanh mới nhờ đến

mình, vị khâm sai đại nhân có trách nhiệm tuần thị biên quan tay cầm Thượng

Phương Bảo Kiếm, ra mặt.

Trị quân nghiêm cẩn cố nhiên được mọi người ủng hộ, nhưng vết tì sao cheđược ánh ngọc? Hứa Thái tập kích các bộ lạc Mông Cổ, tắm máu mà về, hắn còn

chưa kịp nghỉ ngơi thì mình đã tế Thiên Tử Kiếm giết công thần rồi! Làm vậy sẽ có

gây ảnh hưởng xấu với nhuệ khí và lòng quân hay không?

Dương Lăng nhíu mày đi tới đi lui mấy bước, chợt hỏi:

- Người báo tin đang ở đâu? Đã kể những gì?

Ngũ Hán Siêu đáp:

- Thưa đang chờ ở ngoài cổng gác ạ. Hắn nghe nói ti chức là thị vệ tùy thân của

đại nhân mới bẩm báo rằng lai lịch của người phụ nữ này hết sức đáng ngờ. Dương

tổng chế mời đại nhân lập tức đến Cổ Điếm một chuyến.

Dương Lăng nghe nói không phải là do muốn chém Hứa Thái giữ nghiêm quân

kỷ mà do lai lịch kỳ quái của người phụ nữ bị bắt về thì mới thở phào hỏi tiếp:

- Lai lịch đáng ngờ?

Ngũ Hán Siêu gật đầu đáp:

- Dạ! Người phụ nữ này rất kín miệng, không tiết lộ gì về gia thế mình. Nhưng

mà lúc Hứa tướng quân bắt mụ về, thị nữ đuổi theo gào khóc ở phía sau lại không

ngừng réo gọi mụ là Khả gì đấy...

- Khả Đôn? - Dương Lăng rùng mình, kinh hãi - Hoàng hậu của Khả Hãn Mông

Cổ?

Y lập tức đi đến bên tường lấy áo choàng, vừa đi ra ngoài vừa kích động bảo:

- Đi! Lập tức tìm Trương công công đến, cùng đi đến Cổ Điếm.

Chú thích:

(1) chữ lót (tên đệm), để phân biệt vai vế trong họ tộc.

Ví dụ: Vua Minh Mạng làm riêng cho con cháu mình bài "Đế hệ thi" gồm 20chữ dành cho 20 đời:

Miên Hường Ưng Bửu Vĩnh

Bảo Quí Định Long Trường

Hiền Năng Kham Kế Thuật

Thế Thụy Quốc Gia Xương

Con vua Minh Mạng có tên đệm là Miên như Miên Tông (Vua Thiệu Trị), Miên

Thẩm (Tùng Thiện Vương), Miên Trinh (Tuy Lý Vương).

Cháu nội vua Minh Mạng có tên đệm là Hường như Hường Nhậm (Vua Tự

Đức).

Chắt nội có tên đệm là Ưng như Ưng Chân (Vua Dục Đức).

Không biết dòng họ Trương đặt tên đệm theo qui tắc nào, nhưng ý của tác giả là

Trương Dần có vai vế rất cao, nghĩa là các người họ Trương khác chỉ còn ít người

ngang vai vế với hắn, còn lại chỉ ngang vai con, cháu, chắt của hắn mà thôi.

(2) Chức quan chuyên trách việc chỉnh quân (rèn luyện, đào tạo, khen thưởng,

...) ở những vùng trọng yếu, thời Minh.NGƯỢC VỀ THỜI MINH

Nguyệt Quan

www.dtv-ebook.com

Chương 200: Hoàng Hậu Của Thảo Nguyên

Đường Nhất Tiên bước dồn, tay bưng chén cháo gạo tẻ nóng hôi hổi. Chính

Đức đi theo ngay phía sau, tay cầm hai đĩa thức ăn trông rất tinh xảo, vội vội vàng

vàng đi đến thư phòng trong ánh mắt áy náy của bọn đại nội thị vệ. Lại thấy trên

giường không một bóng người, Đường Nhất Tiên bèn đặt chén cháo xuống, bước

nhanh ra cửa hỏi bọn thị vệ:

- Anh của ta đâu?

Một tay thị vệ cung kính đáp rất lễ phép:

- Thưa tiểu thư! Đại nhân nhận được một tin tức quan trọng, đã vội vã chạy đi

gặp Dương tổng chế rồi ạ.

Đường Nhất Tiên thất vọng quay trở vào phòng, phụng phịu ngồi xuống chiếc

ghế chủ soái của Dương Lăng, hờn dỗi:

- Biểu ca đâu phải là người sắt, cơm cũng không chịu ăn, thật là! Hoàng đế

không sai ông lính đói mà, đâu ra kiểu dùng người như vậy chứ?!

Chính Đức hơi chột dạ, rụt cổ cười khan mấy tiếng, tay vẫn cầm hai món ăn

không biết nên bỏ xuống hay làm gì.

Đường Nhất Tiên trừng mắt với hắn, nạt:

- Để xuống đi! Ngươi tính cầm đến khi biểu ca ta về à?!

Chính Đức đặt đồ ăn lên bàn, giọng ngưỡng mộ:

- Mỹ nhân rửa tay nấu canh! Không biết sau này công tử nhà ai có phước đượcnếm tay nghề của cô nương cô đây.

Đương Nhất Tiên nằm nhoài người lên bàn, tay chống cằm, cặp mắt mơ màng:

- Chuyện đó... ta cũng từng nghĩ tới. Phu quân của Đường Nhất Tiên ta nhất

định phải là một người đàn ông đầu đội trời chân đạp đất, hiên ngang, có chí khí. Y

phải có bản lĩnh cao cường, có thể bảo vệ ta, bảo vệ con dân Đại Đồng khỏi bị giặc

Thát ức hiếp, có thể lập nên chiến công lẫy lừng, lưu danh thiên cổ!

Chính Đức ngắm vẻ mơ màng ao ước của nàng, không khỏi gợn sóng trong

lòng bèn thập thò trước mặt Nhất Tiên. Nào ngờ nói xong, Đường Nhất Tiên lườm

hắn rồi cất giọng răn dạy:

- Dù sao cũng không thể giống như ngươi được. Biểu ca thuộc giới thư sinh, lại

ôm đồm mọi việc, dấn thân vào nơi hiểm cảnh cũng không sợ, còn ngươi thì sao?

Anh hùng không sợ xuất thân kém, chỉ sợ cả đời ôm mãi một nghề hèn. Những

đại tướng quân đó không ai vừa sinh ra đã là tướng quân. Nhưng nếu ngươi cam

tâm làm một tên tiểu binh cả đời, vậy thì sẽ không bao giờ có tương lai, chỉ có thể

cả ngày chạy tới chạy lui hầu hạ người ta mà thôi.

Chính Đức đỏ mặt phản bác:

- Tôi đâu có tệ như vậy? Tôi cũng từng muốn kiến công lập nghiệp chứ bộ. Đây

là bởi... là bởi đại nhân bảo tôi đi nghe cô sai bảo mà.

Đường Nhất Tiên khẽ hừ mũi, ngước mắt lườm hắn một cái, thấy hắn quẫn

bách như vậy, không khỏi chợt mềm lòng bèn khuyến khích:

- Tiểu Hoàng à! Sáng nay ta thấy ngươi và đám thị vệ tỷ võ, tuổi ngươi dẫu còn

trẻ song võ công lại rất khá. Sau này rảnh rỗi hãy đọc thêm một ít binh thư đi.

Ngươi còn trẻ tuổi, sau này thành công, lập nên sự nghiệp, được bái tướng rồi làm

một đại tướng quân tài kiêm văn võ sẽ tốt hơn nhiều.

Thật ra trước đây ta cũng vốn là kẻ hầu hạ người khác, hiện tại cũng không coi

mình là đại tiểu thư. Thường ngày ta luôn mồm quát bảo ngươi chỉ bởi vì cảm thấyngươi thật vui tính mà thôi, chứ không phải vì có ý muốn sai bảo ngươi đâu. Đàn

ông các ngươi không thể so với đám phụ nữ chúng ta được, điều vinh quang của

nam nhân nếu không là máu đổ sa trường thì là trị quốc an bang, tệ nhất cũng là làm

một danh sĩ tài tử. Ngươi cần phải có một tí chí hướng mới phải!

Chính Đức nghe những lời nàng ấy nói xong thì cảm thấy xao động tâm tình.

Hắn đỏ bừng khuôn mặt tuấn tú, im lặng hồi lâu mới trả lời, giọng chắc như đinh

đóng cột:

- Nhất Tiên cô nương! Cô hãy yên tâm, tôi sẽ không để cô thất vọng đâu! Tiểu

Hoàng sẽ vĩnh viễn không chỉ là một tiểu binh! Rồi sẽ có một ngày, tôi sẽ đứng

trước thiên quân vạn mã bình thản chỉ huy, sai khiến thiên quân, lập được chiến

công lừng lẫy, lưu danh thiên cổ, làm đại tướng quân. Đúng! Làm một đại tướng

quân vĩ đại nhất từ trước tới nay!

Đường Nhất Tiên bật cười khúc khích, chống cằm liếc hắn đáp lời:

- Ta thất vọng làm gì nhỉ?! Ngươi có tiền đồ vẻ vang hay không thì có liên can

gì tới ta chứ?

Nói xong nàng thu ánh mắt lại, trong lòng chợt xuất hiện cảm giác là lạ. Sóng

mắt ngước lên, khéo chạm với ánh mắt si tình say đắm của Chính Đức, khuôn mặt

xinh xắn chợt nóng bừng.

*****

Gió nổi, tuyết rơi bám đầy cung, đao.

Sáu mươi thớt chiến mã chạy ào ào qua khu phố thị thưa nhà, thẳng tới trấn Cổ

Điếm ngoài thành bắc.

Đây là nơi trú quân, chỉnh đốn binh mã và nghỉ ngơi của Miêu Quỳ và Hứa

Thái vừa tập kích Mông Cổ trở về.

Lần này Miêu Quỳ và Hứa Thái đã hoàn thành nhiệm vụ quấy rối sau lưng quân

giặc một cách mỹ mãn, ý nghĩa của nó không thể nói là không lớn. Từ trước đếnnay toàn là người Thát Đát vốn lấy du mục làm lẻ sống không ngừng xâm phạm

biên cảnh cướp bóc. Lần này quân Minh chủ động xuất kích, xâm nhập vào thảo

nguyên của giặc Thát, đả kích nhuệ khí và lòng quân của toàn thể bộ lạc Mông Cổ,

khiến cho chúng hoang mang và sợ hãi hơn hẳn việc tiêu diệt mấy vạn thiết kỵ

Mông Cổ trên đất Đại Minh.

Hơn nữa lần quấy rối này nhất định sẽ khiến các bộ lạc Mông Cổ vì sự sinh tồn

mà sau kỳ vào xuân sẽ phát động một hồi nội chiến. Nếu như Đại Minh có thể

nương theo xu thế mà đưa đẩy, giúp yếu diệt mạnh, lại tranh thủ thu lấy Đóa Nhan

Tam Vệ vào tay, thì sẽ có thể khiến cho đại mạc mới hơi có dấu hiệu thống nhất lại

tan thành nắm cát vụn, sa vào cái "loạn Chiến quốc". Nếu như Đại Minh lại thừa cơ

mà xóa bỏ lệnh cấm, làm cho nước giàu, dân mạnh, luyện binh cường quân, thì

mười năm sau, hai mươi năm sau sẽ...

Nghĩ đến đây, Dương Lăng không khỏi nóng rực trong lòng. Phía trước là một

tòa tửu lầu hai tầng, cờ phướn màu đỏ lẫn đèn lồng đều trông có phần cũ rách. Trên

nóc lầu cắm sừng sững lá cờ quân bằng da dê to và đỏ rực như máu và lá cờ soái

viết hai chữ Miêu và Hứa, biểu thị rõ đây là nơi đồn trú của Hứa Thái và Miêu Quỳ.

Thiết kỵ chạy đến trước lầu, Dương Lăng lật đật xuống ngựa, thân binh dắt

ngựa buộc sang một bên, Dương Lăng giũ giũ tuyết bám trên áo quần, nheo mắt

ngước nhìn bầu trời mênh mông, mờ mịt.

Tuyết rơi như sương mù, tửu lầu cổ kính chìm vào trong tuyết, trắng xóa một

màu, chỉ có cờ phướn và đèn lồng khẽ lay lay mang theo chút sắc đỏ nhàn nhạt. Lều

trại chung quanh có binh tốt ra vào không ngừng, vài ba con chiến mã chốc chốc lại

hí lên khe khẽ.

Trương Vĩnh cũng xuống ngựa, lúc này bên trong tửu lầu hay tin liền có một

đám người chạy ra. Người đi đầu vừa trông thấy Dương Lăng và Trương Vĩnh liền

vội mừng rỡ chạy tới chào hỏi:

- Dương đại nhân! Trương công công!

Vừa nói vừa bước tới chụp lấy cánh tay Dương Lăng.Dương Lăng quét mắt nhìn, theo sau là Dương Nhất Thanh, Đỗ Nhân Quốc,

bên cạnh còn có một vị tướng quân tuổi trạc hơn hai mươi, thân vận trang phục

Mông Cổ, mặt vương đầy vẻ phong trần chưa kịp tẩy rửa cũng đang mỉm cười với

mình. Trong lòng Dương Lăng chợt lóe linh quang, đoán ra người này ắt là Hứa

Thái, Võ Cử trạng nguyên của hai năm về trước, nay là tham tướng Đại Đồng.

Khó trách bọn họ thuận lợi quét ngang đại mạc như vậy. Ngoài việc có được tin

tức tình báo tỉ mỉ và bản đồ chuẩn xác do Nội xưởng cung cấp, binh sĩ kiêu dũng

thiện chiến, xem ra việc dọc đường bọn họ cải trang giả dạng, ăn mặc thành người

Thát Đát cũng là một trong những nguyên nhân thành công đây.

Dương Lăng không kịp nghĩ ngợi nhiều, lại nhìn kỹ Miêu Quỳ đang tràn đầy

kích động đứng trước mặt. Vị xưởng công Tây xưởng vốn da mỏng thịt mềm đầy vẻ

yếu đuối này nay cũng vận áo vải da thú thùng thình, mặt mày tay chân thô nhám,

da dẻ đen nhẻm, nứt nẻ.

Bất chấp cái nguy hiểm giữa sự sống và cái chết mà xâm nhập vào đại mạc,

nếm trải hết bấy nhiêu gian khổ, nói khó nghe một chút thì đó gọi là "tham cầu

quyền thế", vậy phải tạo ra công lao gì, lập nên sự nghiệp gì mới được gọi là "kiến

công lập nghiệp" đây? Ngay khoảnh khắc này, trong lòng Dương Lăng đã không

còn bất cứ sự kì thị nào đối với vị Miêu công công này nữa.

Nắm chặt lấy tay Miêu Quỳ, y mỉm cười khích lệ:

- Xưởng công! Năm nghìn thiết kỵ càn quét sa mạc an toàn mà trở về, công lao

to lớn của ngài nhất định sẽ được chép vào sử sách. Đại Minh mở mang bờ cõi, bình

định giặc Thát là bắt đầu từ ngày hôm nay!

Miêu Quỳ nghe mà lệ nóng quanh tròng. Gần một tháng trời vào sinh ra tử,

ngày ngày hành quân vào nơi chó ăn đá, gà ăn sỏi, nay sự cực khổ đó có thể nhận

được sự đánh giá cao như vậy, có thể nhận được sự tôn trọng của người khác như

vậy, khiến trong lòng lão xúc động khôn thôi.

Trương Vĩnh vốn là bộ hạ Tây xưởng, gặp lại thượng ty cũ cũng bước lên an ủi

mấy câu. Vị tướng quân vận áo quần Mông cổ nọ mỉm cười chờ hai bên hàn huyênxong mới bước nhanh lên trước, quỳ một gối xuống, cao giọng hô:

- Mạt tướng Hứa Thái, bái kiến hai vị khâm sai đại nhân!

Dương Lăng và Trương Vĩnh vội vàng bước tới đỡ hắn lên, cười bảo:

- Tướng quân vất vả lập được công to, chớ nên khách sáo như vậy.

Dương Nhất Thanh cười to:

- Ha ha, nào nào! Bên ngoài trời tuyết lớn, chúng ta vào trong rồi nói tiếp.

Đám người vào trong lầu. Chính giữa căn phòng đặt một cái lò đất, chiếc nồi

sắt trên lò đang sôi sùng sục, trong nồi đang ninh mấy miếng thịt dê lớn, bên cạnh là

một chiếc bàn, trên bàn bày ra tỏi giã nhỏ, gia vị, một ít bánh nướng sữa, lương khô

và vài chiếc bát to.

Dương Lăng không tiện hỏi ngay về chuyện vị Khả Đôn của Thát Đát nọ, bèn

xoa xoa tay cười nói:

- Bát rượu to, miếng thịt lớn, được! Bụng tôi cũng thấy hơi đói rồi. Nào nào!

Chúng ta hãy ngồi quanh lò uống rượu, vừa ăn vừa chuyện trò nào!

Đoàn người kéo đến đến ngồi vào bàn. Ngồi tại đây phần lớn đều là võ tướng,

Dương Nhất Thanh tuy xuất thân là quan văn, nhưng ban đầu giữ chức Tây Lương

dưỡng mã, tiếp đó làm trấn soái biên quan, nên cũng đã sớm bị "đồng hóa". Ngoại

trừ Trương Vĩnh ăn uống còn hơi nhã nhặn, đám người này ai nấy đều như sói ăn hổ

nuốt, không còn chút dáng vẻ nào là trọng thần trong triều.

Miêu Quỳ lăn lộn trong đại mạc một tháng trời nên đã sớm quen với mùi vị

tanh nồng, lấy dao chọc vào miếng thịt dê to còn đỏ au màu máu bên trong rồi cho

ngay vào miệng nhai luôn, thỉnh thoảng lại bưng bát hớp một ngụm rượu nóng. Vẻ

hào sảng ấy thực còn đàn ông hơn cả đàn ông.

Miêu Quỳ và Hứa Thái đã thuật lại cho Dương Nhất Thanh nghe kỹ càng quá

trình xâm nhập đại mạc, lúc này lại kể cho Dương Lăng và Trương Vĩnh nghe, tâmtình đã không còn quá kích động như trước nữa. Tự chôn người dưới hố để trốn

tránh bạo tuyết cuồng phong, bất ngờ gặp phải bầy sói đói hung tàn, ban đêm tập

kích thiêu đốt cướp bóc bộ lạc Thát Đát, từng mẩu chuyện được liên tục kể lại. Bất

kể là sự phiêu lưu giữa ranh giới của sự sống và cái chết, hay chém giết thỏa thuê,

hoặc máu thịt tung tóe, giờ đặt mình trong căn phòng ấm áp và thoải mái này, bọn

họ lại cảm thấy như đang kể về một câu chuyện trong quá khứ xa xăm.

Đợi cho hai người kể xong, Dương Lăng mới thở ra một hơi thật dài, hỏi thăm:

- Nghe nói các vị trên đường về bắt được một người phụ nữ, là một vị Khả Đôn,

chẳng lẽ là... hoàng hậu của Bá Nhan?

Hứa Thái lắc nhẹ đầu đáp:

- Khó nói! Lúc chúng tôi trở về gặp phải bão tuyết, nhất thời không phân biệt

được phương hướng, nếu tiếp tục ở lại đó thì toàn quân sẽ chết cóng, đành phải tìm

chỗ chắn gió để ẩn náu, vô tình phát hiện trong một thung lũng bên sườn núi có một

bộ lạc Mông Cổ nhỏ. Vốn định thuận tay cướp bóc bọn chúng cho nên chúng tôi chỉ

phái ra một nhóm trăm người, không ngờ bộ lạc nho nhỏ ấy lại không có người già

và phụ nữ yếu đuối, tuy không có đến năm trăm người, song lại đều là dũng sĩ thiện

chiến.

Mạt tướng thấy thế tấn công bị cản trở bèn lập tức dẫn toàn quân tấn kích, lúc

ấy mới tiêu diệt hết bọn chúng. Có một thị nữ người Mông Cổ quýnh quáng chạy

đến một căn lều lớn gào kêu Khả Đôn trốn đi, lính trinh sát của mạt tướng hiểu

tiếng Thát Đát, bèn lập tức dẫn mạt tướng đuổi theo. Mạt tướng phát hiện người phụ

nữ này ắt hẳn có lai lịch không tầm thường, nên mới dẫn bà ta trở về.

Trương Vĩnh ngạc nhiên hỏi:

- Nếu đã gọi là Khả Đôn, chẳng lẽ Bá Nhan còn có hoàng hậu thứ hai hay sao?

Sao vẫn không thể xác định lai lịch của người đàn bà ấy?

Miêu Quỳ mỉm cười giải thích:- Lão Trương à! Người Mông Cổ khác với người Hán chúng ta, vợ của Đại Hãn

Mông Cổ và vợ của mấy thủ lĩnh bộ lạc lớn đều được xưng là Khả Đôn, ngoài ra

hậu cung của Đại Hãn Mông Cổ thi hành chế độ "Oát Nhĩ Đóa". "Oát Nhĩ Đóa" là

cung điện dưới hình thức lều trại, mỗi "Oát Nhĩ Đóa" đều có thể cho lập một hoàng

hậu, dưới hoàng hậu lại có một số phi tần.

Dương Nhất Thanh tiếp lời:

- Cho nên một hoàng đế Mông Cổ có thể đồng thời có một, hai, thậm chí vài

hoàng hậu. Người phụ nữ này hết sức quật cường, mặc cho chúng tôi tra hỏi thế nào

cũng không hề hé lộ nửa lời về lai lịch mình, cho nên rất khó để xác định. Có điều

nhìn vào năm trăm thiết kỵ dũng mãnh thiện chiến canh gác bên người, có thể thấy

địa vị của Khả Đôn này nhất định không tầm thường.

Dương Lăng nghĩ ngợi một lúc rồi hỏi:

- Bà ta đang ở đâu? Chúng ta đi gặp thử một tí.

Mọi người đã ăn gần xong, Dương Nhất Thanh đứng dậy:

- Bà ta đang bị nhốt trên lầu, đưa đồ ăn thì không cự tuyệt nhưng khi hỏi thì

không chịu mở miệng, sợ rằng sẽ không tra hỏi được gì. Nhưng mà lai lịch người

phụ nữ này không tầm thường, phải thu xếp thế nào cho ổn thỏa thì chúng tôi lại

nghĩ mãi không ra.

Đoàn người bước lên dãy cầu thang kẽo kẹt đi lên lầu hai. Thị vệ gác cửa trông

thấy các vị đại nhân đến, vội vàng thi lễ nhường đường. Hứa Thái đi trước dẫn đầu,

đẩy cửa phòng mời các quan lớn vào. Ngồi bên giường là một bà lão ăn mặc theo

kiểu người Mông Cổ, đầu tóc bạc phơ, mặt đầy nếp nhăn. Nghe thấy tiếng động, bà

lão quay ra, díp mắt lại quan sát bọn họ.

Dương Lăng rất đỗi bất ngờ. Bà lão này trông tuổi ít nhất cũng phải chừng sáu

mươi, quần áo cũng hết sức bình thường, không giống phu nhân tù trưởng bộ lạc

lớn có quyền có thế. Trong lúc bọn họ quan sát tỉ mỉ người phụ nữ già cả đó, bà ta

cũng dùng cặp mắt sắc bén không tương xứng với tuổi tác quan sát kỹ bọn họmộthồi rồi chậm rãi dời ánh mắt đi.

Một thị vệ biết ngôn ngữ Thát Đát đứng bên cạnh quát lớn mấy tiếng với bà ta,

bà lão liếc hắn một cách khinh miệt, không nói gì. Dương Lăng khẽ lắc đầu, thấp

giọng nói với Hứa Thái:

- Bên người bà ta có vật gì có thể chứng minh danh phận không? Ví dụ như

năm trăm thị vệ nọ, cờ xí có vẽ ký hiệu gì, thuộc về bộ lạc nào hay không?

Hứa Thái cũng thấp giọng đáp:

- Lạ là lạ ở chỗ đó. Trang sức trên thân ngựa, lều trại và quân giới của đám thị

vệ đó đều hết sức tinh xảo. Theo lý thuyết thì trên đại mạc chỉ có đội thị vệ thân tín

nhất của Bá Nhan Khả Hãn mới được trang bị như vậy, thế nhưng bộ lạc nho nhỏ

năm trăm người này đều là chiến sĩ hạng nhất, được trang bị vũ khí tốt nhất.

Hơn nữa bọn chúng chừng như không phải đang bảo vệ bà lão này, mà là chịu

trách nhiệm giám thị bà ta. Lúc chúng mạt tướng xông vào đại doanh, người thị nữ

xông vào la bảo bà ta chạy đi lại bị quân Thát Đát canh giữ ngoài lều trại giết chết,

ngay sau đó tên giặc Thát đó còn muốn giết bà lão này, mạt tướng phải bắn một

phát tên giết chết hắn... Thật sự là kỳ quái.

Quả thật là kỳ lạ, vợ của nhân vật lớn nào lại phải dùng đến đội thiết kỵ tốt như

vậy để bảo vệ? Phải biết rằng vào lúc bình thường, các bộ lạc muốn tập hợp một

nghìn chiến sĩ trở lên đều không hề dễ; mà bộ lạc của bà lão này lại có đến năm

trăm người bảo vệ, lại toàn bộ đều là chiến sĩ thuộc loại cang cường dũng cảm, hơn

nữa trong bộ lạc không có đàn bà và trẻ em, hiển nhiên có người khác cung ứng mọi

thứ cần thiết cho bọn họ. Vào lúc nguy cấp thị vệ lại dám tự ý giết bà ấy, rốt cuộc bà

ta là ai? Là được bảo vệ hay là bị giam lỏng?

Được trang bị vũ khí, chiến giáp tinh xảo chỉ có ở đội hộ vệ cận thân của Bá

Nhan Khả Hãn, một bộ lạc kỳ quái được tạo thành từ năm trăm tinh binh, thị vệ

dám giết chủ vào lúc nguy cấp, phu nhân quí tộc Khả Đôn tuổi trạc lục tuần...

Hàn Lâm là thương nhân buôn lậu với người Mông Cổ lớn nhất ở Đại Đồng,thám thính được rất nhiều bí mật không mấy ai biết. Ngoại trừ những điều cơ mật

về mặt quân sự, những tướng soái biên quan này không hề hay biết về những thứ

khác, nhưng Dương Lăng lại biết rất rõ.

Y thoáng ngẫm nghĩ, chợt máy động trong lòng, bèn gọi viên thị vệ biết tiếng

Thát Đát nọ nói nhỏ một hồi. Viên thị vệ nọ hơi ngẩn người, rồi xoay người thuật

lại cho bà lão đó một lượt. Bà lão nọ nghe xong thì kinh hãi đến run lẩy bẩy. Bà lập

cập đứng lên, gào thét mấy câu, hai mắt trợn trừng nhìn Dương Lăng như trông thấy

quỷ dữ.

Thị vệ rất kinh ngạc, quay người lại khâm phục thưa:

- Đại nhân! Bà ta nói Bá Nhan là vua của thảo nguyên, là con cháu của Thành

Cát Tư Hãn, sẽ không thể thất bại. Cho dù Hỏa Sư có dã tâm cũng quyết không dám

phản bội hắn, y không có thực lực đó, không có danh vọng đó, nhưng lại có trí tuệ

biết cân nhắc lợi hại. Bà ta bảo chúng ta nói xằng.

Hoa đèn chợt loé sáng, ánh mắt Dương Lăng cũng loé lên. Từ sự quan tâm chú

ý và phản ứng dữ dội của bà lão này đối với lời nói của y, y đã xác định được lý lịch

của bà lão này đến tám phần. Dương Lăng mỉm cười vỗ vai viên thị vệ nọ, thử thăm

dò lần cuối:

- Nói với bà ta vừa rồi đích thực là ta nói xằng. Song Bá Nhan sớm muộn gì

nhất định cũng sẽ thua vào tay ta, xin Mãn Đô Hải hoàng hậu bệ hạ hãy rửa mắt chờ

xem!NGƯỢC VỀ THỜI MINH

Nguyệt Quan

www.dtv-ebook.com

Chương 201: Kẻ Ác Rục Rịch

Nghe xong một hồi đối đáp giữa y và viên thị vệ nọ, đám người Dương Nhất

Thanh chấn động toàn thân, hết nhìn bà lão có dung mạo tầm thường nọ lại nhìn

sang Dương Lăng, đầy vẻ kinh ngạc lẫn nghi ngờ khó tin.

Bà lão nghe thị vệ nọ chuyển lời xong, khinh miệt lầm bầm mấy câu bằng tiếng

Mông Cổ, nhưng liền tỉnh ngộ đã lỡ lời, bèn trừng to cặp mắt già nua nhìn Dương

Lăng chằm chằm.

Khi thấy viên thị vệ nọ quay đầu nói với viên tướng lĩnh trẻ tuổi có khí chất

trầm tĩnh đó mấy câu tiếng Hán, rồi trên khuôn mặt y hiện lên nụ cười đắc ý và rạng

rỡ thì Mãn Đô Hải liền hiểu rằng mình nhất thời không cẩn thận suy xét kỹ nên đã

bị y khéo dùng lời lừa gạt mà vạch trần được lai lịch thật sự của mình rôi.

Bà lão ngồi bệt xuống giường như một quả bóng xì hơi, liền đó lại ngước đầu

lên nói to mấy câu, thị vệ quay đầu lại báo với Dương Lăng:

- Đại nhân! Bà ta nói đại nhân đừng uổng phí tâm cơ nữa, chúng ta không thể

dùng bà ta để uy hiếp được ai đâu. Sinh mạng là do Phật Tổ ban cho, bà ta tuy quý

nó, nhưng vì thảo nguyên đại mạc, bà ta có thể hy sinh bản thân bất cứ lúc nào.

Dương Lăng mỉm cười, trịnh trọng nói với Mãn Đô Hải:

- Đứng về phương diện cá nhân, ta rất khâm phục Hoàng hậu bệ hạ vì đại mạc

mà sẵn sàng trả mọi giá. Bệ hạ yêu quý tính mạng người Mông Cổ, nhưng tính

mạng người Hán cũng trân quý như vậy! Chúng ta tuyệt không phải là dê bò gà

chim trong mắt các vị!

Thị vệ quay người dịch lại, trong lúc đó Dương Lăng quay sang bảo với thủ

lĩnh thị vệ:- Trông chừng bà ta! Bà lão này là một nhân vật hết sức quan trọng, các người

không được rời mắt khỏi bà ta!

Tuy viên thủ lĩnh thị vệ không biết Dương Lăng là khâm sa, nhưng thấy Dương

Lăng ra lệnh thẳng cho mình mà đại tướng quân tổng chế tam quan vẫn đứng một

bên mà không nói gì, liền biết ngay rằng người này ắt hẳn là một vị quan lớn có

phẩm hàm cao lắm. Hắn bèn vội khép na khép nép dạ một tiếng, rồi gọi mấy tay thị

vệ vào trong phòng trông chừng mọi cử động của bà lão.

Dương Lăng cùng đám người Dương Nhất Thanh đi xuống lầu. Vừa xuống

dưới lầu, Dương Nhất Thanh liền không nhịn được, hỏi ngay:

- Dương xưởng đốc! Bà lão này chính là... chính là Mãn Đô Hải hoàng hậu của

Bá Nhan Khả Hãn ư? Không phải trên thảo nguyên có truyền thuyết nói rằng bà ấy

đã bị bệnh qua đời rồi sao?

Dương Lăng cười đáp:

- Bà ta không phải là nhân vật trong truyền thuyết, thì việc sống hay chết của bà

ta cần gì phải liên quan đến truyền thuyết? Đã là truyền thuyết thì ắt không phải là

chuyện thật rồi.

Đỗ Nhân Quốc vỗ trán kinh ngạc thốt:

- Dương khâm sai thực lợi hại! Ti chức bị Khả Đôn này đến Khả Đôn nọ đôn

đến lùng bùng cả tai, mất cả phương hướng, nghĩ đến tét đầu cũng không nghĩ ra bà

ta là Mãn Đô Hải hiển hách một thời.

Người phụ nữ này thực là lợi hại, năm xưa dẫn thằng nhóc Khả Hãn mới tám

tuổi chinh phạt Ngoã Thích, đánh Ngoã Thích đại bại tại Tháp Bác Nhĩ Đồ, ra lệnh

Ngoã Thích từ đó trở đi không được gọi nhà cửa là cung điện, mũ đội đầu không

được quá bốn sợi dây tua, ở nhà phải quỳ chứ không được ngồi, ăn thịt chỉ được

dùng răng xé mà không cho dùng dao xắt, còn đổi tên thánh địa Ô Tô Khắc thành...

cái tên gì mà giống tên loài cá vậy. Thực không thể tưởng tượng nữ anh hùng bá

đạo như thế lại là một bà lão bình thường không chút bắt mắt này.Dương Nhất Thanh khẽ thở dài:

- Phượng hoàng rụng cánh không bằng gà mái, danh oai một cõi là nhờ có

quyền lực, mà bà ta... bất luận là tự nguyện hay bị bức bách đều hiển nhiễn đã rời

xa quyền bính.

Làm sao mà Dương đại nhân lại nhận ra được bà ta vậy?

Dương Lăng đáp:

- Xưa nay tiến hành chiến tranh không chỉ đơn thuần là đánh giết. Năm xưa

Lưu Bang bị vây trên núi Bạch Đăng, thiên quân vạn mã đều không thể đánh lui,

nhờ Trần Bình hiến diệu kế, chỉ dựa vào một bức tranh mỹ nữ mà đã khiến bốn

mươi vạn đại quân Hung Nô ngoan ngoãn lui chân (1). Những chuyện có khả năng

ảnh hưởng đến chiến cuộc thật sự là rất nhiều, cho nên khi thám tử Nội xưởng thâm

nhập vào đại mạc, bản quan đã hạ lệnh bất luận là tin tức gì đều phải ghi chép cẩn

thận tỉ mỉ rồi đưa về.

Vì vậy bản quan mới hiểu rõ hơn về những ân oán tình thù giữa các bộ lạc Thát

Đát, chuyện nhà chuyện cửa của các tù trưởng quý tộc. Do đó, bản quan đã biết

chút ít bí mật về Mãn Đô Hải, lại cộng thêm tình tiết khi Miêu công công và Hứa

tướng quân bắt người trở về, bản quan nối kết lại, suy đoán và đối chiếu lẫn nhau

mới đoán ra được mấy phần.

Cả bọn cùng trở về bàn ngồi. Nghĩ tới người mà mình tự tay bắt được là phu

nhân của Bá Nhan Khả Hãn, là Mãn Đô Hải Tư Cầm oai danh hiển hách trên thảo

nguyên, chẳng khác nào lại có thêm kỳ công bên trên kỳ công, Miêu công công

không khỏi tươi cười rạng rỡ:

- Bà lão này là hoàng hậu của Bá Nhan sao? Ha ha ha! Thật không ngờ! Thật

không ngờ! Đúng là nhặt được quả trứng vàng trong đống củi. Vừa rồi Dương đại

nhân đã nói với bà ta những gì mà khiến bà ta phải mở miệng thừa nhận vậy?

Dương Lăng cười đáp:- Hỏa Sư từ lâu đã mang lòng không thần phục, chỉ là thế cô sức yếu nên không

dám công khai phản kháng. Người mà Hỏa Sư cưới là con gái của Mãn Đô Hải,

công chúa Y Khắc Tích, cho nên nhất định Mãn Đô Hải thấu hiểu phần nào dã tâm

của hắn. Khi nãy tôi gạt bà ta, bảo rằng bà hãy cứ yên tâm ở lại nơi đây, Hỏa Sư đã

liên thủ cùng chúng ta, cho nên chúng ta tịnh không có ác ý với bà; đợi khi Hỏa Sư

tập kích giết chết được Bá Nhan, Đại Minh cùng Thát Đát giao hảo rồi, sẽ đưa bà ta

trở về.

Trong cơn giận dữ, giọng điệu phản bác của bà ta rất oai nghiêm, khí thế bức

nhân, như thể còn đứng trên cả Hỏa Sư và Bá Nhan vậy. Trong số các phụ nữ vương

công quý tộc của Thát Đát, ngoại trừ Mãn Đô Hải, còn ai là người có tư cách này?

Tôi lại tiếp tục vạch rõ lai lịch bà ấy, trông thấy vẻ mặt của bà ấy thì tôi liền không

nghi ngờ gì nữa.

Trương Vĩnh nghi hoặc hỏi:

- Chuyện về Mãn Đô Hải, sau khi đến Đại Đồng ta cũng biết sơ được một ít. Bà

ta là tiểu cáp đồn (phu nhân) của Khả Hãn Mãn Đô Lỗ. Mãn Đô Lỗ chết đi, bà ta

được gả cho đứa cháu trai Bá Nhan của hắn, vẫn luôn nắm giữ quyền cao của Thát

Đát. Gần năm sáu năm trở lại đây, quyền bính Bá Nhan mỗi lúc một tăng, vị phu

nhân này lại dần dần biến mất tăm mất tích, trông tình hình này, chắc là bị Bá Nhan

giam lỏng đây. Nay Bá Nhan đã gần như thống nhất các bộ lạc Mông Cổ, thanh

danh như mặt trời ban trưa, một bà lão sắp chết như bà ta thì có thể có tác dụng gì?

Dương Lăng lục lọc trong trí nhớ những tài liệu về vị hoàng hậu này do Hàn

Lâm đưa đến, sau đó bảo:

- Mãn Đô Hải là người thuộc bộ lạc Sách Cổ Uông Cổ, cha là quý tộc Mông

Cổ, từng nhậm chức Thừa tướng. Bà ta được gả làm tiểu cáp đồn (phu nhân) của

Mãn Đô Lỗ, hạ sinh hai người con gái. Trưởng nữ là công chúa Bác La Khắc Sấm,

gả cho Thái sư Gia Tư Lan; thứ nữ là công chúa Y Khắc Tích, gả cho Hỏa Sư. Hai

người con rể này đều là thủ lĩnh những nhóm bộ lạc lớn của Mông Cổ.

Sau khi thành thân cùng với Bá Nhan khi ấy mới bảy tuổi, Mãn Đô Hải từng

nắm quyền triều chính hơn mười năm, chinh phạt Ngoã Thích, đánh bại thủ lĩnhquyền thần quý tộc khác họ của Mông Cổ khi ấy là Diệc Tư Mã Nhân. Có thể nói

phần lớn mãnh tướng dưới trướng Bá Nhan đều nghe theo lệnh bà ấy. Đồng thời bà

ta còn sinh cho Bá Nhan bảy nam một nữ, cho nên bất luận là đối với vương tộc

Thát Đát hay quý tộc của các bộ lạc, bà ta đều có sức hiệu triệu và ảnh hưởng to lớn

vô cùng.

Dương Nhất Thanh lo lắng:

- Chỉ e không được lạc quan như vậy! Theo tình hình mà Hứa Thái trông thấy,

có lẽ sau khi Bá Nhan trưởng thành, hắn bắt đầu e ngại quyền lực và sức ảnh hưởng

của hoàng hậu hơn xa mình cho nên mới giam lỏng bà ta lại. Có điều sức ảnh hưởng

của bà ta thật sự quá lớn, Bá Nhan cũng không dám xem nhẹ mà giết chết bà ta; nên

hắn ta đành phải phao tin đồn trước, thử thăm dò phản ứng của các bộ lạc.

Bà ta nằm trong tay Bá Nhan, hắn giết cũng không được mà giữ cũng không

xong. Nay bà ta rơi vào tay chúng ta rồi, chỉ sợ ngược lại Bá Nhan sẽ vỗ trán kêu

may đây. Đại nhân cũng đã thấy đấy, bà lão này hết lòng hết dạ với bộ tộc Mông Cổ

mình, vốn không hề để tâm đến tư oán tình thù riêng giữa bà ta và Bá Nhân. Chắc

chắn bà ta sẽ không bao giờ đích thân đứng ra lợi dụng sức hiệu triệu của mình để

đối kháng với Bá Nhan đâu!

Hơn nữa bà ta xa rời bộ lạc Mông Cổ, càng có lợi cho Bá Nhan thu gom đại

quyền vào trong tay mình. Nếu hắn thông minh, tạo dư luận rộng rãi nói rằng phu

nhân bị chúng ta bắt đi, khiến cho tất cả bọn chúng cùng chung thù địch... Ti chức

lại thấy... lần này chúng ta đã giúp cho Bá Nhan rất nhiều rồi.

Miêu Quỳ và Hứa Thái nghe vậy thì đều thấp thỏm trong lòng. Dương Lăng lắc

đầu cười bảo:

- Tiếc là hắn không nên phao tin đồn rằng Mãn Đô Hải đã chết quá sớm, càng

không nên cầm tù bà ta bên ngoài bộ lạc một mình. Nay hắn làm vậy chẳng phải là

tự vả miệng mình ư? Trước khi biết rõ Mãn Đô Hải sống hay chết, Bá Nhan ắt phải

ngồi im quan sát tình hình, thậm chí che giấu tin tức. Có điều không biết hiện tại

hắn đã biết được bao nhiêu?Hứa Thái thoáng chần chừ, gian nan nuốt ngụm nước bọt, đành thú thật:

- Đại nhân! Doanh trại mà chúng tôi tập kích... tuyệt đối không còn nhân chứng

sống. Hơn nữa, lúc hành quân trong đại mạc, chúng tôi đều cải trang thành người

Mông Cổ nên cho dù Bá Nhan có hoài nghi cũng chưa chắc dám kết luận là do

chúng ta làm.

Dương Lăng nghe xong, thoạt tiên hơi ngẩn ra, liền đó sực hiểu những người

Thát Đát phụ trách giam lỏng Mãn Đô Hải đều đã bị giết sạch. Thị nữ nọ e rằng

trong loạn quân đã.... Hứa Thái vì biết chuyện này hệ trọng, nên sau khi cân nhắc kỹ

lưỡng hắn mới đành thú thật.

Y thầm thở dài, đành làm ra vẻ như không biết gì, chỉ nói:

- Hắn nắm bắt tình huống không chuẩn, vậy chi bằng chúng ta cứ lấy tĩnh chế

động. Bảo mật nghiêm ngặt tin tức Mãn Đô Hải Khả Đôn rơi vào trong tay chúng

ta.

Về phần Mãn Đô Hải có chịu phối hợp với chúng ta hay không thì thực ra cũng

không cần. Loài sói có dã tâm trên thảo nguyên không chỉ có một hai con, không

cần Mãn Đô Hải phải làm gì cả, kẻ có dã tâm chỉ cần biết tình cảnh của bà ta, tự

nhiên sẽ lợi dụng bà ta để gây loạn.

Y nhìn mọi người chung quanh, nhón lấy một miếng thịt thả vào trong nồi nước

sôi, mỉm cười nói tiếp:

- Thành bởi Tiêu Hà, mà bại cũng bởi Tiêu Hà(2). Bà ta đã thúc đẩy nên sự

cường đại của Thát Đát, sự suy bại cũng sẽ bởi bà ấy mà bắt đầu. Mặt hàng này

đáng đầu cơ à nha!

Dương tổng chế! Chuyện này nên bẩm cho Đại vương hay, tìm một chỗ trọ

trong thành Đại Đồng, bố trí hết sức ổn thỏa cho bà ta, tuyệt đối phải giữ tin tức bí

mật. Bà ta nặng lòng với thảo nguyên, chỉ cần không ép bà ta làm bất cứ chuyện gì,

bà ta sẽ tiếp tục sống tốt. Đợi đến khi con mãnh hổ nào đó mọc đủ nanh rồi, nóng

lòng muốn thử với Bá Nhan, chúng ta sẽ lại giao bà ấy ra, chắp thêm cho con mãnhhổ đó một đôi cánh.

Tuy Dương Lăng nói với ngữ khí bình thản, nhưng với mọi người có mặt tại

đây, bất luận là văn hay võ, đều có thể cảm nhận được mùi vị máu tanh trong đó.

Trương Vĩnh và Miêu Quỳ không khỏi trộm ngó y, thầm nhủ: "Tên này, cũng khá là

ác độc đây!"

Đỗ Nhân Quốc lại cười lớn một cách hào sảng, tán tụng:

- Hay! Kế này hay lắm! Mẹ nó! Mỗi năm không biết bao nhiêu dân chúng mất

nhà, bao nhiêu phụ nữ thắt cổ, bao nhiêu người xa vợ mất con thê thảm vô cùng!

Đối với bọn giặc Thát này thì không thể có lòng dạ đàn bà được!

Khâm sai đại nhân thực có bản lĩnh! Bản tướng giết người phải động đao mới

thấy máu, ngài chỉ khua chút môi mép, số người bị giết e rằng còn nhiều hơn bản

tướng nữa. Ừm... Những kẻ đọc sách đúng là không tầm thường, đây gọi là cái gì ấy

nhỉ? Đúng rồi, "trong sách tự có lưỡi đao to"!

*****

Sơn trại Tiêu gia không hề nhỏ, chỗ mà Dương Hổ nói đến chẳng qua chỉ là

một thôn núi nhỏ thuộc Tiêu gia trại mà thôi. Trại này nằm trên lưng chừng núi, về

phía đông của núi Tuyết Phong, dân chúng rất ít khi ra khỏi núi, thi thoảng khi có

thân thích đến thăm thì hàng xóm láng giềng đều thấy rõ cả, vì vậy Dương Hổ đợi

đến khi bóng đêm chìm sâu mới lặng lẽ vào núi.

Khi buôn lậu tuấn mã ở quan ngoại để gom góp tiền tài hắn từng qua lại nơi này

nhiều lần nên quen thuộc đường đi nước bước. Đi đến trước một căn nhà, hắn đưa

tay gõ cửa, giữa tiếng chó sủa inh ỏi, Tiêu lão tứ khoác áo bông dày cộm, tay cầm

chiếc đèn lồng ra mở cửa. Trông thấy đám người Dương Hổ, lão hoảng sợ giật nảy

cả người, liền vội kêu bọn họ đi vào.

Tiêu lão tứ chỉ làm mã tặc được chưa tới hai năm thì đùi đã bị chém lúc quan

binh truy quét, nên mới rời khỏi Bá Châu trở về quê nhà. Lúc còn buôn lậu ngựa,

Dương Hổ thường hay đến chỗ này nghỉ qua đêm.Tiêu lão tứ lặng lẽ đưa mọi người đến hậu viện để ở, rồi mới kéo tay Dương Hổ

lo lắng bảo:

- Dương lão đại, anh điên rồi sao? Lúc này đang là lúc nào? Hơn mười vạn đại

quân đang đánh nhau cả trong lẫn ngoài quan ải, thời buổi này ai dám bán ngựa cho

anh chứ?! Ngộ nhỡ bị quan quân coi là gian tế, lúc đó có chạy cũng không kịp đâu.

Vì Tiêu lão tứ đã rút chân ra khỏi chốn giang hồ nên Dương Lăng không dám

kể với lão chuyện lớn như mưu hành thích Hoàng đế, hắn chỉ cười bảo:

- Tiêu tứ ca nói đúng lắm! Ta cũng vì không hiểu tình hình, tưởng rằng có cơ

hội kiếm ăn nào ngờ đến giờ ngay cả một thớt ngựa cũng không thu mua được.

Định rời khỏi đây nhưng dọc đường trạm gác trùng trùng, hết cách mới đành đến

chỗ anh đây tránh chút gió(*), đợi hơi bớt gió rồi lại đi.

(*) tiếng lóng của dân giang hồ, ý đợi qua cơn nguy hiểm.

Nói đoạn Dương Hổ móc từ trong người ra mấy viên vàng như hạt đậu, tròn

nhẵn, vàng óng, nhét vào trong tay lão Tứ, cười bảo:

- Tứ ca sống giữa nơi núi hoang này cũng không dễ thở gì. Nuôi người, nuôi

ngựa không thể dùng tiền của anh được, đây, hãy cầm tạm lấy mấy cục vàng này.

Tiêu lão tứ biết mấy viên vàng này chả phải có nguồn gốc tốt đẹp gì, thế là liền

không khách sáo mà nhận luôn, rồi nói nhỏ:

- Trú lại nơi đây cũng không sao. Tôi đang kiêm nhiệm chức bảo trưởng, trong

thôn đều là người miền núi hiền lành nhút nhát, cả đời chưa từng vào huyện lị, biết

có khách đến nhà cũng sẽ không nói năng gì đâu. Khi nào bớt gió rồi thì hãy tranh

thủ đi đi, lúc nay buôn bán không dễ đâu.

Phía sau là một dãy gian nhà thềm đá tường đất mái rơm, gian giữa trông còn

tốt một chút, là chỗ trọ của vợ chồng Dương Hổ. Sau khi thu xếp cho mấy người

bọn họ vào ở trong hậu viện ổn thỏa xong, Tiêu lão tứ tự thân đem ít thức ăn đơn

giản tới.Dương Lăng lếch thếch tiễn Tiêu lão tứ ra khỏi hậu viện. Khi trở lại dưới mái

hiên để quay về phòng, hắn chợt loáng thoáng nghe thấy giữa câu chuyện trò của

gian phòng bên trái dường như có nhắc đến tên mình, bước chân bất giác thoáng

dừng lại, lặng lẽ bước qua.

Căn phòng này đã lâu không có người trú ngụ, cửa sổ đã rách, giấy chắn cửa sổ

bay phần phật để lộ ra mấy khe hở. Dương Hổ ghé mắt nhìn vào bên trong, thấy rõ

Phùng Phúc Chí và Lang lão nhị biệt hiệu là "Đại Vĩ Ba Lang" (sói đuôi lớn - ND),

cùng Hồ Đại Chùy đang trú trong gian phòng này.

Phùng Phúc Chí vừa nhét thêm củi vào trong hốc lò sưởi giữa giường vừa lải

nhải:

- Hôm nay chúng ta cũng thấy sự dũng mãnh của quan quân rồi đó. Cái tên

thiên tổng được gọi là Quỷ vương đó, ông trời ạ, đáng là hảo hán ngồi ghế trại chủ

trong giới lục lâm chúng ta à nha!Ta thấy Hổ ca cũng chưa chắc đã là đối thủ của

hắn. Một đao chém đôi con ngựa, rõ thực oai phong, chậc chậc chậc!

Hồ Đại Chùy mặt mày ủ ê, tiếp lời:

- Lúc còn ở Bá Châu, thấy bộ dạng nhút nhát, hèn yếu của bọn quan binh đó ta

còn tưởng là quan binh trên đời đều như vậy. Ôi, rốt cuộc hai trăm hán tử võ công

cao cường bị người ta một phát nuốt sạch, chân mày cũng không thèm nhíu lấy một

cái.

Không cần nhắc đến oai phong của quan binh hôm nay, chỉ nói nếu không phải

may mắn được đám giặc Thát đó kéo đến, chúng ta trúng phải kế của Dương Lăng,

gần trăm cân thịt này đã chôn hết ở đó rồi. Giết hoàng đế? Đến lúc này ngay cả cái

bóng của Hoàng đế cũng còn chưa thấy nữa là!

Đại Vĩ Ba Lang nhếch miệng xoa chân, cười hắc hắc bảo: - Sẵn tiện nói luôn,

các ngươi có để ý đến Khoá Hổ tẩu tử không? Hình như là chị ấy đối xử với tên đại

quan họ Dương nọ không bình thường đâu nha!

Từ lúc đến sơn trại chúng ta, các ngươi có thấy tẩu tử nhỏ nhẹ mềm mỏng vớiai bao giờ không? Vậy mà lúc trò chuyện với tên khâm sai họ Dương đó thì lại nhu

hoà cứ như khuê nữ ấy; ngoan ngoãn nghe lời, ngượng ngùng bẽn lẽn, chậc chậc

chậc...!

Này, Đại Chùy! Lúc ở kinh sư có phải Hổ tẩu đã bắt giữ tên họ Dương đó hai

ngày không? Có phải do ở chung lâu ngày nên nảy sinh tình cảm không? Nghe nói

những kẻ đọc sách đều cùng một giuộc như nhau, bụng dạ gian xảo, rất giỏi lừa gạt

người khác. Bằng không thì Hồng Phất Nữ làm sao mà một lòng một dạ đi theo Lý

Tịnh, kiên quyết không thích Cầu Nhiêm Khách (2)? Hổ tẩu của chúng ta lớn lên

trong giới lục lâm, chưa từng gặp phải một vị thầy biết chữ nào, không chừng...

Dương Hổ nghe vậy giận bừng cả mặt. Khi nàng vừa thoát ra khỏi hang, ánh

mắt lẩn tránh đó của Hồng Nương Tử đã khiến hắn sinh lòng nghi ngờ, chỉ là nhớ

lại tính tình xưa nay của nương tử nên mới dẹp tan lo nghĩ trong lòng. Không ngờ

đám huynh đệ này cũng nhận biết được, còn túm nhau nói bậy nói bạ sau lưng, làm

sao mình ra mặt dẹp yên chuyện này đây?

Càng nghĩ càng giận, đang định dứt người rời đi, chợt hắn thấy Phùng Phúc Chí

lại vứt vài thanh củi vào lò, phủi tay rồi leo lên giường, uể oải mắng:

- Tránh cái chân thối của mày ra xa chút đi!

Đoạn hắn nằm soãi ra trên đầu giường, hai tay gối đầu, thở dài:

- Đừng nói đến mấy chuyện tào lao đó nữa, tẩu tử là người như thế nào chứ? Ta

lại cảm thấy lời mà tẩu tử nói là sự thật. Chúng ta ở Bá Châu làm đại vương một

núi, tiêu dao tự tại biết dường nào? Từ lúc xông vào kinh chạm mặt với vị Dương

Lăng đó, là bắt đầu hao binh tổn tướng, đến cả sơn môn ở Bá Châu cũng bị quan

binh quét sạch.

Lưu thần tiên! Hừ! Cái con mẹ nó, là người của Di Lặc giáo mà, đám yêu nhân

đó nói năng có thể tin được hay sao? Nếu Hổ ca không phải là người được tiên đoán

sẽ cai trị giang sơn thì khó rồi! Các huynh đệ phái chúng ta thì thôi không nói làm

gì, nhưng nếu để các lộ hảo hán trên Ngoạ Hổ sơn đã quy thuận về chúng ta biết

được, liệu bọn họ sẽ còn một lòng một dạ ủng hộ Hổ ca làm lão đại không?Nghe đến dây thì Dương Hổ giận đến hai tay run lên bần bật. Lúc bắt đầu tụ tập

đồng đảng ở sơn lâm, hắn tịnh không có dã tâm gì quá lớn. Nhưng khi bị Lưu thần

tiên gạt gẫm, đưa lời tâng bốc hắn lại tin là thật, thế là lòng tham đâm chồi mọc rễ

trong lòng, hiện đã bỏ vào biết bao tâm huyết đến thế, cứ lo suy tính suy nghĩ thiệt

hơn nên hắn cũng không còn giữ được vẻ thoải mái như xưa nữa.

Sau ngày nghe được lời của Phùng Phúc Chí, ngoài mặt hắn điềm nhiên như

không để tâm, kỳ thực trong lòng lại rất để ý. Những lời lừa gạt của Lưu thần tiên

coi hắn là chân long thiên tử, sao Tử Vi chuyển thế từng là một món vũ khí sắc bén

tạo nên thanh danh cho hắn, khích lệ hùng tâm của hắn, nay lại trở thành tâm bệnh

của hắn, trở thành cái vảy ngược không cho ai chạm vào của hắn.

Nghe xong lời này của Phùng Phúc Chí, hắn chỉ cảm thấy huynh đệ mình đang

phá dỡ bệ đứng của hắn. Thứ mà hắn càng cảm thấy lo sợ trong lòng thì lại càng bị

Phùng Phúc Chí nói toạt ra hết, mà lại nói rất thật tình, khiến hắn nghe mà lửa giận

bốc lên ngùn ngụt trong lòng. Nhưng hắn lại chột dạ nên không thể ra mặt, loại tâm

tình phức tạp ấy thực khó diễn tả nên lời.

Dương Hổ thầm nghiến răng, một ý nghĩ ác độc dần hình thành từ sự tủi thẹn

trong lòng: "Mình đã bỏ ra biết bao tâm huyết, bỏ ra biết bao nỗ lực. Nay mình

đang mang danh vị đệ nhất hảo hán lục lâm phương bắc là chính nhờ mình vận

mệnh chân long thiên tử của mình. Sau khi trở về, một khi bọn chúng để lộ tin tức,

công lao mình há sẽ chẳng đổ sông đổ biển?"

"Oanh Nhi... Dù sao đi chăng nữa thì vẫn là thê tử của mình, nàng ta sẽ không

phá dỡ bệ đứng của mình. Hoắc ngũ thúc túc trí đa mưu, biết cái gì thì nên nói cái

gì thì không nên nói. Nhưng mấy cái tên thẳng như ruột ngựa này thì phải xử lí thế

nào đây? Bảo bọn chúng giúp mình lừa gạt người khác à? Những lời như vậy biết

mở miệng nói như thế nào đây?"

Dương Hổ lặng lẽ bước đi, ngước nhìn những ngôi sao lạnh lẽo trên bầu trời xa

xa, đầu óc xoay vần mấy bận, vẻ âm u trong mắt dần ngưng lại thành một đường.

Hắn siết chặt nắm đấm, ý nghĩ từng thoáng qua trong đầu nay lại trở về, cắn lấy tim

hắn như một con rắn độc, từng chút từng chút một tiết nọc độc vào lòng hắn: "Kẻlàm nên đại sự không được câu nệ tiểu tiết! Bậc đại trượng phu không thể không

nhẫn tâm!"

Chú thích:

(1) Theo kế của Trần Bình, Hán Đế cho người mang một bức tranh thiếu nữ

trung nguyên rất đẹp đưa cho Yên Chi, vợ của Thiền vu Mặc Đốn của Hung Nô, nói

với bà ta nếu Mặc Đốn thắng được Hán đế thì sẽ mê luyến gái Trung nguyên. Yên

Chi ghen nên thuyết phục Mặc Đốn cho rút quân. Sau này, Lưu Bang từ bỏ ý định

chinh phục đại mạc bằng quân sự, chuyển qua hòa hiếu bằng cách kết thân gia và

cống phẩm cho các tù trưởng Hung Nô.

(2) nguyên văn "thành dã Tiêu Hà, bại dã Tiêu Hà". Tiêu Hà vốn là người

huyện Bái (vùng Giang Tô ngày nay), là Thừa tướng nhà Hán. Tiêu Hà cùng với

Trương Lương, Hàn Tín là "tam kiệt nhà Hán" ("phi Tam kiệt tất vô Hán thất" nghĩa

là không có tam kiệt trợ giúp thì không có triều Hán). Ông có nhiều đóng góp cho

thành công của Lưu Bang trong thời Hán Sở tranh hùng. Ông cũng là người có công

giúp Hàn Tín đến với Lưu Bang nhưng đồng thời cũng có phần nào trách nhiệm

trong cái chết của Hàn Tín, việc này đã trở thành một ngạn ngữ của Trung Quốc (成

也蕭何,敗也蕭何, "thành dã Tiêu Hà, bại dã Tiêu Hà").

(3): Cầu Nhiêm Khách, Lý Tịnh, Hồng Phất nữ được gọi là Phong Trần Tam

hiệp. Mời xem truyện Kẻ Râu XồmNGƯỢC VỀ THỜI MINH

Nguyệt Quan

www.dtv-ebook.com

Chương 202: Ngươi Giết Ta, Ta Giết Hắn

Thôi Oanh Nhi lưu lạc bên ngoài một thân một mình, đã chưa tắm mấy ngày

rồi, nên vừa thu xếp ổn thoả xong nàng liền xách vài thùng nước giếng về đun để

tắm rửa. Các hộ sống trong núi đã đốn sẵn rất nhiều củi, khi nàng đun nước xong,

nhiệt độ trong phòng tăng lên, cả căn phòng trở nên ấm áp.

Thôi Oanh Nhi đổ nước vào trong chiếc thùng tắm đơn sơ, bên trong trơn nhẵn,

bên ngoài được bọc bằng vỏ cây tùng, rồi thử độ ấm thấy đã vừa. Nàng đi ra mở cửa

phòng, trông thấy Dương Hổ vẫn đang đăm chiêu đi đi lại lại trong sân, hai tay chắp

sau lưng như đang có rất nhiều tâm sự. Tuyết đọng dưới chân bị hắn giẫm lên nghe

rồn rột.

Tưởng hắn vẫn đang còn nghĩ cách hành thích Hoàng đế, Thôi Oanh Nhi không

khỏi tức giận hỏi:

- Đêm khuya quá rồi còn không chịu vào phòng? Có muốn ăn gì hay không?

Dương Hổ nghe vậy mới sải bước đi vào trong phòng. Thôi Oanh Nhi đợi hắn

vào xong, đóng cửa lại, khuôn mặt xinh xắn tức thì đanh lại, lạnh lùng liếc Dương

Hổ :

- Huynh còn chưa từ bỏ ý định hay sao? Ở kinh sư vì huynh khăng khăng làm

theo ý mình mà đã chôn vùi tính mạng hơn hai trăm huynh đệ; hôm nay ở Lý Gia

tập nếu không may mắn gặp giặc Thát đến cướp thôn, chúng ta cũng đã chết sạch ở

đó rồi! Huynh còn chưa chịu từ bỏ giấc mơ làm Hoàng đế sao?

Dương Hổ bực bội đáp:

- Nàng đừng xía miệng vào mấy chuyện này! Tất cả hảo hán ở tam sơn ngũ

nhạc đều vì việc này mới tụ tập dưới cờ của ta, nay muốn quay đầu nào có dễ nhưvậy? Tuy rằng Di Lặc giáo đã gạt ta, nhưng chẳng lẽ chúng ta cũng sẽ nhất định

không thể chiếm được thiên hạ hay sao? Hừ, chẳng phải bọn chúng cũng đang âm

mưu tạo phản đó sao? Chẳng lẽ chúng ta còn không bằng đám yêu đạo đó?

Thôi Oanh Nhi giận lắm, đáp trả:

- Vậy huynh cứ ôm cái giấc mộng viển vông đó của huynh đi!

Dứt lời nàng liền xoay người đi vào phòng trong.

Dương Hổ hỏi:

- Nàng không ăn chút gì à?

Thôi Oanh Nhi cười nhạt:

- Huynh ăn gì thì tự ăn đi, ta không có hứng. Đi tắm đây!

Dương Hổ hừ một tiếng rồi ngồi xuống ghế. Đôi mắt lấp loé dưới ánh đèn, hắn

tiếp tục suy tính phương cách giải quyết mối lo của mình.

Thôi Oanh Nhi cởi áo quần vắt lên trên ghế, trầm cả mình xuống nước, cặp mày

thanh tú khẽ nhíu lại rồi mệt mỏi thở ra một hơi dài.

Hơi nóng ngấm vào trong da dẻ mịn màng, hơi nước bốc lên khiến cho mọi thứ

dưới ánh đèn đều trở nên mờ mờ ảo ảo.

Da thịt trong suốt óng ánh ngâm trong nước nóng ửng lên màu hồng đào, sóng

nước vỗ dập dờn, mái tóc đen dài xinh đẹp xoã ra trên mặt nước như một đám mây

che khuất dáng người xinh đẹp động lòng người giữa làn nước trong vắt.

Vóc người của nàng hãy còn rất đáng tự hào, da dẻ trắng phau mềm nhẵn, cặp

vú cao vút, chắc nịch mà nền nã. Đôi nhũ hoa hồng xinh vênh vểnh mê người, cặp

vú săn mẩy và trơn láng run run ngâm trong làn nước trong vắt, ở giữa là một khe

ngực sâu hút đến say lòng, bờ eo thon thon và thậm chí cả cái rún tròn xoay như ẩn

như hiện dưới mái tóc mây đen như mực đang dập dờn theo gợn sóng nước...Dương Hổ vừa vén rèm cửa bước vào, trông thấy dáng tắm đẹp đến say lòng

của thê tử, ánh mắt bất giác ngưng lại. Ý tưởng vừa sực nảy ra khi nãy chợt lại

không nỡ thốt ra.

Tuy rằng Thôi Oanh Nhi võ nghệ tinh thông, nhưng dẫu sao chốn đó vẫn là đầm

rồng hang hổ, vì muốn tách rời khỏi nàng mình mới khích nàng đi đến nơi đó. Ngộ

nhỡ có gì bất trắc xảy ra?!

Nghĩ đến đây Dương Hổ không khỏi trở nên do dự. Thôi Oanh Nhi thấy hắn

ngơ ngẩn nhìn mình, nhất thời hiểu lầm bèn tức giận nói:

- Ăn rồi thì đi ngủ đi! Ta không muốn thấy mặt huynh. Đêm nay ta ngủ riêng.

Dương Hổ vừa nghe liền bừng lửa giận, trợn trừng cặp mắt cọp:

- Đừng quên nàng là vợ ta đó!

Thôi Oanh Nhi đanh mặt lại chẳng nói chẳng rằng, cặp mắt như làn thu thủy

chăm chăm nhìn hắn một cách lạnh lùng.

Dưới ánh mắt đăm đăm của nàng, dũng khí của Dương Hổ dần tan biến. Hắn

lẫn tránh đôi mắt như có thể thiêu đốt người ta đó, song bất chợt nổi nóng mà giễu

lại:

- Lúc ở kinh sư nàng đã bắt được Dương Lăng, song lại tha mà không giết.

Trước nay nàng chưa từng nương tay với quan binh, nay Di Lặc giáo trù trừ không

chịu lộ diện, kế sách tọa quan sơn hổ đấu của nàng đã thất bại, lúc ngã vào sơn động

trên núi Bạch Đăng sao nàng không thừa cơ giết chết y đi? Ai đoán được là y ngã

chết hay bị nàng thủ tiêu chứ, tại sao nàng lại cứu y lên?

Thôi Oanh Nhi hừ một tiếng khinh thường, hất mũi:

- Huynh cũng đừng quên nếu không nhờ Dương Lăng giữ lời, chỉ cần y hạ lệnh

một tiếng thì mấy người chúng ta hôm nay đã bị thiên quân vạn mã giẫm thành thịt

nhão rồi. Chẳng lẽ chúng ta còn không biết giữ chữ tín bằng quan binh sao? Chúng

ta xông pha giang hồ phải quang minh lỗi lạc, ân oán phân minh. Chỉ riêng trước đóở quán rượu y đã hạ thủ lưu tình rồi, ta không nên cứu y ư?

Dương Hổ cất tiếng cười quái gở:

- Phải à! Vạn tiễn cùng bắn, còn có hỏa súng nữa! Ta cũng nghĩ rằng ắt chết

không phải nghi ngờ rồi, không ngờ y lại hạ thủ lưu tình.

Hắn vừa nói vừa nhìn sang Thôi Oanh Nhi, thoáng do dự, song lời của Đại Vĩ

Ba Lang nọ như mũi kim độc đâm vào tim hắn, như có thứ gì chèn ngang cổ không

nhổ ra rất khó chịu. Rốt cuộc hắn vẫn cắn răng nói tiếp:

- Có điều lúc y hại chết hai trăm huynh đệ ta đã ra tay rất ác độc, không chút

lưu tình. Nay nàng mềm lòng nhẹ dạ, thực không biết là lưu tình cho ai?

Thôi Oanh Nhi nhướng mày giận dữ quát:

- Ngươi... ngươi nói xằng gì đó?

Dương Hổ cũng nổi giận quát trả:

- Chẳng lẽ ta nói sai ư? Lúc cô ra khỏi hang ngay cả đám người Lang nhị cũng

đều nhìn thấy vẻ mặt kỳ lạ của cô, cô tưởng là hai mắt ta đều mù cả rồi sao?

- Ta...,

Thôi Oanh Nhi vừa thẹn vừa giận, nhớ lại tình cảnh trong hang, nhớ đến điều bí

mật mà nàng không thể kể với trượng phu, hai má vụt ửng lên hai đóa hoa đào, nhất

thời nghẹn lời không biết nói gì. Lúc ra khỏi hang sắc mặt nàng ngượng ngùng là

bởi nàng đã cùng Dương Lăng ôm nhau trong hang, còn sơ ý hôn phải môi y, những

chuyện này biết giải thích với trượng phu như thế nào đây?

Vốn Dương Hổ chỉ hơi nghi ngờ, song trông thấy bộ dạng nàng như vậy thì

lòng nghi ngờ càng tăng cao, thế là hắn bèn đùng đùng xông tới trước mặt nàng

cười khẩy:

- Hà hà! Cô nam quả nữ, lại còn là một quan một cướp, thế mà chẳng nhữngkhông có vẻ gì là kẻ thù sinh tử, lại giở trò chàng có tình thiếp có ý, biến hang núi

thành động phòng rồi chứ gì?

Ha ha, thảng như có một ngày quan binh bắt cướp xông đến tận giường bắt ta,

thực sẽ trở thành trò cười lớn cho cả lục lâm Bá Châu. Dương Hổ ta thực có mặt

mũi lắm!!!

- Ngươi câm miệng...!

Thôi Oanh Nhi nổi cơn tam bành, vụt đứng bật dậy.

Nước ấm cuộn trào, hơi nóng mịt mù, cảnh xuân chợt hiện.

Dòng nước men theo thân thể nảy nở của nàng uốn lượn chảy xuống, qua khe

rãnh mê người. Ngực cao eo nhỏ, cặp vú chắc nịch như hai gò tuyết nhô cao trên bộ

ngực trắng phau, trơn nhẵn và sáng óng như ngọc thoa mỡ dê. Bầu vú co lại tới đỉnh

một cách hoàn mỹ, kết ra hai quả xinh đỏ thắm.

Thân thể yêu kiều ngạo nghễ hoàn toàn lộ ra những chốn diệu kỳ. Hai bắp đùi

thẳng tắp trắng phau không chút tì vết như đang toả ra hơi nóng, chiếc eo thon nhỏ

chưa đầy nửa vòng tay làm nền cho bờ mông tròn lẳng, chắc nịch mà cao ngất, như

một vầng trăng tỏ, được điểm xuyết bởi những giọt nước long lanh.

Nàng kéo một chiếc khăn khoác lên người đánh soạt, giọng oán hận:

- Ngươi đã bị quyền lực khiến cho quá mê muội rồi, đã không còn là vị đại ca

giang hồ trọng nghĩa khinh tài trên một sơn trại nho nhỏ khi xưa nữa. Cả ngày chỉ

nghĩ làm sao để làm Hoàng đế, bày đặt học người ta âm mưu quỷ kế! Chí cả tài

hèn! Cho dù có khoác long bào vào người, ngươi cũng không giống Hoàng đế chút

nào. Ta thấy hai mắt ngươi đã bị quyền lợi bịt kín rồi, nói mù cũng không sai đâu!

Bị nàng vừa mắng vừa giễu khiến cho lửa giận bốc cao ba trượng, tức thì

Dương Hổ quên mất nàng ta uy phong hơn xa mình, hắn vung tay vả mạnh!

Thôi Oanh Nhi cười nhạt, chụm tay vót ngang, hai tay vừa chạm lập tức nàng

biến chém thành quấn, thuận thế kéo mạnh, "rào" một tiếng, nước bắn đầy trời,bóng trắng chợt loé lên trong làn nước. Dương Hổ chỉ cảm thấy vai mình trĩu

xuống, một cái bắp chân thon dài, trơn nhẵn, săn chắc đã đè trên vai, ấn hắn áp mặt

bên trên thùng tắm, chiếc khăn trượt xuống.

Dương Hổ giận quá hoá cười:

- Ta võ nghệ không bằng ngươi! Ngươi cứ giết ta rồi xách đầu đi tới triều đình

mà lĩnh thưởng, nói không chừng cũng sẽ được phong làm Cáo Mệnh phu nhân đó.

Thôi Oanh Nhi giận đến run người, nàng rút chân ngồi trở lại trong thùng nước,

mái tóc ướt sượt làm tôn lên nét mặt xinh đạp trắng trong pha ánh hồng của nàng,

trên má lệ đã nhỏ thành dòng.

Nàng ngẩng đầu lên, nhắm hai mắt lại nói:

- Thôi Oanh Nhi ta từ khi gả cho ngươi đã bao giờ làm chuyện gì có lỗi với

ngươi chưa? Được, nếu ngươi đã thấy ta quá quắt như thế, ngươi cứ giết ta đi rồi

yên tâm mà thực hiện giấc mơ làm Hoàng đế của mình.

Dương Hổ nào từng thấy nàng uất ức đến rơi lệ như vậy? Thế là hắn luống

cuống tay chân, cơn lửa giận tức thì tan như bọt nước. Hắn luống cuống không biết

làm thế nào, ấp úng:

- Nàng... nàng đừng khóc mà, ta... ta... ái chà...!

Dương Hổ đi lòng vòng trong phòng như con thú bị nhốt trong chuồng, tay quẹt

nước trên mặt, rồi đấm vào đầu giường một quyền, căm hận nói:

- Oanh Nhi! Ta đường đường là lão đại lục lâm Bá Châu, nay hao binh tổn

tướng, sơn trại bị hủy, thanh danh rơi xuống nghìn trượng. Thảng như tin tức Lưu

lão đạo là người trong Di Lặc giáo truyền về sơn trại, ta sẽ thật là họa vô đơn chí.

Nàng cho rằng chỉ dựa vào võ nghệ là đã có thể khống chế đám hảo hán ương

ngạnh bất kham đó ư? Ta... nỗi khổ tâm của ta nàng có hiểu được không?

Thôi Oanh Nhi từ từ mở mắt, trông thấy vẻ mặt thống khổ của trượng phu, lòng

nàng không khỏi chùng xuống bèn nhẹ giọng khuyên bảo:- Hổ ca! Nếu không làm được lão đại giang hồ thì thôi, để mặc bọn họ tranh với

nhau đi. Trại cũ chúng ta ở sâu trong rừng thẳm, chưa từng bị quan binh lùng thấy,

chi bằng... chúng ta hãy trở về trại cũ mà yên phận sống qua ngày đi.

Vốn dĩ lúc ở Bá Châu, muội còn cho rằng quan binh trong thiên hạ đều là thứ

rác rưởi không chịu nổi một đòn, quan viên trong thiên hạ đều là bọn tham quan

nham hiểm độc ác. Nay mới biết rằng quan viên triều đình không phải đều là tham

quan, binh lính triều đình cũng không phải dễ đánh bại như vậy. Số mệnh Đại Minh

chưa tận đâu!

Dương Hổ quắc mắt:

- Trở về trại cũ của Thôi gia? Dương Hổ ta đường đường là một thằng đàn ông

thân dài vai rộng, chẳng lẽ nay lại đi nấp dưới đáy quần phụ nữ để kiếm sống? Nhục

nhã mà chết thôi! Khi xưa nhạc phụ gả nàng cho ta do ta là nhân vật có tiếng tăm

vang dội trong lục lâm. Nay cứ như vậy mà quay về, sau này ta sẽ lăn lộn trên giang

hồ thế nào? Món nợ máu của hơn hai trăm huynh đệ chưa trả, ta làm sao giải thích

với cô nhi quả phụ của bọn họ đây?

Nàng nói không hề có tư tình gì với Dương Lăng, ta cũng tin tưởng con người

nàng, nhưng lần trước nàng đã tha cho hắn, nay lại cứu hắn là sự thật. Hôm nay trên

Bạch Đăng sơn nói các người đầu mày cuối mắt liệu có quá phận không? Những

huynh đệ đó của ta đều đã thấy cả, trở về bọn họ bẻm mép nói bậy nói bạ một hồi,

bảo ta làm sao mà nhìn mặt người khác?

Thôi Oanh Nhi nghe xong thì tức khí đáp:

- Hồng Nương Tử muội nói một là một nói hai là hai, nói không vụng trộm với

ai là không vụng trộm với ai cả! Huynh còn muốn ta làm thế nào mới chịu tin ta

đây? Chẳng lẽ muốn ta vác đầu của Dương Lăng về huynh mới chịu tin sao?

Hai mắt sáng rỡ, Dương Hổ chồm tới nắm chặt lấy tay nàng:

- Ý tưởng hay đó! Giết được Dương Lăng thực sẽ nhất cử lưỡng tiện. Oanh Nhi,

nàng thử nghĩ đi! Tuy Di Lặc giáo dùng kế dụ ta vào kinh, nhưng ra tay giết ngườicủa chúng ta dẫu sao cũng là nhân mã của Dương Lăng, giết y rồi cũng sẽ coi như

là đã ăn nói được với toàn thể sơn trại. Hơn nữa nhờ việc này mà sẽ tự đánh tan mọi

lời đồn, tự sẽ trả lại thanh bạch cho nàng, ai còn dám nói xằng nói bậy ta liền chém

đầu hắn ngay!

Thôi Oanh Nhi cả kinh, ấp úng:

- Dương Lăng... là tên quan tốt, hôm nay lại tha mạng cho chúng ta. Lấy oán tả

ơn, chuyện này ta... sao ta làm được?

Dương Hổ thuyết phục:

- Quan tốt quan xấu gì cũng đều là kẻ thù của chúng ta. Chẳng phải hai trăm

huynh đệ của chùng ta bị y giết đó sao? Chẳng phải sơn trại bị hủy trong tay binh

lính của y ư? Nàng tha cho y một lần, y tha nàng một lần, ơn huệ gì cũng đã trả hết

rồi.

Hắn lại bước sấn tới, vẫn nắm chặt tay Oanh Nhi, thành khẩn van nài:

- Nương tử! Nếu cứ ỉu xìu như vậy mà cúp đuôi chạy về sơn trại thì Dương Hổ

ta sẽ không còn mặt mũi nào đâu! Lời nói như đao kiếm, chuyện khác ta có thể

không thèm để ý, nhưng nếu có người ô nhục sự trong trắng của nàng, ta làm sao

mà nhịn được? Chẳng lẽ vờ điếc không nghe thấy những lời đồn đại đó? Vì ta, vì

nàng, nay chỉ còn biện pháp dễ hơn cả: giết chết Dương Lăng!

Thôi Oanh Nhi cảm thấy lòng rối như tơ vò. Trượng phu đã thẳng thắn nói hết

ra như vậy, những nỗi khổ đó cũng là sự thật. Cho dù phải vì hắn mà lên núi đao

xuống biển lửa, Hồng Nương Tử há sẽ nhăn mặt nhíu mày? Nhưng mà giết Dương

Lăng...

Dương Hổ thấy nàng do dự, bèn nghiến răng nói:

- Oanh Nhi! Dù Dương Lăng là thứ gì đi nữa thì có quan hệ gì với chúng ta?

Chúng ta là mã tặc, là đại đạo lục lâm đó! Chẳng lẽ còn con mẹ nó đi giảng nhân

nghĩa với quan binh? Nàng không đi thì để mai ta sẽ dẫn các huynh đệ đánh về ĐạiĐồng, tìm không được Hoàng đế thì đánh vào hành dinh khâm sai! Ta đường đường

là người đầu đội trời, chân đạp đất, thà chết quang minh lỗi lạc ở đây chứ không về

Bá Châu để cho người ta nói xấu sau lưng!

Dứt lời hắn liền buông tay nàng, thẳng người dậy. Thôi Oanh Nhi chộp lấy cổ

tay hắn, giọng run rẩy:

- Đừng!... Nếu... nếu Dương Lăng chết rồi, huynh thật sự sẽ chịu cùng muội trở

về sơn trại, từ đây sống dựa vào nhau, từ bỏ dã tâm mưu cầu thiên hạ chứ?

Dương Hổ mừng rỡ đáp:

- Đương nhiên! Có bao giờ ta gạt nàng đâu. Nương tử, nàng đồng ý chứ?

Thôi Oanh Nhi hạ quyết tâm, cắn răng:

- Được! Vậy muội sẽ thất tín bội nghĩa một lần, lấy đầu Dương Lăng về gặp

huynh. Sáng sớm mai muội sẽ nghĩ cách trà trộn vào thành.

Trong mắt Dương Hổ thoáng hiện lên tia đắc ý, hắn vội nói:

- Lúc này nhất định Đại Đồng đang được canh phòng hết sức nghiêm ngặt. Thế

này đi, để Ngũ thúc và nàng hoá trang thành phụ nữ, vừa có thể che giấu lai lịch, lại

có thể chăm sóc cho nhau. Sáng sớm mai ta sẽ bảo Tiêu lão tứ lợi dụng chức vụ Bảo

trưởng tìm cách giúp hai người trà trộn vào thành. Ta sẽ dẫn các huynh đệ di chuyển

đến gần đấy hoạt động, lôi kéo sự chú ý của quan binh. Sau khi thành công sẽ tụ

họp tại Tụ Long khách sạn ở thôn Hình.

Trong lòng Thôi Oanh Nhi đang xảy ra một cuộc đấu tranh dữ dội. Vừa mở

miệng đồng ý với hắn là sẽ giết Dương Lăng, song chẳng những nàng không cảm

thấy nhẹ nhõm, mà đầu nàng lại rối bời bời. Nàng lặng lẽ gật đầu, không ngừng

thầm tự an ủi mình: "Huynh ấy là trượng phu của mình, mình không thể nhìn huynh

ấy bước vào con đường cùng, bị chúng bạn xa lánh được. Xin lỗi, Dương Lăng, thật

sự xin lỗi..."

Dương Hổ tìm được cái cớ đẩy nàng ra xa, nghĩ lại nơi đó cũng hung hiểm vạnphần nên hắn không khỏi lo lắng căn dặn:

- Nương tử nhớ kỹ: thảng như sự không thể thành công thì chỉ cần để tin tức

khâm sai bị hành thích truyền ra ngoài là được rồi, chúng ta cũng xem như có thể ăn

nói với sơn trại. Cho nên... nàng vạn lần đừng lỗ mãng, ta... ta lo nàng sẽ xảy ra

chuyện bất trắc.

Nghe được lời này của Dương Hổ, Thôi Oanh Nhi liền như trút được gánh nặng

trong lòng: "Nếu như chỉ cần tạo hiện trạng giả hành thích khâm sai thì không khó

gì. Chi bằng mình tương kế tựu kế, vừa có thể gạt đưa trượng phu về sơn trại, lại

không cần phải thật sự gây hại đến tính mạng Dương Lăng."

Đảo mắt nhìn thấy sự quan tâm lo lắng trong ánh mắt Dương Hổ, gò má nàng

bất giác nóng lên, thầm cảm thấy hổ thẹn: "Vì một kẻ không liên can, sao mình lại

có thể để chàng khó xử như vậy? Thôi đi! Mình còn vọng tưởng làm hiệp đạo(*) gì

chứ? Nếu ông trời cho mình cơ hội ra tay, thì... đó sẽ là ý trời vậy. Ôi, Dương Lăng

ngươi hãy tự thu xếp cho tốt đi..."

(*: kẻ cướp nghĩa hiệp; như Robin Hood)

* * *

Dương Lăng tìm được một chiếc xe bò, cho chở vị hoàng hậu Mãn Đô Hải vào

thành, đến thẳng phủ Đại vương. Nghe nói bà lão tướng mạo tầm thường này chính

là Mãn Đô Hải uy danh hiển hách trên thảo nguyên, Đại vương liền vội gọi quản gia

dọn riêng một căn biệt viện, điều bốn tên tiểu thái giám, bốn cung nữ hầu hạ ăn

uống ngủ nghĩ của bà ta. Đồng thời lão ta dặn đi dặn lại phải tuyệt đối giữ bí mật,

vạn lần chớ để lộ chút tin tức gì.

Thu xếp thỏa đáng xong xuôi, Dương Lăng bèn trở về dịch quán. Y nghĩ cũng

nên bẩm báo với Chính Đức những chuyện xảy ra mấy ngày nay, có điều không biết

hiện tại hắn có còn làm cái đuôi của Đường Nhất Tiên hay không.

Dương Lăng cởi áo choàng đưa cho thân binh thị vệ, rồi nói nhỏ với Trương

Vĩnh:- Công công hãy trở về nghỉ ngơi trước, khi nào thích hợp thì gọi ta một tiếng!

Chúng ta phải bẩm báo chuyện quan trọng này với Hoàng thượng.

Trương Vĩnh khẽ gật đầu, mỉm cười đáp:

- Ta biết rồi, đại nhân yên tâm.

Lão cũng biết mấy ngày nay Hoàng thượng cứ bám theo tiểu nha đầu họ Đường

chạy khắp nơi. Trước nay chưa từng thấy hoàng thượng để tâm tới một người con

gái nào như vậy nên lão biết rõ rằng vị cô nương này có địa vị không nhỏ trong lòng

hắn. Do đó Trương Vĩnh cũng không dám thất lễ với Đường Nhất Tiên.

Hơn nữa, nhờ thế mà Chính Đức không còn nhao nhao đòi ra ngoài đường dạo

chơi nữa, đây xem như là niềm vui bất ngờ rồi, khiến cho Trương Vĩnh cũng bớt lo.

Lão chỉ mong sao Hoàng thượng cứ ở trong dịch quán cả ngày như thế này.

Đợi khi Trương Vĩnh trở về hậu viện, viên thị vệ mới thấp giọng bẩm:

- Đại nhân! Liễu thiên hộ đã trở về rồi, đang chờ ngài trong thư phòng ạ.

Từ khi đến Đại Đồng, Liễu Bưu liền ẩn vào trong bóng tối, chuyên phụ trách tin

tức thám mã các nơi, bình thường không trú đóng trong dịch quán. Hắn đến xin gặp

ắt có đại sự, Dương Lăng liền vội trở lại thư phòng. Thấy y trở về, Liễu Bưu lập tức

đứng dậy chào, Dương Lăng bảo:

- Ngồi xuống đi, không cần giữ lễ! Sao rồi, có tin tức gì không?

Liễu Bưu cảm ơn rồi ngồi xuống, chống hai tay xuống gối báo cáo:

- Đại nhân! Bọn ti chức vẫn đang điều tra những chuyện mà ngài dặn dò. Hiện

có một nhân vật cực kỳ khả nghi, có điều hắn rất có ảnh hưởng ở Đại Đồng này, vai

vế rất đặc biệt. Do đó, trừ phi phải dùng đến chiêu bài Nội xưởng của chúng ta,

bằng không sẽ không thể điều tra tiếp được nữa, cho nên ti chức phải đến xin chỉ thị

của đại nhân.

Dương Lăng kích động hỏi:- Hắn là người khả nghi ư? Là người nào? Là người trên chốn quan trường sao?

Liễu Bưu đáp:

- Đại nhân! Người này họ Vương tên Long, trong nhà hắn kinh doanh đủ thứ từ

ngựa trâu da cỏ, cho đến ngọc ngà châu báu, trà muối thuốc thang, là đệ nhất phú

hào ở Đại Đồng. Toàn bộ dãy trái con phố Hoa Lỗi đều là sản nghiệp của hắn, cho

nên ban đầu được gọi là "Vương bán nhai"(*); hiện tại thế lực hắn càng lúc càng

lớn, phủ đệ của hắn đã được dân chúng gọi vui là "Vương phủ"."

(*: bán nhai là nửa con phố)

Dương Lăng biết ắt còn phần sau, nên chỉ im lặng lắng nghe. Liễu Bưu nói tiếp:

- Khách mua mớ gia súc tập trung ở Lý Gia tập vừa rồi là người từ đất liền, là...

quản gia của phủ Thọ Ninh hầu. Cuối năm ngoái phủ hầu đặt mua hai trăm khoảnh

đất, cho nên mới sai quản gia đến phương bắc thu mua trâu ngựa. Thương nhân

cung cấp hàng hoá chính là Vương Long, bởi nguồn hàng của hắn tập trung ở ngoài

thành cho nên mới hẹn giao dịch tại Lý Gia tập. Kẻ biết việc này chỉ có hai nhà bọn

họ.

Không lý nào phủ của Thọ Ninh hầu lại tư thông giặc Thát, cho nên cái tên

Vương Long chỉ trong hơn mười năm nhảy vọt lên thành đệ nhất phú hào bản địa là

kẻ đáng ngờ nhất. Thêm vào đó, những thứ quân giới như kiên giáp nhà binh, yên

ngựa, móng sắt, mũ sắt, thậm chí cả binh khí nữa; mặc dù không có ai công khai hỏi

mua nhưng Vương Long lại thu mua một lượng lớn số quân giới bán thành phẩm có

giá rẻ này. Hơn nữa hắn buôn bán với quan ngoại, đa phần xe lừa xe ngựa của hắn

chuyên thồ hàng ra ngoài quan ải, cũng chỉ có hắn mới có khả năng lén chở những

thứ này ra. Đương nhiên... hiện nay Hàn lão gia tử cũng đã có thực lực này.

Liễu Bưu nói đoạn mỉm cười, Dương Lăng nghe xong cũng bật cười ha hả, rồi

bảo:

- Kể tiếp đi!- Dạ!

Liễu Bưu nói tiếp:

- Hiện nay chiến sự căng thẳng, đại nhân ngài đã đến tiền phương tuần thị,

đương nhiên tì tướng thủ thành đều phải phòng ngừa quan khâm sai đến nghiệm xét

bất ngờ, cho nên những kẻ tầm thường không thể ra ngoài quan ải được nữa. Nhưng

ti chức đã điều tra được trong mấy ngày nay lại có một vị thương nhân buôn ngọc

họ Bao từng ra khỏi cổng thành.

Vị thương nhân họ Bao này có quan hệ mật thiết với Vương Long. Kinh doanh

ngọc thạch nơi đây chẳng kiếm lãi được bao nhiêu mà hắn có thể đứng vững không

đổ, có thể nói hầu như đều nhờ có Vương Long chống lưng. Hơn nữa tên bảo vệ cận

thân như hình với bóng của hắn lại là một người Mông Cổ tên A-Man.

Dương Lăng nhíu mày:

- Tiền phương có hai đội quân giao chiến vậy mà hắn vẫn có cách xuất quan?

Bản lĩnh lớn thật!

Liễu Bưu cười khan một tiếng, rồi thấp giọng báo:

- Đại nhân! Ngài biết tướng lĩnh biên quân khi vừa nhậm chức thì có hai nhiệm

vụ quan trọng gì không? Một là phòng bị giặc Thát lên ải, hai là phòng bị binh sĩ

xuống ải. Nếu thật sự muốn ra ngoài thành thì thực tế lại không khó khăn gì.

Dương Lăng lấy làm lạ hỏi:

- Phòng bị giặc Thát lên ải thì ta hiểu, còn phòng bị binh sĩ xuống ải nghĩa là

sao?

Liễu Bưu đáp:

- Đại nhân! Giao dịch cùng người Mông Cổ luôn luôn có thể kiếm được món

lợi kếch sù. Một cái nồi sắt bình thường, một bao muối ăn nho nhỏ hoặc một bánh

trà loại kém nhất, ở ngay nơi đây thì không đáng mấy văn tiền, nhưng lại có thể đổiđược rất nhiều bạc từ chỗ người Mông Cổ, hoặc là được người Thát mang da thú

đắt tiền, dược liệu trân quý ra trao đổi.

Cho nên không chỉ thương nhân lén lút qua ải, mà thậm chí là binh sĩ thủ thành

cũng thường xuyên giấu bao muối trên người, đầu đội nồi sắt buộc bằng dây thừng

chạy ra ngoài thành giao dịch với người Mông Cổ. Hai năm trước binh sĩ nổi loạn

giết chết quan tổng binh, mặc dù bảo nguyên nhân là do tổng binh cắt xén tiền

lương nhưng biên quân không thể chỉ sống dựa vào chút bạc đó. Nếu không phải vì

hắn cai quản quá nghiêm, không cho binh sĩ...

Dương Lăng hiểu ý, lẳng lặng gật đầu:

- Chắn lấp không bằng khơi thông, điểm này bản quan cũng biết. Cũng giống

như ngư dân vùng duyên hải vậy, có biết bao người không thể chống lại lệnh cấm

mở cửa biển thông thương, giao dịch với người nước ngoài, cuối cùng bị ép phải ra

biển làm cướp. Ôi! Chờ Hoa Đáng đến rồi, ai mà thật lòng buôn bán thì rộng rãi

một chút, kẻ nào rắp tâm cướp bóc thì khiến chúng nếm chút đau khổ. Hà khắc như

vậy sẽ chỉ tự khiến mình rơi vào hoàn cảnh khốn khó mà thôi.

Liễu Bưu nói tiếp:

- Do đó việc tên họ Bao này có thể ra khỏi thành cũng chẳng có gì là lạ. Vấn đề

là hiện tại ngoài quan ải thiết kỵ tung hoành, khắp chốn là quân, hắn kiếm đâu ra

người mua hay người bán ngọc? Việc này hết sức khả nghi! Hơn nữa con đường y

đi là do Vương Long vẽ ra, tì tướng canh giữ cổng tây là huynh đệ của Vương

Long, cho nên hết thảy mọi điểm đáng ngờ đều chỉa về phía Vương Long.

Nhưng Vương Long giao du rất rộng ở nơi đây. Trong quân, phủ nha, vương

phủ đều có một đám người tay nắm quyền cao xưng huynh gọi đệ với hắn. Nếu

không có bằng chứng thì đám thuộc hạ thực khó mà tiếp tục điều tra. Thật ra...

Trước trận đại chiến này, Vương Long mới vừa mua một lượng lớn da thuộc và sắt

ròng. Những món hàng này quá lớn, cho nên nếu hắn quả thực có giao dịch cùng

giặc Thát thì nhất định vẫn chưa kịp vận chuyển ra ngoài hết.

Nhưng bề ngoài hắn là lái buôn trâu ngựa, nên nếu hắn nói mớ vật dụng nàyđược dùng để chế tạo yên ngựa và móng sắt cũng sẽ hữu lý, không thể lấy đó làm

chứng cứ buộc tội hắn ta. Nhưng nhà họ Vương đó có xưởng riêng, nếu như những

thứ này vẫn chưa được vận chuyển ra ngoài, ắt hẳn vẫn còn đang được chế tạo

thành chiến giáp, đầu giáo, các loại quân giới. Nếu chung ta cho người xông vào

phủ lục tìm, tịch thu thì sẽ có chứng cứ ngay.

Vấn đề lại nằm ở địa vị của hắn. Ngộ nhỡ kiểm tra không thấy tang vật, vậy

tiếng xấu bức hại người địa phương sẽ rơi lên người chúng ta, cực kỳ bất lợi cho đại

nhân ở bản địa. Biên cảnh trọng địa, ngộ nhỡ gây nên hỗn loạn thì thực sẽ...

Dương Lăng chắp tay đi đi lại lại trong phòng một hồi rồi bảo:

- Nếu hắn đã có thế lực trong quân đội và ở địa phương lớn như vậy rồi, mà hắn

lại đúng là gian tế thì nhất định sẽ nắm được không ít tin tình báo. Hoa Đáng đã sắp

đến, chúng ta thật sự không có thời gian để từ từ điều tra, nhất định phải giải quyết

dứt khoát, mau chóng gạt bỏ hết tai mắt của giặc Thát.

Ngươi hãy thuật lại tỉ mỉ tình hình của hắn đi! Xưởng vệ chúng ta giỏi nhất là

gài tội cho kẻ vô tội, bản quan không tin chúng ta không có cách nào bắt được cái

tên phản tặc đáng ngờ này.

- Dạ!

Liễu Bưu bèn đem tính tình, sở thích, thói quen và những mối quan hệ của

Vương Long kể ra một lượt như thể đã nắm rõ trong lòng bàn tay. Lúc còn trong

Cẩm Y Vệ hắn từng là một hiệu úy khăn đỏ(*) cực kỳ tinh minh, lại được Ngô Kiệt

chỉ điểm thêm nên đã trở thành một nhân viên tình báo đạt chuẩn. (*: nguyên văn đề

khởi, một loại khăn các võ sĩ ngày xưa hay quàng)

Dương Lăng lại từng nói với hắn rằng, khi điều tra một người nào đó đều cần

phải nắm rõ thêm về tính tình, sở thích, đặc điểm thói quen, quan hệ bạn bè thân

hữu, thậm chí là một ít sở thích không muốn cho người ta biết của kẻ đó. Bởi thông

thường có khi một cái thói quen nhỏ, một chi tiết nhỏ không ai chú ý lại chính là lỗ

hổng có thể khoét vào, cho nên Liễu Bưu kể mọi thứ một cách hết sức tường tận.

Thật khó để y có thể nắm bắt được hết bấy nhiêu chi tiết trong vòng một ngày. Songchúng ta nên biết rằng Vương Long là một nhân vật hết sức có vai vế ở Đại Đồng,

thế nên chuyện này cũng không có gì là lạ.

Nghe xong, Dương Lăng ngửa mặt lên trời suy nghĩ một chốc, rồi cười ha hả

bảo:

- Phố Hoa Lỗi, Thập nhị cẩm bình! Ha ha! Được lắm, đối diện con phố đó có

"Hâm Thịnh lâu" phải không? Hãy bao hết nó lại, đổi toàn bộ tửu khách thành

người của ngươi...

À không! Báo nhạc phụ của bản quan thu xếp cho vài người bản xứ trên tầng

hai, nhưng phải là thám tử đã bí mật gia nhập Nội xưởng và người nhà của bọn họ,

nhất định phải đáng tin cậy mới được. Hà hà! Ngày mai chúng ta sẽ diễn một vở lão

gia hống hách diễu võ dương oai, ức hiếp "bá tánh"...

Liễu Bưu nghe xong bèn chắp tay cười thưa:

- Kế của đại nhân rất hay! Trừ phi hắn không bị gạt, bằng không chúng ta sẽ

đóng vai khâm sai phụng chỉ vì dân trừ hại. Ha ha, lại nhờ có vị kia đứng ở sau

lưng(*) nên không cần đại nhân ra mặt, các vị Đại vương, Hồ tuần phủ và Dương

tổng chế cũng sẽ chủ động áp chế nhân mã các nơi, không ai làm bậy được. Vậy ti

chức đi thu xếp đây.

(*:ý chỉ Chính Đức)

Dương Lăng mỉm cười nhìn theo bóng Liễu Bưu khép cửa rời đi, lẩm bẩm một

mình:

- Vương Long! Nếu như ngươi chỉ háo sắc vô hạnh thì coi như là ta trừng phạt

ngươi nhè nhẹ một tí rồi thôi. Nhưng nếu ngươi thật sự tư thông với giặc Thát... thì

ngươi hãy tự lo thân của mình đi!NGƯỢC VỀ THỜI MINH

Nguyệt Quan

www.dtv-ebook.com

Chương 203: Muốn Đổ Tội Cho Người

Phố Hoa Lỗi nằm ở phía tây nam của cổ lầu(*), là con đường nối liền nam bắc

Đại Đồng. Trên phố lầu cao nhà thấp được xây san sát trật tự ngăn nắp. Rất nhiều

hộ giàu có tập trung tại nơi này, giữa phố có vài khách sạn và tửu lầu. Bên trái con

phố trông xa hoa và sang trọng hơn, nhưng hầu như suốt cả dãy phố đều là sản

nghiệp của Vương phủ.

(*: lầu canh có đặt trống lớn dùng để báo động)

Vương Long tiền nhiều thế mạnh, phòng ốc trong nhà rất rộng. Tổng diện tích

phủ viện của hắn gần như không thua gì phủ ở của Đại vương đặt ở khu hoàng

thành, cho nên cũng được lắm kẻ nhiều chuyện gọi là "vương phủ".

Vương Long kiêu căng dâm dật xa hoa, thê thiếp rước về vô số. Nơi này kế liền

tái ngoại, nếp sống phóng khoáng mà Vương Long cũng không hề có phong thái

thân sĩ phú gia. Thường ngày hắn hay đưa đám vợ đẹp thiếp xinh lên gác tía nằm

sát ven đường, cho trang điểm làm dáng rồi ra đứng dựa vào lan can, thu hút cánh

đàn ông khắp thành đổ xô đến chen nhau xem người đẹp.

Trong số mỹ thiếp của hắn có mười hai người có nhan sắc đẹp nhất, bèn có kẻ

giỏi vuốt đuôi ngựa thừa dịp tâng bốc gọi thê thiếp của Vương Long là "Thập nhị

cẩm bình"(*), ý là khi mười hai vị mỹ nữ này đứng xuất hiện trên gác tía liền như

mười hai bức bình phong tinh mỹ tuyệt luân khiến người ta mê mẩn không rời.

(*: mười hai bức bình phong mỹ lệ)

Vương Long sớm đã rao tin hôm nay sẽ đưa đám mỹ thiếp lên lầu khoe dáng,

việc này đã lan truyền khắp cả thành. Đường Nhất Tiên nghe đám gia đinh trong

vương phủ to nhỏ thì thầm, nàng không biết rõ nội tình nên tưởng rằng nhà giàu nàođó sẽ cho trưng bày đồ báu quý hiếm.

Hôm nay "Hâm Thịnh lâu" đã bị Liễu Bưu bao hết. Nếu như muốn "đào hố" để

dụ Vương Long sập bẫy thì hiển nhiên hắn không thể làm gì lộ liễu, chỉ là toàn bộ

tòa tửu lầu hai tầng này thì trên dưới, trong ngoài đều đã có tửu khách ngồi đầy từ

rất sớm. Nếu có người khách nào muốn vào thì đương nhiên sẽ đành phải tìm một

quán khác.

Dương Lăng vận bộ thiên mã bì bào(2), đầu đội mũ da chồn, chân mang đôi

giày da màu đen lợp gấm, trang phục tuy sang trọng song lại không quá phô trương.

Thêm vẻ tuấn tú anh tài, khí phách y như một vị công tử tiêu sái thời loạn thế. Đứng

sau lưng y là một thư đồng nho nhỏ áo xanh mũ dưa tuấn tú; chính là Hoàng đế

Chính Đức.

Dương Lăng muốn dụ cho tên Vương Long háo sắc mắc câu, trong tay y đã có

sẵn Đường Nhất Tiên xinh đẹp như hoa làm mồi nhử. Đường Nhất Tiên nghe xong

mưu kế của Dương Lăng thì thích thú đến độ cứ cười khanh khách mãi. Cô bé này

tính vốn nghịch ngợm, lại có cơ hội giúp đỡ biểu ca thân nhất của mình nên đương

nhiên đồng ý ngay.

Vốn Dương Lăng định giấu Chính Đức, nào ngờ hắn nghe được tin này từ

miệng Đường Nhất Tiên, thế là nằng nặc sống chết gì cũng đòi đi theo. Dương Lăng

định bắt hắn cải trang thành thư đồng để làm khó, ai dè vị tiểu Hoàng đế không bao

giờ hành động theo lẽ thường này vừa nghe liền mừng như cầu còn không được.

Thế là không đợi Dương Lăng nói xong, hắn liền đã chạy vụt đi sai Trương Vĩnh

kiếm về một bộ đồ xanh mũ dưa hí hửng mặc vào.

Dương Lăng hết cách, đành phải dẫn theo "ông tổ sống" này đến lầu Hâm

Thịnh. Tửu khách trong quán đều là đại nội thị vệ vận áo quần đủ kiểu; xen lẫn

trong đám du khách, lính nhàn, bán rong và đám đầy tớ chen nhau chờ ngắm mỹ

nhân trên phố cũng có không ít người là phiên tử của Nội xưởng.

Trong "Thái Bạch cư" bên cạnh "Hâm Thịnh lâu", cửa sổ của một căn phòng

trang nhã đối diện với cửa sổ tầng hai cũng được mở ra, lửa trong lò than trong

phòng cháy hừng hực. Một người tóc hoa râm vận áo bào xanh, trên búi cài một câytrâm ngọc khẽ nhíu mày nói:

- Vương Long thực làm càn quá! Khi không lại bày ra cái hội "Thập nhị cẩm

bình" gì đó. Lão Du à, ông nên khuyên hắn bớt phóng túng chút đi.

Ngồi ở đối diện là Du viên ngoại vận áo gấm hoa văn hình tiền đồng, khuôn

mặt tròn trịa bẩm sinh luôn mang theo một nụ cười trên mặt như Phật Di Lặc. Hắn

lấy khăn tay lau mồ hôi hai bên thái dương, cười hà hà đáp:

- Chính vì phô trương như vậy mới sẽ không có ai nghi ngờ nhân thân của hắn.

Tôi lại thấy Vương Long cải trang làm thân hào vô lại rất thành công. Mọi người

đều biết hắn trầm mê tửu sắc, đám quan lớn địa phương cáo già như Hồ Toản và

Dương Nhất Thanh còn nghi ngờ tên đại thương nhân bên ngoài đầy tiếng xấu,

khắp người nồng mặc mùi tiền đó là người của chúng ta sao?

Người áo xanh hừ nhạt một tiếng, nói:

- Vấn đề là không phải Vương Long giả vờ làm vậy, mà là bản tính đã thế. Cẩn

thận chứ chơi với lửa có ngày bỏng tay đó!

Du hộ pháp cười hà hà, không hề lựa lời giải thích tiếp. Trong Di Lặc giáo cũng

chia bè phái, ba vị thiếu giáo chủ dần dần trưởng thành, cả ba đều bỏ công lôi kéo

những trưởng lão đang nắm thực quyền trong giáo. Vương Long là người của Lý

Đại Nghĩa, lão áo xanh lại là một vị nghiệp sư (thầy dạy) của Lý Đại Nhân, cho nên

đương nhiên lão không có thiện cảm với Vương Long.

Đứng ngoài cửa là một thanh niên dáng vóc cao to, ánh mắt sắc bén, tuy ăn mặc

như nô bộc song lại ẩn chứa khí thế lạnh lùng uy dũng, như ẩn như hiện, có khí thế

khiến cho lòng người khiếp sợ. Thấy lão áo xanh khoát tay, hắn biết hai người

muốn bàn luận về vấn đề cơ mật hơn, bèn khẽ gật đầu rồi lặng lẽ lui ra ngoài đợi.

Người áo xanh cầm đũa gắp một miếng thịt dê trụng vào trong nồi lẩu sôi, rồi

chấm vào chén gia vị cho vào miệng, vừa nhai vừa hỏi:

- Đám người Hoa Đáng đã đến rồi, phỏng chừng mấy ngày nữa sẽ liên lạc vớihọ Dương. Sự nghiệp đồ long cấp bách vô cùng, con ưng đó hiện thế nào rồi?

Du viên ngoại mỉm cười đáp:

- Yên tâm, gần đây hắn vẫn luôn hoạt động trong vùng Bình Thuận; nhưng một

khi nhận được tin tức, đội khoái mã khinh kỵ chỉ trong nháy mắt sẽ có thể tới ngay.

Ha ha! Bọn chúng cũng rất quan tâm, chắc chắn chúng sẽ tới! Không cần lo lắng!

- Ừ!

Người áo xanh gật đầu hài lòng, rồi nói tiếp:

- Quan trọng nhất là người mở ải không để xảy ra chuyện, phải bảo đảm cho

con ưng đó vào thẳng trong cung, thăm rồng đen được ngọc châu(3). Nếu lỡ bị cầm

chân thì sẽ không dễ tiến hành được nữa.

Du viên ngoại sờ chiếc cằm ba ngấn, nói khẽ:

- Thảng như hai quân giằng co, đội kỳ binh nọ của giáo chủ...,

Nói đoạn hắn chém mạnh bàn tay núc ních của mình xuống.

Người áo xanh khẽ lắc đầu, cười nhạt:

- Nói xằng! Thời gian ít ỏi, ngươi cho rằng giáo chủ có thể khống chế hơn vạn

nhân mã đó ư? Cùng lắm tới lúc nguy cấp sẽ giết tướng xông vào, nhiễu loạn bố trí

của chúng. Lai lịch của giáo chủ vẫn chưa thể bại lộ, binh quyền cũng vậy!

Du viên ngoại cung kính đáp:

- Dạ, tôi đã hiểu rồi.

*****

Cửa sổ lầu gác đối diện lần lượt được mở ra. Từng người đẹp vận lụa hoa đính

ngọc, trang điểm lộng lẫy, vuốt tóc làm dáng xuất hiện sau cửa sổ. Trên con đường

phía ngoài cửa sổ tức thì vang ầm những tiếng reo hò hoan hô, trông còn náo nhiệthơn cả hội chùa.

Trông những mỹ nhân này, dáng điệu quyến rũ, dung nhan mỹ miều, nhưng

hành động như vậy thực giống như tuyển chọn hoa khôi trong nhà thổ vậy. Đường

đường là hào phú thế gia giàu nhất Đại Đồng mà lại bắt nữ quyến của mình xuất

đầu lộ diện(4) như thế này, lấy việc người qua đường bình phẩm đủ điều làm thú

vui thực là khó bề tưởng tượng. Ngay cả Dương Lăng cũng không khỏi nhìn thấy

mà lắc đầu.

Một gã đàn ông lực lưỡng vóc người cao to vạm vỡ, vận áo lông cáo trắng như

tuyết vừa cười lớn vừa bước lên lầu gác, vênh vang đắc ý. Những người con gái cực

kỳ quyến rũ nọ lần lượt ngồi xuống trước cửa sổ, hoặc đánh đàn tỳ bà hoặc khảy

cầm thổi sáo, mỗi người tự biểu diễn tài riêng của mình.

Dương Lăng còn tưởng rằng vị Vương Long này ắt là tay phú ông đã bị tửu sắc

gạn đãi hết tinh lực, không ngờ hắn ta lại là một gã đàn ông lực lưỡng tráng kiện

như vậy. Thân cao bảy thước ngang tàng, mặt vuông mày rậm đường hoàng oai

phong, thực rất có khí chất uy vũ. Đúng là không thể nhìn mặt mà bắt hình dong.

Tài nghệ của những cô gái ấy đích thực bất phàm, chỉ tiếc là đám đàn ông dưới

phố chỉ biết thưởng thức cái đẹp bên ngoài. Bọn họ đã nhìn ngắm thỏa thích lúc các

cô đứng trên cao nhìn xuống, ngực nhô eo thắt, da trắng thịt mềm; người thì lả lơi

đến tận xương, người lại xinh đẹp động lòng người, kẻ lại thanh lệ thoát tục, muôn

vẻ phong tình không chỉ có một, quả thực no mắt. Lúc này ngoại trừ những đại gia

lắm tiền ngồi trên tửu lầu đối diện, đám đàn ông ít tiền chỉ nghe thấy tiếng mà

không nhìn thấy người cho nên đương nhiên bọn họ cũng muốn đánh trống reo hò

một phen. Thế là dưới đường chợt vang lên những tiếng trống chiêng inh ỏi lấn át

cả âm thanh thánh thót.

Dương Lăng nháy mắt với Liễu Bưu đang đeo một túi vuông sau lưng cải trang

làm người bán dạo, Liễu Bưu hiểu ý bèn lặng lẽ đi xuống lầu. Dương Lăng không

hề liếc mắt đến những món ăn thịnh soạn bày ra khắp bàn, y khép hờ hai mắt nghĩ

về lời Liễu Bưu nói với mình hôm qua: "Vương Long này cực kỳ háo sắc, lấy việc

thu thập mỹ nữ làm thú vui. Mỗi khi gặp được con gái nhan sắc thật đẹp, ắt là hắnvung nhiều vàng ra dụ dỗ, hoặc hứa hẹn lợi danh nhằm lừa gạt cưỡng chiếm, nạp

vào trong nhà hưởng lạc thú."

Dương Lăng khẽ mỉm cười. Vừa rồi y đã nhìn thấy những mỹ nữ nọ, bọn họ

quả thực đều là những mỹ nhân vô cùng xinh đẹp, mỗi người lại mang một vẻ

phong tình riêng. Tuy nhiên cả bọn lại không có được một người con gái nào xinh

đẹp lanh lợi đáng yêu, hờn vui đều đẹp như Đường Nhất Tiên. Nếu như Vương

Long đã đam mê thu thập các loại mỹ nữ, vậy khi gặp được cô nàng, không lo hắn

sẽ không động lòng.

Chỉ một chốc sau, Liễu Bưu đã dẫn Đường Nhất Tiên thong dong bước lên lầu

gác. Phiên tử khắp lầu tức thì lặng im phăng phắc, như thể ngừng thở. Dương Lăng

cũng không khỏi nhìn nàng chăm chăm.

Y chỉ căn dặn Đường Nhất Tiên ăn vận chỉnh chu sao cho vừa thanh nhã thoát

tục khiến người ta vừa gặp liền sẽ khó quên, lại vừa phù hợp với thân phận tỳ nữ.

Còn về phần ăn vận thế nào thì Đường Nhất Tiên dù sao cũng từng là nha đầu

vì hy sinh cho cái đẹp mà uống thạch tín, tuy rằng đã quên hết chuyện cũ, song

cũng sẽ không mất đi ý thức thẩm mỹ. Dương Lăng lại không thông thạo thứ này

cho nên cũng không đưa ra thêm ý kiến gì, thế nên đây cũng là lần đầu tiên y trông

thấy Đường Nhất Tiên hoá trang.

Vốn tưởng rằng nàng sẽ trang điểm đơn sơ, áo đỏ váy xanh; không ngờ nàng lại

ăn vận hết sức mộc mạc, không chút màu mè. Ngay cả bộ váy lụa đơm nhiều màu

nhí nhảnh đáng yêu nọ cũng đã được thay.

Áo đen, váy đen, eo thon thít chặt.

Tay áo khe khẽ đong đưa, mái tóc dài đen nhánh thắt thành hai bím thả dài

xuống quá lưng, khuôn mặt láng mịn như trứng gà bóc, da trắng như tuyết, mắt như

chấm mực, cả người như ngọc tuyết đẽo thành, thanh nhã thuần khiết rất mực.

Người ta thường nói "gái muốn xinh, mặc đồ trắng", không ngờ nàng vận bộ đồ

đen ấy lại càng toát nên vẻ đẹp lạ thường khiến người ta chỉ nhìn một lần đã khóquên.

Đường Nhất Tiên ôm một chiếc đàn tranh, trên dây lưng giắt chéo một cây sáo

bằng trúc tía, thong thả bước lên trên lầu. Trông thấy ánh mắt như bị hớp hồn của

Dương Lăng, cô nàng không khỏi đắc ý mỉm cười tinh nghịch, liền đó lại trừng đôi

mắt hạnh lườm Chính Đức đang đứng sau lưng biểu ca trương bộ mặt Bát Giới ra

nhìn đăm đăm.

Chính Đức thấy vậy liền vội rất "hợp tác" mà đưa tay lên chùi miệng vờ như

mới vừa rỏ dãi, khiến Đường Nhất Tiên trông thấy phải bật cười phì. Nàng vén tay

áo đặt ngang chiếc đàn tranh lên bàn, rồi hấp háy mắt, liếc sang Dương Lăng dò

hỏi.

Vị tiểu thư đồng sau lưng Dương Lăng chỉ là "đồ trang trí", Dương Lăng cũng

không hề hy vọng hắn sẽ làm tốt bổn phận thư đồng của mình, cho nên y tự cầm

bình rượu rót một chén rồi khẽ gật đầu với Đường Nhất Tiên.

Đường Nhất Tiên mỉm cười, cúi đầu điều chỉnh dây đàn rồi lướt khẽ mười ngón

tay thon, một khúc nhạc đinh đang êm tai như dòng suối chảy phát ra từ những

phím đàn. Đường Nhất Tiên tấu một khúc nhạc xưa, làn điệu chất phác, giai điệu

tao nhã. So sánh với làn điệu mang nhiều phần lả lơi của "Thập nhị cẩm bình" bên

lầu đối diện thì như sen nở trong bùn, trong trẻo mà không lẳng lơ.

Dương Lăng nhón tay nâng chén rượu, mỉm cười. Đây chính là "ý nghĩ khác

thường", "cờ riêng một cõi". Nếu đặt nàng vào trong các buổi tranh tài ở thời hiện

đại, một tuyển thủ thú vị và đặc biệt như vậy nhất định sẽ do dụng tâm khéo léo mở

cho mình một con đường riêng biệt mà được giám khảo cho thêm điểm.

Điệu nhạc được cất lên, tiếng ca trong vắt êm tai từ trên lầu thong thả vọng ra

ngoài.

"Xưa làm chim khách hồng trần, nay độ duyên tiên giới. Sương mát rửa đầu

trần, mây khôn xanh rìa cánh. Tiếng đầu chim vỗ cánh, tiếng hai xây cầu kiều, tiếng

ba Chức Nữ lại, sóng gợn sâu trong mây... Có ai đang chạy đến, gió nổi giữa cầu

mây, võ vàng trông tiều tụy, mắt đẫm lệ nhìn nhau... Tương phùng như giấc mộng,nguyện say trong giấc mơ, cùng anh chung giấc mộng, tỉnh lại đã sang năm."

(*: bài hát này kể về sự tích Ngưu-lang Chức-nữ)

Làn điệu cổ xưa kết hợp với lời thơ tao nhã, lại được cất lên bởi giọng hát lay

động lòng người của nàng nên nghe càng thêm hay. Bài hát vừa xong, không chỉ

toàn bộ mỹ nữ ở đối diện đứng dậy đưa mắt nhìn sang bên này, mà ngay cả vị

Vương đại lão gia vóc dáng cao to nọ cũng chạy đến bên cửa sổ vịn song nhìn sang.

Người dưới lầu chỉ nghe thấy tiếng mà không trông thấy người, nhưng cũng

đoán ra có người đang chèn ép thói kiêu ngạo của Vương Long. Bọn họ cảm thấy sẽ

có kịch hay để xem, chi bằng mình châm thêm dầu vào lửa thế là lập tức reo hò

khen hay. Thanh thế ấy tức thì áp đảo hoàn toàn "Thập nhị cẩm bình" bên lầu đối

diện.

Nhắm mắt thưởng thức giai điệu xong, Dương Lăng mở mắt ra, mỉm cười:

- Xưa làm chim khách hồng trần, nay độ duyên tiên giới... Tiểu Tiên à! Giọng

hát của em, tướng mạo và dáng người của em đều đáng yêu như chim hỉ thước

trong mây vậy! Tuy không có cái oai khi phượng hoàng múa, vẻ đẹp của chim công

khi xoè đuôi, nhưng thực hiếm có ở đây.

Đoạn y liếc nhìn sang mười hai "bức gấm" đẹp như mận như đào ở phía đối

diện rồi khẽ thở dài:

- Thế giới ngày hôm nay thực sự hơi lắm phượng hoàng.

Đường Nhất Tiên bị ngữ khí tròng ghẹo của y trêu bật cười phì, vội đưa tay lên

che miệng song vẫn cười duyên dáng:

- Biểu ca thật không có khẩu đức gì cả! Bao nhiêu đại mỹ nữ bị anh nhìn, còn bị

anh nói lời độc địa.

Chính Đức cũng thở dài bảo:

- Đó mà là phượng hoàng gì chứ, chỉ là một đám gà kiểng...- Hừ!

Đường Nhất Tiên liền sầm mặt trừng mắt với hắn, mắng:

- Tiểu tử ngươi càng không có khẩu đức!

Hoàng đế Chính Đức đảo mắt đáp lời:

- Nhưng mà tôi có chính đức(*).

(*: cũng có nghĩa là phẩm chất chính trực)

- Cái gì?

Đường Nhất Tiên nghe không hiểu, liền hỏi dồn.

Chính Đức bèn vội chuyển đề tài, cười nhỏ bảo:

- Nhất Tiên cô nương! Nếu cho tôi nói thì theo tôi, cô là cô, không cần phải bắt

chước làm phượng hoàng, càng không cần giống như chim công gì cả.

Rồi hắn nhìn Đường Nhất Tiên thật sâu, buông từng chữ:

- Cho dù là một con hỉ thước nho nhỏ trong mây, cô vẫn sẽ áp đảo phượng

hoàng, khiến muôn chim quy phục như thường!

Câu này từ miệng Chính Đức thốt ra tất nhiên đầy ngụ ý sâu xa. Đang ngồi mé

ngoài cùng của tửu lâu, Trương Vĩnh nghe xong liền rúng động toàn thân. Đám thị

vệ chung quanh cũng đều xuất thân từ đại nội, hiển nhiên hiểu rõ ý trong lời của

Chính Đức. Nhất là Chính Đức xưa nay vẫn hi hi ha ha không chút nghiêm chỉnh

nhưng lúc này ngữ khí lại nghiêm túc vô cùng. Ánh mắt bọn họ nhìn về phía Đường

Nhất Tiên lập tức khác xưa.

Đường Nhất Tiên lại không hiểu ẩn ý trong lời của hắn, còn tưởng tên tiểu thân

binh này lại đang vuốt đuôi mình, nịnh bợ Dương Lăng, thế là không khỏi chun

mũi, làm mặt xấu với hắn. Rồi nàng uyển chuyển đứng dậy, rút cây sáo trúc được

thít chặt từ bên chiếc eo thon thon đặt lên môi thổi.Được nghe luật vần ưu nhã của khúc nhạc xưa, lắng nghe âm điệu tuyệt vời réo

rắt của tự nhiên, một thư sinh anh tuấn nho nhã, một tiểu thư đồng áo xanh mũ dưa

thanh tú, một tiểu tỳ áo váy đen tuyền dung nhan mỹ lệ, một cửa sổ một bầu rượu,

trông như một bức tranh. Những mỹ nữ bên lầu đối diện không kiềm được mà đều

nhìn đến ngây dại, ánh mắt ái mộ lưu luyến trên khuôn mặt của Dương Lăng và

Chính Đức khôn thôi.

Cổ họng của vị Vương đại tài chủ Vương Long giần giật, chợt hắn chụp lấy

chiếc chén vàng dốc rượu uống ực, rồi chùi chòm râu xồm, ánh mắt nhìn chằm

chằm sang bên ấy.

Đường Nhất Tiên phùng má thổi tiêu, đôi mắt to biết nói dần lộ ra vẻ ranh

mãnh. Nàng liếc Dương Lăng rồi lại đắc ý liếc sang Chính Đức, xoay trọn một vòng

trên lầu. Trong lòng Dương Lăng máy động, y chợt nghĩ đến điều gì đó.

Quả nhiên, Đường Nhất Tiên đặt sáo thổi ngang, lúc này hai tay dần dần tách

sáo ra khỏi môi nhưng môi vẫn hơi chúm lại, tiếng sáo vẫn du dương không dứt.

Thanh sắc, âm điệu vẫn giống y như trước. Nàng dùng khẩu kỹ giả tiếng sáo khiến

người nghe không thể nào phát hiện ra sơ hở, càng khó chính là ngay khi sáo tía rời

môi, khẩu kỹ thế vào mà tiếng sáo vẫn liên tục và trôi chảy như vậy.

Thị vệ quanh lầu suýt nữa thì đã buột miệng khen hay, thế nhưng người con gái

này nào để dành cho bọn họ biểu thị sự tán thưởng? Thế là lời ra đến bên miệng lại

bị nuốt trở vào, có điều ai nấy đều phấn khích đến độ mặt mũi đỏ bừng. Chính Đức

đang ngắm đến ngẩn ngơ, nếu không ắt đã dẫn đầu đám thị vệ mà hò hét om xòm

rồi. Chỉ có Dương Lăng sớm đã đoán ra, không kiềm được mà khẽ vỗ tay, mỉm cười

gật đầu với nàng.

Lúc còn ở "Thì Hoa quán", mỗi khi Đường Nhất Tiên biểu diễn đến tuyệt kỹ

này, đám tửu khách đều reo hò khen giỏi, reo to nhất đương nhiên là những nam

bộc được xếp trà trộn vào đám khách để hâm nóng bầu không khí. Lúc này tuy

không có tú ông phụ hoạ, nhưng Vương Long đứng bên lầu đối diện trông thấy màn

này liền khiếp sợ như thấy người trời, hắn đã vỗ mạnh vào thành cửa sổ kêu lớn:- Hay! Thực là kỹ xảo diệu kỳ!

Màn này càng khiến hắn muốn thu nạp nàng hơn. Phải biết vị tiểu cô nương này

chẳng những cực kỳ xinh đẹp, tài sắc vẹn toàn, mà hiếm ở chỗ là không ngờ nàng ta

lại có khẩu kỹ cao minh như vậy. Di Lặc giáo giả thần giả quỷ lừa gạt dân quê,

trong các loại ảo thuật ấy có một đạo cụ quan trọng không thể thiếu ấy là khẩu kỹ.

Thảng như hắn thu nạp được nàng vào dưới trướng, há chẳng càng làm tăng thêm

thực lực phe mình?

Đường Nhất Tiên nghe thấy đối tượng mình định dùng sắc để dụ dỗ nay cật lực

phối hợp như vậy, làn thu ba liền đưa về phía hắn cười xinh rồi giắt sáo vào bên

hông, ôm cây đàn tranh như muốn lui xuống lầu. Vương Long thấy vậy liền gọi:

- Cô nương khoan đã! Chờ chút! Chờ chút!

Hắn gấp đến độ không thể chờ xuống lầu vòng ra cửa hông để đi ra ngoài, mà

giục quản gia mang thang lại, rồi leo thang xuống bờ tường sau, dẫn hai tên hộ vệ

thân hình cường tráng đi về phía căn lầu nọ.

Chính Đức sáp đến cạnh Đường Nhất Tiên, thấp giọng cười nói:

- Con ong mật đã bị đại tiểu thư cô thu hút đến đây rồi. Hãy xem chốc nữa tôi

sẽ đập hắn một phát chết như thế nào nhé!

Đường Nhất Tiên hừ mũi, giọng xem thường:

- Với ngươi hả? Có thấy vóc người của hắn chưa? Cẩn thận người ta đập cho

ngươi một phát dính vào tường. Thật tội nghiệp, ta còn phải tốn sức bóc ngươi

xuống đấy!

Chính Đức nhìn vẻ nửa hờn nửa giận cực kỳ xinh đẹp của nàng, nao nao trong

lòng bèn trêu:

- Lạ nhỉ, tôi là người thế nào của cô mà phải khiến cô giúp tôi dọn xác thế nhỉ?

Hề hề hề...Đường Nhất Tiên "ngây thơ" đáp:

- Việc đó hả? Bình thường khi thấy con mèo, con chó, con gà nè, mấy con vật

nho nhỏ mà bị chết ta cũng đều có lòng tốt đem chôn chúng hết mà!

- Cô...,

Chính Đức tức giận, hậm hực:

- Nếu tôi mà là Hoàng đế thì sẽ nạp cô vào cung rồi vứt vào lãnh cung, để cô

làm bạn với bốn bức tường, ngồi đó ngóng trời. Ha ha ha...

Đường Nhất Tiên liền trả đũa:

- Nếu ta mà làm nữ Hoàng đế, ta sẽ không mất nhân tính như ngươi đâu. Ta

nhất định sẽ nạp ngươi vào cung, hơn nữa còn sẽ cho ngươi theo cạnh ta suốt ngày.

Chính Đức mừng rỡ hỏi:

- Sao vậy? Muốn tôi làm Hoàng hậu của cô hả? Ha ha!

Đường Nhất Tiên nửa như cười nửa như không, đáp:

- Ta muốn ngươi làm tiểu thái giám bên cạnh ta đó, thấy đã đủ tốt với ngươi

chưa? Ha ha ha...

Thấy bọn họ trêu nhau đưa tình, Dương Lăng cũng cao hứng thay cho cả hai.

Được tiên đế tán thưởng và gửi gắm con thơ, hơn nữa vị vua trẻ này lại không

hề ra vẻ ta đây, đối đãi với y chân tình thân thiết, trong lòng Dương Lăng cũng đã

mang máng coi hắn là anh em tốt của mình. Đường Nhất Tiên là bạn tốt của hai vị

ái thê, lại nỗ lực hết mình vì y, hiện tại không chỉ Dương Lăng cáng đáng một danh

hiệu biểu ca, mà y thật sự cảm nhận được tình cảm máu mủ tình thâm, nên đương

nhiên mong nàng có hạnh phúc.

Tuổi tác Chính Đức xấp xỉ với nàng, tình đầu ý hợp. Nay Đường Nhất Tiên có

địa vị là biểu muội của xưởng đốc đại nhân thế mà lại có hảo cảm với một hiệu úynho nhỏ như vậy, rất có ý muốn được sánh duyên cùng hắn; điều này càng khiến y

thật lòng cao hứng cho bọn họ.

Loáng thoáng nghe tiếng bước chân lên cầu thang, Dương Lăng vội ho khan

một tiếng rồi bảo:

- Hắn đến rồi, cẩn thận một chút!

Chính Đức vội vụt lách ra sau lưng y. Đường Nhất Tiên cũng ôm đàn tránh ra

sau lưng Dương Lăng. Vương Lăng bước huỳnh huỵch lên lầu, vừa thấy Dương

Lăng liền hai tay ôm quyền, cười ha hả chào:

- Vị công tử đây khí độ bất phàm, không biết cao danh quý tính là gì? Hình như

không phải là người Đại Đồng thì phải?

Dương Lăng mỉm cười đứng dậy, chắp tay đáp:

- Tiểu đệ là Ngô Thứ Nhân ở Tô Châu. Nghe đại danh Vương viên ngoại đã lâu,

nghe báo hôm nay trên Hoa Lỗi nhai có hội "Thập nhị cẩm bình", tiểu đệ nhất thời

nổi hứng bèn mang gia nhân cùng đến thưởng thức. Lại nhất thời ngứa nghề nên đã

bảo tiểu tỳ cũng tấu một khúc nhạc trợ hứng. Nếu lỡ quấy rầy nhã hứng của Vương

viên ngoại, cũng mong viên ngoại chớ trách.

Vương Long vừa trò chuyện vừa lia cặp mắt gian ra sau lưng Dương Lăng,

nghe y giới thiệu xong liền ngẩn ra hỏi lại:

- Họ Ngô ở Tô Châu?

Đoạn hắn quan sát thấy Dương Lăng ăn mặc giản dị mà không dung tục, lại

thấy nhân phẩm của thư đồng và tiểu tỳ sau lưng y, không khỏi kích động hỏi:

- Không biết công tử có quen biết Ngô viên ngoại Ngô Tế Uyên, người giàu

nhất Tô Châu không?

Dương Lăng vội cung kính đáp:- Chính là bá phụ của tiểu đệ. Vương viên ngoại cũng quen với bá phụ tiểu đệ

ư?

Vương Long cười lớn đáp:

- Không quen, nhưng mà đại danh của Ngô lão thái gia giàu nhất Tô Châu thì ta

lại đã nghe từ lâu.

Vương Long là phú hộ giàu nhất Đại Đồng, không khởi nghiệp từ đất đai mà

phất lên từ buôn bán trong chiến tranh. Thâm tâm hắn thật sự không cho rằng tài

sản của mình kém hơn Giang Nam Ngô Tế Uyên, chẳng qua hai nơi xa cách nên

không cách nào đo đấu. Nhưng nhà họ Ngô là hào phú mấy đời, nếu luận thanh

danh thì thực hơn xa một người phú hộ mới phất như hắn.

Nghe Dương Lăng xưng là con cháu của phú hộ giàu nhất Tô Châu, hắn không

tiện ngang nhiên cướp người nữa, bèn cười hắc hắc nói:

- Ngô công tử! Giang Nam thế gia quả nhiên bất phàm à. Không ngờ tiểu tỳ

trong nhà lại có đẳng cấp như vậy, ái thiếp trong phủ Vương mỗ cũng thua xa.

Công tử đến phương bắc để buôn bán phải không? Vương mỗ là kẻ sảng khoái,

muốn thương lượng cùng công tử một việc. Đó là muốn xin công tử nhượng lại cặp

người ngọc sau lưng cho ta, không biết công tử thấy thế nào? Vương mỗ nguyện lấy

nhiều vàng báo đáp. Hơn nữa mọi ngành mọi nghề ở phương bắc Vương mỗ đều

nhúng tay vào, chúng ta đã kết giao bằng hữu thì sau này có chuyện gì công tử cứ

việc mở miệng; ta bảo đảm việc buôn bán của công tử sẽ hưng thịnh, tài nguyên

tuôn vào cuồn cuộn, trở thành người con cháu được Ngô lão thái gia ưu ái nhất. Ha!

Ha!

Thời ấy đừng nói là gia bộc thị tỳ mà cho dù là thiếp thất cũng có thể coi là

hàng hoá mà tùy ý bán cho người khác; còn con cháu thế gia phú hào thì chỉ những

ai biết phát huy tài năng lớn mới có thể được gia tộc trọng dụng. Vương Long tưởng

rằng mình đưa ra lời hứa hẹn hấp dẫn như vậy thì vị công tử thế gia này nhất định

sẽ vui vẻ đồng ý, cho nên nói xong liền vuốt râu cười tủm tỉm nhìn ra sau lưng

Dương Lăng, như thể đã là gia chủ của cặp tiểu tỳ, thư đồng trước mặt rồi vậy.Dương Lăng nghe vậy thì cười thầm. Tên này rõ ràng thèm thuồng Tiên Nhi,

còn muốn "mua cơm tặng chén" mà cho thêm Chính Đức vào, như thể muốn mua

một cặp gia nhân về trưng trước cửa vậy. Có điều không biết nếu như mình không

chịu đáp ứng thì vị đệ nhất vô lại Đại Đồng này sẽ ra tay cưỡng đoạt như thế nào

đây?

Dương Lăng vờ tỏ ra vẻ con cháu thế gia cao ngạo, trả lời bằng giọng không

vui:

- Đa tạ nhã ý của Vương huynh. Thật ra muốn tìm được một thị tỳ vừa ý để coi

sóc ăn uống ngủ nghỉ, khảy đàn cho đời thêm hương vị cũng không dễ. Thảng như

Ngô mỗ nhượng lại vì tiền, há chẳng khiến người ta chê cười? Chẳng lẽ Ngô gia

còn thiếu bạc hay sao?

Còn về phần buôn bán...

Y thoáng trầm ngâm, rồi tự phụ nói tiếp:

- Thiên hạ rộn ràng, ai nấy đều vì lợi. Chỉ cần giá cả phải chăng, có thể kiếm

được lợi, ai mà không thể buôn bán cùng?

Hai tên hộ vệ tướng như cột sắt đứng sau lưng Vương Long liền nhướng mày,

đạp mạnh chân đánh sầm, bước tới trước một bước. Dương Lăng hoảng sợ lui ra

sau, biến sắc:

- Các... các ngươi muốn làm gì? Thông phán Đại Đồng Vạn đại nhân đã kết

thông gia với Ngô gia ta đó!

Vương Long ngăn hai gã hộ vệ lại, ngắm nghía thư đồng tuấn tú và tiểu tỳ xinh

xắn đứng sau Dương Lăng. Vị tiểu tỳ nọ mặt như tranh vẽ lại kiêm kỹ nghệ vô cùng

cao minh, nếu như thu nạp được cô nàng thì thật sự sẽ trợ ích cho mình rất lớn.

Nhưng vị thư đồng đó xinh như ngọc sáng, lại hiếm thấy ở chỗ là trong vẻ thông tuệ

toát ra khí khái anh hùng bừng bừng; nếu mang anh bạn tuấn tú khó tìm này lên

giường làm luyến đồng bầu bạn, không biết sẽ tiêu hồn cỡ nào?Ngắm nhìn dáng vẻ của thư đồng anh tuấn cùng tiểu tỳ xinh đẹp này, Vương

Long chỉ cảm thấy dưới bụng nóng rần, miệng lưỡi khô khốc. Hắn đắn đo chọn lựa

hồi lâu mới hạ quyết tâm: mỹ nữ dễ tìm, còn một tiểu luyến đồng tuấn tú vừa ý như

thế thực khó kiếm, bỏ tiểu nha đầu đó vậy!

Thế là hắn cười lớn rồi nói với Dương Lăng đang "sợ chết khiếp":

- Ngô công tử chớ hoảng sợ! Hai cái tên đần này là người thô lỗ, không hiểu

phép tắc gì cả.

Đoạn hắn quay sang bọn chúng mắng:

- Cút sang một bên đi, đừng làm Ngô công tử sợ!

Rồi quay đầu lại tươi cười:

- Nếu đã như vậy thì quân tử không chiếm lợi kẻ khác. Tiểu nha hoàn này

Vương mỗ cũng không tiện mở miệng. Có điều...

Ánh mắt dâm tà của hắn quét lên quét xuống Chính Đức trong bộ trang phục áo

xanh mũ dưa, rồi cười ha hả nói thẳng:

- Nếu như Ngô công tử yêu quý thị nữ xinh đẹp này như vậy, vậy ắt là không

thích nam phong rồi. Điều kiện của Vương mỗ không đổi, công tử nhượng lại tiểu

thư đồng này cho tại hạ, thế nào?

"Thích nam phong?" Dương Lăng choáng người một lúc rồi mới hơi định thần

lại. Y vô thức quay đầu nhìn về sau lưng, chỉ thấy Chính Đức mặt đỏ bầm như sung

huyết, Đường Nhất Tiên thì đang cúi đầu cười khúc khích. Dương Lăng quay đầu

lại nhìn Vương Long không biết nên khóc hay nên cười, nhất thời ấp úng không biết

đáp trả thế nào.

Vốn dĩ mình định dùng Đường Nhất Tiên mê hoặc Vương Long, sao tên Vương

Long này lại bị Chu Hậu Chiếu lôi cuốn thế này? Vốn mình dự tính ép cho Vương

Long phải giở trò cưỡng đoạt, sau đó tìm cớ lục soát phủ đệ của hắn. Tìm được

chứng cứ thì thôi, không tìm được chứng cứ thì với tội danh xúc phạm khâm saicũng sẽ không sợ có người dám xúi giục quan viên hặc tội mình. Ai dè...

Mặc dù thời đại này thích nam phong là chuyện thời thượng, người làm luyến

đồng sau này cưới vợ sinh con cũng vẫn sẽ không bị người khác kỳ thị, nhưng đó là

người dân bình thường à. Đương kim Hoàng thượng giả làm thư đồng thì còn có thể

nghe được, chứ bảo hắn cải trang làm luyến đồng gì đó thì... Sống trong yên ổn phải

biết suy nghĩ đến ngày nguy nan à nha! Cái tội danh nhục mạ Thánh thượng này,

vạn lần mình gánh không nổi đâu.

Luồng suy nghĩ của Dương Lăng diễn ra nhanh chư chớp. Y đang định trở mặt,

lộ chân tướng khâm sai rồi sử dụng khẩu cung của người mà y bố trí sẵn để lục soát

phủ đệ của Vương Long thì ở bàn bên, Trương Vĩnh đã nổi giận đùng đùng đập bàn

đứng dậy, mắng to:

- Hỗn láo! To gan! Láo xược! Ơ... Vô sỉ! Đúng là phong hóa suy đồi, lòng

người thua xưa!

Vốn lão mắng được nửa chừng thì trông thấy Chính Đức đưa mắt ra hiệu cho

mình, mới giật mình sực nhớ danh phận đức vạn tuế không thể để lộ ra ngoài thế là

lão bèn đổi lời, vờ như hủ nho đang đau lòng xót dạ cho luân thường đạo lý đang sa

sút.

Đối với vị đại thiếu gia của thế gia Giang Nam thì Vương Long còn hơi úy kị,

chứ còn lão già ăn vận như thương nhân bình thường như thế này thì hắn có gì phải

kiêng kị? Hắn cười gằn sải bước xông tới trước mặt Trương Vĩnh, chọc ngón tay

vào ngực lão, cất giọng ngạo mạn:

- Cái con thỏ già không râu này, đánh cái rắm gì thế?! Ông đây muốn chơi gái

thì chơi gái, muốn chơi luyến đồng thì chơi luyến đồng, bởi vì ông đây có quyền,

ông đây có tiền! Còn như mày, như nó, như mấy đứa nghèo kiết này, hãy ngoan

ngoãn cúp đuôi về nhà mà tự chơi một mình đi!

Nói đoạn hắn thuận tay đẩy mạnh. Tuy Trương Vĩnh từng luyện qua võ nghệ,

song thứ nhất là lão không kịp đề phòng, thứ hai phía sau khuỷu chân chính là chiếc

ghế dài, lão chưa kịp nghĩ tới việc đứng tấn mã bộ thì đã loạng choạng lùi ra đằngsau, vấp phải băng ghế giáng mông xuống đất.

Vương Long cười ha hả, rồi vừa giả giọng vừa cong tay múa, hát một khúc dân

ca:

- Ngã là ngã cái chỏng vó, đứng không được thì bò đi,

Chi bằng ngươi hãy cải trang làm con rùa nhỏ, ò dưới đũng quần Vương gia gia

ta thôi.

Đã bao giờ Trương Vĩnh chịu phải nỗi sỉ nhục như thế này? Lão hiện là thống

lĩnh mấy vạn đại quân Kinh doanh, là nhân vật thân cận của Hoàng thượng, thế

mà...! Tiếc là tuy lão tím ruột bầm gan nhưng đã quen nghe theo mệnh lệnh của

Chính Đức nên đành vẫn ráng nhịn, không dám ra oai đúng với chức vị của mình.

Vương Long dương dương tự đắc quay trở lại bên cạnh Dương Lăng, vừa nghĩ

nếu như tên thiếu gia này vẫn không chịu nhượng luyến đồng thì mình sẽ lấy ngọc

bội tùy thân vờ tặng cho thư đồng của y. Cái tên Ngô công tử không biết điều này ắt

sẽ ra mặt ngăn cản, mình sẽ thuận tay vất đi rồi ép y phải bồi thường; đến lúc đó

mình hét giá trên trời, còn lo gì y sẽ không buông tên tiểu đồng tuấn tú ấy ra?

Hắn nào ngờ Dương Lăng không dám để cho Chính Đức ra ngoài lại bị kẻ khác

bỡn cợt. Không tra xét phủ của Vương Long cũng không sao, nhưng nếu bị hặc tội

danh báng bổ quân vương là điếm đực thì thực không ai có thể vin cớ cải trang vi

hành mà giải thích cho xuôi tai được. E rằng ngay cả Hoàng thái hậu cũng sẽ nhảy

ra lấy đầu y mất thôi.

Nên vừa trông thấy tình cảnh như vậy, Dương Lăng lập tức quay đầu nói nhỏ

với Đường Nhất Tiên mấy câu, rồi quay người lại quát:

- Dám xúc phạm khâm sai! Bắt hắn lại cho ta!

Ngũ Hán Siêu đang cải trang làm tửu khách lập tức lẻn nhanh đến trước mặt

Vương Long như một con báo. Vương Long cả kinh, nhưng hắn vừa mới vung tay,

Ngũ Hán Siêu đã vặn khớp tay hắn, nghe "rắc" một tiếng, khớp tay hắn đã bị tháorời. Liễu Bưu đứng phía sau xông tới đá vào khuỷu gối hắn, mũi giày của Liễu Bưu

được bọc sắt nên Vương Long lãnh cú đá này đau đớn vô cùng, hắn khuỵu gối

"cộp" xuống đất.

Với võ công của mình, tối thiểu hắn cũng có thể đấu hơn hai mươi hiệp với Ngũ

Hán Siêu; chẳng dè bị đánh bất ngờ không kịp đề phòng nên chỉ một chiêu đã bị chế

ngự. Cánh tay đã bị Liễu Bưu đè quặt ra sau lưng, trừ phi giãy mạnh cho gãy luôn

thì còn có thể sử dụng tay trái, bằng không hắn đừng hòng đứng dậy.

Thấy vậy hai tên bảo vệ của hắn cả kinh. Chúng vừa định xông lên, một "cây

cột sắt" còn to cao hơn bọn chúng đã chắn ngang. Bộ râu Trương Phi xòe ra như cỏ

bồng, Vương Đại Bổng Chùy nhếch to miệng cười nói:

- Không có đầu óc! Còn không chịu quỳ xuống!

Bọn chúng vừa thoáng sững người, lập tức "rèn rẹt" một loạt âm thanh ma sát ê

răng do đao rút ra khỏi vỏ vang lên khiến người ta sởn da gà, sáu bảy thanh đơn đao

mũi hẹp đã gác chéo lên cổ chúng.

Đường Nhất Tiên sáp lại gần Chính Đức, mày xinh mắt sáng tươi cười, che

miệng nói nhỏ với hắn:

- Thực mất mặt chết thôi!

Người ta khéo trang điểm ăn mặc cho đẹp, hao tâm tốn sức khoe khoang bản

lĩnh mà lại không khiến cho hắn ta thèm muốn bằng áo xanh mũ dưa của ngươi, hi

hi!

Vương gia là kẻ giàu nhất Đại Đồng. Được hắn rước về sẽ có mấy chục chị em

bạn dâu tốt bụng trang điểm lộng lẫy tiếp đón ngươi rồi. Nếu như ngươi muốn lấy

chồng, ta sẽ xin biểu ca giúp cho ngươi.

Thâm tâm Chính Đức luôn mong mình là một bậc trượng phu anh hùng uy vũ,

nay hắn lại bị Vương Long ngắm nghía một cách dâm dật trước mặt người con gái

mình ngưỡng mộ nhất trong lòng, lại bị gã ta coi mình là luyến đồng trước biết baothị vệ như vậy, quả thực hắn đang xấu hổ và phẫn nộ vô cùng. Nhưng sau khi nghe

Đường Nhất Tiên trêu chọc, hắn lại chỉ cảm thấy tức cười, thế là một bụng nộ khí

bèn tan theo mây khói.

Hắn lấy dũng khí khẽ thổ lộ:

- Mấy chục chị lớn xinh đẹp không bằng một Tiên Nhi nho nhỏ đáng yêu. Tôi

thà nguyện ở lại nhà họ Dương làm hiệu úy, chỉ mong có thể thấy được dáng vẻ

xinh xắn của nàng.

Đường Nhất Tiên bĩu môi, khẽ "xí" một tiếng. Đoạn ngẫm nghĩ không ngờ một

người yêu chuộng vẻ đẹp hết mực như mình lại không bằng một đứa con trai; thế là

nàng nỗi lòng oán hận, giơ chiếc giày cong lên đạp vào chân Chính Đức một cái,

rủa:

- Ai bảo ngươi đẹp hơn ta, đạp cho chết ngươi nè!

Chính Đức cắn răng nhếch mép, chân thì đau mà lòng thì ngọt ngào.

Đám mỹ nữ bên cửa sổ lầu đối diện đang háo hức nhìn sang bên này, trông

ngóng Vương Long dẫn về cho bọn họ một "tỷ muội" dễ thương tuấn tú. Tuy cách

xa không nghe biết bên đó nói gì, nhưng vừa trông thấy cảnh đao thương cùng vung

lên thì không khỏi kêu ré lên.

"Mười hai bức bình phong" đồng thanh ré lên, khí thế ấy thật như dời non lấp

bể, vang dội núi sông. Dân chúng trong ngõ chỉ nghe bọn họ thét to "có ăn cướp",

"bắt lấy cướp" song lại không biết đã xảy ra chuyện gì, có mấy kẻ nhiều chuyện

định xông lên lầu nhìn. Lúc đó, "tửu khách" dưới lầu vừa nghe thấy tiếng động liền

biết trên lầu đã ra tay, lập tức ai nấy đều rút đao, lắp nỏ, sát khí đằng đằng xông vọt

ra. Đám người định xông vào tửu lầu thấy vậy vội phóng ngược trở ra, tốc độ còn

nhanh hơn lúc xông vào gấp bội.

Vương Long sững sờ, la lớn:

- Ngươi... ngươi chính là khâm sai Dương đại nhân? Làm sao mà ta biết đạinhân cải trang đến đây, kẻ không biết không có tội. Thảo dân lỡ xúc phạm đại nhân,

thiết nghĩ rót rượu bồi tội cũng được rồi, ngài lấy cớ gì để bắt ta? Thảo dân không

phục!

Dương Lăng cười nhạt bảo:

- Ngươi xúc phạm khâm sai, đó là tội thứ nhất; tự xưng là vương gia, vượt quá

khuôn phép, đó là tội thứ hai. Bản quan không được bắt ngươi sao?

Vương Long ngạc nhiên, biện bạch:

- Xúc phạm khâm sai, việc đó... thì cũng được đi. Nhưng thảo dân tự xưng

vương gia lúc nào chứ?

Dương Lăng hơi nhếch miệng cười hiểm ác, bảo Đường Nhất Tiên:

- Tiên Nhi, em nói đi!

- Dạ, thưa đại nhân!

Đường Nhất Tiên mỉm cười khoe má lúm đồng tiền dạ một tiếng, rồi tay trái

chống nạnh, tay phải chụm thành hình hoa lan, ánh mắt đong đưa, mặt tươi như hoa,

cất tiếng hát:

- Ngã là ngã cái chỏng vó, đứng không được thì bò đi,

Chi bằng ngươi hãy cải trang làm con rùa nhỏ, bò dưới đũng quần bản vương

gia thôi...

Dương Lăng cười nhạt nói:

- Nếu như ngươi là con hát, lời hát là về tiền triều thì cho dù là cải trang làm

Hoàng đế đi nữa, bản quan cũng sẽ không trách ngươi. Thế nhưng ca từ là do ngươi

sáng tác, ngươi lại là thân hào một phương, cả gan tự xưng vương gia, đó còn

không phải là đại nghịch bất đạo ư?

Đoạn y vuốt cằm, nham hiểm cười nói:- Cho dù là con hát hoá trang lên đài cũng không dám sắm vai vương tộc bản

triều. Người ta nói no cơm ấm cật dậm dật khắp nơi, phải chăng Vương viên ngoại

đang dậm dật mơ tưởng quyền bính?!

Vương Long há hốc miệng, một lúc lâu sau mới hét lớn một tiếng nhào người

tới phía trước nhưng lập tức bị Liễu Bưu đè xuống. Mắt trợn tròn như sắp lồi ra, hắn

quát:

- Ta và ngươi không thù không oán, vì sao ngươi hại ta? Ta nói là Vương gia

gia, có nói là bản vương gia bao giờ? Ai có thể làm chứng đây? Quan binh của

ngươi ư? Ha ha ha...

Tiếng cười của Vương Long chưa dứt, khắp tầng hai tửu lầu chợt có bảy tám

chục người đồng loạt đứng dậy, có nam có nữ, có già có trẻ, tất cả đồng thanh:

- Chúng ta làm chứng!

Chú thích:

(1) trích từ thành ngữ "dục gia chi tội, hà hoạn vô từ" (có nơi nói gốc nó là "dục

gia chi tội, kỳ vô từ hồ") nghĩa là nếu muốn đổ tội cho người thì lo gì không kiếm

được cớ.

(2) kiểu dáng tương tự như hình, khác màu và hoa văn (NGƯỢC VỀ THỜI MINH

Nguyệt Quan

www.dtv-ebook.com

Chương 204: Gõ Cửa Cầu Kiến

Vương Long bị trói gô bằng gân bò ngâm nước siết rất chặt, chỉ cần hắn hơi

vận sức là có thể bị siết cho rách áo tróc thịt. Hắn quỳ tại chỗ, ánh mắt dại hẳn đi,

nhìn đại công tử của Ngô phủ Tô Châu lắc người một cái liền hoá thành khâm sai

đại lão gia, thật khóc không ra nước mắt.

Trong khi đó, Trương Vĩnh – kẻ bị hắn nhạo báng là "con thỏ già không râu",

giờ trông thật như một con thỏ: khom người ngồi trên ghế, cặp mắt đỏ kè nhìn hắn

chằm chằm.

Trương Vĩnh đã cởi áo ngoài, khoe bộ mãng bào đai ngọc chỉ vàng màu xanh

thẳm. Gần trăm tửu khách trên lầu cũng như làm ảo thuật, đã hoá thành các vị quan

lão gia giắt kiếm đeo đao, còn một số người không "hoá thân" khác hiển nhiên là

đóng vai "nhân chứng" và "khổ chủ", chỉ trong nháy mắt "Hâm Thịnh lâu" đã biến

thành công đường bộ Hình.

Nếu mà lúc này lại có thêm tiếng trống chiêng inh ỏi thì thực sẽ là một vở hài

kịch hoang đường.

Người được giao sắm vai "con gái nhà lành" bị Vương Long cướp đoạt đem về

phủ rồi về sau lại bị hắn vứt bỏ thật sự đã đạt đến cái tuổi U40, khiến cho ngay cả

Dương Lăng cũng nhìn không nổi. Y thở dài, thầm nghĩ: "Sớm biết vậy chi bằng để

Trình Tiểu Vân chuyên sắm vai hoa đán của gánh hát rong nọ giả trang làm khổ chủ

cho rồi. Hai bà bác này thật sự là... chà!"

Dương Lăng loay hoay không yên trên ghế, hỏi nhỏ:

- Liễu Bưu! Ngươi kiếm hai người này ở đâu ra vậy? Có được không đó?

Liễu Bưu thiểu não đáp:- Đại nhân, con gái nhà lành không chịu đóng vai này, hơn nữa nếu dùng người

địa phương lại sợ bị người ta phát hiện, cho nên ti chức mới đi thâu đêm mời hai bà

nương (phụ nữ có đã chồng) chuyên lo cơm nước cho gánh hát Mao gia ở Hoài

Nhơn. Xong việc cho tiền rồi lặng lẽ đưa đi, an toàn lắm. Đại nhân cảm thấy không

thích hợp sao?

Dương Lăng cười khổ bảo:

- Thôi được! Dùng tạm vậy!

Thứ Dương Lăng cần chỉ là một cái cớ, một cái cớ để có thể lục soát Vương

phủ mà sau đó, cho dù không tìm thấy chứng cứ gì thì bọn y cũng không rơi vào thế

bị động, mọi việc sẽ trở nên đơn giản. Hai bà bác diễn rất đạt, khóc lóc kể lể đã bị

cái tên Vương Long mặt người dạ thú này bội tình bạc nghĩa như thế nào, tình tiết

rất cường điệu. Họ lại đồng thanh báo rằng trong phủ hắn còn giấu nhốt dân nữ bị

cướp về, xin thanh thiên đại lão gia tra rõ.

Đã là "Thanh Thiên đại lão gia", đương nhiên Dương Lăng phải "tra cho rõ". Y

nghe xong thì cười nhạt:

- Vương Long! Bản quan phụng chỉ tuần sát dân tình và quân sự biên quan, nay

đã nhận cáo trạng đương nhiên sẽ phải tra rõ ngọn ngành. Bây giờ ta sẽ phái người

mang hai vị khổ chủ này đến phủ đệ của ngươi tra khám. Nhược bằng có chứng cứ,

hai tội của ngươi sẽ cùng bị xử phạt, muốn chạy cũng chạy không thoát. Thảng như

không có chuyện đó, bản quan sẽ trị bọn họ tội vu cáo, chỉ xét phạt ngươi tội xúc

phạm khâm sai mà thôi. Ngươi thấy bản quan quyết định như vậy là đã công bằng

hay chưa?

Vương Long cười thảm một tiếng rồi nhắm mắt lại không nói gì.

Hắn đâu có ngu, sao không nhìn ra Dương Lăng đang kiếm bừa tội trạng, rõ

ràng là có dụng tâm khác!

Cho dù trong phủ vàng bạc chất thành núi, mỹ nữ nhiều như mây, hắn cũng

không sợ Dương Lăng tra khám. Duy chỉ có số quân giới bán thành phẩm được giấutrong đại viện phía tây nọ, nếu bị lục xét thấy thì tội danh thông đồng với địch này

đủ để bị tịch biên gia sản, chém đầu cả họ.

Còn tế đàn Di Lặc giáo trong mật thất ngầm bên dưới sân sau nữa! Nếu cũng bị

khui ra, hắn sẽ lại vướng thêm một tội lớn là âm mưu tạo phản. Hắn biết rất rõ sự

thảm khốc của luật hình triều đình đối với kẻ âm mưu tạo phản. Những thứ như

điểm thiên đăng (quấn vải dầu, trói vào cột rồi đốt sống), ngũ mã phanh thây, lăng

trì, móc ruột, lột da, ... đều cực kỳ thê thảm, khiến người ta hận không thể chết

ngay. Nay không biết mình đã để lộ sơ hở ở chỗ nào, nếu như Dương Lăng đã

chuẩn bị sẵn mà tới đây thì dựa vào những phiên tử Nội xưởng này, lẽ nào bọn

chúng lại khám xét không ra?

Hỏi xong câu ấy, Dương Lăng cũng không khỏi cảm thấy xấu hổ. Thấy Vương

Long nhắm mắt không đáp, y bèn khoát tay ra lệnh; Liễu Bưu ôm quyền hành lễ,

xoay người đi ngay. "Con thỏ già mắt đỏ" nọ chợt búng người nhảy ra khỏi ghế,

nghiến răng:

- Ta đi theo ngươi!

Sức bật kinh người của lão khiến cho Dương Lăng giật nảy mình, xem ra thái

giám quả thật quá đàn bà, thù dai quá đi. Chẳng phải chỉ bị người ta đẩy ngã, chửi

là "con thỏ già" thôi sao? Tôi còn bị Hồng Nương Tử mắng cho là phế vật, bắt nhốt

trong hang mấy ngày đây này mà có nổi khùng như vậy đâu?

Trương Vĩnh đã xung phong đảm nhận, y cũng không tiện ngăn cản bèn để mặc

Trương Vĩnh đi theo Liễu Bưu điểm danh đám binh mã đã chờ sẵn trong một con

hẻm khác, hùng hổ xông tới Vương phủ.

Bụng đầy lo lắng, Dương Lăng thong thả bước từng bước trên lầu, chỉ lo không

tra xét được gì. Cho dù là trong quan trường hay ở địa phương, Vương Long đều là

nhân vật nổi tiếng của Đại Đồng, tuy rằng Nội xưởng đã thêu dệt tội danh cho hắn

nhưng chung quy vẫn là đuối lý.

Đường Nhất Tiên không rõ thiệt hơn trong đó, tiểu Chính Đức thì lại không sợ

lợi hại trong đó. Hai đứa nhóc không biết mùi vị sầu lo đang ngồi một bên to nhỏthì thầm, như một cặp người ngọc ngồi dựa vào nhau khiến người ta tha hồ mà

tưởng tượng.

Dương Lăng lắng tai nghe, hoá ra hai người đang thảo luận về âm nhạc.

Chính Đức khoe với Đường Nhất Tiên:

- Cô khảy đàn thổi tiêu đều hay, song trình độ âm nhạc của tôi cũng không kém.

Lần này đến biên quan được chứng kiến khung cảnh mâu thương giáp ngựa, đại

mạc sông dài, lòng tôi rất cảm xúc. Tôi muốn sáng tác một bài hát, tên cũng đã nghĩ

ra rồi, đó là "Sát biên nhạc", nhằm cổ vũ lòng quân, giết sạch bọn giặc cướp xâm

lăng biên giới!

Đường Nhất Tiên chống hai tay trên ghế dài, đôi chân đong đưa, tò mò hỏi:

- Giai điệu như thế nào, ngươi hát thử cho ta nghe coi.

Chính Đức cười gượng gạo đáp:

- Giai điệu hả... Tôi vẫn chưa nghĩ ra, đợi tôi nghĩ ra rồi sẽ hát cho cô nghe.

Đường Nhất Tiên bật cười, phê phán:

- Cóc nuốt ông trời rồi!

Chính Đức ngạc nhiên hỏi:

- Ý cô là sao?

Đường Nhất Tiên nghiêng đầu cười tinh nghịch đáp:

- Huênh hoang khoác lác!

* * *

Lúc này trong Vương phủ tiếng khóc rung trời, gà bay chó sủa; từng nhóm quan

binh xông vào trong phủ, tựa như đổ nước lạnh vào nồi nước đang sôi, tức thì nồivỡ! Trăm họ tranh nhau chạy ra đầu phố, vây quanh nhà họ Vương chật như nêm,

phố Hoa Lỗi đã nghìn nghịt đầy người, náo nhiệt vô cùng.

Trong lúc hỗn loạn, hai gã đàn ông trung niên vận áo da vội vã tiến vào trong

Thái Bạch cư, đi thẳng lên phía ngoài căn nhã phòng đối diện cửa sổ trên lầu hai.

Thanh niên đứng canh ngoài cửa nghe xong lời tường thuật của hai người liền vội

bảo một người đứng canh cửa, còn mình thì dẫn người còn lại lách vào.

Du viên ngoại cùng người áo xanh ngồi trước cửa sổ, đang căng thẳng quan sát

tình hình bên phía đối diện. Nghe tiếng gõ cửa, quay đầu lại trông thấy người vận

áo da thì Du viên ngoại vội hỏi ngay:

- Tiểu Sở đã nghe ngóng được gì rõ ràng chưa? Bên nhà họ Vương đã xảy ra

chuyện gì vậy?

Tiểu Sở đưa tay áo lên lau mồ hôi trán, lo lắng đáp:

- Bẩm hộ pháp! Vừa rồi có người trên "Hâm Thịnh lâu" so đấu nhạc kỹ với

"Thập nhị cẩm bình" của Vương viên ngoại. Cô gái trên lầu nọ tài sắc song toàn,

Vương viên ngoại nhất thời động lòng bèn bắc thang xuống phố, chạy vào trong lầu

Hâm Thịnh định dùng nhiều vàng mua cô nữ ca nọ, song không biết sao giờ lại bị

người ta bắt giữ rồi.

Nghe nói trên lầu đó là khâm sai Dương Lăng và Trương Vĩnh cải trang vi

hành. Bọn họ nói Vương viên ngoại xúc phạm khâm sai, lại có người tố cáo hắn

cưỡng đoạt dân nữ, nên hiện đã cho người đến phủ lục soát rồi.

- Láo toét! - Khuôn mặt tươi cười như Phật Di Lặc của Du hộ pháp tím lại, -

Vương Long sưu tầm mỹ nữ chưa hề cưỡng đoạt đưa người vào phủ. Hắn là nhân

vật có danh có tiếng ở Đại Đồng, cho dù xúc phạm khâm sai đi nữa, tội đó cũng

không đến nỗi bị xét nhà.

Người áo xanh bó tay vào trong ống cười nhạt nói:

- Khâm sai cải trang vi hành?! Sao khéo đến như vậy? Bên này Vương Longvừa xúc phạm khâm sai thì lập tức liền có người biết tin mà chạy đến dâng cáo

trạng chứ? Thậm chí ngay cả quan binh vào phủ lục soát cũng đến nhanh như thế?

Nhất định là Vương Long đã để lộ sơ hở ở chỗ nào rồi! Dứt khoát phải lập tức ứng

biến, con đường Vương Long này ta phải chặt đứt ngay.

Du hộ pháp hơi định thần lại, bàn:

- Cũng may! Những người có liên hệ với hắn không nhiều, tôi sẽ lập tức thông

tri Vương Hổ và Bao Quân đi ngay, cả tôi cũng phải lập tức rời khỏi đây.

Người áo xanh ngăn hắn lại:

- Khoan đã, ông đừng đi! Phái ai đó khôn khéo đi xem thử đi! Có cơ hội thì hãy

thông báo cho bọn họ, còn nếu như tình hình không ổn thì đành thôi. Dương Lăng

có thể lần ra ngọn nguồn mà lục soát bên nhà Vương Long, khó đảm bảo y sẽ không

phái người nhìn chằm chằm vào bọn họ.

Du hộ pháp gật gù, rồi giậm chân tiếc rẻ:

- Chỉ uổng cho phần cơ nghiệp mà chúng ta đã khổ tâm kinh doanh bao năm lập

nên.

Đại pháp sư cũng mau chóng rời thành đi! Cho dù Vương Long ngậm kín

miệng đi nữa, chỉ cần mớ quân nhu khí giới hoặc thậm chí là tế đàn của bản giáo bị

lục xét thấy thì quan quân sẽ lập tức giới nghiêm toàn thành. Đến lúc đó muốn đi

cũng không đi được nữa.

Người áo xanh gật nhẹ đầu, rồi ngửa mặt lên trời thở dài:

- Vương Long cũng đành thôi, nhưng Vương Hổ ở thành tây là một nhân tố

quan trọng trong nước cờ của bản giáo. Chỉ tiếc là... kế hoạch giờ đây đã không thể

không thay đổi. Than ôi! Trời không giúp bản giáo rồi.

Hắn giậm mạnh chân một cái rồi dẫn gã áo xanh vội vã rời khỏi Thái Bạch cư,

cưỡi ngựa phi thẳng đến cổng thành.* * *

Mấy viên Bách hộ dẫn đám thị vệ như cọp như sói chia làm hai ngả, không

khám từng bước từ nhà trước vào nhà sau mà men theo cổng nguyệt lượng hai bên

sân trước, xông vào trong hai bên nhà ngang, xuyên qua hoa viên, phòng khách,

phòng nô bộc, ùa thẳng đến công xưởng riêng của nhà họ Vương phá cửa nhà kho,

tuôn vào trong lục soát.

Trông thấy tình cảnh này, một đám gia bộc gan to bắt đầu lấy cắp một ít món

giá trị đem về giấu trong phòng mình. Còn đám tiểu thiếp lung linh xinh đẹp sau

hậu viện nọ vừa gân cổ kêu gào khóc cha gọi mẹ vừa không ngừng vơ vét đồ vàng

của bạc giấu vào trong người. Chỉ một chốc sau, những chiếc eo thon nhỏ đã phình

ra như đã mang thai sáu bảy tháng.

Khi quan binh tuôn lên trên lầu gác Vương phủ, đám mỹ nữ "Thập nhị cẩm

bình" và nha hoàn hoảng sợ túm tụm lại kêu ré, tưởng rằng cũng sẽ bị đưa ra quan

phủ truy xét, không ngờ quan binh lại mặc kệ bọn họ, xông thẳng đến cửa sổ rồi lớn

tiếng bẩm báo vọng qua bên kia đường:

- Bẩm khâm sai đại nhân! Trong nhà họ Vương lục ra được mười rương lang

nha tiễn, một nghìn bộ giáp da người Thát Đát hay sử dụng, hơn năm trăm yên

ngựa, còn có bàn đạp, móng ngựa vân vân, đều là quân nhu khí giới bị cấm.

Dân chúng hóng xem náo nhiệt dưới ngõ vỡ oà. Chuyện Vương Long lừa gạt

cưỡng đoạt tài vật là chuyện không giả, có điều hắn không phải là địa chủ, việc

buôn bán thì phần lớn đều là buôn lậu cho nên chưa hề nảy sinh xung đột gì với dân

chúng quanh vùng. Khi Vương phủ bị xông vào khám xét, phần đông dân chúng

còn mang tư tưởng "chẳng thân cũng khách quê ta"(1) mà cảm thấy đồng tình với

Vương Long, thầm thoá mạ khâm sai.

Lúc này vừa nghe báo hắn tư thông Thát Đát mua bán quân nhu khí giới, trăm

họ tức thì nổi bùng lửa giận. Hán gian nối giáo cho giặc chính là loại cặn bã mà

người Hán căm ghét nhất, thậm chí còn ghét hơn cả chính con cọp dữ Thát Đát.

Dân chúng Đại Đồng vốn chịu nhiều bức hiếp của giặc Thát càng hận không thể ăn

xương uống máu thứ người này. Tiếng mắng chửi và tiếng la hét căm hờn tức thìdấy lên rền trời, không ít người bắt đầu kêu gào đòi khâm sai đại nhân đem Vương

Long đi ngũ mã phanh thây ngay lập tức.

Nghe báo xong, Dương Lăng thở phào nhẹ nhõm. Nhìn sang thấy Vương Long

mặt vàng như nghệ, y bèn đi đến trước cửa sổ cao giọng ra lệnh:

- Canh giữ mọi thứ y nguyên, không được tùy ý đụng vào bất cứ vật gì! Ngoài

ra, hãy phái người cấp tốc trình báo cho phủ Đại vương, mời Vương gia và nha môn

tuần phủ phái người tra xét tịch biên toàn bộ nhà họ Vương!

Đoạn y quay xuống phía dân chúng ngoài cửa sổ, chắp tay lại, tuyên bố:

- Còn như loại cặn bã hại nước hại dân này, triều đình nhất định sẽ nghiêm khắc

trừng trị không tha. Thế nhưng, quốc có quốc pháp, gia có gia quy, triều đình vẫn

cần phải tra rõ chứng cứ, thông báo đến trăm họ mới có thể trừng phạt loại cặn bã

này một cách thích đáng. Đại vương điện hạ, Hồ tuần phủ và bản quan nhất định sẽ

có câu trả lời thỏa đáng cho mọi người. Các vị hương thân phụ lão hãy yên tâm, chớ

nên nóng nảy!

Lời của Dương Lăng lôi kéo được một tràng tiếng reo hò lẫn hoan hô vang dội.

Ánh mắt Dương Lăng lướt qua đám đông, vừa định quay trở vào trong phòng, y

chợt cảm thấy dường như trong đám đông có một ánh mắt quen thuộc vừa mới

thoáng qua. Y chăm chú nhìn lại để tìm thì đã không thấy gì khác thường.

Y hơi nhíu mày lại, cố quan sát kỹ một lần nữa rồi mới tuyệt vọng chắp tay vái

vài cái rồi lui trở vào bên cạnh bàn, hạ lệnh:

- Giải Vương Long xuống! Dẹp đường đến nha môn tuần phủ!

Hồng Nương Tử cải trang làm một thiếu nữ thôn quê mặc áo vải thô, quấn khăn

vải bố, lấy nước gừng thoa cho vàng da, trông như một người bệnh dưới quê lên

vậy. Hoắc Ngũ Thúc đứng bên cạnh nàng, cải trang làm một ông cụ già bán rong,

gánh một gánh cải phơi khô để dùng trong mùa đông.

Khi nãy, ánh mắt của Dương Lăng thoáng chạm với ánh mắt nàng như thể thựcchất khiến Thôi Oanh Nhị sợ đến run rẩy trong lòng, vội vã cúi đầu xuống, tim đập

thình thịch. Nàng cảm giác được ánh mắt của Dương Lăng vẫn đang tìm kiếm nàng

trong đám đông, quýnh quáng đến độ lòng bàn tay ướt đẫm mồ hôi, trong lòng thầm

rủa: "Gặp ma rồi. Mình cải trang tầm thường như vậy, ai thấy cũng lười nhìn mình

lấy một cái, sao lại giống như y đã phát hiện được mình vậy chứ? Không nhìn thấy!

Đông người như vậy, y nhất định sẽ không nhìn thấy mình."

Thôi Oanh Nhi cúi gằm mặt, cằm đụng sát ngực, bắp chân căng cứng, gót chân

nhấp nhổm, cũng không biết là đang chuẩn bị co cẳng bỏ chạy hay muốn búng

người nhảy lên. May mà chung quanh đầy người, tư thế cổ quái của nàng chưa

khiến kẻ khác chú ý.

Đến khi Dương Lăng trở lui vào phòng, Thôi Oanh Nhi mới thở dài một hơi

nhẹ nhõm, cảm thấy sau lưng nhơm nhớp, không ngờ đã sợ đến độ toát mồ hôi lạnh.

Nàng hơi định thần lại, chợt cảm thấy buồn nản khôn thôi: "Khi nãy có cơ hội thật

tốt, mình chỉ cần phóng một thanh phi tiêu từ trong đám đông, lập tức tin khâm sai

bị ám sát nhất định sẽ lan truyền khắp thiên hạ, mình liền có thể thừa cơ ly khai.

Mình sợ y cái gì vậy? Y là một thư sinh yếu đuối, chỉ cần một ngón tay là mình đã

có thể đẩy ngã y. Lúc đánh với bọn cướp ở Thái Hành đông như vậy, Hồng Nương

Tử mình đơn thương độc mã ra vào như chốn không người, có thèm đặt ai vào trong

mắt? Một thư sinh thối như y, mình... mình làm gì phải sợ y chứ?"

Lúc này thị vệ đại nội trong tửu lầu đã đi ra, bắt đầu mở đường dọn lối mời

khâm sai đại nhân lên kiệu khởi hành. Dân chúng chen chúc lui về phía sau, bị bắt

rời xa tửu lầu năm sáu chục trượng. Hơn trăm thị vệ đứng thành ba hàng chắn trước

mặt đám bá tánh vây xem, Dương Lăng và Trương Vĩnh vội vã bước ra lên kiệu.

Đường Nhất Tiên cũng ôm cây đàn tranh lên một chiếc kiệu nhỏ riêng. Đoàn người

trảy thẳng về phía nha môn tuần phủ.

Hoắc Ngũ Khúc ho một tiếng, gọi:

- Con gái! Con gái! Con gái à!

Giọng Hoắc Ngũ Thúc càng lúc càng to, Thôi Oanh Nhi như mới chợt tỉnh dậy

từ trong mộng, ngẩng phắt đầu lên, kinh hoảng hỏi:- Hả? Sao ạ?

Hoắc Ngũ Thúc nhìn nàng vẻ khó hiểu, rồi thấp giọng nói:

- Đi thôi con gái, chúng ta còn phải đến chợ bán rau đấy!

- Dạ, được!

Thôi Oanh Nhi chỉ đợi có câu này, liền vội theo lão đi về phía đầu ngõ. Khi đến

chỗ vắng người, Hoắc Ngũ Thúc mới thấp giọng hỏi:

- Vừa nãy ngay lúc y thò đầu ra ngoài cửa sổ, cơ hội thật tốt, sao con không ra

tay?

Môn võ Hoắc Ngũ Thúc luyện là ưng trảo công, lão không giỏi sử dụng binh

khí lắm, ám khí lại càng không thạo. Hơn nữa Hồng Nương Tử vốn không định giết

chết Dương Lăng cho nên nàng xung phong lĩnh nhiệm vụ, quyết định tìm cơ hội

rồi chính mình ra tay, Hoắc Ngũ Thúc giúp nàng chạy trốn.

Lúc quan binh bao vây nhà họ Vương, tin tức lan ra khắp nơi, bọn họ ở cổ lầu

nghe được tin lập tức chạy sang bên đây, vừa may gặp dịp. Khi nãy thấy Thôi Oanh

Nhi chần chừ không ra tay, cơ hội thoáng qua liền mất, Hoắc Ngũ Thúc muốn giục

cũng đã muộn.

Thôi Oanh Nhi hơi chột dạ, may mà khuôn mặt được thoa gừng nên không thấy

rõ sắc mặt, nàng đáp lấy lệ:

- Khi nãy... con sợ một đòn không trúng sẽ không còn cơ hội nữa, vốn con tính

đợi y lộ cả thân người... Thôi, tìm cơ hội khác vậy.

Hoắc Ngũ Thúc không nghi ngờ gì, gật đầu đồng ý:

- Ừm! Thấy y hôm qua lên Bạch Đăng sơn, nay lại tới lầu Hâm Thịnh, cũng là

kẻ không yên phận. Chỉ cần chúng ta chăm chú theo dõi y, nhất định sẽ tìm được cơ

hội. Y đến nha môn tuần phủ, nhất định là để thương lượng chia chác của hôi rồi.

Khà! Khà! Vương Long buôn bán hàng lậu, vận chuyển quân nhu khí giới, trongnhà vàng bạc như núi, vợ đẹp thiếp xinh, ... Chuyến này vị khâm sai này sẽ vớ bẫm

rồi!

Không suy nghĩ, Thôi Oanh Nhi buột miệng phản bác ngay:

- Không thể nào! Y không phải là hạng người như vậy!

Hoắc Ngũ Thúc thoáng sững người. Thôi Oanh Nhi cắn đầu lưỡi (do nuốt lời

không kịp -Ba_Van), ngượng ngập giải thích:

- Người này tuy là đối thủ của chúng ta, nhưng hành vi và phẩm đức thật tốt

hơn rất nhiều quan viên khác. Ngũ thúc hãy xem, y đồng lòng chống giặc dưới núi

Bạch Đăng, giữ lời thả người trên núi Bạch Đăng, những quan binh mà chúng ta

từng gặp trước đây đã có người nào xuất chúng như vậy chưa?

Hoắc Ngũ Thúc không nói gì, chỉ lặng lẽ gật đầu, trong lòng thầm tính toán

riêng: "Con bé này, thật... Sao lại đi tin người của quan phủ kia chứ? Mình từng

nhìn nó lớn lên, con bé tuy chưa từng đọc qua sách vở nhưng phẩm hạnh đoan

chính vô cùng, quyết sẽ không làm chuyện có lỗi với trượng phu nó. Nhưng cháu

Hổ sắp khởi sự, nó lại động lòng nhu nhược kiểu đàn bà với người trong triều đình,

khó trách sẽ nảy sinh bất hòa với cháu Hổ. Chậc! Xem lúc nào có cơ hội mình vẫn

phải tự tay diệt trừ Dương Lăng thôi, tránh để con bé làm lỡ đại sự."

Hoắc Ngũ Thúc vào thành mang theo gánh rau khô, nếu mang nguyên gánh trở

về hoặc tìm chỗ nào đó đổ bỏ đi thì sẽ khiến kẻ khác nghi ngờ. Vì thế hai người vội

vã chạy lên chợ thanh lý giá rẻ, xong xuôi mới dọn gánh ra ngoài thành. Không ngờ

khi đến cổng thành thì cả hai đã thấy cổng thành đóng chặt, một vài bá tánh đang tụ

tập trước cổng thành bàn tán ồn ào.

Thôi Oanh Nhi không biết đã xảy ra chuyện gì, bèn dò hỏi một ông lão bên

cạnh:

- Đại thúc, có chuyện gì vậy?

Ông lão trông thấy nàng là một cô gái nhà nông ốm yếu, bèn đáp:- Có phải con gái muốn ra ngoài thành không? Hãy mau đi nương nhờ thân

bằng quyến thuộc đi, hôm nay không rời thành được đâu. Vừa rồi khâm sai đại nhân

phong tỏa nhà cửa Vương Long; Đại vương gia và nha môn tuần phủ bèn phái

người đi tra xét kỹ lưỡng, lại tìm thấy một gian mật thất dưới phật đường ở sân

trong, bên trong không ngờ lại là hương đường của Di Lặc giáo. Em trai hắn là

Vương Hổ, tướng quân trấn giữ cửa thành tây, hay tin định trốn ra khỏi thành nhưng

bị phục binh của khâm sai đại nhân mai phục bắt về. Hiện tại Đại vương gia hạ lệnh

đóng kín bốn cổng để truy bắt dư nghiệt tà giáo đó.

- Hả!

Thôi Oanh Nhi và Hoắc ngũ gia trao đổi nhanh ánh mắt với nhau. Té ra Vương

viên ngoại Vương Long giao du rộng rãi giàu nhất Đại Đồng lại là người của Di

Lặc giáo?

Thấy rằng không thể ra khỏi thành được nữa, hai người đành quay trở lại. Hoắc

Ngũ Gia cảm thấy khó tin, nói:

- Vương Long là đại tài chủ giàu nhất một phương, không ngờ lại là yêu nhân

của Di Lặc giáo. Hắn giao du rộng rãi, lần này số người bị liên đới nhất định không

ít. Chúng ta phải làm gì đây? Đến chỗ nào để lánh một chút bây giờ?

Thôi Oanh Nhi thở ra một hơi trút hết buồn bực trong người, lòng cảm thấy hết

sức thoải mái. Nghe xong lời lão, nàng suy nghĩ một chốc rồi cười đáp:

- Không vội! Chúng ta cứ quay về phố nam Cổ lầu trước, xem tình hình nhà họ

Vương thế nào đã. Đợi khi trời sập tối, chúng ta sẽ lại nghĩ cách tìm nơi an ổn mà

náu thân.

Dân chúng bu xem náo nhiệt vẫn đang đứng đầy trước phủ của Vương Long.

Cổng phủ mở rộng, quan sai ra vào như thoi đưa, lo kiểm kê tài sản, bắt giam phạm

nhân. Bởi vụ án liên quan đến hai tội lớn là cấu kết với kẻ địch và mưu phản nên tất

cả mọi người trong phủ đều bị bắt nhốt vào ngục. Sau khi thẩm xét rõ từng người

mới có thể quyết định là thả hay buộc tội là đồng lõa.Bởi chứng cứ rành rành, trên người mang hai đại tội đáng chém đầu, cho nên

không cần niêm phong nhà cửa chờ xin thánh chỉ, Đại vương hạ lệnh tịch biên ngay.

Đáng thương cho nhà họ Vương hiển hách một thời nay như lầu cao sụp đổ, khắp

phủ u ám hoang tàn như đèn dầu sắp cạn, đàn đã sẩy rồi mà nghé cũng chạy không

xong, nam cùm nữ xích kín cả ngục giam, gia tài của họ Vương bị tịch biên không

còn gì cả.

Thê thiếp thị tỳ, người hầu kẻ hạ, tất cả đều bị tống vào trong ngục; nữ trang tài

vật, châu báu thư họa cũng bị đóng rương chở về nha môn; còn lại ít đồ vật cồng

kềnh thì ghi hết vào trong sổ, thứ nào có thể di dời thì đưa vào trong kho rồi niêm

phong lại. Cuối cùng cánh cổng sơn son đóng rầm một cái, hai con ấn to đùng của

phủ Đại vương và nha môn tuần phủ được đóng lên dải giấy niêm phong dán chéo

trên cổng. Căn nhà rộng lớn vốn đông đúc nô bộc tức thì biến thành căn nhà hoang.

Ánh mắt Thôi Oanh Nhi thoáng loé lên, nàng thấp giọng nói:

- Ngũ thúc, đêm nay chúng ta hãy trú trong căn nhà này đi.

Ánh mắt Hoắc Ngũ Thúc cũng sáng lên, lão khen:

- Hay! Quả nhiên là một nơi rất an toàn! Trước cổng có quan binh canh gác,

chúng ta nên thừa lúc tối trời lẻn vào từ bên hông. Có chỗ tốt như thế này, có ở lại

Đại Đồng mười ngày nửa tháng cũng sẽ không bị người ta phát hiện. Có điều đám

cháu Hổ chờ lâu không thấy chúng ta về nhất định sẽ sốt ruột lắm đây!

Thôi Oanh Nhi lắc đầu đáp:

- Không đâu! Nội ngày mai tin nhà Vương Long bị tịch biên sẽ lan truyền khắp

các trấn, Hổ ca nhận được tin sẽ đoán được quan binh cho phong tỏa thành trì...,

Nói đến đây, nàng chợt thấy mấy tuần bộ cầm đao đang đi đi lại lại quan sát hai

bên đường, hể trông thấy có người khả nghi liền chặn lại gặng hỏi, bèn vội dìu

Hoắc Ngũ Thúc:

- Chúng ta đi!Một thiếu nữ quê mùa tướng mạo tầm thường dìu một ông lão mang quang

gánh rỗng bước vội trên đường phố Đại Đồng trong màn đêm mờ mịt. Cảnh ấy quá

đỗi bình thường, không ai thèm liếc mắt để ý thêm.

*****

Đại vương, khâm sai và tuần phủ tam đường hội thẩm, án tử của Vương Long

được phán quyết một cách gọn gàng.

Vương Long tự làm quân nhu khí giới bán cho kẻ địch, tham dự âm mưu tạo

phản cùng tà giáo, chứng cứ rành rành. Em hắn là tì tướng tây thành Vương Hổ,

thương nhân buôn ngọc thạch là Bao Quân cũng tham dự vào trong đó. Đại vương

gia đích thân chủ thẩm, nghe nói trên công đường Vương Long vùng vẫy thoát khỏi

dây trói, liều mạng xông tới định hành thích vương gia. Đại vương cả giận, lập tức

hạ lệnh đem Vương Long, Vương Hổ, Bao Quân và nô bộc gia tướng liên can, tổng

cộng sáu mươi hai người, giải lên trên pháp trường ngoài cổ lầu xử trảm.

Khi bọn họ bị áp giải lên pháp trường, toàn thân đã bị đánh đập tra khảo đến

bong da tróc thịt, không còn trông ra hình dạng con người. Lúc đại đao của đao phủ

vung lên, bọn họ chỉ quỳ bệt trên đó ngoan ngoãn chịu chém, không một ai cất

giọng ca vang "đầu rơi máu chảy không sờn chí", "hai mươi năm sau lại là hảo hán"

gì gì đó. Đã là tử tù mà không chuyên nghiệp đến như vậy khiến quần chúng chuẩn

bị tinh thần sức lực để reo hò khen ngợi thất vọng vô cùng, thế là bèn mắng chửi

bọn họ như tát nước.

Đầu người rơi hàng loạt dưới cổ lầu. Vương Long tội ác tày trời, lại ngang tàng

quá đỗi tự xưng là vương gia, nhà gọi là vương phủ, Đại vương bèn hạ lệnh cho đao

phủ là Lưu tiểu đao lột da hắn làm trống, đặt trên cổ lầu. Mỗi ngày nghe tiếng trống

đó vang lên, thật khiến dân chúng phổ thông từng tin thờ Di Lặc giáo nghe mà run

rẩy cả thần hồn.

Đại vương lại cho người nạy đá xanh dưới cổ lầu lên, đào sâu ba thước, chôn

quan tài của Vương Long ở dưới đó để mọi người đi qua giẫm đạp cho xứng tội

Vương Long; đổi tên Hoa Lỗi nhai thành Hoan Lạc nhai. Dân chúng Đại Đồng hô

vang vạn tuế, quả là vui sướng như đón mừng ngày tết vậy.Vụ án Vương Long đã liên lụy đến rất nhiều quan viên. Bởi có tiền lệ là Vương

Hổ, cho nên bất luận có chứng cứ hay không, những tướng lĩnh trong quân cứ hễ

từng qua lại thân mật cùng nhà họ Vương đều bị thuyên chuyển để đề phòng bất

trắc. Một làn sóng ngầm chảy mạnh trong thành Đại Đồng, e rằng sẽ phải mất đến

dăm ba tháng thì cuộc thanh trừng quy mô lớn này mới yên ắng trở lại.

Địa lao trong phủ Đại vương chỉ là nhà tù riêng dùng để giam giữ trộm cướp và

gia bộc vương phủ phạm tội cho nên vốn đơn giản hơn đại lao ở chỗ quan phủ

nhiều. Nhưng lúc này cánh cửa địa lao đã được thay bằng cửa sắt nặng trình trịch,

trong ngoài đều có hơn mười viên phiên tử Nội xưởng cầm đao giắt cung trông giữ

nghiêm ngặt. Cả khu vực sân quanh địa lao được canh phòng cẩn mật, nghiêm cấm

ra vào mọi kẻ chưa có lệnh dụ.

Trên giá tra tấn trong địa lao đang treo một gã đàn ông khỏe mạnh máu me đầm

đìa, tóc tai bù xù, đầu cúi gục, đã bất tỉnh. Dương Lăng ngồi trên chiếc ghế trước

mặt hắn, quan sát một lượt rồi nhíu mày hỏi:

- Không khai gì cả à?

Liễu Bưu nhìn gã tù phạm hốc hác đó một lúc rồi đáp:

- Dạ đúng rồi! Cực hình nào có thể dùng được ti chức đều đã dùng cả rồi.

Vương Long ôm lòng chết chắc, thủy chung không nói tiếng nào.

Dương Lăng nhìn đùi tên tù phạm lộ ra bên dưới chiếc quần rách bươm, trên đó

có một vết thương sâu hoắm ghê mắt, máu mủ vẫn liên tục rỉ ra. Mới mấy ngày

ngắn ngủi, gã đàn ông cường tráng này đã bị hành hạ không còn hình dáng con

người, cũng không biết hắn đã phải chịu những cực hình nào nữa.

Dương Lăng khiếp sợ:

- Từ đời Tống-Nguyên tới nay, dù trong triều đại nào Bạch Liên giáo cũng đều

bị triều đình đuổi giết, nhưng trải qua mấy trăm năm lại vẫn luôn đứng vững không

ngã, quả nhiên là có phương pháp độc đáo của nó. Dưới cực hình như vậy cho dù là

người mình đồng da sắt cũng chịu không nổi, vậy mà Vương Long sống trongnhung lụa gần chục năm, đắm chìm trong tửu sắc tài vận lại vẫn cứng đầu. Thảng

như tất cả các nhân vật cao cấp của Di Lặc giáo ai nấy cũng đều khó chơi như vậy,

thực sẽ không dễ đối phó đây!

Liễu Bưu cười gượng gạo:

- Người này đích thực là kẻ cứng đầu, có điều ti chức lăn lộn trong Cẩm Y Vệ

lâu năm, ít nhiều cũng đã gặp mấy tên như vậy. Điều khiến người ta bất lực nhất

chính là vừa mới sử dụng cực hình thì cái tên Vương Long này liền ngất xỉu; lúc

không sử dụng cực hình mà hắn muốn ngất xỉu vẫn có thể ngất xỉu. Thế nên ti chức

không có cách nào xử trí được hắn cả!

- Ồ! Ngất xỉu!? Ngất xỉu như thế nào?

Dương Lăng thấy lạ, liền vội hỏi dồn.

Liễu Bưu cười khổ đáp:

- Chỉ cần ti chức vừa cho sử dụng cực hình, lập tức Vương Long liền tự ngất

xỉu. Tù phạm bị tra khảo phải cung khai là do phần lớn khi bị tra tấn, sự đau đớn về

thể xác vượt quá mức cực hạn mà bọn họ có thể chịu đựng. Thế nhưng Vương Long

vừa bị tra tấn liền đã ngất đi, đến khi hắn tỉnh lại thì cơn đau cực điểm khiến tinh

thần người ta sụp đổ trong khi bị tra khảo đã trôi qua rồi. Hơn nữa chỉ cần hắn

muốn, ví dụ khi bình thường không bị tra tấn nhưng chỗ bị thương đau quá chịu

không nổi, thì hắn cũng có thể tự làm cho mình ngất đi. Công phu bàng môn tả đạo

của Bạch Liên giáo quả thực không ít.

Dương Lăng nghe xong thì lờ mờ đoán đây hẳn là một loại công phu tương tự

như tự thôi miên. Mấy trăm năm nay Bạch Liên giáo thông qua tín ngưỡng thu nạp

giáo chúng, thật sự bọn họ rất sở trường trong việc sử dụng những trò ảo thuật như

phù thủy, khẩu kỹ, thôi miên để mê hoặc lòng người. Nếu Vương Long là nhân vật

quan trọng được Di Lặc giáo bố trí ở Đại Đồng để thu gom của cải, thì nhất định

hắn cũng phải có sở trường đặc biệt.

Tiếc là, kỹ thuật này nếu không bị coi là yêu thuật thì nhất định cũng sẽ bị coi làbàng môn tả đạo, người trong chính giáo không thèm học tập, cho dù có hiểu biết ít

nhiều cũng sẽ không dám tiết lộ, quan phủ biết đi đâu tìm được những người có khả

năng này? Nếu Cao Văn Tâm ở đây thì tốt rồi, ước chừng bản lĩnh của nàng ta sẽ có

thể khiến Vương Long phải ngoan ngoãn phun mọi tin tức y cần biết. Đáng tiếc...

Nay chỉ đành phải đem Vương Long về kinh, sau đó để Văn Tâm nghĩ cách vậy.

Dương Lăng thở dài tiếc nuối rồi đứng dậy bảo:

- Nếu đã vậy thì đừng bức cung quá mức nữa! Trị thương qua cho hắn, tạm thời

giam lại. Sau khi Vương Long bị bắt, những tay đầu sỏ Di Lặc giáo ở bản địa hay

tin nhất định sẽ cuống quýt lẩn trốn, nhưng bọn chúng sẽ không nỡ vứt bỏ hoàn

toàn thế lực đã được phát triển ở đây mà gầy dựng lại từ đầu đâu!

Bọn chúng có thể không tin Vương Long bị giết trong mười ngày, trong một

tháng, nhưng nửa năm sau cũng sẽ phải tin chứ, phải không? Qua một thời gian gió

yên biển lặng, bọn họ cũng sẽ ngóc đầu trở dậy, đến lúc đó bản quan nhất định đã có

thể lấy được thứ gì đó trong lòng Vương Long, và cũng sẽ phất cờ trở lại!

Rời khỏi địa lao, bốn tay thị vệ đi theo y ra ngoài viện. Vương An, một trong tứ

đại quản gia của vương phủ, đang đứng chờ bên ngoài vội bước lên nghênh đón:

- Đại nhân phải quay về rồi sao?

Dương Lăng nhẹ mỉm cười đáp:

- Đúng vậy! Đã làm phiền Vương quản gia rồi.

Vương An cười ha hả:

- Khâm sai đại nhân khách sáo như vậy thực làm lão nô tổn thọ rồi! Đại nhân

không đi gặp vương gia một chút sao?

Dương Lăng từ chối:

- Vương gia mới cưới yên vui, hạ quan không thể làm phiền.Nói đoạn y cung tay mời Vương An đi trước rồi theo sau Vương An đến cổng

Thừa Vận. Rời khỏi vương phủ, vòng qua khỏi bức bình phong chín rồng, Dương

Lăng vừa định vịn yên lên ngựa thì đằng xa chợt có hai thớt khoái mã phóng lại.

Ngũ Hán Siêu lập tức dằn kiếm ngăn trước mặt y.

Dương Lăng nheo mắt nhìn, qua trang phục thấy chẳng qua là một tướng một

binh mà thôi. Ngựa phi đến gần, vị tướng quân nọ phi thân xuống ngựa, lúc này

Dương Lăng mới thấy rõ hắn là nghĩa tử của Tổng binh Đại Đồng Đỗ Nhân Quốc -

tham tướng Kinh Phật Nhi.

Trông hắn có vẻ mệt mỏi, người đầy bụi bặm, rõ là chạy thẳng một hơi từ ngoài

thành tới đây. Vừa trông thấy Dương Lăng, hắn liền vội bước lên chắp tay thực hiện

quân lễ:

- Mạt tướng Kinh Phật Nhi, tham kiến khâm sai đại nhân!

Dương Lăng vội khoát tay:

- Xin tướng quân hãy bớt lễ tiết! Tướng quân đến đây vội vã như vậy, phải

chăng là có chuyện quan trọng cần bẩm báo với vương gia?

Kinh Phật Nhi cười đáp:

- Không phải! Mạt tướng tới hành dinh khâm sai trước, nghe nói là đại nhân

đang ở đây cho nên mới chạy vội đến.

Dương Lăng giật mình hỏi:

- Đã xảy ra chuyện gì sao?

Kinh Phật Nhi liếc nhanh hai bên, rồi sải bước tới gần, thấp giọng thưa:

- Hoa Đáng dẫn theo thủ lĩnh của các bộ lạc Ngột Lương Cáp, Ông Ngưu Đặc,

Ô Tề Hiệp Đặc và ba bộ lạc Nữ Chân là Kiến Châu, Hải Tây, Dã Nhân đã đến rồi.

Sứ giả của những thủ lĩnh các liên minh bộ lạc đang dựng lều ngoài cửa Đắc Thắng,

gõ cửa xin gặp đặc sứ Đại Minh. Dương tổng chế hạ lệnh riêng cho mạt tướng cấpbáo với đại nhân.

Dương Lăng vừa nghe xong liền chấn động tinh thần, buột miệng thốt:

- Rốt cuộc bọn họ đã đến!

Đoá Nhan Tam Vệ và Nữ Chân Tam Bộ đã đi từ đông sang tây, khi bước vào

phạm vi thế lực Thát Đát liền trở nên cẩn trọng. Năm nghìn nhân mã đã đi nhanh

được mấy trăm dặm rồi chợt chậm chạp rì rì như trâu già kéo xe nát, khiến người ta

khó lòng nắm được hành tung chính xác, hơn nữa dọc đường còn tung thám mã dò

thám chung quanh.

Dương Lăng cân nhắc thấy Hoa Đáng dẫn theo mấy nghìn người cưỡi ngựa rời

xa khỏi căn cứ của mình nên nhất định sẽ hết sức cẩn thận. Vả lại hắn vốn đến là để

gặp mặt Hoàng đế Đại Minh, nếu y phái thám mã theo dõi dấu tích dọc đường sẽ

hoàn toàn vô nghĩa; nếu bị bọn hắn phát hiện sẽ thành ra khéo quá hóa vụng. Vì vậy

ngay khi Hoa Đáng vừa bước vào phạm vi thế lực của Thát Đát, y bèn rút thám mã

của mình về, cho nên không thể nào ước lượng chính xác được thời điểm Hoa Đáng

sẽ tới.

Kinh Phật Nhi mỉm cười đáp:

- Phải ạ! Phụng quân lệnh của Dương tổng chế, mạt tướng và Hứa tham tướng

Hứa Thái sẽ hộ vệ đại nhân tới đó.

Dương Lăng đấm nắm tay phải vào lòng bàn tay trái, cười lớn:

- Được! Có hai vị tướng quân dũng mãnh như các vị, đầm rồng hang hổ cũng

đều đi được. Nay ngoài quan ải chỉ có Bá Nhan, Hỏa Sư và Hoa Đáng xưng hùng;

để bản quan đi gặp qua vị đại thủ lĩnh của Đoá Nhan Tam Vệ này vậy.

Chú thích:

(1) nguyên văn "mỹ bất mỹ, hương trung thủy; thân bất thân, cố hương nhân",

(chẳng trong cũng nước ao nhà, chẳng thân cũng khách quê ta đó mà); trỏ tầm quan

trọng của quê hương xóm làng.NGƯỢC VỀ THỜI MINH

Nguyệt Quan

www.dtv-ebook.com

Chương 205: Miệng Lưỡi Sắc Bén

Mặt trời vừa nhú, sương sớm chưa tan. Đêm qua trời vừa đổ tuyết, tiết xuân se

sắt, những tia nắng mỏng tanh vương rắc lên người không hề đem lại cảm giác ấm

áp; vẫn là cái lạnh buốt xương.

Ngoài cổng Đắc Thắng, trên một dãy núi non trùng điệp, một trăm kỵ sĩ oai

phong lẫm liệt đang trèo đèo vượt núi, chậm rãi đi trên con đường quanh co khúc

khuỷu. Liễu Bưu, Kinh Phật Nhi, Ngũ Hán Siêu và Lưu Đại Bổng Chùy, bốn người

cải trang làm thị vệ cận thân, Hứa Thái cải trang làm thủ lĩnh thị vệ, cả nhóm đi

ngay sau ngựa Dương Lăng.

Đằng trước hiện ra một bãi đất trống,nằm ngay bên dưới gò núi đầy cây cối um

tùm, những tia nắng đầu tiên vừa rọi tới nơi này, ba chiếc lều lẻ loi sắp thành hình

tam giác được dựng trên mặt tuyết.

Vài gã Mông Cổ đang cưỡi ngựa lững thững quay về, bọn họ nhảy xuống khỏi

lưng ngựa trơn nhẵn, dắt ngựa tới trước lều bạt, gã thì trùm yên lên lưng ngựa, gã

thì lau binh khí. Cả ba đều có bộ dạng kiêu ngạo, như thể không thèm đặt hơn trăm

quan binh Đại Minh hàng ngũ chỉnh tề, khí thế oai nghiêm này vào trong mắt.

Ánh mắt Dương Lăng quét qua khuôn mặt lười nhác của mấy gã Mông Cổ nọ,

cánh tay khẽ giơ lên, một trăm viên kỵ sĩ lập tức ghìm cương ngựa. Hơn trăm kỵ sĩ

dừng ngoài một tầm tên, không chút tiếng động, tất cả đều im phăng phắc.

Chính Đức, Hồ Toản và Dương Nhất Thanh không yên tâm khi Dương Lăng

chỉ mang theo một trăm thị vệ, vốn định phái hai nghìn binh mã hộ giá, nhưng

Dương Lăng chỉ đáp một câu: "Hoa Đáng mang theo năm nghìn binh mã nghìn dặm

xa xôi mạo hiểm băng qua địa bàn của Thát Đát không phải để tập kích giết chết

một khâm sai đại thần tôi đâu", rồi cự tuyệt luôn.Đàm phán chính yếu là khí thế. Đoá Nhan Tam Vệ chỉ xuất binh tổng cộng năm

nghìn, đặc sứ tiên phong chỉ có ba lều trại vào khoảng năm mươi người. Nếu xua

đại quân trùng trùng điệp điệp mà đi thì vừa nâng cao khí thế đối phương lại dễ

khiến cho bọn họ khinh thường.

Tuy nhiên, Đoá Nhan Tam Vệ là thuộc quốc của Đại Minh, thủ lĩnh tối cao của

Tam Vệ được ban cho chức Chỉ huy đồng tri, là quan tòng tam phẩm, tuy nay đã chỉ

còn tồn tại trên danh nghĩa, nhưng dẫu sao Đoá Nhan Tam Vệ vẫn chưa công khai

tuyên bố phản lại Đại Minh.

Dương Lăng là thủ lĩnh Ngự tiền thân quân, là võ tướng chánh tam phẩm, lại

mang thân phận khâm sai, cho dù là đối diện với Hoa Đáng thì vai vế cũng chỉ có

cao hơn chứ không thấp hơn, huống hồ chỉ là mấy sứ giả của Hoa Đáng? Lúc

Dương Lăng ra khỏi ải đã phái thị vệ đi trước báo tin, như vậy rõ ràng những đặc sứ

này đã biết tin cả rồi thế mà lại co chân gác gối không thèm ra đón, mấy tên thân

quân cũng ra vẻ ngạo mạn khinh đời, rõ ràng là bọn họ không đặt triều đình nhà

Minh vào mắt.

Hứa Thái thấy vậy tức thì sôi máu, thúc ngựa đi đến cạnh Dương Lăng dựng

xếch cặp mày kiếm thưa:

- Đại nhân, Đoá Nhan Tam Vệ thực to gan! Rõ là đã biết khâm sai triều đình

đến rồi thế mà lại vô lễ như vậy! Chi bằng chúng ta hãy về đi! Không thể để oai

phong Đại Minh bị tổn hại được!"

Kinh Phật Nhi liếm cái môi mỏng lét của mình, một vẻ khát máu hiện trên

khuôn mặt, nói:

- Đại nhân, bất kính với sứ thần thiên triều là tội lớn không tha. Đại nhân hãy hạ

lệnh cho mạt tướng lóc hết ruột gan phèo phổi của đám này đi, để tên tiểu tử Hoa

Đáng đó phái mấy đứa biết điều hơn ra nói chuyện.

Dương Lăng cười cười, nhẹ nhàng đáp:

- Chẳng qua là Đoá Nhan Tam Vệ đang thử dò xét quyết tâm liên kết đồngminh của triều đình mà thôi! Dẫu sao thì bọn họ cũng đã từng ăn quá nhiều quả

đắng, không cần phải so đo với những kẻ thô lỗ này. Bản quan nói cho các ngươi

hay, đàm phán cũng giống như là bán buôn vậy, kẻ cười trước chưa chắc đã là kẻ

thắng lợi sau cùng. Hôm nay ta cúi đầu ba lần với hắn, đổi lấy việc hắn phải dập

đầu ba mươi cái thì mới quay về. Đi, bảo sứ giả của Đoá Nhan Tam Vệ ra đón!

Kinh Phật Nhi nghi hoặc nhìn Dương Lăng, rồi thúc ngựa vung roi phi đến

trước lều hô to thông báo đặc sứ Hoàng đế Đại Minh đã tới, lệnh cho sứ giả Hoa

Đáng ra đón. Sau một chốc, ba chiếc lều lớn lần lượt được mở ra, mấy chục sứ giả

Mông Cổ mặc áo chéo vai, ống tay rộng bước ra nghênh đón.

Lưu Đại Bổng Chùy ngạc nhiên hỏi:

- Đại nhân, sao ngài biết sứ giả bọn chúng đã sớm chuẩn bị xong rồi?

Dương Lăng lắc đầu đáp:

- Hữu dũng vô mưu! Hãy nhìn phía trước lều kìa!

Mấy viên thị vệ bên cạnh nghe vậy thì nhìn kỹ về phía trước, song nhìn mãi mà

vẫn mù mờ không biết nên nhìn cái gì, chỉ có Hứa Thái và Ngũ Hán Siêu đồng loạt

"a" lên, liền đó nhìn nhau cả cười.

Đêm qua tuyết tuy không lớn nhưng đã phủ khắp mặt đất. Mặt tuyết trước mặt

lại bằng phẳng như gương, lóng lánh trong ánh nắng, chỉ có hai hàng vết vó ngựa,

đương nhiên là do sứ giả Đại Minh thông báo chuyên sứ đã tới để lại. Trong khi đó,

đằng trước ba chiếc lều trại tuy vẫn là một mảng trắng phau, nhưng ánh sáng phản

chiếu lại lờ mờ ảm đạm, mặt tuyết bừa bãi lộn xộn, rõ ràng từ sáng sớm đã từng có

mấy chục người tới lui giẫm đạp lên, quyết không thể do bốn năm tên cận vệ ở

trước lều gây ra được.

Thấy bọn sứ thần đã túm tụm trước lều, Dương Lăng mới thúc bụng ngựa, dẫn

thị vệ chậm rãi đi tới. Khi đã đến trước lều trại Lưu Đại Bổng Chùy liền vặn người

nhảy xuống, đi tới bên ngựa Dương Lăng rồi quỳ một gối xuống. Dương Lăng xoay

người vịn yên, chân điểm nhẹ trên lưng hắn rồi nhảy xuống đất.Đám người Mông Cổ chen nhau đi tới, mặt mày tươi cười. Một gã đàn ông cao

lớn đi đầu đặt một tay lên ngực, mỉm cười và chào bằng tiếng Hán hết sức lưu loát

và đúng mực:

- Hoan nghênh ngài, sứ thần của thiên triều! Ta là sứ giả Nặc Mộc Đồ của bộ

lạc Ngột Lương Cáp. Vị này là sứ giả Cách Nhật Lặc Đài của bộ lặc Ông Ngưu

Đặc, sứ giả A Khất Mãi của bộ lạc Ô Tề Diệp Đặc, sứ giả Đậu Lý của Nữ Chân

Kiến Châu, sứ giả Hồ Xích của Nữ Chân Hải Tây...

Hắn vừa giới thiệu vừa đưa mắt đánh giá Dương Lăng, thấy vị võ tướng nắm

giữ thân quân lẫn Nội xưởng của Hoàng đế và là đại thần được Hoàng đế Đại Minh

tín nhiệm nhất này mặc áo da cừu, đầu đội nón da chồn, chân mang giày da lợp

nhung đen; vóc người như ngọc, khí chất phong lưu, cao quý mà không phô trương.

Nếu không phải vì áo chưa thắt đai lụa nên vẫn có thể thấy được mãng bào thêu

rồng nằm vàng óng lấp ló bên trong, thì y sẽ giống hệt như một công tử tôn quý.

Dương Lăng cũng quan sát vị sứ thần bộ lạc Ngột Lương Cáp có thế lực lớn

nhất Đoá Nhan Tam Vệ này: thân thể cao lớn, tướng mạo hiên ngang, bước chân

vững vàng, mặc dù trông cao lớn lực lưỡng nhưng cặp mắt lại lộ ra vẻ cơ trí và

điềm tĩnh, khác xa vẻ chất phác thật thà của dân du mục Mông Cổ.

Bề ngoài y vẫn ung dung thản nhiên, trong lòng lại thầm nhủ: "Ai cũng nói

người Mông Cổ kiêu dũng thiện chiến, thân thể lẫn khí phách tráng kiện mà lại

thiếu mưu trí; nhưng trông vị sứ thần Nặc Mộc Đồ này thực không giống vậy. Tuy

rằng hôm nay chỉ là cuộc tiếp xúc mang tính thăm dò, hiểu rõ mấu chốt điều kiện

kết minh của đối phương, song xem ra cũng cần phải tập trung tinh thần, không thể

sơ ý được."

Dương Lăng mỉm cười vòng tay vái chào một vòng, đôi bên khách sáo mấy

câu, Nặc Mộc Đồ đưa tay làm động tác mời vào lều, nói:

- Dương đại nhân, mời! Chúng ta cùng vào lều nói chuyện.

Dương Lăng giũ giũ chiếc áo da rồi cũng không ngoái đầu mà ngang nhiên dẫn

đầu bước vào, bỏ lại đám thị vệ bên ngoài. Nặc Mộc Đồ cùng đám sứ thần CáchNhật Lặc Đài thấy vị sứ giả thiên triều này không mang thị vệ theo, đơn thương độc

mã đi vào lều thì đều đưa mắt nhìn nhau, nét cười trên khuôn mặt vừa hiện lên lại

lập tức giấu đi.

Bộ tộc Kiến Châu của Nữ Chân nằm sát cương thổ Đại Minh nhất, nhận được

rất nhiều lợi ích thông qua việc giao dịch cùng Đại Minh - vừa chăn nuôi vừa cày

cấy, còn biết một vài công nghệ đơn giản - là khu vực giàu có nhất trong số ba bộ

tộc Nữ Chân. Tùy theo sự tiếp giáp xa gần với biên giới Đại Minh mà Nữ Chân Hải

Tây ở cách xa một chút thì nghèo hơn một chút, Nữ Chân Dã Nhân ở xa hơn nữa thì

hoàn toàn dựa vào săn bắn để mưu sinh, sống một cuộc sống gần như hoang dã.

Thế lực của ba bộ lạc này yếu ớt, cho nên ngoan ngoãn, kính cẩn với Đại Minh

nhất. Từ năm Vĩnh Lạc tới nay, ba bộ lạc này chưa từng ngừng triều cống. Tuy triều

đình nhà Minh không chính thức định giá để bán buôn công khai nhưng vẫn cho

phép bọn họ giao dịch chợ đen những hàng hoá mang theo.

Người Nữ Chân đổi ngựa, lông chồn, ưng bắc và các loại lâm sản như cao dán,

nhân sâm, nấm mèo, nấm ăn, hạt thông để lấy những công cụ sản xuất bằng sắt và

các vật phẩm như gạo, muối, vải, lụa, nồi niêu, áo quần. Có thể nói bọn họ lệ thuộc

vào người Hán rất nhiều.

Hàng hóa bọn họ giao dịch nhiều nhất với Đại Minh là nhân sâm. Nhưng

phương pháp gia công của bọn họ lại hết sức đơn giản: nhân sâm đào được từ trong

núi ra được ngâm vào trong nước để tránh hư thối làm giảm chất; song nhân sâm

ngâm nước cũng khó giữ được lâu, thương nhân nhà Minh chỉ cần hơi lần lữa là

người Nữ Chân do sợ nhân sâm bị hỏng nát sẽ đành phải bán với giá rẻ mạt.

Bọn họ lại không nghĩ ra được cách nào tốt hơn để kéo dài thời gian tồn trữ, vì

vậy chịu rất nhiều thiệt thòi. Cho nên bọn họ sốt sắng với việc kết minh với Đại

Minh nhất, chỉ mong ký kết hiệp ước xong triều đình Đại Minh có thể định ra giá cả

công bằng, bọn họ khỏi bị thương nhân bóc lột.

Thông qua mật thám Dương Lăng cũng đã hiểu được những chuyện này. Do đó

khi thấy trong các bộ lạc có sứ thần của Nữ Chân Tam bộ, đoán rằng trong lều sẽ

không có gì hung hiểm nên y không hề lo sợ gì mà bước vào, khiến đám người NặcMộc Đồ có phần bất ngờ.

Bước vào trong lều, Dương Lăng thấy có hai chiếc bàn dài đặt ở hai bên, trên

bàn bày vài thứ trông giống như sữa đặc và trà sữa, y bước sang ngồi vào bàn bên

phải. Sứ giả các bộ lạc bước vào lều trông thấy Dương Lăng đang mỉm cười ngồi ở

đó, đưa tay sang phía bàn đối diện:

- Mời các vị ngồi.

Thấy y phản khách vi chủ, như thể y mới là chủ nhân của căn lều này, đám

người Nặc Mộc Đồ không khỏi đưa mắt nhìn nhau cười khổ. Sáu người bọn họ

đành phải ngồi vào bàn đối diện, Nặc Mộc Đồ ngồi giữa. Khách và chủ vừa ổn định

chỗ ngồi, chủ đề chính cũng chính thức được bắt đầu.

Nặc Mộc Đồ lên tiếng trước:

- Đại thủ lĩnh Hoa Đáng nghe nói Hoàng đế Đại Minh vì tỏ rõ thành tâm đã

đích thân đến Đại Đồng, cảm thấy sợ hãi vô cùng, cho nên đã dẫn các vị thủ lĩnh

của Đoá Nhan Tam Vệ và Nữ Chân Tam Bộ vượt nghìn dặm xa xăm chạy đến ra

mắt.

Thuở Hoàng đế Vĩnh Lạc dẹp yên biến loạn(1) đến nay, Đoá Nhan Tam Vệ vẫn

luôn giao hảo cùng Đại Minh, nhưng quan binh Đại Minh lại coi chúng tôi là mọi

rợ, chèn ép ức hiếp, giao dịch bất công. Ngày trước tổng binh Đại Minh lại coi dân

chúng Tam Vệ tay không tấc sắt chạy đến buôn bán của chúng tôi là quân lính Thát

Đát đến xâm phạm biên giới mà bắn giết lĩnh công, bêu đầu hơn ba trăm người

ngoài thành, khiến cho các bộ lạc Tam Vệ chúng tôi đau đớn không thôi.

Đại nhân, Đoá Nhan Tam Vệ xưa nay vẫn luôn tự cho mình là phiên thuộc của

Đại Minh. Nhưng khi Ngõa Lạt xâm phạm chúng tôi, chúng tôi quay sang cầu viện

thì triều đình Đại Minh lại nhắm mắt làm ngơ, trái lại Bá Nhan Khả Hãn lại dẫn

quân đến cứu. Tông chủ không thể cậy nhờ, trăm họ Tam Vệ vì vậy mà run rẩy.

Lại nói, tuy Nữ Chân Tam Bộ triều cống mỗi năm, nhưng chính sách an ủi biên

dân của vệ Liêu Đông lại không có gì đáng khen ngợi, khiến cho dân chúng ngảlòng thoái chí. Nay đại thủ lĩnh Hoa Đáng và tù trưởng các bộ lạc tuy có lòng kết

giao hữu nghị cùng Đại Minh, song chỉ e lòng người khó phục, không biết Dương

đại nhân lấy gì để chỉ bảo cho tôi?

Nặc Mộc Đồ nói ngay vào điểm chính, không chút kiêng dè mà hạ thấp uy tín

triều đình nhà Minh, rồi thầm quan sát sắc mặt Dương Lăng. Dương Lăng híp mắt

cười, vừa lắng nghe vừa cầm bát trà sữa uống một hớp, rồi đặt nó xuống bàn nhón

lấy một miếng phó mát, cắn từng miếng một nhấm nháp mùi vị của nó, ra vẻ điềm

nhiên như không.

Nặc Mộc Đồ vốn tưởng rằng nói xong mấy câu nghe không lọt lỗ tai thì vị cao

quan Đại Minh dáng vẻ kiêu ngạo ngất trời này nhất định sẽ nổi giận, khi ấy hắn sẽ

có thể thừa dịp tuôn ra những câu chữ đã chuẩn bị sẵn. Nào ngờ Dương Lăng lại ra

vẻ điềm nhiên như vậy khiến Nặc Mộc Đồ thầm thấy lạnh người. Ban đầu hắn kể lể

đến độ xúc động không thôi, đau lòng tột độ, đến lúc sau lại khô khan nhạt nhẽo,

mất đi khí thế.

Dương Lăng nghe hắn kể xong mấy chuyện cũ rích này, rồi cười lớn nói:

- Thảng như Đoá Nhan Tam Vệ và triều đình nhà Minh trước nay không hề có

hiềm khích gì, vậy thì hôm nay chúng ta hẳn sẽ có thể nói chuyện trên trời dưới đất,

cùng nhau nâng chén cười đùa rồi, cần chi nhọc công Hoàng đế bệ hạ và thủ lĩnh

Hoa Đáng phải gặp mặt?

Thấy Nặc Mộc Đồ vừa mở miệng liền hùng hổ chỉ trích triều đình nhà Minh

bao lần thất tín, Dương Lăng liền biết bọn họ làm vậy là để những bước tiếp theo có

thể tăng thêm lợi thế trong việc kết minh, cho nên y tin tưởng Hoa Đáng thật sự

thành tâm ký kết hiệp ước.

Y buông miếng pho mát xuống, phủi phủi tay, thong dong bình tĩnh nói tiếp:

- Biên quân của triều đình nhà Minh vốn có sẵn thù oán xung đột cùng Đoá

Nhan Tam Vệ và Nữ Chân Tam Bộ, nhưng nếu nói là triều đình Đại Minh không tốt

với các người, thì thật là bất công rồi.Y thu lại nụ cười trên khuôn mặt, nghiêm túc:

- Từ thời Hồng Vũ đến nay, Đại Minh đối đãi với người Mông Cổ có ý cậy nhờ

triều đình hết sức rộng lượng và nhân ái, việc này có chứng cứ chép lại. Năm Hồng

Vũ thứ mười lăm, khi Tốc Ca Thiếp Mộc Nhi, Hoàn Giả Thiếp Mộc Nhi quy thuận,

năm Vĩnh Lạc thứ mười sáu, lúc Hỉ Lạc Ôn Hà, Khâm Chân Hà đến chầu, Đại

Minh chẳng những an bài nơi ở, mà còn cung cấp cơm áo và dê bò, tiền bạc cùng

vải lụa, có thể nói là muốn gì được nấy.

Bất cứ cuộc chiến nào người Hán ta cũng đều phải tham gia, thế nhưng đối với

thổ quân (người Mông Cổ, Triều Tiên và Nữ Chân) xuôi nam định cư, một người đi

lính thì những huynh đệ con cháu khác đều được miễn quân dịch, giảm nhẹ thuế

khoá, điều đó khó mà tin được. Đoá Nhan Tam Vệ ở Liêu Đông càng không phải

làm sai dịch, không phải nộp thóc thuế, không phải phục dịch, những chuyện này sứ

giả Nặc Mộc Đồ ngài hẳn không thể không biết?

Đại Minh thiết lập buôn bán với các vị, cũng không phải vì triều đình không có

ngựa trâu, đại để là vì mọi vật dụng của các bộ lạc ngoài quan ngoại đều từ Đại

Minh ta, triều đình cho phép buôn bán cũng là vì nhân ái vỗ về dân chúng nơi biên

tái. Năm Vĩnh Lạc thứ mười lăm, Ngột Lương Cáp gặp phải đại hạn, chỉ dùng nghìn

thớt ngựa đổi tới ba trăm xe gạo của Đại Minh ta, đã cứu sống được vô số người.

Thế nhưng các người đã làm gì?

Trong sự biến Thổ Mộc Bảo, các ngươi thất tín bội nghĩa quay sang thờ Ngoã

Lạt. Mới hơi gặp thiên tai nhân họa liền coi Đại Minh là kho lúa đương nhiên, quấy

nhiễu biên quan, giết hại bá tánh, ba lòng hai ý với Đại Minh và Thát Đát, bắt cá hai

tay!

Tục ngữ có câu: một thăng (bằng 1/10 đấu) gạo ơn hơn đấu gạo thù. Khi một

người sắp chết đói, cho hắn một thăng gạo hắn sẽ coi ngài là ân nhân; nhưng nếu

ngài cho hắn một đấu gạo, hắn sẽ nghĩ rằng nếu ngươi đã có thể lấy ra một đấu gạo,

vậy sẽ có thể cho ta nhiều hơn, nếu ngươi không cho ta, thì ngươi chính là kẻ thù

của ta, ta sẽ tự tay cướp lấy. Chẳng phải Đoá Nhan Tam Vệ cũng đối xử với Đại

Minh như vậy à? Lòng tham không đáy, vong ơn phụ nghĩa!Thử hỏi nếu như không có những việc đã qua, thì sao có thể tạo ra cái cớ cho

những quan binh hám lợi đen lòng, tham tiếc công lao nhận xằng ban thưởng? Và

triều đình sao sẽ nhắm mắt làm ngơ khi Ngoã Lạt tấn công Đoá Nhan Tam Vệ?

Lời của Dương Lăng khiến Nặc Mộc Đồ nghe mà tím tái mặt mày, đám sứ giả

nhấp nhổm như ngồi trên lửa, thân thể xoay đi vặn lại rất không thoải mái.

Dương Lăng dịu giọng nói tiếp:

- Đương nhiên, những việc này phần lớn đều là chuyện cũ. Vệ sở biên quân ta

bởi những hiềm khích này mà quả thật cũng từng khiến cho dân chúng bình thường

của Đoá Nhan Tam Vệ bị giết hại, đôi bên vì vậy mỗi lúc một tách xa nhau, mất

lòng tin cậy. Chính bởi vì vậy, Hoàng đế bệ hạ của Đại Minh ta mới đích thân đến

Đại Đồng, muốn cùng đại thủ lĩnh Hoa Đáng đích thân ký kết minh ước, giúp đỡ

lẫn nhau, mãi mãi là đồng minh.

Nặc Mộc Đồ hít vào một hơi rồi cười xảo quyệt nói:

- Chắc không chỉ có vậy, đúng không? Đại Minh muốn kết minh cùng chúng

tôi, ngoài giao dịch buôn bán, không phải còn yêu cầu chúng tôi trở mặt với Ngoã

Lạt, ngăn chận vó ngựa của thiết kỵ Thát Đát, hưởng ứng hỗ trợ lẫn nhau sao?

Dương Lăng nén giận đáp:

- Không sai! Có con cọp dữ Thát Đát này, Đại Minh chịu rất nhiều thiệt hại.

Đóa Nhan Tam Vệ cũng bị bọn chúng ức hiếp không ít phải không? Nay bảy vạn

đại quân Thát Đát đang hao binh tổn tướng ngoài thành Đại Đồng mà lại chẳng

được ích lợi gì. Một khi bầy cọp khổ sói đói cúp đuôi chạy về đại mạc, Đóa Nhan

Tam Vệ sẽ là kẻ đứng đầu sóng ngọn gió.

Đoàn kết thì cả hai cùng có lợi, mà chia rẽ thì cả hai đều có hại. Tin rằng đại thủ

lĩnh Hoa Đáng nhìn xa trông rộng đã thấy được điểm này, nên mới vui vẻ đồng ý ký

kết hiệp ước cùng Đại Minh, giúp nhau công thủ, cùng đối phó với mối họa này chứ

nhỉ?Nặc Mộc Đồ mỉm cười lắc đầu nói:

- Dương đại nhân! Đại thủ lĩnh Hoa Đáng cảm động thành tâm của Hoàng đế bệ

hạ Đại Minh cho nên mới chạy đến triều bái. Hẳn ngài cũng biết, nếu một ngày nào

đó trở mặt với Thát Đát, Đoá Nhan Tam Vệ của chúng tôi sẽ là kẻ đứng mũi chịu

sào, sẽ chịu phải áp lực to lớn vô cùng, mà nếu như triều đình Đại Minh bỏ mặc

không để ý, khi ấy Đoá Nhan Tam Vệ một cây xây chẳng nên nhà, thực khó mà là

đối thủ của Thát Đát được.

Tương tự, nếu như chúng tôi nhắm mắt làm ngơ trước sự tranh đấu giữa Đại

Minh và Thát Đát, thì cho dù thiết kỵ Thát Đát ngoài thành Đại Đồng có tổn thương

nặng nề hơn đi nữa, một khi trở về thảo nguyên nghỉ ngơi lấy sức, không tới hai

năm, nanh nhọn vuốt bén liền sẽ mọc lại.

Chúng tôi và Thát Đát cùng là hậu duệ của Đại Nguyên, cho dù bọn họ có lúc

cướp bóc chúng tôi, song cũng sẽ không đuổi tận giết tuyệt. Rốt cuộc bất luận là vì

giang sơn Đại Minh màu mỡ hay là vì báo thù, bọn họ vẫn sẽ tìm đến các vị, biên

giới Đại Minh sẽ vì vậy mà mãi mãi không ngày yên bình.

Cho nên e rằng Đại Minh còn phải cấp bách đối phó với Thát Đát hơn Đoá

Nhan Tam Vệ chúng tôi nhiều, đúng không? Không biết Hoàng đế bệ hạ sẽ đưa ra

điều kiện gì để có được sự tín nhiệm của chúng tôi đây?

Ánh mắt Dương Lăng thoáng loé lên, y mỉm cười nói:

- Không sai! Trước mặt người ngay không nói lời giả dối, chúng ta đích thực có

ý muốn làm suy yếu thế lực của Bá Nhan. Giống chim dữ này mà không trừ, vùng

cửu biên đích thật không được ngày bình yên, mà khiến cho Thát Đát suy yếu đối

với Đoá Nhan Tam Vệ chỉ có trăm lợi mà không hại.

Nói rồi y cầm bát trà sữa lên, mặc kệ mùi vị khó chịu hớp một ngụm nhỏ, rồi

cúi đầu ngẫm nghĩ: "Tay Nặc Mộc Đồ này tuyệt không phải là sứ giả tầm thường.

Sứ giả các bộ lạc khác chỉ biết làm theo hắn, nhất định hắn là người được Hoa Đáng

tin tưởng nhất. Xem ra hôm nay nếu muốn nắm rõ được điểm mấu chốt để hợp tác

với Đoá Nhan Tam Vệ, chuẩn bị để Hoàng đế ra mặt đàm phán, thì sẽ phải trôngcậy vào hắn đây."

Nghĩ đến đây, Dương Lăng đặt bát trà sữa xuống, khẽ mỉm cười nói:

- Giang sơn chúng ta rộng lớn vô cùng, đồng thời cũng không giỏi việc du mục

và cưỡi ngựa săn bắn. Đại Minh không hề có dã tâm gì với tái ngoại, chỉ hy vọng

làm sao biên cảnh nước ta có thể được yên ổn, dân chúng có thể an cư lạc nghiệp

mà thôi. Như nay Ngõa Lạt đã yếu thế, nếu như Thát Đát dưới sự hợp lực tấn công

của Đại Minh và Đoá Nhan Tam Vệ mà biến thành cát vụn thì vị trí ông vua của sa

mạc thảo nguyên này sẽ do ai đảm nhiệm?

Thần sắc Nặc Mộc Đồ thoáng biến đổi, liền đó bình tĩnh lại, hắn điềm nhiên

cười nói:

- Bá Nhan là con cháu của Thành Cát Tư Hãn! Trên thảo nguyên hắn có một

sức hiệu triệu không gì sánh bằng, nếu hắn không thể làm vua của sa mạc, tin rằng

cũng sẽ không có ai có thể thay thế hắn.

Dương Lăng đẩy bàn cười lớn, đoạn đứng dậy nói:

- Thành Cát Tư Hãn? Thử hỏi trước thời Thành Cát Tư Hãn, ai là vua của sa

mạc? Sau thời Thành Cát Tư Hãn thì sẽ không còn anh hùng nào có thể thống trị

mảnh đất này nữa hay sao? Uy thế còn lại của hắn kéo dài xuống cho con cháu đến

mấy trăm năm cũng là hết mức rồi. Trung nguyên chúng ta có câu ngạn ngữ:

"vương hầu quan tướng, chẳng lẽ sinh ra đã vậy"? Sao biết đại thủ lĩnh Hoa Đáng sẽ

chẳng có một ngày trở thành Hoa Đáng Khả Hãn?

Trong mắt Nặc Mộc Đồ lờ mờ hiện lên hai ngọn lửa, cặp mắt nóng rực nhìn

Dương Lăng chằm chằm rồi hỏi:

- Dương đại nhân nói vậy... là có ý gì? Đoá Nhan Tam Vệ là ba vệ phiên thuộc

Hoàng đế bệ hạ. Phải chăng Hoàng đế bệ hạ có ý... có ý cho phép chúng tôi tự lập,

không còn mang thân phận là vệ phụ thuộc nữa?

Dương Lăng cười ha hả đáp:- Đương kim thiên tử Đại Minh sáng suốt anh minh, nhìn xa trông rộng. Đoá

Nhan Tam Vệ ngoại trừ một cái hư danh thì đã sớm đã có hình thể một nước, đã bao

giờ làm hết bổn phận chư hầu với Đại Minh? Thay vì vậy, thà rằng giao hảo bình

đẳng còn hơn. Hoàng thượng nguyện phò trợ đại thủ lĩnh Hoa Đáng ngồi trên ngôi

báu của quan ngoại, đời đời kiếp kiếp, mãi là láng giềng hoà thuận của Đại Minh.

Nặc Mộc Đồ chợt đứng bật dậy, nhìn Dương Lăng chằm chằm với vẻ khó tin,

giọng run rẩy:

- Lời này thật chứ?

Dương Lăng đáp:

- Đương nhiên! Bằng không, chỉ với cương vị Chỉ huy đồng tri một vệ phụ

thuộc Đại Minh của đại thủ lĩnh Hoa Đáng mà Hoàng thượng đích thân đến gặp, há

chẳng phải là trò cười lớn ư?

Vừa nói y vừa nghĩ thầm trong bụng: "Thực ra mang cái hư danh này, trên thực

tế thế lực triều đình Đại Minh lại không thể nào động chạm, khống chế được các

ngươi; các người thì có được cái ô lớn như vậy, mà triều đình thì lại không thể dụng

binh với các người. Có vùng đất khó nhằn như Liêu Ninh, Cát Lâm và Hắc Long

Giang rồi, chẳng lẽ còn phải giữ nuôi người Nữ Chân thành một con cọp lớn hay

sao?

Thà rằng cứ cho ngươi một cái hư danh, vỗ về một phần dã tâm của các ngươi.

Bất luận thế nào các người cũng sẽ không thể đối phó được với Thát Đát, quân

chúng ta chỉ cần xuất quan, lập tức các ngươi sẽ giúp đỡ hỗ trợ dẫn đường. Dần dần

chúng ta sẽ quen với tình hình quan ngoại. Đến khi Thát Đát sụp đổ rồi, quân của

chúng ta cũng đã hoá thành mãnh hổ. Sau đó lại tìm cớ khởi binh với đám dân một

nghìn tự hao tám trăm các ngươi, hơn nữa không chỉ đơn thuần là chinh phạt phiên

thuộc ngỗ ngược như trước đây, mà là cướp đoạt lấy hoàn toàn. Các ngươi không

muốn làm phiên thuộc, vậy ta sẽ nấu các ngươi thành khoai luộc*!" (*: phiên thuộc

(fānshǔ) đọc na ná như khoai lang (fānshǔ))

Sứ giả của các vệ ngồi bên cạnh ngơ ngác nhìn nhau. Hiển nhiên điều kiện màĐại Minh đề ra thật sự nằm ngoài dự liệu của bọn họ, nói trắng ra thì đây chỉ là một

tấm séc khống không có bất kỳ lợi ích thực tế nào.

Nhưng Đại Minh xưa nay vốn chỉ coi trọng hư danh, không xem trọng lợi ích,

chỉ cần một câu phiên thuộc về mặt danh nghĩa, thì cho dù không thể thu về một

đồng bạc thuế hay thi hành chút quyền lực hành chính nào với bọn họ, Đại Minh

cũng vẫn nguyện ý mang vàng kim bạc trắng ra đổi. Trong mắt những đứa con thảo

nguyên luôn chống chọi với đất trời, giãy giụa trong những điều kiện khắc nghiệt để

tìm cách sinh tồn này, bọn họ không thể nào hiểu được thứ tư duy trái khoáy này

của Đại Minh.

Nay đột nhiên nghe được sự cho phép động trời này, nhất thời khiến bọn họ giật

nẩy mình. Sự cho phép này quả thật là quá hấp dẫn, giống như một tên ăn mày vốn

định gõ cửa nhà anh xin một chiếc bánh bao chay lót dạ, nhưng anh lại đưa chìa

khoá nguyên căn nhà cho hắn, nói rằng từ hôm nay căn nhà này sẽ thuộc về hắn.

Bọn họ rúng động xong thì cảm thấy như đang mơ vậy, nhất thời không dám tin đó

là thật.

Khuôn mặt đỏ bừng của Nặc Mộc Đồ càng trở nên đỏ rực, hắn chợt xoay người

bước chậm rãi trong lều, ánh mắt lập loè, dường như trong lòng tranh đấu không

thôi. Có đáng tin không? Đại Minh thật sự chịu đưa ra điều kiện hậu hĩ đến như vậy

ư? Từ thủ lĩnh, vọt một cái liền trở thành Khả Hãn!

Đoá Nhan Tam Vệ không có thực lực này, nhưng nếu có binh lực và tài lực của

Đại Minh chống đỡ thì sao? Khi ấy sẽ có thể hay không? Khả Hãn! Vua của thảo

nguyên! Nhưng mà... rốt cuộc thì Đại Minh thành tâm cỡ nào đây?

Nghĩ đến đây, chợt nảy ra một kế, tức thì Nặc Mộc Đồ xoay người lại nói:

- Chuyện này thật sự quá trọng đại, tôi cần phải bẩm báo lại với Đại thủ lĩnh rồi

mới có thể trả lời với đại nhân được.

Đoạn hắn ranh mãnh nói tiếp:

- Nếu cứ vậy mà quay về bẩm báo, chỉ sợ đại thủ lĩnh Hoa Đáng của tệ bộ cũngkhó mà tin được. Bởi trước nay quốc sách của Đại Minh đối với Đoá Nhan Tam Vệ

luôn luôn thay đổi, nói một đằng làm một nẻo, thậm chí là đối với chuyện liên minh

với Đại Minh lần này, cũng có rất nhiều quý tộc trong bộ lạc mang lòng nghi hoặc.

Vì vậy lúc bản sứ giả phụng mệnh đến gặp đại nhân, các vị thủ lĩnh có đề ra hai

điều kiện. Nếu có thể tin rằng các vị cho phép Đoá Nhan Tam Vệ tự lập, đồng thời

phò trợ chúng tôi đối phó với Thát Đát thì sẽ đề xuất hai điều kiện này. Bản sứ giả

không ngại đề xuất điều kiện hợp tác ra trước, sau đó quay về bẩm báo với Đại thủ

lĩnh; cũng xin đại nhân đem báo cáo lại điều kiện của chúng tôi cho Hoàng đế bệ hạ

Đại Minh.

Chú thích:

(1) nhắc đến Minh Thành Tổ phát động chiến dịch lớn tiêu diệt các đạo quân

Mông Cổ quấy phá ở sa mạc Gobi.NGƯỢC VỀ THỜI MINH

Nguyệt Quan

www.dtv-ebook.com

Chương 206 Quyết Theo Đại Soái

Dương Lăng trở về chỗ ngồi, trầm ngâm một lúc rồi hỏi:

- Hai điều kiện thế nào? Ha ha! Mời sứ giả Nặc Mộc Đồ nói rõ!

Nặc Mộc Đồ khẽ mỉm cười, ánh mắt lập loè:

- Đoá Nhan Tam Vệ đội ân sủng của Hoàng đế bệ hạ cho phép lập Hãn xưng

vương. Đương nhiên, cho dù đại thủ lĩnh của chúng tôi được xưng là Hãn cũng

không dám đứng ngang hàng ngang vế cùng Hoàng đế bệ hạ Đại Minh, mà vẫn giữ

vai vế theo lệ là chư hầu phiên vương của Đại Minh.

Dương Lăng cười nói:

- Ấy là lẽ đương nhiên. Tuy nhiên đến khi đó Hoa Đáng Khả Hãn nắm giữ thảo

nguyên rộng lớn, cả đất đai lẫn dê bò, lại chỉ phải triều cống mà không phải nộp

thuế, sưu dịch. Làm sao phiên vương Đại Minh ta có thể so bì?

Động lòng bởi viễn cảnh tươi đẹp do Dương Lăng vẽ ra, khoé mắt Nặc Mộc Đồ

thoáng hiện vẻ mừng rỡ. Hắn cố trấn tĩnh lại rồi mới ra vẻ dè dặt nói tiếp:

- Chỉ có điều, Ngoã Lạt và Đại Hãn Thát Đát đều từng nhận được chỉ sắc phong

của chính Hoàng đế bệ hạ, cho nên chúng tôi hy vọng cũng có thể nhận được sắc

chỉ của Hoàng đế bệ hạ, cùng được ban kim ấn, phù tiết.

Dương Lăng sực tỉnh, thì ra vị đặc sứ này lo ngại Đại Minh chỉ chấp thuận

ngoài miệng. Giữa ba bộ lạc Ngoã Lạt, Thát Đát và Ngột Lương Cáp của Mông Cổ

thì bọn họ có sức ảnh hưởng bé nhất. Nếu như không được triều đình nhà Minh ủng

hộ công khai, bọn họ sẽ không thể nào có được danh xưng Đại Hãn một cách danh

chính ngôn thuận, ít nhất là trước khi bọn họ có đủ thế lực để áp chế hai bộ lạc kia.Dương Lăng thoáng trầm ngâm, rồi gật đầu đồng ý:

- Lo nghĩ của ngài cũng có lý, ta sẽ tự bẩm báo chuyện này với Hoàng thượng.

Chuyện thứ hai là gì?

Thấy Dương Lăng đồng ý, Nặc Mộc Đồ mừng rỡ ra mặt. Hắn trở về chỗ ngồi,

suy nghĩ một chút rồi mới cẩn thận nói tiếp:

- Năm xưa do Đoá Nhan Tam Vệ chúng tôi theo phò dẹp loạn có công, hoàng

đế Vĩnh Lạc đã ban thưởng cho chúng tôi Đại Ninh vệ (nay chính là Thừa Đức Thị,

huyện Bình Tuyền, huyện Kiến Xương và lưu vực sông Lão Cáp).

Nhưng mà... chắc hẳn Dương đại nhân cũng biết, Tam Vệ chúng tôi sống bằng

nghề du mục; dê bò là tất cả những gì chúng tôi có, song hoàng đế Vĩnh Lạc lại

không cho phép chúng tôi nuôi thả ở địa khu Đại Ninh. Uổng cho mảng thảo

nguyên rộng lớn mà lại không được chăn thả dê bò, cho nên hy vọng Hoàng thượng

cho phép chúng tôi chăn thả ở khu vực Đại Ninh vệ.

Dương Lăng vừa nghe xong tim liền nhảy đánh thịch. Lúc suy đoán điều kiện

mà Đoá Nhan Tam Vệ có khả năng sẽ đưa ra y liền nghĩ Đoá Nhan Tam Vệ có thể

sẽ đưa điều kiện này ra, quả nhiên là vậy. Thật ra mấy chục năm trước Đoá Nhan

Tam Vệ dưới sự hỗ trợ của bộ lạc Khoa Nhĩ Thấm có quan hệ thông gia với bọn họ

đã đem quân tiến vào thành Đại Ninh, còn vượt Hội Châu (nay là huyện Bình

Tuyền tỉnh Hà Bắc) thẳng tiến Khoan Hà (nay là xã Bộc Hà tỉnh Hà Bắc), không

ngừng lấn đẩy xuống phía nam.

Nay, Đoá Nhan Tam Vệ trải dài từ thành Đại Ninh thẳng đến Hỉ Phong khẩu,

cách Tuyên Hoá Hà Bắc một ngọn núi; thế lực của Thái Ninh vệ từ Cẩm Châu,

Nghĩa Châu qua Quảng Ninh vệ đến tận Liêu Hà, thế lực của Phúc Dư vệ từ Hoàng

Nê Oa qua Thẩm Dương, Thiết Lĩnh thẳng đến Khai Nguyên vệ. Trên thực tế dải

đất rộng lớn lấy nam và đông dòng Tây Lạp Mộc Luân và Liêu Hà làm nơi khởi

nguồn, tây kề Tuyên Phủ, đã nằm trong tay Đoá Nhan Tam Vệ.

Để Đoá Nhan Tam Vệ cùng Đại Minh liên binh đối phó Thát Đát mà chỉ cần

triều đình Đại Minh công khai sắc phong một chức vị và thừa nhận quyền sở hữumột khu vực mà trên thực tế đã nằm dưới sự khống chế của bọn họ! Thoạt trông

dường như Đại Minh không hề chịu phải tổn thất nào, thế nhưng Dương Lăng lại

không khỏi do dự.

Đại Minh không cách nào khống chế những nơi này, trên thực tế bảo chúng đã

rơi vào tay Đoá Nhan Tam Vệ cũng không sai. Thế nhưng công khai thừa nhận

quyền sở hữu của bọn họ lại là cắt nhường quốc thổ, điều này thật sự sẽ để lại mối

nguy hại vô cùng cho đời sau.

Năm xưa đại đế Vĩnh Lạc ban thưởng đất đai cho Đoá Nhan Tam Vệ là đã

phạm phải một sai lầm trí mạng. Vệ sở Đại Minh nằm ngoài quan ngoại gắn liền

một thể, giữa các vệ sở đã có sự tương hỗ cho nhau, vừa mất một mảng vào tay Đoá

Nhan Tam Vệ thì cả hệ thống chiến lược này lập tức sụp đổ, giữa các vệ sở đã mất

đi sự gắn kết hữu hiệu. Thậm chí một mình vệ sở Liêu Đông sẽ không đủ sức ngăn

chặn sự tiến công của một bộ lạc nhỏ.

Những địa khu này đều là những yếu địa chiến lược quan trọng. Dương Lăng

đang mưu tính châm ngòi nội loạn Thát Đát, rồi kéo Đoá Nhan Tam Vệ vào trong

vũng bùn, sau đó tăng quân cho Liêu Đông, củng cố sự khống chế địa khu này thì

sao y sẽ chịu tạo danh chính ngôn thuận cho người ta?

Thế là y bèn lắc đầu quả quyết:

- Sứ giả Nặc Mộc Đồ, ông phải biết rằng tuy các ông gặp phải nguy hiểm to

lớn, nhưng lợi ích đạt được lại lớn hơn. Một khi khiến được Thát Đát thần phục các

vị, các vị sẽ có thể chọn ra đồng cỏ và nguồn nước tươi đẹp nhất để chăn thả dê bò.

Cho dù có thất bại, các vị lui về cố thủ Đoá Nhan Tam Vệ, có Đại Minh kiềm chế

Thát Đát, bọn chúng cũng sẽ không làm gì được các vị. Liêu Đông là hàng rào chắn

của kinh sư Đại Minh, chúng ta không thể bỏ nó.

Nặc Mộc Đồ vừa mới mở miệng định thuyết phục, Dương Lăng đã đưa tay lên

ngăn:

- Sứ giả Nặc Mộc Đồ, chuyện này ta không cần phải xin ý chỉ của Hoàng đế bệ

hạ, tuyệt đối không cần phải thương lượng. Liêu Đông, không thể được dùng đểmặc cả!

Nặc Mộc Đồ cầm chén trà sữa lên uống một ngụm, rồi vuốt chòm râu dày đen

như sắt nghĩ ngợi, một chốc sau hắn mới nói:

- Nếu công khai quyết liệt với Thát Đát, chúng tôi phải đương đầu với nguy

hiểm rất lớn. Nếu như không có gì bảo đảm, toàn thể bộ lạc làm sao có thể yên tâm

đây? Nếu đại nhân đã nói như vậy..., không biêt có thể bẩm với Hoàng đế bệ hạ

rằng, để tỏ thành ý, Đoá Nhan Tam Vệ chúng tôi muốn cùng triều đình hoà thân(1)

được không?

Dương Lăng thoáng sững người, y không ngờ Nặc Mộc Đồ lại dám yêu cầu hoà

thân, lẽ nào là thực! Hoa Đáng còn chưa làm Đại Hãn, Đoá Nhan Tam Vệ đã cho

rằng mình là triều đình Bắc Nguyên năm xưa dưới trướng có tứ đại Hãn quốc

(vương quốc của Khan - ND) ư? Lại dám đòi hoà hiếu kết giao với triều đình nhà

Minh!

Nặc Mộc Đồ thấy sắc mặt y sầm xuống, liền vội đính chính:

- Đại thủ lĩnh Hoa Đáng có một vị ái nữ tên Ngân Kỳ cô nương, là đoá hoa mỹ

lệ nhất trên thảo nguyên Khoa Lâm Thấm,năm nay mới được 15 xuân xanh. Nếu

như Hoàng đế bệ hạ không ghét bỏ, thủ lĩnh Hoa Đáng nguyện ý dâng cho Chính

Đức hoàng đế bệ hạ làm phi...

Mặt Dương Lăng liền hết vẻ giận: thì ra là muốn tiến dâng mỹ nữ, hề hề, như

vậy cũng tốt. Dù sao cũng là thông gia chính trị, xấu chút cũng không sao, dâng vào

trong cung là được rồi. Dù sao thì ngay cả Hoàng hậu và hai vị quý phi hiện giờ đều

là vật trang trí, Tử Cấm Thành còn ngại thêm một miệng cơm nữa sao? Hơn nữa...

Khoa Lâm Thấm? Đệ nhất mỹ nữ Đại Ngọc Nhi của Mãn Châu hình như là một cô

nương vùng thảo nguyên Khoa Lâm Thấm thì phải, tướng mạo vị tiểu thư Ngân Kỳ

này chắc cũng không kém.

Nghĩ đến đây, Dương Lăng bèn mỉm cười định đồng ý rồi quay về bẩm báo với

Chính Đức, nào ngờ Nặc Mộc Đồ lại thay đổi ngữ điệu, nói tiếp:- Được biết Hoàng đế bệ hạ có hai vị ngự muội là Vĩnh Phúc công chúa và

Vĩnh Thuần công chúa, thủ lĩnh Hoa Đáng nguyện ý nghênh cưới một vị trong đó,

cũng đưa lên làm chánh thất phu nhân, cùng Đại Minh kết làm Tần Tấn, nhất định

hợp tác khắng khít với nhau.

Dương Lăng vừa nghe xong liền thoáng chau mày, liền đó thầm rủa: "Ngươi gả

con thì cứ gả con đi, sao còn đòi chúng ta bù thêm một người nữa?... Không đúng à,

con gái Hoa Đáng gả cho Chính Đức, vậy Chính Đức là con rể hắn, hắn lại muốn

cưới em gái của con rể mình... vậy sẽ loạn thành một đống gì đây?"

"Nghe nói Hoa Đáng đã có năm trai ba gái, chắc là một lão già râu xồm gần

năm chục rồi thì phải? Bảo tiểu công chúa Vĩnh Phúc thùy mị đáng yêu gả cho lão

già Hoa Đáng đó?" Vừa nghĩ đến đây, trong lòng Dương Lăng chợt cảm thấy không

thoải mái.

Bằng không thì đổi thành tiểu nha đầu Vĩnh Thuần đó vậy? Ý nghĩ này vừa mới

nhen nhóm trong đầu, Dương Lăng liền đã rùng mình, cả người rét lạnh. Y mà dám

đồng ý, khi trở về bảo đảm Chính Đức sẽ xách bảo kiếm truy sát y khắp Đại Đồng

giống như năm đó hắn truy sát cậu em vợ của ông già hắn vậy.

Dương Lăng hít vào một hơi, rồi thầm cảnh tỉnh mình: "Mình đến là để hoà

đàm, là đàm phán về việc ký kết đồng minh, cho dù không đồng ý cũng có thể từ

chối khéo một chút, như thế mới có thể đạt được mục đích. Vạn lần đừng học ông

Quan Công mà phán câu 'Con gái ta anh thư lỗi lạc há có thể gả cho thằng con yếu

hèn nhà ngươi sao?'"

Thế là y bèn dằn lửa giận trong lòng, làm ra vẻ phản đối mà bật cười to. Nạc

Mộc Đồ ngạc nhiên hỏi:

- Cớ sao Dương đại nhân lại cười?

Dương Lăng phất tay áo, cả cười bảo:

- Sứ giả Nặc Mộc Đồ tin là đại sự liên can đến vận mệnh mấy chục vạn người,

liên can đến sự sống còn của một bộ tộc lại thật sự có thể gắn liền với một ngườicon gái ư? Đại Minh cùng Đoá Nhan Tam Vệ liên kết đồng minh, giao dịch thông

thương, cùng liên minh chống ngoại xâm mới là thành tâm cao nhất.

Tự lâu đã nghe đại thủ lĩnh Hoa Đáng là một trong ba đại anh hùng tái ngoại,

hùng tài đại lược, tầm mắt cao xa, không thua kém Bá Nhan, Hỏa Sư, sao có thể ký

thác việc liên minh vào việc hoà thân? Chẳng lẽ là sứ giả Nặc Mộc Đồ tự ý làm

chủ? Ha ha... khi về đến nơi sứ giả Nặc Mộc Đồ chớ mà nhắc tới việc này với thủ

lĩnh Hoa Đáng, nếu không sẽ khiến thủ lĩnh Hoa Đáng hổ thẹn đó.

Khuôn mặt Nặc Mộc Đồ đỏ bừng, trông thành ra hơi sẫm hơn. Hắn hậm hực

bảo:

- Hoà thân là chuyện từ xưa đã có. Đời Hán, Đường đều có công chúa gả ra tái

ngoại, trở thành câu chuyện được mọi người ca tụng nghìn đời. Nếu như việc hoà

thân còn không thể biểu

thị được sự thành tâm, vậy Dương đại nhân sẽ lấy gì để chứng minh lòng thành

hợp tác đây?

Dương Lăng đáp ngay không chút do dự:

- Lợi ích! Chỉ có lợi ích chung mới có thể khiến đôi bên hợp tác khắng khít

cùng nhau.

Đoạn y vung tay áo đứng lên, bước đến trước mặt sứ giả của Hải Tây Nữ Chân

là Hồ Xích nói:

- Mấy năm gần đây Đại Minh cùng Nữ Chân giao dịch ngày càng phồn thịnh.

Bản quan lấy một ví dụ, chỉ với một món là nhân sâm. Do nhân sâm ngâm nước

không giữ được lâu nên thương nhân người Hán mặc sức ép giá, mỗi năm các người

tổn thất phải đến mấy chục vạn lạng bạc đúng không?

Vừa nhắc đến chuyện này, bụng Hồ Xích liền đầy lửa giận. Bọn họ tuyệt không

sản xuất thứ gì, hoàn toàn dựa vào việc lên núi đào sâm và săn bắn để đổi lấy muối,

lấy trà, lấy vải vóc nồi sắt với người Hán. Mà chỉ có người Hán mới biết dùng thứnhân sâm này, đem đến những chỗ khác bán không được giá và cũng không có mấy

ai mua. Nhưng thương nhân người Hán ép giá quá đáng quả thật đã hại bọn họ đến

khổ. Hồ Xích vội đứng dậy cung kính đáp:

- Đại nhân minh giám, tệ bộ lạc lần này đến đây nguyện ý gia nhập đồng minh,

chỉ hy vọng triều đình có thể đối xử công bằng với người Nữ Chân.

Dương Lăng gật đầu bảo:

- Bản quan đã biết! Chỉ với một thứ là nhân sâm của một bộ lạc Hải Tây Nữ

Chân các vị, mỗi năm đã phải thông qua chợ buôn ngựa(2) mà chuyển vận hơn năm

vạn cân nhân sâm. Mấy năm trước đôi bên xích mích, triều đình ta từng ra lệnh

cấm, không cho giao dịch suốt hai năm; số nhân sâm bị vữa nát của các vị hẳn phải

hơn mười vạn cân, đúng không? Do đó dân lành Nữ Chân nghèo khốn mà chết

nhiều vô số kể. Nếu cùng bản triều liên minh, chúng ta sẽ không cấm chợ, hơn nữa

còn tình nguyện định giá chính thức, giảm bớt thuế khoá hỗ trợ thương nhân người

Hán. Đây có thể xem là điều biểu lộ thành tâm lớn nhất chưa?

Hồ Xích mừng như bắt được vàng, gật đầu lia lịa như gà mổ thóc, luôn miệng

đáp:

- Đương nhiên, đương nhiên! Đa tạ Dương đại nhân, đa tạ Hoàng thượng!

Chúng tôi bằng lòng... bằng lòng cùng Đại Minh kết minh trọn đời.

Dương Lăng gật đầu, mỉm cười bước đến trước mặt sứ giả Kiến Châu Nữ Chân

là Lý Đậu Lý, nói:

- Kiến Châu Nữ Chân vốn lấy chuyên nghề chăn nuôi súc vật, lấy thịt ăn lấy da

mặc, còn Đại Minh ta thì chuyên cày ruộng ăn gạo mà sống.

Nhưng mấy năm gần đây, các vị dần dần khai thác đất ruộng, thu mua trâu cày,

lưỡi cày từ Đại Minh, mời người Hán dạy cách cày bừa trồng trọt. Các vị ăn mặc

giống như người Hán, giàu có sung túc nhất trong Nữ Chân Tam Bộ. Trong hai năm

cấm chợ, bộ lạc các vị nam thì không xẻng liềm, nữ thì không kim kéo, nấu thì

không có nồi, ăn thì không có muối. Thiết nghĩ Lý Đậu Lý sứ giả là người nhậnthức rõ sự việc đó nhất đúng không?

Giả như chúng ta mở thêm chợ buôn ngựa, đổi chợ phiên chỉ giao dịch buôn

bán vào mồng một và mười lăm mỗi tháng thành giao dịch buôn bán hằng ngày, mở

rộng phạm vi vật phẩm buôn bán thì ngài cho rằng đây mới tỏ rõ lòng thành của Đại

Minh, hay đưa một vị công chúa đi hoà thân mang theo mười vạn lạng bạc trắng

mới là có lòng thành?

Lý Đậu Lý nghe vậy liền sáng rỡ hai mắt. Chỉ cần Đại Minh chịu đổi từ chợ

phiên mỗi tháng hai lần thành chợ thường xuyên, mở rộng vật phẩm giao dịch đối

với ba khu chợ lúc trước thì đã đủ khiến bọn họ có đang nằm mơ cũng phải bật cười

tỉnh dậy rồi, chứ đừng nói gì đến mở thêm chợ? Chuyện này thật nằm ngoài dự liệu

của bọn họ, Lý Đậu Lý không hề nghĩ ngợi gì lập tức "trở giáo" đáp ngay:

- Đương nhiên là mở chợ buôn bán là tỏ rõ lòng thành rồi! Chúng tôi không cần

gì nhiều, chỉ cần triều đình Đại Minh chịu buôn bán cùng chúng tôi, Kiến Châu Nữ

Chân sẽ là phiên thuộc và bằng hữu vĩnh viễn của Đại Minh!

Bọn sứ giả của các bộ lạc Đoá Nhan kích động vô cùng, đã có mấy kẻ đứng

ngồi không yên. Nhưng rất có lẽ vì Nặc Mộc Đồ của Đoá Nhan Vệ là thủ lĩnh sứ giả

của Đoá Nhan Tam Vệ, cho nên bọn họ đều hướng ánh mắt về phía Nặc Mộc Đồ.

Trông thấy tình hình như vậy, Nặc Mộc Đồ không khỏi trầm ngâm nói:

- Lời ấy của Đại Nhân rất phải. Nhưng nếu như vậy, chúng tôi làm thế nào để

tin vào thành tâm của triều đình Đại Minh đây?

Dương Lăng giơ từng ngón tay lên đếm:

- Thứ nhất cũng là công khai giao dịch, tin rằng quý bộ sẽ được lợi không ít từ

trong đó.

Thứ nhì là hợp tác quân sự; một khi dụng binh, Đại Minh sẽ xuất binh từ hai lộ

là Tuyên Hoá Đại Đồng và Liêu Đông, tạo thành thế tam giác, giữa là trung lộ. Nếu

như không thành tâm hợp tác, trọng binh của chúng ta ở Liêu Đông sẽ nguy khốn

trùng trùng, như vậy hẳn đã có thể bày tỏ lòng thành của chúng ta rồi chứ?Thứ ba, tựa như năm đó Dã Tiên thái sư của Ngõa Lạt tiến đánh Yến Kinh bị

ngăn trở, lần này Bá Nhan tấn công bị đánh bại; sau khi hắn trở về ắt Thát Đát sẽ

xảy ra nội loạn. Chúng ta không cần các vị xuất binh ngay bây giờ, song phương có

thể khai trương chợ, buôn bán trước, chờ khi quân giỏi lương đủ, Thát Đát đại loạn

rồi mới thừa thế tóm gọn bọn chúng. Các vị có thể lựa xem tình thế mà hành động,

nắm quyền chủ động. Tất cả những thứ vừa nêu trên đã đủ để tỏ rõ lòng thành của

chúng ta chưa, thưa sứ giả Nặc Mộc Đồ?

Nặc Mộc Đồ nghe nói đến đây thì lông mày nhướng cao, bèn đứng dậy nắm tay

đặt lên ngực, trịnh trọng đáp:

- Chúng tôi tin vào thành tâm của Hoàng đế bệ hạ, tin lời của Dương đại nhân.

Tôi sẽ mau chóng bẩm báo cho đại thủ lĩnh Hoa Đáng được hay.

Dương Lăng mỉm cười vui vẻ, đáp:

- Tốt, vậy ta sẽ ở trong thành Đại Đồng chờ tin tốt của các vị.

Đoạn y bước trở về bàn mình bưng bát trà sữa lên uống cạn một hơi, rồi cười

sang sảng nói:

- Lần tới sẽ do bản quan chiêu đãi các vị sứ giả ở Đại Đồng, hy vọng đến lúc đó

các vị sẽ có thể mang đến tin tốt từ đại thủ lĩnh Hoa Đáng. Các vị, xin cáo từ!

Sứ thần của các bộ vẫn đứng ngoài khe núi mà dõi mắt trông theo hơn trăm

khinh kỵ khuất dần trong khe núi. Sứ giả của bộ lạc Ông Ngưu Đặc là Cách Nhật

Lặc Đài bước tới bên cạnh Nặc Mộc Đồ đang trầm tư suy nghĩ cung kính thưa:

- Hoa Đáng đại nhân, ngài thấy lời của vị sứ thần nhà Minh này có đáng tin

không?

Cặp mắt mang hơi hướm con buôn của Hoa Đáng đang giả danh là Nặc Mộc

Đồ nhoáng cái đã biến thành cặp mắt sắc bén lanh lợi như chim ưng. Hắn vuốt râu

cười nhẹ rồi bảo:

- Nếu như bọn họ chỉ muốn lợi dụng chúng ta, ắt sẽ không quan tâm đến việchứa hẹn. Do đó chúng ta có hét giá trên trời, bọn họ cũng sẽ đáp ứng hoàn toàn.

Nếu như ký kết liên minh là giả, vậy thì còn để ý đến việc giả kết thân và giả cắt đất

sao? Vị sứ thần Đại Minh này thận trọng như vậy, xem ra đích thực là bọn họ thành

tâm rồi.

Các Nhật Lặc Đài thở phào nhẹ nhõm, rồi nhoẻn miệng cười nói:

- Thành tâm là tốt rồi. Nói thật, khi đối địch với Thát Đát bộ lạc chúng ta sẽ

chết rất nhiều, nhưng đối địch với nhà Minh không những chết chóc mà còn bần

cùng; so với cái chết càng đáng sợ hơn nhiều.

Nếu như Hoàng đế nhà Minh thật sự không phải là một ông vua nhu nhược mà

cũng vĩ đại như Hồng Vũ Thiên Khả Hãn hay Vĩnh Lạc Thiên Khả Hãn năm xưa,

thì đối với chúng ta, có lẽ thuận theo ý chí của vị Chính Đức Thiên Khả Hãn này

cũng sẽ là một sự lựa chọn hết sức chính xác.

Hoa Đáng cười xảo quyệt, đáp:

- Nếu Bá Nhan thật sự dễ đối phó như vậy thì liệu nhà Minh sẽ đưa ra điều kiện

ưu đãi như vậy ư? Đừng thấy Bá Nhan đang ăn phải trái đắng ngoài thành Đại Đồng

mà tưởng bở; một khi con chim ưng này trở về thảo nguyên, nó sẽ rất mau chóng

liếm lành vết thương thôi.

Có tấm chiêu bài chữ vàng là hậu duệ trực hệ hoàng gia, hắn sẽ nhanh chóng bổ

sung đội ngũ và chiến sĩ thôi. Trừ phi... thật sự như vị Dương đại nhân này nói Thát

Đát sẽ xảy ra nội loạn. Nhưng mà danh vọng của Bá Nhan như mặt trời ban trưa,

trong nội bộ của Thát Đát thật sự sẽ có kẻ dám đối đầu với hắn sao?

Đừng vội tự cột mình vào cái gốc cây là nhà Minh này. Lúc trời nắng nóng

hầm, ta có thể mượn nó để trú mát; khi nó không thể che mưa chắn gió cho chúng ta

nữa thì chúng ta sẽ cưỡi ngựa cao chạy xa bay. Ha ha ha...

Một cặp mắt sáng như sao Mai trừng hắn, đó là của một "đứa con trai" anh tuấn

khôi ngô. Nhưng lạ là con trai trên thảo nguyên, cho dù tuổi có nhỏ đi nữa, mà hắn

vẫn trông có vẻ hơi yếu đuối quá, ngũ quan cũng xinh xắn và tao nhã qúa.Một chiếc áo da gấu ngắn lưng, đôi giày da cổ cao, cặp mày đen như mực dưới

chiếc mũ da màu nâu nhạt, cánh môi xinh xắn mà đầy đặn dưới cánh mũi hếch cao,

khuôn mặt trái xoan sáng sủa không tì vết. "Hắn" hừ một tiếng, nói với vẻ không

vui:

- Nếu đã vậy, cớ sao phụ thân còn muốn gả con cho Hoàng đế nhà Minh? Ngộ

nhỡ lúc nãy cái tên đại thần nhà Minh đó đồng ý thì làm sao?

Đó là một trong số tám tay thị vệ ở trong lều, khi nãy "hắn" đứng trong bóng

khuất nên không ai để ý đến, lúc này nghe "hắn" mở miệng nói chuyện mới nhận ra

là con gái. Hoa Đáng hơi ngẩn người, rồi bật cười ha hả ôm lấy vai cô nàng nói:

- Ngân Kỳ, gả con cho triều đình nhà Minh không tốt hay sao? Căn nhà của một

tên Bách phu trưởng của bọn bọn còn hoa lệ và rộng rãi hơn đại trướng của chúng

ta, tiền bạc của một tên tài chủ bình thường cũng có thể mua hết toàn bộ dê bò của

chúng ta. Nếu là Hoàng phi, con thật sự sẽ có một cuộc sống như trên chốn thiên

đường đó!

Thiếu nữ hừ một tiếng ra vẻ xem thường rồi đáp:

- Con vẫn không thèm! Chồng của con phải cưỡi được khoái mã, bắn được lợi

tiễn, phải là anh hùng tài ba nhất trên thảo nguyên; cho dù phải theo hắn đến tận

chân trời góc biển, cực khổ bao nhiêu con cũng không sợ.Nghe nói Hoàng đế nhà

Minh muốn đi từ một căn phòng này sang căn phòng khác cũng cần phải có một

đám người khiêng đi. Trời ạ, mới chỉ tưởng tượng một chút mà con đã muốn phát

điên rồi!

Hoa Đáng và đám người Cách Nhật Lặc Đài, A Khất Mãi nghe thế thì đều cùng

cười phá lên...

*****

- Lúc nãy nghe thấy đại nhân phát ra tiếng cười lớn mạt tướng mới yên tâm.

Bằng không thì phải chờ lâu như vậy mà không có động tĩnh gì, mạt tướng đã nhịn

không được định mang người xông vào rồi.Hứa Thái vừa vụt roi lên mông ngựa vừa cười ha hả nói.

- Đại nhân, có phải là đã đạt được hiệp nghị với sứ giả của Đoá Nhan Tam Vệ

không?

Liễu Bưu cũng phi ngựa lại gần, hào hứng hỏi.

Chiến mã mới vừa vượt qua một triền núi nhỏ. Dương Lăng ghìm ngựa dừng

cương, đưa mắt nhìn núi tuyết chói lòa bạc trắng dưới ánh mặt trời sáng rực ở xa xa,

rồi đáp:

- Vẫn khó nói! Những kẻ này đều mang tâm lý đầu cơ rất nặng. Mặc dù chúng

đã động lòng với những điều kiện do chúng ta hứa hẹn, nhưng nếu muốn bọn chúng

dốc lòng làm việc cho chúng ta, e rằng sẽ không dễ dàng như vậy.

Chợt y bật cười nói tiếp:

- Cũng may, mục đích của chúng ta chỉ là muốn bọn chúng trói chân Ngoã Lạt,

lại lấy giao dịch buôn bán mà trói chân chúng. Quyết định thắng thua trên chiến

trường không thể đặt vào mấy kẻ trở cờ theo gió này, ha ha ha... Khi nãy bản quan

bật cười, là bởi vì sứ giả của Hoa Đáng đề nghị hoán thân(3) cùng Đại Minh ta,

muốn gả con gái của Hoa Đáng cho Hoàng thượng, sau đó đòi gả ngự muội của

đương kim hoàng đế cho Hoa Đáng. Hừ! Đoá Nhan Tam Vệ càng lúc càng không

coi ai ra gì rồi!

Đoạn y quay đầu lại, dõi mắt nhìn dãy núi trùng trùng điệp điệp xa xa, ánh mắt

loé lên, nghĩ bụng: "Đoá Nhan Tam Vệ sớm đã ôm lòng bất kính, xem ra dụ bọn

chúng dính vào vũng nước đục này với Thát Đát là việc làm chính xác. Theo thái độ

của Nữ Chân Tam Bộ, xem chừng ra vẫn có thể lợi dụng bọn họ một chút. Nếu mà

trận đấu quyền anh không cân sức thì phải giúp bên yếu thế hơn một tay, lúc đó trận

đấu mới đặc sắc."

Hứa Thái nghe xong cũng không nén được giận mà mắng to:

- Hừ! Hoa Đáng là thứ gì mà cũng đòi cưới công chúa Đại Minh ta. Nếu là cungnữ như Vương Chiêu Quân hoặc một người con gái hoàng tộc tầm thường thì còn

được. Đại nhân ắt hẳn đã cự tuyệt rồi phải không?

Dương Lăng quay đầu lại, nghiêm mặt răn:

- Hứa Thái, ngươi sai rồi! Đừng nói là công chúa dòng dõi hoàng tộc, cho dù là

một dân nữ người Hán hèn mọn nhất, thậm chí là nha hoàn, hầu gái, chúng ta cũng

không thể lấy bọn họ ra để mà hoà thân, làm chuyện xỉ nhục quốc thể như vậy

được.

Y thúc ngựa, đi tới mấy bước trên triền núi, đón lấy cơn gió núi rít gào cuốn

theo bông tuyết lùa tới, hét lớn:

- Hòa thân! Hòa thân! Đó là chuyện xấu hổ nhất trên đời! Cho dù từ xưa đến

nay dị tộc có hòa thân, có giao hảo cùng dân Hán ta, thật ra cũng bởi vì thực lực

người Hán ta không thể khinh nhờn. Bọn chúng há sẽ vì một nữ nhân mà từ bỏ lòng

tham của chính mình?

Tự lừa mình dối người mà đem sự an nguy của giang sơn xã tắc đặt lên trên sự

hy sinh hạnh phúc của một người con gái, mặc cho người ta bị phiên bang dị tộc

chà đạp, thậm chí làm những việc trái với phong tục Trung Nguyên ta, để cha con

anh em luân phiên chà đạp, anh em con cái khác giống đối đãi như súc sinh, còn

khéo gọi bằng cái tên mỹ miều là "hoà thân", ăn thì không bằng heo chó, quả thực

là nhu nhược đớn hèn chỉ biết nhịn nhục!

Đoạn y quay người, nghiêm mặt lẫm liệt nói với bọn Hứa Thái, Kinh Phật Nhi,

Liễu Bưu và Ngũ Hán Siêu rằng:

- Nam nhân nào không biết bảo vệ tôn nghiêm của người phụ nữ của mình là kẻ

không có tiền đồ, dân tộc nào không biết bảo vệ tôn nghiêm của phụ nữ mình đó là

dân tộc không có tương lai.

Chúng ta không chỉ không chấp thuận hoà thân, mà có một ngày sẽ còn đánh

vào đại mạc, cướp lại những người phụ nữ người Hán đã bị chúng cướp đi, khiến

cho những kẻ rợ tác oai tác quái ức hiếp người Hán đó phải thần phục dưới chânchúng ta! Các ngươi đều là nam nhi anh hùng của người Hán ta, phải biết bảo vệ

tôn nghiêm của đàn ông người Hán chúng ta. Các người có làm được không?

Bọn Ngũ Hán Siêu nghe vậy thì sắc mặt tức thì trở nên nghiêm nghị. Hứa Thái

nghiêm mặt ngồi thẳng lưng lên, vừa định mở miệng đáp lời ai dè Lưu Đại Bổng

Chùy ở bên cạnh nghe xong máu nóng dâng trào, lập tức vung tay rống lên bằng

giọng Lai Dương:

- Đại soại, chụng tôi làm được! Chúng tôi sẹ theo đại soại đạnh giắc Thát, cượp

đàn bà, chợi mụ nội nọ! Cạc anh em, cạc người nọi có phại không?

Hơn trăm viên hiệu úy nghe vậy nhất tề vung tay soàn soạt, sát khí đằng đằng

hô lớn:

- Đúng! Theo đại soái, đánh giặc Thát, cướp đàn bà, chơi mụ nội nó!

Rặng núi rú gào, tiếng vang ầm ầm vọng lại, tuyết đọng đang tan trên đỉnh đổ

xuống ào ào, đập vào trong sơn cốc ùn ùn như tuyết lở.

Dương Lăng nghe xong thiếu chút nữa thì thổ huyết ngã ngựa: "Mụ nội nó, câu

này từ miệng Lưu Đại Bổng Chùy thốt ra sao nghe khác quá vậy?"

*****

Hai vạn đại quân của Thái Nguyên trung vệ và Thái Nguyên tả vệ cờ quạt tung

bay, chiến mã hí vang, đang cuồn cuộn tiến vào ranh giới huyện Sơn Âm. Lúc này

sắc trời đã tối, đương lúc đại quân đang chọn nơi trú đóng, chôn nồi nấu cơm, thì

hai viên tiểu hiệu lưng đeo cờ hiệu tín sứ (lính đưa tin - ND) của quân dịch chạy vội

chạy vàng vào trong đại trướng (lều lớn) trong quân.

Chỉ huy sứ vệ Thái Nguyên là Trương Dần mỉm cười ôn tồn bảo:

- Hai vị tín sứ đi đường cực khổ, hãy uống tạm chén trà nóng trước đã.

Hai viên tiểu hiệu cung kính thưa:- Quân vụ trên người, ti chức không dám trì hoãn! Đây là thư hàm về quân tình

của Tam quan tổng chế Dương đại nhân, xin chỉ huy sứ đại nhân ký nhận.

Trương Dần liền vội tiếp lấy thư hàm, kiểm tra thấy dấu xi còn nguyên, bèn lấy

tướng ấn đóng nhận vào sổ của hai người. Hai người tiểu hiệu cũng không hề uống

đến một hớp trà mà lập tức vội vã cáo từ, rời khỏi lều soái rồi lên ngựa đi luôn.

Trương Dần trở về trong lều, bóc thư hàm ra xem dưới ánh đèn. Chính là

Dương Nhất Thanh muốn đại quân của hắn dời trại đến đóng ở Quảng Vũ bảo cũ, ở

đó đợi lệnh. Trương Dần búng ngón tay lên thư mấy cái, rồi khẽ mỉm cười, căn dặn

quan thư ký ghi chép sắp xếp thư hàm lại, sau đó gọi quan trung quân lại bảo:

- Truyền lệnh đêm nay đóng trại ở đây, sáng sớm ngày mai khởi hành đến

Quảng Vũ bảo cũ.

Quảng Vũ bảo trong huyện Sơn Âm chia làm hai thành mới và cũ. Thành mới

được xây vào năm Hồng Vũ thứ bảy, nằm sát Trường Thành, do một vệ binh mã trú

đóng. Quảng Vũ bảo cũ nằm về mé tây thành mới, nằm bên trong Trường Thành,

vốn là nơi đóng quân. Quan trung quân nghe xong liền vội lui xuống truyền lệnh,

Trương Dần khoát tay cho thân binh lui ra hết, rồi nhón lấy chén trà nhíu mày trầm

tư.

Màn sau của lều được vén lên, một viên quan trung quân lặng lẽ bước vào.

Trương Dần không hề quay đầu lại, chỉ trầm ngâm thật lâu rồi mới khẽ thở dài nói:

- Bao năm khổ tâm tổ chức, thành bại ở ngay trước mắt, trong lòng ta lại bồn

chồn.

Gã quan trung quân nọ ngước đầu lên, không ngờ hắn chính là người áo xanh

từng ngồi đối diện uống rượu với Du hộ pháp trên "Thái Bạch cư" ngày đó. Hắn

cung kính thưa:

- Giáo chủ! Bản giáo hồng phúc ngang trời, nay Chính Đức thân rơi vào tuyệt

cảnh mà không tự biết. Đệ tử thấy lần này hắn có lắp cánh cũng khó mà thoát được.Trương Dần khẽ lắc đầu, đáp:

- Nghe nói hắn muốn dời đến Báo phòng, lão phu mới kêu người dụ đại đạo

Dương Hổ vào kinh, ai ngờ lại uổng mạng Lưu hộ pháp, hai trăm tên đạo tặc cũng

bị Dương Lăng hốt trọn một mẻ, Chính Đức lại chẳng hao tổn cọng lông sợi tóc

nào. Lúc đến Đại Đồng, Vương Long lại bị y tra ra, hại cho Vương Hổ cùng bị

chém đầu...

Hắn mệt mỏi nằm nửa người ra ghế, cười khẽ nói:

- Ngay cả bản giáo chủ cũng đã hơi tin mấy lời hoang đường nọ rồi, chẳng lẽ

Dương Lăng này là khắc tinh của bản giáo hay sao? Trong kế hoạch lần này, Vương

Hổ có tác dụng cực kỳ quan trọng, hắn mà chết thì sẽ không xong việc. Không có

hắn, sợ rằng Chính Đức sẽ an toàn hồi kinh thôi. Ôi!

Ta đã phải trải qua bao trắc trở, tốn biết bao tiền bạc mới đưa hắn lên vị trí tham

tướng thủ thành của thành tây, nhằm trông mong có ngày có thể trọng dụng. Nếu

như có hắn làm nội ứng ở thành tây, chúng ta dẫn Bá Nhan bất ngờ tập kích nơi hội

họp kết minh là núi Bạch Đăng, lại dụ Hỏa Sư đánh vào Đại Đồng, hai bút cùng vẽ,

khiến Dương Nhất Thanh giữ chỗ này thì mất chỗ kia, không thể cứu viện kịp thời,

ít nhất sẽ có bảy thành thắng lợi. Nay Đại Đồng vững như thành đồng, vậy chỉ có...

Đoạn hắn cười giảo quyệt nói tiếp:

- Cho dù thất bại đi nữa thì hao binh tổn tướng cũng không phải là nhân mã của

bản giáo. Chỉ có điều cơ hội tốt đến như vậy mà cứ lãng phí thì thật là đáng tiếc.

Hắn chợt ngước mắt lên, ánh mắt như điện xẹt, bắn thẳng về phía gã quan trung

quân nọ, hỏi:

- Con cờ bí mật đó vẫn chưa hấp dẫn sự chú ý của bọn chúng chứ?

Quan trung quân sợ hãi đáp:

- Dạ chưa! Giáo chủ yên tâm, vì để giữ bí mật, ngoài thuộc hạ ra, người của bản

giáo ở Đại Đồng không ai biết được thân phận của hắn cả.Đan mười ngón tay vào nhau, Trương Dần hài lòng nói:

- Ừ! Dương Nhất Thanh ra lệnh cho ta đóng quân tại chỗ, hẳn là vì Chính Đức

đã liên hệ được với Hoa Đáng. Theo kế hôm nay, chỉ có thể lặng lẽ mà quan sát tình

hình. Khi nào hai bên gặp mặt ký kết minh ước, vị Dương tổng chế này nhất định sẽ

lập tức đưa tin đến cho ta ngay. Trăm sự đủ cả, chỉ thiếu gió Đông mà thôi(4)...

Chú thích:

(1) lệ xưa quân chủ phong kiến Trung Quốc muốn tránh chiến tranh xung đột

nên gả con gái cho kẻ cầm đầu các bộ tộc ngoài biên giới để thông hôn hoà hiếu,

gọi là "hoà thân".

(2) gọi chung nơi giao dịch với của dân Hán với dân các bộ lạc khác ở biên giới

(3) hai họ cưới con gái nhau làm dâu gọi là "hoán thân".

(4) nguyên văn là "mười tám cái lạy cũng đã lạy cả rồi, giờ chỉ còn thiếu mỗi

cái vái sau cùng này thôi". Đây là ngạn ngữ dân gian Trung Quốc.NGƯỢC VỀ THỜI MINH

Nguyệt Quan

www.dtv-ebook.com

Chương 207 Dưới Chân Núi Bạch Đăng

Trở lại hành dinh khâm sai, Dương Lăng kể lại quá trình thương thảo cùng sứ

thần Hoa Đáng cho Chính Đức nghe. Nghe kể xong, Chính Đức khẽ nhướng cao

đôi lông mày lưỡi kiếm, cười lạnh:

- Hoa Đáng rốt cuộc vẫn là hậu duệ của Bắc Nguyên, tuy nghèo rớt mồng tơi

nhưng dã tâm vẫn không nhỏ. Lâu nay bị kẹp giữa Đại Minh, Thát Đát, NgõaThứ

thì hắn vẫn an phận, bây giờ vừa mới nghe nói có thể áp đảo hai bộ còn lại đã lập

tức muốn xây dựng lại đế quốc Mông Cổ trong mộng.

Hắn rũ áo đứng dậy, nói tiếp:

- Hôm nay ngươi cùng Đóa Nhan Tam Vệ thương thảo rất tốt! Những yêu cầu

vô lễ phải cự tuyệt ngay, Đại Minh ta há để cho người áp chế? Từ xưa, Đại Minh ta

là nước có thế lực lớn nhất, chế ngự Bắc Lỗ, xua đuổi Tây phiên; không dùng thói

tệ hòa thân nhằm hòa hiếu kết giao của Hán Đường, không như Đại Tống xưng thần

cắt đất, cũng không lấy lễ nghi huynh đệ đối đãi với nước địch. Hoa Đáng nho nhỏ

mà muốn kết hôn với ngự muội...... Hừ!

Cùng chung giường chung gối với người mình không thích thật là những ngày

tháng cực kỳ khổ sở! Trẫm đã cảm nhận sâu sắc cái nạn này rồi, há lại chịu để cho

chính bản thân ngự muội cũng phải gánh chịu nỗi khổ này sao? Trẫm là đàn ông

nên còn có thể tìm được cô gái mình thật lòng thật dạ yêu thích, còn Vĩnh Phúc thì

không thể làm chủ chính mình, nàng sẽ phải làm sao?

Tuy trẫm là một vị hoàng đế ẩu tả nhưng cũng biết thương yêu em gái. Nếu như

chính Vĩnh Phúc muốn lấy chồng, chỉ cần hai người tình đồng ý hợp là tốt rồi, trẫm

bất kể hắn là vương hầu công khanh hay là dân thường áo vải. Còn nếu như nàng

không muốn xuất giá, cho dù Hoa Đáng chắp tay dâng đất đai cả ba vệ, trẫm cũngkhông mang em gái đi đổi!

Dương Lăng mỉm cười tâu:

- Hoàng Thượng! Dã tâm của con người luôn luôn không ngừng tăng trưởng

theo sự lớn mạnh của quyền lực. Ban đầu Hoa Đáng chỉ có tham vọng là một góc

Liêu Đông, bây giờ nghe nói có thể thống nhất được thảo nguyên, khi đã có thể

đứng trên cao, tự nhiên ánh mắt tham lam của hắn cũng nhìn ra xa hơn.

Về dã tâm của người Man, Hoàng Thượng nói rất đúng. Mặc dù bọn họ không

phải dân tộc du mục, đã xoay sang học tập người Hán làm ruộng dệt vải nhưng

cũng không thay đổi được bản tính thích xâm chiếm đất đai của bọn họ. Bọn họ ở

lệch một bên thảo nguyên, trên có các nước La Sát, còn ba mặt trái, dưới, phải lại bị

các vệ Đại Minh ta bao vây. Một khi thống nhất thảo nguyên sẽ không có cách nào

cung cấp đủ nhu yếu phẩm cho dân số gia tăng, lúc đó nhất định họ phải xâm chiếm

bên ngoài. Cho nên thần mới khuyên Hoàng Thượng thừa dịp ba liên minh bộ lạc

đang lục đục, hãy mau chóng bình định biên giới phía Bắc, thâu tóm toàn bộ thảo

nguyên vào lãnh thổ quốc gia Đại Minh, lưu lại cho con cháu đời sau một giang sơn

vững chắc như sắt thép.

Hào khí nổi lên bừng bừng, Chính Đức gật gù tán thưởng, cười nói:

- Đúng lắm! Trẫm muốn lưu lại cho thế hệ mai sau một giang sơn vững chắc

như sắt thép...

Chợt nhớ đến chuyện khác, hắn không nén nổi nói bằng giọng hâm mộ:

- Được rồi, Dương thị độc! Nghe nói Ấu Nương tỷ tỷ đã có mang, không biết

tháng mấy sẽ sinh?

Nghe nhắc tới việc này Dương Lăng cũng đầy vẻ vui mừng, y mỉm cười đáp:

- Ước chừng giữa tháng tám, vào lúc hoa quế tỏa hương.

Chính Đức ha ha cười to, nháy nháy mắt, vỗ đùi nói:- Tốt! Nếu như là bé trai ta sẽ nhận làm nghĩa tử, nếu như là con gái ta sẽ nhận

làm nghĩa nữ. Chuyện này phải theo lệ ai dành trước là được, không cho người nào

được phép tranh cướp với trẫm!

Hắn vỗ tay cười nói tiếp:

- Thật muốn biết khi nghe tiểu hài tử kêu bằng phụ thân sẽ có cảm giác gì nhỉ?

Nhất định phải rất vui vẻ!

Dương Lăng giật mình, Hoàng Thượng muốn đích thân làm cha nuôi đứa bé?

Ngẫm nghĩ lại, y thấy dường như cũng không có gì xấu, hơn nữa Chính Đức đã mở

miệng, ai lại dám xem nhẹ mặt mũi của hắn?

Dương Lăng khẽ cười đáp:

- Trẻ em chưa được tròn trèm một tuổi thì làm sao mở miệng gọi cha được?

Hoàng Thượng thân thể cường tráng, tuổi lại như mặt trời mới mọc ở phương đông,

tương lai nhất định cũng sẽ con cháu đầy đàn.

Chính Đức mặt mày hớn hở:

- Ha ha! Chỉ hy vọng như thế.

Hắn khoát tay nói tiếp:

- Tạm không nói chuyện này nữa! Đến đây, chúng ta bàn bạc qua chuyện ký kết

hiệp ước với Hoa Đáng. Ngươi nghĩ rằng Hoa Đáng có thể đồng ý với những điều

kiện do chúng ta đưa ra hay không?

Dương Lăng đáp ngay không chút do dự:

- Nhất định sẽ chấp thuận! Trước tiên, vốn Hoa Đáng và Bá Nhan đã phân tranh

không ngừng. Bá Nhan đánh nhau với chúng ta ở nơi này đã gánh chịu tổn thất,

nhất định hắn có thể sẽ cướp đoạt lương thực Hoa Đáng để bổ sung cho mình.

Thêm nữa, ba bộ Nữ Chân rất phụ thuộcvào Đại Minh, bọn họ thành tâm nương

nhờ vào Đại Minh. Lực khống chế của Hoa Đáng bên trong Đóa Nhan Tam Vệcũng không bằng lực khống chế của Bá Nhan đối với các bộ lạc Thát Đát. Những

điều kiện hậu hỉ của chúng ta nhất định khiến cho thủ lĩnh các bộ lạc động tâm, Hoa

Đáng không thể không suy nghĩ đến những thực tế này.

Miêu Quỳ cũng đã đến dịch quán. Cũng như Trương Vĩnh, lão cũng thuộc

nhóm những người biết rõ chiến sự, lại từng thâm nhập đại mạc, có kiến thức rộng

về ba bộ của Mông Cổ. Nghe vậy, lão bèn tham gia:

- Hoàng Thượng! Theo nô tài biết, ngày xưa đế quốc nhà Nguyên phân chia

thành ba bộ. Thát Đát là trực hệ hoàng gia, thời gian qua không xem hai bộ khác ra

gì. Ngõa Thứ là đại thế lực gần gũi với hoàng tộc vào hàng thứ hai, với lại lúc trước

cũng từng nhận chức Thái Sư, từng hùng cứ Thát Đát, dã tâm thực ra cũng không

nhỏ.

Mãn Đô Hải từng chinh phạt Ngõa Thứ. Sau khi đánh bại bọn họ, bà ta bèn ra

lệnh tòa nhà của thủ lĩnh bọn hắn không được xưng là cung điện, ở trong nhà chỉ

được quỳ chứ không được phép ngồi, các quý tộc ăn thịt đều chỉ cho lấy tay xé,

không cho phép sử dụng dao nhỏ. Loại sỉ nhục này khiến cho bọn hắn thù hận tộc

Thát Đát còn hơn xa việc thù địch Đại Minh.

Cho nên theo ý nô tài, đợi đến khi Bá Nhan, Hỏa Sư xảy ra nội loạn ta liền tụ

tập trọng binh từ vệ Ha Mi (thuộc Tân Cương, Trung Quốc) công kích Ngõa Thứ,

xua con hổ nhọc mệt này vào thảo nguyên Thát Đát. Vì bãi chăn nuôi và trâu dê,

bọn họ sẽ không bỏ qua cơ hội tốt Thát Đát đang nội loạn này, nhất định sẽ không

chút do dự tham gia vào cuộc chiến đó. Có thể bọn họ tạo thành thế chân vạc vững

chắc, có thể gia nhập vào một phe tấn công phe kia. Theo nô tài phỏng đoán, rất có

khả năng bọn họ sẽ chọn Hỏa Sư làm đồng minh. Nếu thế thì sẽ có thể giảm nhẹ áp

lực phía đông rất nhiều, giúp cho quân ta ung dung bố trí. Dựa theo kế hoạch của

Dương đại nhân, chúng ta sẽ xuất binh thu dọn tàn cuộc, lại thuận thế chiếm hết

Đóa Nhan Tam Vệ.

Chính Đức sáng mắt lên, hào hứng hỏi:

- Dương khanh nghĩ như thế nào?Dương Lăng nhìn lướt qua Miêu Quỳ với vẻ khâm phục, cung tay khen:

- Thực là diệu kế! Chỉ là không biết Ngõa Thứ có còn thực lực đánh với Thát

Đát một trận hay không?

Miêu Quỳ vui vẻ tâu với Chính Đức:

- Khi nô tài thâm nhập đại mạc, từng theo hướng tây tiến vào địa bàn Ngõa

Thứ. Đội quân của nô tài đã từng giao chiến một trận nhỏ với bọn chúng, ngay lúc

đó đã phát hiện bên trong bộ lạc của bọn hắn còn tráng đinh rất nhiều. Hiển nhiên

lần này Bá Nhan triệu tập các bộ lạc tấn công Đại Đồng, nhưng người Ngõa Thứ chỉ

phái tới những kẻ già yếu, căn bản là chỉ nhằm phất cờ hò reo cho Bá Nhan. Thực

lực của bọn hắn mặc dù hãy còn không đủ để đối phó với Bá Nhan, nhưng nếu như

Hỏa Sư làm phản, vệ Ha Mi lại gia tăng áp lực, khi đó tình hình chiến sự liền không

tránh khỏi triển khai theo hướng chúng ta dự đoán.

Chính Đức cười to, vỗ án bảo:

- Hay lắm! Các khanh mưu lược không hẳn sâu sắc hơn lớp đại thần trong triều,

nhưng mà bọn họ chỉ biết gìn giữ cái đã có, không biết sự quan trọng của việc đi ra

ngoài. Chỉ cần nhìn điểm này, các khanh đã cao minh hơn bọn họ nhiều lắm đấy.

***

Đàm phán thật sự chính là tiến hành ở bên ngoài, còn đến khi bưng lên mặt bàn

cho hai bên thủ lãnh gặp mặt thì cả hai chỉ thực hiện nghi thức ký tên vào văn kiện

thôi. Công cuộc đàm phán bí mật giữa Đại Minh cùng Đóa Nhan Tam Vệ đang tiến

hành cấp tập, sứ giả hai bên qua lại cửa Đắc Thắng như thoi đưa.

Vào thời Tần Hán Tùy Đường, nơi sản sinh tuấn mã là vùng Hà Sáo, Kỳ Liên,

Trương Gia Khẩu, Hô Luân Bối Nhĩ (nay là thị trấn ở Nội Mông). Bây giờ chỉ có

Trương Gia Khẩu vẫn còn luôn luôn ở trong tay khống chế của Đại Minh. Đất đai

nơi đây rất thích hợp để nuôi dưỡng ngựa tốt, nhưng do Thát Đát thường xuyên đến

cướp bóc cho nên mã chính (chính sách dân nuôi ngựa cho quân binh) đã bỏ phế

nhiều năm.Trong thời buổi chiến tranh bằng vũ khí lạnh như hiện nay, ngựa có tác dụng

cực kỳ quan trọng, tuyệt đối không thể thay thế được. Tốc độ và sức tấn công của

bộ binh khó mà bằng được của kỵ binh. Nếu như hai bên có thực lực tương đương,

bên kỵ binh không đợi bộ binh tập kết thành đội hình chiến đấu mà ngay khi đối

phương chưa hình thành sức phòng ngự đã tung chiến mã thọc sâu vào đội hình kẻ

địch thì chỉ cần một lần xung kích là đã đánh bộ binh tan tác.

Còn nếu như bên bộ binh người đông thế mạnh, bên kỵ binh có thể ngày ẩn nấp

đêm xuất hiện tập kích quấy rối, kéo dãn đội hình của đối phương khiến đường tiếp

tế của phe bộ binh bị kéo dài, sau đó ung dung cắt đường vận chuyển lương thảo

của địch. Khi bộ binh đối phương đã suy sụp trầm trọng vì lương thảo bị cắt đứt thì

kỵ binh sẽ chia cắt, bao vây tiêu diệt. Cho dù bộ binh phòng thủ phản kích giành

thắng lợi đi chăng nữa, kỵ binh cũng có thể tùy ý chạy xa bất kỳ lúc nào, bộ binh

hoàn toàn không có cách nào truy kích.

Cho nên bộ binh đấu với kỵ binh, nếu thắng thì chỉ có thể thắng nhỏ mà bại thì

nhất định toàn quân bị diệt; quả thực ở vùng đồng bằng khó mà cùng kỵ binh giáp

chiến. Thông thường quân đội Trung Nguyên thiện về xa chiến, phiền một nỗi tuy

sức xung kích của chiến xa rất mạnh nhưng nếu phải hành quân cấp tốc trên một

quãng đường dài thì lại dễ bị hư hao. Với lại đoàn xe đông đúc ở trên chiến trường

khó mà chuyển hướng lẫn quay đầu thoải mái nên tính linh hoạt thua xa kỵ binh. Do

đó chiến xa chỉ có thể được sử dụng trong những trận tấn công quyết chiến và dùng

để tạo chiến lũy phòng thủ khi địch phản công.

Bây giờ vũ khí nóng vẫn chưa thể hoàn toàn thay thế vị trí của vũ khí lạnh.

Dương Lăng ước tính thời gian cần thiết để kiểu súng mới của Nội xưởng đạt tới

hiệu quả hoàn mỹ, được sản xuất hàng loạt, rồi trang bị tương đới đầy đủ cho quân

đội và huấn luyện sĩ tốt sử dụng thuần thục thì ít nhất cũng phải tốn năm năm.

Những việc này có nóng ruột cũng chẳng thể làm được gì. Cho dù bây giờ lập tức

có đủ binh khí hiện đại nhất đi chăng nữa thì thời gian bỏ ra để đào tạo sĩ quan huấn

luyện, sau đó bọn họ lại huấn luyện đại trà cho binh sĩ không mất đứt một năm rưỡi

không xong.

Ngay bây giờ, khi chưa có hàng loạt hỏa pháo tiên tiến, nhẹ nhàng trang bị choquân đội, khi chưa có thiết bị vận chuyển hiện đại xuất hiện, nếu muốn chiến đấu

với dân phương bắc, nhất là khi muốn chủ động tấn công, thì ngựa có tác dụng

quyết định. Dương Lăng biết rõ điều này cho nên tiêu điểm đàm phán của Đại Minh

đã một mực tập trung vào hạng mục này.

Ngoài da và lông thú thì vật phẩm Đóa Nhan Tam Vệ có thể cung cấp chủ yếu

chính là chiến mã, nên không cần phải lo lắng bọn họ sẽ để ý tới điểm đặc biệt này.

Nhưng sứ giả Đóa Nhan lại đề xuất người khá giả của tam vệ chỉ chiếm một, hai

phần mười, dân thường chiếm hơn bảy tám phần nên yêu cầu phía Đại Minh xuất

cảng nhiều gạo cùng mì muối trà hơn, giảm bớt những món xa xỉ phẩm như đồ sứ,

lụa là.

Dương Lăng đồng ý. Nhân cơ hội y đưa đề nghị Đại Minh có thể xuất khẩu

lương thảo, muối ăn thậm chí tiền đồng cùng dụng cụ bằng sắt và lưu huỳnh diêm

tiêu, nhưng bên Đại Minh muốn mua ngựa tốt, lại do Đóa Nhan Tam Vệ phái người

dạy cách nuôi dưỡng ngựa và mở thêm khu vực chăn nuôi cho ba vệ tại vùng đất

của Đại Minh.

Thông qua buôn bán thu được ngựa cùng các loại vật tư quân sự, hơn nữa mở

khu chăn thả trên đất Hán thì càng thuận tiện, vả lại chi phí thực tế sẽ càng tiết

giảm. Ở địa bàn Đóa Nhan Tam Vệ xác định vài khu vực nuôi dưỡng ngựa, vừa có

thể dùng để bồi dưỡng dân chăn nuôi xuất sắc người Hán, vừa đề phòng một khi

Đóa Nhan Tam Vệ bỏ không cung cấp nữa, việc cung ứng ngựa cũng sẽ không đến

mức phát sinh vấn đề quá lớn. Đóa Nhan Tam Vệ nhịn không được điều kiện hậu

đãi của triều đình nhà Minh dành cho, cuối cùng cũng đồng ý giúp đỡ việc này.

Lượng xuất khẩu lưu huỳnh và diêm tiêu có hạn, với lại chúng chính là vật

phẩm tiêu hao, hễ dùng là hết. Người Mông Cổ đã không có bao nhiêu vũ khí tương

ứng, cũng không có phương cách phối chế thuốc nổ tối ưu. Xuất khẩu một ít đạn

dược cho Đóa Nhan Tam Vệ nhằm một mặt biểu hiện Đại Minh thành tâm liên kết,

mặt khác là trên thực tế, triều đình nhà Minh cũng nắm trọn công cụ điều tiết sức

phát triển quân sự của Đóa Nhan Tam Vệ vào trong tay. Những vấn đề như thế này

đã bày ra ngay trước mắt những thủ lãnh Đóa Nhan Tam Vệ, nhưng hiển nhiên ngay

bây giờ bọn họ khó mà phát hiện được mối họa trong đó.Triều Minh nhập khẩu lông lạc đà, da chồn, nhân sâm, ngựa; xuất khẩu lưỡi

cày, xẻng, trâu cày, hạt giống, gạo muối, vải vóc, chảo sắt... Sau một hồi cò kè mặc

cả, bớt một thêm hai, rốt cuộc hai bên cũng đạt được thỏa thuận song phương đều

vừa lòng. Sau cùng, hai bên bắt đầu thảo luận địa điểm mở những chợ ngựa.

Lần này, triều đình nhà Minh lại vô cùng hào hiệp. Ngoài ba chợ ngựa được mở

từ thời Vĩnh Lạc ở ba vệ Nam Quan, Đông Quan, Quảng Ninh, bọn họ lại tăng thêm

ở năm cửa quan Phủ Thuận, Bạch Thổ Hán, Khoan Điện, Ái Dương, Thanh Hà.

Thời gian họp chợ là hằng ngày thay vì là chợ phiên; nhà Minh sẽ phái binh trú

đóng, ấn định giá cả, thu thuế giao thương.

Việc đàm phán đều lấy bàn bạc thảo luận mà quyết, đã kéo dài hết bảy ngày.

Lúc này quân của Hỏa Sư vẫn quấy rối ở quan ngoại, nhưng thế công càng lúc càng

yếu, đã không hề có chiến ý. Đại quân Bá Nhan đã từ vùng Bắc Bình Thuận trở về

nhưng không tụ họp cùng lực lượng của Hỏa Sư, hình như có ý định cuốn cờ xếp

trống trở về đại mạc.

Ngày mai chính là ngày thiên tử Đại Minh gặp mặt Đóa Nhan Tam Vệ, đích

thân ký kết hiệp ước đồng minh, cả hai bên cùng công cùng thủ. Mặc dù quân Thát

ở quan ngoại không có hoạt động gì lạ nhưng Dương Nhất Thanh vẫn như gặp đại

địch, tự mình trấn giữ Đắc Thắng bảo, đồng thời ra lệnh dọc tuyến Sơn Tây hơn hai

trăm quan ải, phong hỏa đài, vệ sở đề phòng toàn diện, tụ tập tinh binh. Vương Thủ

Nhân tự mình dẫn hai vị du kích tướng quân canh giữ ở quan ngoại, cơ động chiến

đấu, theo dõi hoạt động của lực lượng Hỏa Sư.

Hai vạn binh mã của Thái Nguyên vệ Trương Dần được giữ làm quân dự bị, cố

thủ ở Quảng Vũ bảo huyện Âm Sơn, sẵn sàng nhận mệnh lệnh bất kỳ lúc nào. Đỗ

Nhân Quốc trấn giữ thành Đại Đồng; còn Hứa Thái dẫn bảy ngàn kỵ binh phục ở

bên trong Đại Đồng, một khi núi Bạch Đăng báo động thì lập tức phóng ngựa gấp

rút tiếp viện.

Trên núi Bạch Đăng đã xây xong đình đón khách, lều lớn để tổ chức hội nghị,

khắp bốn mặt sườn núi đã ẩn giấu bảy mươi khẩu độc hỏa pháo.

Những độc hỏa pháo này có thể bắn lựu đạn cũng có thể bắn đạn ria. Một phátcó thể bắn ra hơn trăm miếng sắt nhỏ, tầm bắn không xa nhưng khi phát xạ, cả trăm

viên đạn lớn nhỏ cùng bay ra ngoài. Ầm một tiếng như sấm, lực sát thương với

phạm vi sát thương đều rất lớn, thích hợp sử dụng ở trận địa trống trải nhằm oanh

kích đội hình chiến đấu dày đặt của đối phương. Loại pháo này áp chế thế công điên

cuồng của địch rất hiệu quả.

Đại quân Bá Nhan vẫn ở ngoài Trường Thành, ở giữa còn có vài vạn đại quân

ngăn cản, do chính Dương Nhất Thanh thống lĩnh. Do đó Dương Lăng không lo

lắng Thát Đát hợp sức cùng tiến công mà chỉ lo Di Lặc giáo thần thông quảng đại.

Ngay trong thành Bắc Kinh mà bọn họ đã có thể tập trung hơn hai trăm tay tội

phạm tập kích Cao Lão trang vào ban đêm nên bây giờ Dương Lăng cũng không

biết bọn họ có thể tụ tập mấy ngàn giáo đồ cuồng tín bất ngờ tập kích núi Bạch

Đăng hay không. Bởi vậy ở đồng ruộng chung quanh chốn ký kết hiệp ước y đã cho

chôn hơn năm trăm quả địa lôi có thể chủ động kích hoạt được. Trước đó những địa

điểm chôn địa lôi đều đã được đánh dấu, một khi không sử dụng tới, những quả mìn

này phải được lấy ra nguyên vẹn, tránh vào đầu xuân gây rủi ro khiến dân lành đi

làm ruộng bị dính thương vong.

Theo ước định trước, đội ngũ Hoa Đáng sẽ được nghênh đón tại cửa khẩu Phi

Hồ độ. Đây là một quan ải nhỏ, từ ngoài vào trong khá nguy hiểm khó vượt qua,

nhưng từ bên trong xông ra bên ngoài lại không có gì khó khăn, một khi xông ra sẽ

phá được đội hình quân ngăn trở nên rất dễ thoát thân. Y lựa chọn nơi này cho sứ

giả Đóa Nhan Tam Vệ nhập quan là đã xóa bỏ được lòng nghi ngại của Hoa Đáng.

Hai bên quan ải Phi Hồ độ là những rặng núi cao hiểm trở, chim bay khó lọt,

phía trên là vách đá trơ trụi khó mai phục binh sĩ. Dãy núi kéo dài như rồng, cùng

Đại Đồng phía tây ngăn cách thảo nguyên, trở thành rãnh trời cắt đứt khả năng đại

quân Bá Nhan trèo đèo lội suối từ nơi đó nhập quan. Còn nếu như bọn chúng vòng

qua hơn mười dặm từ phần cuối dãy núi đánh giết vào, những phong hỏa đài thiết

lập tại phương xa liền có thể báo động ngay lập tức, quân Minh sẽ đóng kín quan ải.

Nhưng để cho an toàn, tuy ở quan ải này đã có sẵn quan binh cơ sở trú đóng, Dương

Lăng vẫn điều thêm Kinh Phật Nhi cùng một ngàn binh mã đến tăng cường.

Đã chuẩn bị kỹ lưỡng đến như thế, quả thực có thể nói là không còn sơ hở gì,nhưng Dương Lăng cùng Hồ Toản, Dương Nhất Thanh, Trương Vĩnh, Miêu Quỳ

vẫn lo lắng không yên. Đã rất khuya mà bọn họ vẫn tụ tập trong thư phòng cân lui

nhắc tới, suy diễn tất cả các cạm bẫy có thể xuất hiện.

Hồ Toản nói:

- Quan ải, Đại Đồng, núi Bạch Đăng cách nhau không xa, chỉ trong phút chốc

có thể kéo quân đến ngay lập tức. Quanh chỗ đó trên mười dặm đều là đồng bằng

không có gì nguy hiểm, không chỗ có thể ẩn nấp để thực sự gây bất lợi cho Hoàng

Thượng. Bọn họ chỉ có thể dùng sức tấn công mà thôi, nhưng mà trừ phi Di Lặc

giáo có bản lĩnh rải đậu thành binh, bằng không những binh mã này từ đâu mà xuất

hiện? Theo ý bản quan, nên đề phòng chăng là khi địch đến thì tên bay đạn lạc lỡ

làm tổn thương Hoàng Thượng.

Dương Lăng cười cười, tiết lộ:

- Tuần phủ đại nhân yên tâm! Trên núi có một cái hang động sâu đến hơn bốn

mươi trượng. Ta đã phái người san bằng đỉnh núi, sau đó chỉnh sửa, xén phẳng hang

núi kia, cũng đào rộng bề ngang, đẽo thêm bậc thang đá. Lều lớn để hội họp đã

được dựng ngay trên cửa động, một khi có chuyện, lập tức có thể mời Hoàng

Thượng tạm lánh vào trong động.

Trương Vĩnh bàn:

- Di Lặc giáo dẫn một đám dân làng đến hại được Hoàng Thượng ư? Không thể

tưởng tượng được! Bọn họ đã không có đại quân, một đám dân lành không biết gì

thì không thể làm nên việc lớn được. Theo cha gia thấy, khả năng bọn chúng sử

dụng thích khách còn lớn hơn nữa. Liệu trong quân, thậm chí trong nhóm Đóa Nhan

Tam Vệ, có thể có người bị chúng mua chuộc trở thành thích khách liều chết hay

không? Ít ra Hoàng Thượng phải mặc hai lớp giáp mềm, còn phải chọn lựa những

người võ nghệ giỏi nhất trong thị vệ đại nội theo hầu chung quanh, không rời người

nửa bước.

Thấy những thần tử này vì an toàn của mình mà như gặp đại địch, thảo luận

không ngừng, Chính Đức không nén nổi lắc lắc đầu, đột nhiên xen vào chế nhạo:- Không biết Hoa Đáng bây giờ đang làm cái gì nhỉ? Phải chăng các thủ lĩnh bộ

lạc của Đóa Nhan Tam Vệ cũng đang trắng đêm không ngủ cân nhắc làm như thế

nào để bảo vệ được tính mạng của Hoa Đáng?!

Mọi người nghe xong đang ngẩn người, Chính Đức đã đứng dậy bảo:

- Các vị ái khanh cứ tiếp tục! Ta đây là người bằng gốm sứ nên phải về phòng

nghỉ ngơi đã.

Các quan chức còn chưa kịp quỳ xuống thi lễ, Chính Đức đã vén màn cửa, thản

nhiên bước thẳng ra ngoài.

Đêm đen như mực, sao trời lấp lánh. Hai hàng thị vệ ngoài cửa nhìn thấy Hoàng

Thượng bước ra lập tức có hai gã thị vệ vội vã tháo đèn lồng xuống định đưa nhà

vua trở về. Đúng lúc đó, một bóng người yểu điệu chợt tiến vào sân nhỏ trước thư

phòng. Mắt sáng lên, Chính Đức vội lén ra hiệu với thị vệ rồi lập tức bước ra

nghênh đón.

Hắn vẫn mặc bộ đồ hiệu úy nên Đường Nhất Tiên cứ ngỡ hắn đang làm thị vệ

canh cửa. Nàng khẽ nhón chân nhìn vào thư phòng, ánh đèn qua song cửa sổ chiếu

ra vài bóng người còn đang huơ tay nói chuyện với nhau.

Đường Nhất Tiên khẽ nhíu mày:

- Hai ngày này biểu ca quá bận rộn, không rảnh để gặp mặt ta. Trong phòng

dường như có thật nhiều người, bọn họ đang bận rộn cái gì vậy?

Chính Đức nhẹ nhàng khẽ giật ống tay áo Đường Nhất Tiên, đánh mắt ra phía

trước rồi im lặng bước ra ngoài. Đường Nhất Tiên kinh ngạc bước theo ra hắn khỏi

sân. Nàng thấy Chính Đức hai tay thu vào tay áo, ngửa mặt nhìn sao trên trời lẩm

bẩm:

- Mỗi một vị quân vương đều có thể hóa thành một ngôi sao trên bầu trời. Sao

dày dặc khắp trời, ngôi sao sáng nhất chắc chắn là vị quân vương xứng đáng nhất.

Đường Nhất Tiên bĩu môi:- Ngươi đừng xạo nữa, gọi ta ra đây làm gì?

Chính Đức liếc mắt nhìn nàng, mỉm cười nói:

- Ngày mai Hoàng đế sẽ cùng thủ lĩnh Đóa Nhan Tam Vệ của quan ngoại ký kết

hiệp ước. Mấy ngày nay đại nhân có rất nhiều chuyện nên rất bận rộn, cô khoan vào

đã.

Đường Nhất Tiên gật gật đầu, chợt nói:

- Ôi! Ta thấy lạ lạ, hóa ra là Hoàng đế..., - nàng đột nhiên mở to mắt, thất thanh

- Hoàng đế? Hoàng đế ở Đại Đồng?

Chính Đức đưa một ngón tay lên miệng, khẽ "suỵt" rồi cười nhẹ:

- Nói nhỏ một tí! Ngày mai ký kết hiệp ước thì tất nhiên cả thiên hạ phải biết,

nhưng mà tối nay lại chưa thể tung tin ra được.

Đường Nhất Tiên trợn mắt nhìn hắn, nhưng vẫn hạ giọng hỏi:

- Vậy ngươi nói cho ta biết làm gì?

Nàng ngẫm nghĩ một lúc, lại hỏi:

- Ký kết hiệp ước hẳn là không có gì nguy hiểm. Ngươi cũng phải đi hay sao?

Thấy Chính Đức gật đầu, nàng bước đến gần rồi như một người chị lớn nghiêm

trang giúp hắn sửa sang lại y phục, dặn dò:

- Đi theo Hoàng Đế ra ngoài nhất định là rất vinh dự. Nhưng mà ngươi tuổi còn

nhỏ, không thông suốt việc thế sự, phải hiểu cách tự chăm sóc mình, chớ để thất lễ

trước mắt quân vương. Không những như thế là đã đánh mất mặt mũi anh của ta mà

cũng ảnh hưởng đến tương lai chính mình.

Chính Đức gật gật đầu, bỗng nhiên cười nói:

- Bản thân cô tuổi không lớn lắm mà lại rành rẽ cách chăm sóc người khác.Trước kia cũng giống như vậy, đến bây giờ ta vẫn còn nhớ rõ ánh mắt ân cần, đồng

tình của cô lần nọ.

Mắt sáng rỡ, Đường Nhất Tiên hứng thú bừng bừng hỏi:

- Chuyện trước kia của ta? Ta chẳng nhớ chuyện gì cả. Biểu ca lại bận quá

nhiều việc nên, ta cũng không tiện hỏi anh ấy. Ta đã ân cần đồng tình với ngươi như

thế nào? Kể cho ta nghe với!

Chính Đức thầm hối hận mình đã lỡ lời. Nhưng chỉ trong chốc lát, hắn ta đành

phải kiên trì nói dối đến cùng:

- Có...... Có một lần, cô và...... Nhị phu nhân, Tam phu nhân của Đại nhân đang

đi trên đường phố, bị một tên vô lại quấy rối. Ta bắt gặp được nên tiến lên ngăn cản,

nhưng bất ngờ không kịp đề phòng bị tên du côn kia tống một quyền trúng mũi

chảy máu không ngừng. Cô đã đưa một cái khăn tay cho ta...

Đường Nhất Tiên phì cười, nheo mũi:

- Ngươi thật là ngốc! Điều đó mà coi như ân cần đồng tình cái gì? Cho dù

người qua đường trọng nghĩa nói giúp vài câu, ta cũng vẫn cảm kích người ta vài

phần đấy nha. Ngươi thật! Người khác giúp đỡ ngươi thì nên nhớ ở trong lòng,

nhưng mà cũng không cần tự cam lòng nhỏ bé, tự cảm thấy mình thân phận thấp

kém, làm cho người khác cái gì cũng đều là điều cần phải làm.

Chính Đức gật gật đầu, thầm nghĩ: "Nếu không phải Dương thị độc dẫn ta ra

khỏi cung, làm sao ta có thể gặp được cô? Nói như vậy, đúng ra ta nên cảm kích

Dương Lăng mới đúng. Tuy nhiên, nói đi thì phải nói lại, nếu không phải ta xông

vào 'Hoa quán', thì làm sao Dương khanh có thể gặp được hai cô ái thiếp, còn được

ta chuộc ra ban cho hắn? Chẳng lẽ đúng là một miếng ăn, một chén nước đều do

tiền định cả sao? Lần này gặp lại được cô thực là khó khăn trăm bề, ta nhất định

phải rất quý trọng, cả đời này ta sẽ không để cho cô rời khỏi tầm mắt của ta."

***Mấy ngàn thiết kỵ trùng trùng điệp điệp trên đường. Hôm nay là ngày chính

thức ký kết hiệp ước đồng minh, không cần che giấu việc Hoàng đế đã vào tới Đại

Đồng nữa. Không lý nào quân vương một đại quốc tổ chức ký kết hiệp ước cùng

một tiểu bộ lạc ngay trên quốc thổ của mình mà lại còn phải giấu giấu giếm giếm!

Cho nên Dương Lăng mượn của phủ Đại Vương nguyên bộ nghi trượng, rồi lại bố

trí thêm cờ quạt lọng tán mới tinh.

Đại Vương và Tuần phủ Đại Đồng Hồ Toản ruổi ngựa đi trước, tiễn vua ra khỏi

thành. Trên đường cái năm bước một chòi gác, mười bước một trạm canh, những

đường phố loan giá đi qua đều được phong bế chặt chẽ. Đứng ở bên ngoài lằn ranh

do quan binh thiết lập cảnh giới, dân chúng ngạc nhiên trố mắt nhìn nghi trượng

Hoàng đế mà có lẽ suốt đời chỉ có cơ hội này họ mới được nhìn thấy.

Ở góc đường, Thôi Oanh Nhi bình tĩnh đánh giá đại đội nhân mã đi qua không

dứt. Chiếc ngự kiệu che lụa vàng tươi vừa tiến đến. Trước sau, trái phải, mỗi bên có

ba mươi hai thị vệ đại nội mặc áo thêu hình cá chuồn, đeo đao tú xuân vây kín

chung quanh chiếc đại kiệu tới mưa gió không lọt, chỉ còn có thể thấy được cờ quạt

lọng tán trên đỉnh kiệu từ từ lướt qua.

Hoắc Ngũ thúc lặng lẽ chen đến gần ra hiệu cho nàng lui lại về phía sau mấy

bước, nói nhỏ:

- Vừa mới thấy có cả chục cờ mặt trời, cờ mặt trăng, cờ phi hổ trong đoàn nghi

trượng, chính là Dương Lăng và Đại Vương, Hồ Tuần phủ. Thị vệ trùng trùng điệp

điệp, hoàn toàn không có cách nào ra tay.

Thôi Oanh Nhi ngẩn người, hỏi ngược lại:

- Ngũ thúc, không phải thúc vừa mới nói đi tiểu tiện một chút hay sao? Sao mà

thúc lại đi theo nghi trượng được một lúc rồi?

Thầm hối hận mình lỡ lời, Hoắc Ngũ thúc vội vàng giải thích:

- Vừa mới đi ngoài trở về là đã nhìn thấy nghi trượng đi qua, ta không kịp tìm

con bèn đi theo một đoạn. Nhìn tình hình thế này, một khi bọn họ ra khỏi thành bọnta càng không có cách nào ra tay. Sau khi ký kết hiệp ước xong, Hoàng Đế sẽ trở về

kinh, có thể bọn ta cũng lại không có cơ hội rồi.

Thôi Oanh Nhi hồ nghi nhìn lão, ngần ngừ:

- Đã là chuyện không thể làm, chúng ta...... Lúc đó dừng tay thì sao? Hoàng Đế

cùng Đóa Nhan Tam Vệ ký kết hiệp ước, giao thương buôn bán cả hai đều lợi. Dân

chúng biên ải hiện đang rất cao hứng, nếu như chúng ta quấy rối việc này thì không

biết phải chịu đựng sự chửi rủa của biết bao nhiêu người.

Hoắc Ngũ thúc nhìn lướt chung quanh, đáp:

- Không vội! Hoàng Đế thân chinh đến Đại Đồng tất nhiên rất coi trọng lần ký

kết đồng minh này. Việc này vừa xong, quan chức Đại Đồng nhất định bày rượu

thiết yến chúc mừng Hoàng Đế thành công. Việc thù tạc của Dương Lăng cũng nhất

định không ít, chúng ta vẫn còn cơ hội.

Thôi Oanh Nhi thầm than nhẹ trong lòng, lông mày vương chút sầu muộn.

Hoắc Ngũ thúc tận tình như thế, nàng còn có thể nói được gì?

Bộ dạng mệt mỏi, nàng lười biếng:

- Ừm! Chúng ta về chỗ ẩn thân trước đi. Hôm nay trong thành phong tỏa càng

nghiêm ngặt hơn, Hoàng Đế từ ngoài thành trở về cũng phải có cả ngàn quân binh

bảo vệ. Dương Lăng lại ở bên cạnh của hắn. Hôm nay cho dù có bản lĩnh tày trời

cũng không thể đến gần cận thần của Hoàng đế được!

Dưới sự bảo vệ của năm nghìn tinh binh, đoàn nghi trượng của Hoàng đế chậm

rãi tiến lên núi Bạch Đăng. Thám mã đi lại không ngừng như đèn kéo quân. Cứ theo

báo cáo hành trình Hoa Đáng nhập quan, Dương Lăng lại điều chỉnh tốc độ của

đoàn quân.

Hoàng Đế không thể tới trước Hoa Đáng, nhất định phải để cho Hoa Đáng kính

cẩn chờ đợi rồi Hoàng đế mới tới. Nhưng Đại Minh là chủ, Đóa Nhan Tam Vệ là

khách nên không thể để cho bọn họ phản khách vi chủ (biến bị động thành chủđộng) ở chân núi Bạch Đăng đợi quá lâu. Lúc này việc đắn đo, cân nhắc thời gian

rất quan trọng.

Trên núi Bạch Đăng cắm đầy cờ quạt lộng lẫy, hai hàng quan binh xếp từ chân

đến đỉnh núi. Các thủ lĩnh Đóa Nhan Tam Vệ và các bộ Nữ Chân vừa mới bày xong

đội ngũ chỉnh tề ở chân núi thì đoàn quân Dương Lăng cũng vừa đến nơi.

Đại quân Đóa Nhan Tam Vệ không thống nhất trang phục lẫn cờ hiệu, ngay cả

vũ khí cũng là đủ loại, nhưng mà cái khí phách hiên ngang ngút trời của cả bọn lại

biểu lộ hết sự dũng cảm oai hùng. Từ xa, ngồi trong kiệu lớn nhìn thấy sắc diện bọn

họ, Chính Đức không khỏi tán thưởng:

- Năm xưa Đóa Nhan Tam Vệ theo hoàng đế Vĩnh Lạc tấn công Kim Lăng, mỗi

khi gặp nam quân đều lấy ba vệ binh ngựa làm tiên phong. Ba nghìn người ngựa

đấu với ba vạn người ngựa nhưng chỉ cần xung kích một lần là đánh bại kẻ địch.

Bây giờ chiến lực bọn họ còn thua xa năm xưa nhưng mà nhìn khí phách bây giờ đã

như vậy, các ngươi có thể tưởng tượng được lúc trước các binh sĩ Đóa Nhan Tam

Vệ oai phong như thế nào!

Trương Vĩnh cùng cười nói:

- Hoàng Thượng! Quân uy Đại Minh của ta cũng không kém đâu. Lúc trước

thần đã lấy làm lạ khi Dương đại nhân chọn lựa lính khỏe từ mười hai đoàn doanh

gồm hơn mười vạn đại quân, tại sao đại nhân lại bỏ qua không tuyển một ít binh

lính võ nghệ tinh thông có tướng mạo xinh đẹp, lại chuyên chọn những người lực

lưỡng võ nghệ cao cường mà tướng mạo nhất định phải rắn rỏi. Bây giờ thần mới

hiểu được dụng ý trong đó.

Nghe xong, Chính Đức chỉ cười không đáp.

Quân Đại Minh quả nhiên cũng không kém Đóa Nhan Tam Vệ. Năm nghìn kỵ

binh, người nào cũng cao lớn vạm vỡ, tuấn mã oai phong, giáp trụ lóng lánh chói

mắt, thương kích uy nghiêm hướng lên trời như rừng, quả nhiên phong cách đội

quân này cũng khá dọa người.Tiếng ngựa hí cùng tiếng bội đao va chạm lách cách vang lên. Sấp sỉ chừng một

nén hương, đại kiệu của Chính Đức mới coi như đã đến hẻm núi Bạch Đăng. Đại

thủ lĩnh Hoa Đáng đã dẫn đầu những quý tộc thủ lĩnh Tam vệ và tù trưởng ba bộ Nữ

Chân kính cẩn chờ đợi ở đầu hẻm núi.

Nghi trượng Hoàng đế tách ra hai bên, Dương Lăng ghìm cương ngựa, ngẩng

đầu đưa mắt nhìn thẳng về phía trước. Dẫn đầu đoàn sứ giả chính một người đàn

ông lực lưỡng, trên gương mặt chữ điền đỏ thẫm lộ rõ một khí thế uy mãnh khó

cưỡng.

Ánh mắt Dương Lăng giống như tia chớp tập trung ở trên người của hắn, "Tại

sao lại là Nhạ Mộc Đồ? Hoa Đáng đâu?" Dương Lăng giật mình kinh hãi, bất giác

nắm chặt thanh kiếm đeo bên hông. Y đang định lớn tiếng quát hỏi, Nhạ Mộc Đồ đã

cởi thanh bội đao xuống ném cho một người hầu đứng phía sau, tay không tấc sắt

ngang nhiên tiến đến giữa hai hàng đao thương uy nghiêm đáng sợ của thị vệ đại

nội.

Hắn đi nhanh như bay, tiến thẳng đến trước đại kiệu mới dừng lại. Hắn chợt đảo

người sụp xuống lạy, từ bên trong cổ họng bắn ra những âm thanh to như sấm:

- Chỉ huy Đóa Nhan Tam Vệ, Đồng tri Hoa Đáng, khấu kiến Đại Minh hoàng

đế vạn tuế, vạn vạn tuế!NGƯỢC VỀ THỜI MINH

Nguyệt Quan

www.dtv-ebook.com

Chương 208: Điều Quân Khiển Tướng Như Chơi

Mùi máu tanh tràn ngập không khí. Tuy trời đang rét lạnh song mùi tanh vẫn

nồng nặc không tan.

Bá Nhan đứng sừng sững trước lều lớn của Khả Hãn, trợn trừng cặp mắt đỏ lừ

màu máu như một con thú dữ. Mấy trăm thớt chiến mã bị giết trải đầy trên cánh

đồng tuyết, máu tươi xổ ra ồng ộc, nhuộm đỏ cả mặt đất.

Của cải cướp bọc được trong lần xuất binh này đã hao tổn không còn gì, vốn

nên sớm kịp thời rút lui nhưng vì đợi Hoàng đế nhà Minh rời thành để đánh một

đòn chí mạng mà mấy vạn đại quân Thát Đát vẫn trù trừ không đi. Nay quân nhu

lương thực đã dùng hết sạch, sĩ tốt chỉ có thể dựa vào cây cỏ đào bới trên đồng tuyết

cùng chuột, sói, thỏ hoang mà duy trì sự sống.

Mấy vạn đại quân xới tung núi đồi sơn dã lùng bắt hết những chú chuột đồng

vừa to vừa béo, lấy dao lóc thịt, lấy nước rửa sạch, triển khai cuộc vận động "toàn

dân diệt chuột gây hại" hết sức oanh liệt. Chuột đồng thảo nguyên đào hang sống

thành đàn, sau mùa đông một con chuột cỡ lớn phải tích trữ đến mấy chục cân cỏ

khô. Những nơi bị nạn chuột phá hoại, đất đai bị chúng cày bới khắp nơi để đào

hang nên đất màu bị trôi xói nghiêm trọng. Có nơi thậm chí còn hình thành cái gọi

là "đất hoang của chuột": không còn một cành cây, một ngọn cỏ. Xem tình hình

hiện nay, nạn chuột gây hại sẽ vì thế mà bị quét sạch, sang xuân mảnh thảo nguyên

ngoài thành Đại Đồng này nhất định sẽ xanh mởn cỏ cây...

Nay binh sĩ đều áo quần rách rưới, ăn không đủ no. Nếu như tù trưởng các bộ

lạc không biết cách một dãy Trường Thành là Hoàng đế Đại Minh mà nghiêm khắc

quản thúc bộ hạ của mình thì chỉ e sớm đã có người nổi loạn.

Tái Lý Mộc Trác Nhĩ, mày đen như núi xa, mắt trong như thu thủy, khẽ khàngđi đến trước mặt Bá Nhan, lo lắng gọi:

- Đại hãn...

Hơi thở nặng nề lập tức ổn định lại, Bá Nhan nhìn cô nàng mỉm cười, cặp mắt

khôi phục lại vẻ bình tĩnh và sắc sảo thông minh khi trước. Hắn hiên ngang cả tiếng

nói với các thủ lĩnh và bọn sĩ tốt trước mặt:

- Chúng ta ở ngoài thành Đại Đồng khổ chiến gần sáu mươi ngày, quân mệt

ngựa mỏi, lương thảo thiếu hụt. Thế thì tại sao không trở về thảo nguyên của chúng

ta?

Ánh mắt sắc bén quét khắp một lượt, rồi hắn chỉ tay về phía Đại Đồng, cười to

nói tiếp:

- Bởi vì Hoàng đế của Đại Minh đang ở ngay sau ngọn núi này. Trường thành

trên núi này là bức tường vững chắc che chở cho người Hán, mà Hoàng đế Đại

Minh lại là một bức Trường Thành trong lòng người Hán. Hoàng đế mà chết, thiên

hạ tất đại loạn.

Nay cơ hội đã đến! Nội ứng của chúng ta sẽ mở cổng Cự Lỗ khẩu, ta sẽ đích

thân dẫn binh mã đại quân không ngừng nghỉ mà tập kích núi Bạch Đăng, còn

tướng quân Hỏa Sư anh hùng thì tấn công Đại Đồng. Thành lũy Đại Đồng không gì

phá nổi cũng có người của chúng ta, bọn họ sẽ mở cổng thành tây nghênh tiếp đại

quân chúng ta tiến vào. Rượu mạnh ngon nhất, đàn bà da thịt mịn màng xinh đẹp

nhất, tất cả đều sẽ ở đó đón chờ chúng ta hưởng thụ!

Hỡi các chiến sĩ thảo nguyên! Chiếm được toà thành lớn này rồi, nam đánh

Thái Nguyên, bắc dẹp Tuyên Hoá, một nửa giang sơn sẽ nằm trong tầm tay chúng

ta. Đại Đô sẽ lại trở về trong vòng tay của chúng ta; Trung Nguyên sẽ lại hoá thành

bãi cỏ của chúng ta. Hãy tiến lên! Mỗi một thằng đàn ông người Hán đều sẽ trở

thành nô lệ gác bên lều ngủ của các ngươi. Mỗi một con đàn bà người Hán sẽ cung

kính hiến dâng cái đêm đầu tiên của mình cho các ngươi. Tất cả tài sản và đàn bà

của người Hán đều sẽ mặc cho các người sử dụng!Được Bá Nhan kích động, những tiếng hú gào như sói tru nối nhau hết đợt này

đến đợt khác, dục vọng chinh phục và cướp đoạt lại một lần nữa nổi lên trong lòng

mỗi một chiến sĩ Thát Đát. Hài lòng nhìn những chiến sĩ đã lấy lại sát khí đằng

đằng, ý chí chiến đấu sôi sục, Bá Nhan vung tay quát lớn:

- Uống nước tuyết, ăn thịt ngựa, tất cả các chiến sĩ hãy ăn no một bữa! Lúc mặt

trời lên đến đỉnh, chúng ta sẽ đánh vào quan ải!

Đám chiến sĩ khát máu đã phấn chấn hùng tâm, cả cánh đồng tuyết vì một trận

chiến cuối cùng này mà đã sôi trào, từng miếng thịt ngựa to đùng vẫn còn hồng

hồng đã liền bị bọn binh sĩ vớt ra khỏi nồi mà nhai nuốt như cọp đói. Tù trưởng các

bộ lạc khua chiêng gióng trống chuẩn bị chiến tranh. Lều bạt và một ít xe ngựa thì

giao cho đám lính già yếu bệnh tật trông coi, chỉ tập trung khinh kỵ và khoái mã

chuẩn bị tập kích quan ải.

Ý chí chiến đấu tràn ngập doanh trại. Ngay cả những tên Thát Đát bị thương, bị

bệnh, già yếu tàn tật cũng đều đến trước mặt thủ lĩnh của mình cố gắng tranh giành

cơ hội xông lên quan ải, chém giết, cướp bóc, chiếm đoạt đàn bà. Không cần phải

động viên gì thêm, mỗi một tên đều biết giang sơn người Hán giàu có và sung túc

như thế nào, đàn bà con gái người Hán xinh đẹp ra làm sao. Sự tham lam đã khiến

cho những binh sĩ yếu đuối nhất cũng hoá thành những con mãnh hổ.

Một người ăn mặc theo lối người Mông Cổ được dẫn nhanh vào lều Khả Hãn

của Bá Nhan. Nghe gã nọ báo tin tức từ quan ải do Di Lặc giáo đưa tới xong thì Bá

Nhan không khỏi biến sắc. Hắn trầm ngâm một lúc lâu rồi mới nhoẻn miệng cười,

bảo với kẻ đưa tin:

- Tốt lắm, ta biết rồi. Ngươi hãy trở về sơn khẩu tiếp tục chờ tin tức kế tiếp.

Kẻ nọ đưa tay lên ngực làm lễ:

- Tuân lệnh! Bây giờ tôi sẽ trở về Cự Lỗ khẩu ngay.

Song gã ta vừa mới quay lưng, Bá Nhan liền rút nhanh thanh loan đao bóng

loáng như tuyết đâm vào giữa sống lưng hắn. Kẻ nọ kinh ngạc quay đầu, sợ hãi nhìnchằm chằm vào Bá Nhan.

Bá Nhan mỉm cười ác độc. Đao rời thân, máu phun ra, kẻ nọ ngã sấp xuống mặt

đất. Trác Nhĩ kinh hãi bụm miệng, đến khi kẻ nọ tắt thở, cô nàng mới hoảng sợ hỏi:

- Đại Hãn, sao ngài lại giết hắn?

Sắc mặt Bá Nhan xám xịt. Thấy trong lều không có người ngoài, hắn mới trầm

giọng đáp:

- Mới vừa nhận được tin nội ứng tại thành tây Đại Đồng của Di Lặc giáo đã bị

khâm sai nhà Minh chém chết rồi. Vốn định tiến thẳng đoạt lấy Đại Đồng, bắc ngăn

quân Minh về ải tiếp viện, nam chặn đường lui của Chính Đức, sau đó...

Trác Nhĩ lo lắng hỏi:

- Vậy giờ phải làm sao?

Bá Nhan lắc đầu bảo:

- Không còn đường lui nữa rồi. Không thể để lộ tin này được. Tên thám tử này

là người của Thổ Mặc Đặc thuộc bộ lạc Quách Lặc Tân, là người trong tộc của Hỏa

Sư. Không thể để bộ lạc của Hỏa Sư biết ta đã nhận được tin tức này. - Đoạn hắn

liếc cái xác nằm trên mặt đất rồi thờ ơ nói tiếp, - Để Hỏa Sư tiếp tục đi gặp cục

xương cứng đó đi, chúng ta giết Hoàng đế trước, sau đó lại quay về cùng chiếm lấy

Đại Đồng!

*****

Cự Lỗ khẩu chỉ là một thành lũy bằng đất. Do nó bị kẹp giữa hai quả núi, địa

thế hiểm trở, trước mặt là một lòng chảo chật hẹp, Thát Đạt lại không có vũ khí

công thành quá lợi hại nên không thể đánh chiếm thành nhanh chóng. Vì vậy, một

khi phát hiện bị địch tiến công thì nơi đây bèn nổi lửa khói phong hỏa đài, các quan

ải chung quanh liền có thể mau chóng thông qua Trường Thành mà điều quân đến

tiếp viện, cho nên bình thường nơi đây chỉ có binh lực của hai bách hộ trú đóng, do

một vị Phó thiên tổng cai quản, kiêm quản một Bách hộ sở (gồm 112 người - xemchú thích chương 43).

Sau khi đại quân của Bá Nhan Khả Hãn tiến vào trong ranh giới Sơn Tây, nơi

này được điều động thêm một trăm tăng binh (quân đội hoà thượng - ND) từ Ngũ

Đài Sơn. Thời đó nghĩa dũng và tăng binh thường được điều động tham gia chiến

đấu mỗi khi có chiến sự, sau chiến tranh lại trở về địa phương cũ.

Vị Phó thiên tổng này tuổi hơn hai mươi, họ Lý tên Nghĩa, mới vừa nhậm chức

được hơn một năm. Người này anh tuấn bất phàm nhưng võ nghệ rất cao siêu, tính

tình lại điềm đạm. Hắn không hề truy cứu chuyện sĩ tốt thỉnh thoảng lén mua bán

nồi sắt, lọ sành với dân du mục Thát Đát, cho nên rất được bọn tướng sĩ ủng hộ và

yêu mến.

Hôm nay, bình minh vừa ló dạng hắn đã bồn chồn leo lên trạm quan sát liên tục

ngóng nhìn về phía khe núi ngoài quan ải. Sĩ tốt gác trạm trông thấy Phó thiên tổng

đại nhân mặt mày căng thẳng liền cười nói:

- Đại nhân, tuy Dương tổng chế đã hạ lệnh trong những ngày này toàn bộ quan

ải, vệ sở, phong hỏa đài phải cảnh giới toàn diện, nhưng nghe nói rằng đại quân Bá

Nhan thiếu thốn lương thảo, không phải đã chuẩn bị trở về đại mạc rồi sao? Đại

nhân hà tất phải lo lắng như vậy! Hơn nữa từ lúc nổ ra chiến sự đến nay, quan ải này

của chúng ta vẫn chỉ bị vài tốp giặc Thát tới quấy phá, lúc này càng sẽ không có đại

quân đến tập kích đâu.

Lý Nghĩa cười lớn bảo:

- Nói đúng lắm! Có điều quân lệnh của Tổng chế đại nhân nghiêm minh, cái gì

nên kiểm tra thì vẫn phải kiểm tra thôi.

Đoạn hắn đảo tròng mắt, nhìn ngó chung quanh, sau đó thân thiết vỗ vai sĩ tốt

nọ, nhỏ giọng nói tiếp:

- Biết cuộc sống nhà ngươi hơi vất vả, bản quan sẽ không để ý đến việc ngươi

mua bán vài cái nồi niêu chậu chảo đâu. Có điều mấy ngày nay bên trên tra xét ngặt

nghèo, đừng để xảy ra chuyện gì đó nhé.Tiểu binh nọ cảm kích thưa:

- Đa tạ đại nhân! Tiểu nhân biết chừng ạ! Sẽ không mang phiền phức đến cho

ngài đâu. Hề hề, đợi mấy ngày nữa đại quân Bá Nhan rút đi rồi hẵng tiếp vậy.

Lý Nghĩa gật gù, cười nói:

- Đứng suốt buổi sáng, các ngươi cũng đã mệt rồi, lui xuống nghỉ ngơi cả đi. Ta

sẽ điều đám tăng binh nọ lên thủ thành. Chúng ta lăn lộn mưa gió quanh năm suốt

tháng, bọn chúng tên nào tên nấy được nuôi dưỡng kỹ trong chùa thành ra tai to mặt

lớn, phương phi tốt tướng; đến lúc bọn chúng phải bỏ ra chút sức rồi.

Binh lính thủ thành cả mừng, mấy người bọn họ liền khúm núm lấy lòng:

- Đa tạ đại nhân quan tâm! Để tiểu nhân đi gọi bọn chúng lên đây.

Chỉ một chốc sau, bốn mươi gã tăng binh đã trèo lên lầu thành, mấy chục quan

binh thủ thành cùng chen nhau đi xuống. Lý Nghĩa trông thấy vị tăng quan (chỉ huy

tăng binh - ND) tuổi gần ngũ tuần bước đi có phần chậm chạp, ánh mắt không khỏi

ngưng tụ. Đợi lão đến gần, hắn mới nhỏ giọng hỏi:

- Sao vậy, vết thương vẫn chưa lành à?

Tăng quan nọ múa cây thuyền trượng "lẻng xẻng" vài đường, rồi cười đáp:

- Nhị thiếu chủ, thủ hạ đã khỏi nhiều rồi. Lần này không dám động tay động

chân nhiều cho nên thân thể được tịnh dưỡng đến mức béo núc. Khà! Phải nói cái

con lừa trọc trên Ngũ Đài Sơn đó thật là lợi hại, cái xẻng nọ suýt nữa đã xén đùi thủ

hạ làm đôi rồi. Khôi phục được đến như thế này đã là may mắn lắm rồi.

Đoạn hắn nhìn ra ngoài quan ải nói tiếp:

- Vừa nãy thiếu chủ sai người của Phương bách hộ đi chuyển cây lăn và dầu

tung. Cớ này có phần khiên cưỡng, tại hạ trông thấy Phương bách hộ có vẻ ấm ức

lắm, chốc nữa không chừng hắn sẽ bẩm báo với cấp trên là Tề tham tướng đây.

Thiếu chủ nên cẩn thận một chút.Lý Nghĩa cười nhạt, vỗ vỗ lên lỗ châu mai đáp:

- Cha đã bí mật đưa ta vào trong quân đội, vốn là muốn nắm vững binh quyền

trước rồi mới từ từ mà tính kế. Nay Hoàng đế đến Đại Đồng là cơ hội nghìn năm

khó gặp, chức quan này ta cũng không thể tiếp tục làm nữa rồi. Chốc nửa cửa ải mở

ra, Lý tham tướng này cũng sẽ biến mất khỏi thế gian, mặc hắn có thích thì cứ đi mà

hặc tội. Không giữ hắn lại đây chờ chết là đã tận tình tận nghĩa với hắn lắm rồi. Ha

ha ha!!!

Vừa dứt tiếng cười, hắn lại hỏi:

- Dưới thành đã chuẩn bị xong hết chưa?

Gã tăng quan đầu tròn tai béo, mặt mũi hồng hào gật đầu đáp:

- Thiếu chủ yên tâm, chúng tôi là tăng nhân, không ngồi chung mâm cùng quan

binh. Vừa nãy đã sai người bỏ thuốc vào trong đồ ăn của chúng rồi, chốc nữa sẽ có

thể giết chúng như giết heo thôi...

Hắn vừa nói đến đây, dưới lầu thành đã vọng lại tiếng rú thảm thiết. Hai người

không khỏi đưa mắt nhìn nhau cả cười.

Từ xa, tên rít xuyên mây, âm thanh chói tai từ trong hẻm núi rì rầm vọng lại; tên

bay xé gió, vó ngựa như sấm. Một đội kỵ mã đông nghìn nghịt như kiến ùn ùn kéo

tới, trông như một tấm thảm đen kịt được trải dài, trong chớp mắt đã bao phủ khắp

mặt đất.

Chỉ trong khoảng một nén nhang, ngoài quan ải đã đầy đặc người la ngựa hí,

phủ kín cả mặt đất...

*****

Đến dưới chân núi, Dương Lăng mới biết rằng vị sứ giả Nặc Mộc Đồ nọ chính

là Hoa Đáng. Người Hán có thói quen hai quân giao chiến không chém sứ giả.

Ngoại tộc biết rõ điểm này nên từ xưa thường có Khả Hãn đích thân cải trang làm

sứ thần đến viếng đất Hán, tận mắt ngắm nhìn giang sơn người Hán. Sự tình trọngđại như vậy khó trách Hoa Đáng muốn tự thân xuất mã đàm phán cùng triều đình

nhà Minh.

Lúc này, trong căn lều lớn trên đỉnh núi Bạch Đăng, khách và chủ đều đang vui

vẻ. Chính Đức tự tay viết quốc thư, đóng thêm ngự ấn, chấp thuận việc hợp tác và

buôn bán song phương, đồng thời phong Hoa Đáng làm Thuận Minh vương, nhảy

một bước từ một viên quan chỉ huy quân sự của Đại Minh có chức Đồng tri thành

Khả Hãn Thuận Minh. Cương vị phiên quốc và thuộc quốc đương nhiên khác biệt,

Hoa Đáng cảm thấy lưng mình đã thẳng lên không ít.

Dương Lăng mỉm cười bước ra cửa lều, hô to:

- Người đâu, dâng bữa!

Hai nhóm tiểu thái giám đến từ phủ Đại vương nối đuôi nhau tiến vào, những

mâm đĩa tinh mỹ óng ánh như ngọc chứa đầy những món ăn tinh xảo lần lượt được

mang đặt trên bàn Chính Đức và thủ lĩnh các bộ lạc.

Mặc dù trên núi điều kiện sơ sài, nhưng màu sắc và hương vị các loại món ăn

được các vị ngự trù và đầu bếp vương phủ do Dương Lăng đưa tới chuyên tâm chế

biến đều rất tuyệt vời, thể hiện rõ khí phách quốc gia, khiến cho thủ lĩnh các bộ lạc

nọ khen ngợi không thôi. Bọn họ tròn mắt cầm dao mà thấy lúng túng, dùng tay bốc

lấy thì lại ngượng ngùng, chỉ biết thở dài tán thưởng mà thôi.

Cha được phong làm Khả Hãn, thân phận của Ngân Kỳ cô nương đã là công

chúa, tuy nhiên lúc này cô nàng vẫn vận nam trang. Trong lều phần lớn đều là

những nhân vật hét ra lửa hùng cứ một phương, không ai để ý đến một tiểu thị vệ

đứng sau lưng Hoa Đáng như cô nàng.

Thấy Dương Lăng gọi người dâng món, Ngân Kỳ bèn liếc xéo y rồi cũng bước

ra ngoài lều, vỗ tay ba cái. Bốn gã Mông Cổ cao to khiêng vào trong lều một chiếc

bàn sơn son, trên đặt một con dê béo nướng sẵn quấn bằng lụa đỏ. Bọn chúng quay

về phía Chính Đức quỳ một gối xuống đất, đặt nắm tay lên ngực làm lễ rồi mới lặng

lẽ lui ra.Con dê thiến hai tuổi béo ục, da vàng óng ánh, da giòn thịt thơm, được quay

nguyên khối nên thịt rất thơm ngon, trong lều tức thì tỏa ra mùi thịt dê nướng thơm

lừng. Hoa Đáng đứng dậy đi đến trước chiếc bàn sơn son, rút từ trong thắt lưng ra

thanh loan đao nhỏ bằng bạc, thoăn thoắt xẻ phần xương vai, cắm trên đầu mũi dao.

Nữ Chân Tam Bộ thì đề cử thủ lĩnh Chúc Khổng Cách của Hải Tây Nữ Chân

tiến lên. Trên chiếc bàn son bày sẵn một cái chén bằng bạc, một cái bình bằng bạc.

Chúc Khổng Cách lấy đao cẩn thận rọc bụng dê, đổ nước canh dê thơm phức từ

trong bụng ra nửa chén, rồi lại rót thứ nước trong vắt từ trong chiếc bình bạc ra nửa

chén, khuấy đều. Sau đó hai người cùng bước đến trước mặt Chính Đức.

Tức thì thị vệ đứng sau lưng Chính Đức đứng bật dậy, tay dằn bội đao. Ngũ

Hán Siêu đứng bên cạnh sải tới một bước, ngón tay kẹp chặt hai chiếc phi tiêu kim

tiền. Dù biết hai vị thủ lĩnh này không thể hành thích Hoàng đế vào lúc này nhưng

bọn họ vẫn không dám lơ là chút nào.

Cũng may Hoa Đáng và Chúc Khổng Cách cũng biết rõ lễ nghi. Hai người

bước tới trước mặt Chính Đức cách ba bước thì dừng lại, khuỵu một gối xuống đất.

Hoa Đáng mở miệng hát:

- Thiên Khả Hãn tôn quý trên cao, xin hãy cho phép thần dâng trọn con dê béo

mềm này. Sống lưng của nó to lớn như vòm trời rộng khoát, bốn chân của nó to béo

như đất đai phì nhiêu, cái đầu của nó ngẩng cao như núi cao hùng vĩ, ống xương của

nó chắc khoẻ như cây đàn hương trên núi. Thiên Khả Hãn được ban nhiều lộc

phước, xin ngài hãy hưởng dụng nó...

Một đại hán to cao vạm vỡ như vậy lại quỳ ở đó hát một cách hết sức nghiêm

túc khiến Chính Đức vừa thấy lạ vừa thấy buồn cười. Trương Vĩnh và Miêu Quỳ

đứng ở hai bên bước lên định nhận lấy lễ vật do hai vị thủ lĩnh cung phụng. Dựa

theo nghi thức thì phải do Chính Đức tự tay nhận lấy nên Hoa Đáng chỉ liếc xéo

bọn họ mà không chịu buông tay. Không khí trong lều ngay lập tức hơi căng thẳng.

Chính Đức cười ha hả bảo:

- Các ngươi lui xuống đi! Mời Thuận Minh vương và thủ lĩnh Chúc KhổngCách tiến lên!

Hai người Trương Vĩnh đành phải lui về. Hai người Hoa Đáng bước đến trước

bàn của Chính Đức, khom lưng dâng đặt lễ vật lên bàn. Tuy Hoa Đáng cố tình chĩa

mũi cây đao bạc nọ về phía mình, nhưng nếu thuận tay đâm tới, góc độ này có thể

vừa vặn đâm ngay vào cổ họng Chính Đức. Thế nhưng Chính Đức mặt không đổi

sắc thản nhiên cầm lấy cây đao bạc cắm miếng thịt dê béo nọ từ tay Hoa Đáng rồi

đặt xuống bàn, gật đầu mỉm cười với hắn, rồi lại đón lấy chiếc bát bạc từ trong tay

Chúc Khổng Cách, đặt sang một bên.

Trong mắt Hoa Đáng thoáng hiện lên vẻ khâm phục, hắn lại quỳ xuống trước

bàn Chính Đức, cầm lấy bình ngọc trên bàn, rót đầy một chén, dâng hai tay lên cho

Chính Đức. Chính Đức đón lấy rồi uống cạn một hơi. Thân là Thiên Khả Hãn,

Chính Đức chịu uống cạn rượu mời của bọn họ không chừa một giọt là biểu hiện rất

tôn trọng bọn họ. Hoa Đáng và Chúc Khổng Cách và thậm chí là tất cả thủ lĩnh các

bộ lạc thấy vậy đều lộ vẻ mừng rỡ.

Chính Đức cũng tự tay cầm lấy bình rượu, rót một chén cho Hoa Đáng và Chúc

Khổng Cách, sau đó lại rót cho mình một chén, đứng dậy cười nói:

- Nào, chúng ta hãy uống cạn chén này!

Hoa Đáng và Chúc Khổng Cách hai tay nâng lấy chén, lui về sau mấy bước,

đứng phía trước thủ lĩnh các bộ lạc, dẫn đầu các thủ lĩnh đồng thanh hưởng ứng:

- Tạ ơn Thiên Khả Hãn, mọi người cùng uống nào!

Tất cả mọi người trong lều lớn lần lượt nâng chén uống cạn.

Tiệc rượu mừng lễ kết minh chính thức được bắt đầu. Thủ lĩnh các bộ lạc thay

phiên nhau kính rượu Thiên tử và sứ thần Đại Minh. Dương Lăng biết được khi

những người Mông Cổ này kính rượu mà mình không uống hết thì rất phi lễ, cho

nên trước đó y sớm đã kiếm mấy chén rượu bằng bạc nhìn thì khá bề thế nhưng đáy

thì nông tẹt, vậy mà y vẫn bị ép uống đến ngà ngà say.Dương Lăng đứng dậy mời lại thủ lĩnh các bộ lạc. Đang lúc không khí trong lều

hết sức chan hòa, chợt mọi người nghe thấy có tiếng pháo hiệu. Tiếng cười nói

trong lều tức thì ngưng bặt. Dương Lăng kinh ngạc, lập tức chạy ào ra ngoài, mấy

viên thị vệ vội nhanh chóng che chắn trước mặt Chính Đức.

Dương Lăng vừa chạy vội ra ngoài, thủ lĩnh các bộ lạc cũng căng thẳng lục tục

kéo nhau ra xem. Cả bọn thấy từ trên đỉnh ngọn núi đằng xa, khói lửa đang bốc lên

dày đặc, binh sĩ dưới núi náo loạn. Phía Đại Đồng có một đội nhân mã đang phóng

nhanh tới.

Dương Lăng kinh hãi:

- Đã xảy ra chuyện gì vậy?

Tiếc rằng thời này chưa có điện thoại điện báo, tuy thấy khói hiệu truyền tin

nên y biết đã xảy ra biến cố quân sự trọng đại, song bên cạnh lại không ai biết rõ rốt

cuộc là đã xảy ra chuyện gì.

Thủ lĩnh bộ lạc Ông Ngưu Đặc là Ô Lạp Nhĩ vừa giận dữ vừa khiếp sợ, trông

thấy đằng xa có đại đội nhân mã đang chạy lại, trực giác mách gã rằng Dương Lăng

muốn mượn việc kết minh mà bắt sạch bọn họ.

Không chút nghĩ ngợi, Ô Lạp Nhĩ rút nhanh loan đao, phóng người qua gác đao

lên cổ Dương Lăng, giận dữ quát:

- Bọn Hán chúng mày gạt tao! Đại thủ lĩnh, hãy mau dẫn người xông xuống

núi. Cướp ngựa rời khỏi quan ải!

Ngũ Hán Siêu được Dương Lăng năm lần bảy lượt dặn dò, bảo hắn nhất định

phải bảo hộ Hoàng đế được chu toàn, cho nên vừa nãy khi Dương Lăng chạy ra

khỏi lều chàng ta hơi do dự một chút, nay chỉ trong nháy mắt Dương Lăng đã bị Ô

Lạp Nhĩ chế ngự. Thấy đã có bọn thị vệ bảo vệ Chính Đức, Ngũ Hán Siêu bèn

phóng người lại, tay phải cầm kiếm, tay trái kẹp ám khí, định giết chết Ô Lạp Nhĩ

cứu đại nhân ra.Dương Lăng trông thấy thủ lĩnh các bộ lạc Đoá Nhan đều cầm chắc đao trên

tay, đang căng thẳng đến cực độ, ngay cả thủ lĩnh của Nữ Chân Tam Bộ và thị vệ

của bọn họ cũng đã cầm lấy binh khí, căng thẳng đề phòng động tĩnh từ phía thị vệ

quân Minh. Y biết rõ nếu như Ngũ Hán Siêu giết chết Ô Lạp Nhĩ cứu mình về, cuộc

chiến toàn diện giữa Đại Minh và Đoá Nhan Tam Vệ nhất định sẽ nổ ra khắp cả trên

lẫn dưới núi, khi đó sẽ chẳng còn bất kỳ cơ hội nào để mà giải thích nữa. Thế là

không chút nghĩ ngợi gì, y lập tức trừng mắt quát:

- Ngũ Hán Siêu, dừng tay!

Ngũ Hán Siêu thoáng sững lại, thân hình đang chực phóng vọt đột nhiên dừng

lại tại chỗ. Lúc này Chính Đức cũng đã bước ra khỏi lều dưới sự bảo vệ của các thị

vệ, hắn đẩy thị vệ che chắn trước mặt ra, bước mấy bước về phía trước quát lớn:

- To gan! Trẫm đường đường là thiên tử, là Thiên Khả Hãn của Đại Minh, há sẽ

làm chuyện bẩn thỉu lấy kết minh làm mồi, dụ thủ lĩnh các bộ lạc ra để giết hay sao?

Thả người của trẫm ra!

Tuy Chính Đức còn nhỏ tuổi, mặc long bào vào người vẫn trông như thằng bé

mới lớn, nhưng lúc này lời quát lẫm liệt lại không cần giận dữ mà vẫn oai nghiêm,

khiến tên Ô Lạp Nhi thân thể như gấu nọ cảm thấy khiếp sợ, không khỏi đưa mắt

nhìn về phía Hoa Đáng dò hỏi.

Đương lúc Hoa Đáng còn do dự không biết có nên tin lời của Chính Đức hay

không, Ngân Kỳ đã bước ra phía trước, nói lớn:

- Đừng có hoảng sợ, người Minh không có ác ý với chúng ta đâu.

Nói đoạn xoay người về phía thủ lĩnh các bộ lạc và thị vệ đang cầm đao cầm

kiếm, cô nàng giơ cao hai tay, trấn an:

- Người Minh nổi lửa khói báo động tức là thông báo có ngoại địch xâm nhập.

Giả như Hoàng đế Đại Minh muốn giết chúng ta, hắn sẽ 'giương cờ gióng trống',

lặng lẽ điều binh, thừa lúc chúng ta xuống núi mà động thủ, chứ làm gì mà 'ngưng

trống dẹp cờ', làm chuyện ai ai cũng có thể thấy, ai ai cũng có thể nghe như thếnày?

(Cô nương Ngân Kỳ sử dụng nhầm thành ngữ, lẫn lộn "giương cờ giống trống"

với "ngưng trống dẹp cờ" - Ba_Van)

Rồi nàng quay lại nói với Ô Lạp Nhĩ:

- Ô Lạp Nhĩ thúc thúc, hãy thả đại thần nhà Minh đó ra đi. Con tin hắn sẽ giải

thích rõ cho chúng ta.

Ô Lạp Nhĩ hơi ngần ngừ. Trông thấy mọi người đều đã lặng lẽ buông bỏ đao

thương, Hoàng đế Chính Đức cũng vung tay ra lệnh cho thị vệ quân Minh lui ra sau,

hắn bèn buông đao xuống, đẩy Dương Lăng về phía trước.

Dương Lăng bước tới trước hai bước, đứng ngay cạnh cô nương Ngân Kỳ mới

biết viên thị vệ này là con gái. Y kinh ngạc liếc người con gái thanh tú có đôi mày

kiếm dài và đen như mực, mắt vừa to lại đẹp này, sau đó giũ giũ chiếc mãng bào dệt

vàng, sửa ngay ngắn chiếc khăn chít đầu bằng lụa đen hơi bị lệch, rồi nhoẻn miệng

cười nói:

- Cô nương thuộc thành ngữ thật giỏi!

Ngân Kỳ cô nương hừ một tiếng yêu kiều, hếch chiếc mũi thon lên, có phần đắc

ý bảo:

- Vẫn mong đại nhân hãy mau chóng nắm rõ tình hình, cho chúng tôi một câu

trả lời thoả đáng.

Dương Lăng khẽ gật đầu, thưa với Chính Đức:

- Hoàng thượng, ngài có nên vào trong lều...

Chính Đức lắc đầu bảo:

- Thủ lĩnh các bộ lạc đều ở ngoài này, trẫm cũng sẽ ở ngoài này. Dương khanh,

khanh hãy mau chóng tra rõ tình hình!Dương Lăng cung kính đáp:

- Dạ!

Rồi y dẫn theo vài thị vệ chạy nhanh về phía sơn khẩu. Đội quân từ phía Đại

Đồng đã phi tới dưới chân núi, Dương Lăng chưa nghe thấy có tiếng địa lôi kích nổ,

nên nghĩ ắt là quân đội Đại Minh, cho nên hơi yên tâm. Khi đến sơn khẩu, y thấy có

khoảng trên vạn nhân mã xông tới dưới chân núi đã hội họp cùng mấy nghìn quân

Minh trên núi. Trên ngọn cờ cao chót vót thêu rõ chữ "Hứa".

Dương Lăng rất đỗi kinh ngạc, thầm nghĩ: "Ra là Hứa Thái! Vốn đã thương

lượng rằng nếu trên núi có biến thì sẽ nổi lửa hiệu truyền tin triệu hắn tới ngay. Nay

trên Trường Thành lửa hiệu nhóm lên khắp nơi, rõ ràng là giặc Thát lại tấn công

quan ải, hơn nữa thế công ắt rất khốc liệt. Đại quân của hắn sao không cố thủ Đại

Đồng đợi lệnh mà chạy đến nơi đây để làm gì?"

*****

Sau khi đại quân của Chính Đức rời khỏi thành, bảy nghìn kỵ binh của Hứa

Thái liền tạm dừng ở phụ cận thành đông, người không rời ngựa, ngựa không rời

yên, sẵn sàng nhận lệnh bất cứ lúc nào, Đỗ Nhân Quốc thì toạ trấn phủ Tổng binh.

Tuy kế hoạch đã được bàn tính kỹ càng, suy đi nghĩ lại trên núi Bạch Đăng khó

lòng xảy ra chuyện gì ngoài ý muốn, nhưng thiên tử ở nơi nào thì nơi ấy là trọng

tâm của thiên hạ thế nên Đỗ Nhân Quốc không hề dám lơ là chút nào.

Mấy quan ải gần Cự Lỗ khẩu liên tiếp nổi lửa hiệu, tin tức truyền khắp chín ải,

tất cả mọi quan ải lập tức bước vào tình trạng chuẩn bị chiến đấu cấp một (giống

như DEFCON1 haha- TheJoker), vệ sở lân cận liền tăng binh. Đỗ Nhân Quốc nhận

được bẩm báo liền lập tức chạy lên thành lũy phía tây, phái mấy lộ thám mã chạy về

hướng Cự Lỗ khẩu tra xét tình hình.

Thám mã vừa rời thành đã phóng băng băng theo quan lộ. Mới vừa vượt qua

một cái đồi nhỏ, chợt hai viên thám mã thấy mặt đất rung chuyển, đập vào tầm mắt

là vô vàn quân mạnh tướng dữ người Thát Đát đầy khắp núi đồi, người và ngựa

nhập lại thành một trông như sói như cọp, đang lao nhanh về phía thành Đại Đồng.Thám mã hãi hùng khiếp vía. Hai năm trước Thát Đát cũng đã từng công phá

quan ải, thành Đại Đồng thiếu điều thất thủ, thiết kỵ Thát Đạt đánh thẳng đến Cư

Dung Quan thì mới bị chận mà phải lui về. Không ngờ hôm nay lại tái diễn chuyện

xưa, lang sói thảo nguyên đã xâm nhập Trung Nguyên một lần nữa.

Hai tay thám tử lập tức quay đầu ngựa chạy về, người nép sát trên lưng ngựa

mà vút roi vù vù, chiến mã tung vó như bay. Sau lưng bọn họ, tên bay phủ kín mít

cả bầu trời, trông hệt như đàn châu chấu đang ùa tới. Cả người lẫn ngựa Hai viên

thám tử bị bắn thành bốn con nhím. Vó ngựa ào ào như mưa gió, thiết kỵ của Thát

Đát quét qua, đạp mặt đất thành một mảng mơ hồ, không còn thấy chút dấu vết gì

của người lẫn ngựa.

Tốp thám mã thứ tư vừa chạy tới con đường giữa khe núi trên bình nguyên,

mặc dù từ xa có thể thấy được tình thế không ổn nên kịp thời quay ngựa phi về

nhưng mông ngựa và lưng người vẫn dính phải một đám tên. Có điều khoảng cách

hơi xa, sức tên đã hết nên bọn họ không bị bắn chết.

Hai tay thám tử phi vào trong thành như một cơn lốc, hét lạc cả giọng:

- Thu cầu treo! Khóa cổng thành lại! Giặc Thát xông vào quan ải rồi!

Đỗ Nhân Quốc đứng trên đầu thành nghe vậy thì cả kinh. Ông ta cũng không

rảnh để đi truy cứu xem chỗ quan ải nào đã bị đánh chiếm mà lập tức ra lệnh cho

người phi ngựa cấp tốc truyền báo Hứa Thái đang ở thành đông chạy đi cứu viện

núi Bạch Đăng gấp, đồng thời cho đóng chặt bốn cổng thành, toàn bộ quan quân

trèo lên lỗ châu mai, cùng quân Nghĩa Dũng và Khoái Thủ hỗ trợ thủ thành.

Hồ Toản hay tin cũng tức tốc chạy từ nha môn tuần phủ tới cổng thành. Trông

thấy giặc Thát đang phóng băng băng, thế như đập trời vỗ đất thì kinh hồn hãi vía,

chỉ mong cho giặc Thát không biết Hoàng đế đang ký kết hiệp ước với Đóa Nhan

Tam Vệ trên núi Bạch Đăng. Nếu đại quân địch công thành thì Hoàng đế sẽ có thể

kịp nhận được tin tức mà mau chóng lui về một quan ải nào đó.

Nào ngờ đại quân giặc Thát chỉ hò hét mà lại không công thành, đại quân vòng

qua tường thành rồi không chút chần chừ mà lao nhanh về phía đông. Đội ngũ giặchung hãn như hồng thủy mang theo khí thế như muốn chôn vùi hết thảy.

Trông thấy thế, Hổ Toản lạnh ngắt trong lòng, đờ đẫn nhìn theo đoàn thiết kỵ

Thát Đạt đang tràn qua như hồng thủy. Lão quay sang nhìn Đỗ Nhân Quốc thì thấy

vị tướng quân đội được xưng là chiến thần Đỗ phong tử không sợ chết cũng đã xám

nghoét mặt mày.

Lá cờ lớn vẽ hình con sói xanh tung bay phất phới trong gió, như thể đang giễu

cợt bọn họ. Khi thấy đại quân sắp biến mất, Hồ Toản mới giật mình tỉnh lại, la to:

- Đỗ tổng binh, mau, mau cứu viện núi Bạch Đăng! Giặc Thát phá được quan ải

mau như vậy, đại quân của Dương tổng chế vẫn còn đang tập trung ở Trường

Thành, phần lớn lại đều là lính bộ, đợi hắn dẫn quân trở về thì đại sự đã xong rồi!

Đỗ Nhân Quốc cũng như vừa tỉnh cơn mê, giật mình đánh thót. Phần lớn kỵ

binh đều đã bị Hứa Thái mang đi, trong thành chỉ còn lính bộ. Đối diện với đội

quân Thát Đát thanh thế cuồn cuộn như thế, nếu dựa vào thành mà thủ thì có lẽ còn

giữ được Đại Đồng. Đại quân mà rời khỏi thành, e rằng không chỉ toàn quân bị diệt

sạch, mà nếu như giặc Thát lợi dụng đặc điểm mau lẹ và cơ động của kỵ binh mà

cho khoái mã quay lại phản công thì ngay cả Đại Đồng cũng sẽ bị mất. Song chỉ cần

có thể kéo dài thời gian thêm một chút, để Hoàng đế bình an lui về quan nội, thì tổn

thất có lớn cỡ nào cũng đáng.

Đỗ Nhân Quốc chụp lấy đại đao của mình, đang định tập trung quân thủ thành

trong thành xuất phát về phía núi Bạch Đăng, thì từ đằng xa một lá cờ thêu hình

chim ưng đỏ rực đã lừng lững tiến tới. Đại quân của Hỏa Sư kéo đến rồi!

***

Nghe Hứa Thái hớt ha hớt hả kể xong, Dương Lăng không khỏi sởn gai ốc. Có

nghĩ đến vỡ đầu y cũng không tài nào hiểu nổi làm thế nào mà suốt hai tháng trời

giặc Thát đại chiến ngoài thành vẫn không phá được Trường Thành, giờ lại nhanh

như vậy, khéo như vậy, mà nhằm đúng ngay lúc bọn chúng thế cùng lực tận như vậy

mà vẫn có thể trong nháy mắt phá được một quan ải để xông vào.Giặc ngoài dễ tránh, trộm nhà khó phòng. Dương Nhất Thanh đến Đại Đồng

mới được hai tháng, vừa mới đến liền phải tập trung hoàn toàn tinh thần vào trận

đại chiến với giặc Thát, vốn không có thời gian chỉnh đốn quân đội.

Mấy ngày trước, đột nhiên xảy ra chuyện Vương Long, Vương Hổ tư thông

Thát Đát, mà thực tế là gian tế do Di Lặc giáo dùng vàng to bạc lớn thu xếp trà trộn

vào quân Minh, toàn bộ quan viên có quan hệ mật thiết đến họ Vương đều bị thuyên

chuyển khỏi chức vụ cũ. Thế nhưng đại quân Thát Đát đang giương cặp mắt hổ

nhìn chằm chằm ngoài quan ải, lúc này không thể gây nên ảnh hưởng quá rộng mà

thanh trừng khắp nơi, để tránh làm tổn hại tới căn cơ của biên quân. Cho nên không

chỉ Dương Lăng không có manh mối gì, mà ngay cả Dương Nhất Thanh ngay vào

lúc này cũng chưa nhận được tin tức Lý Nghĩa phản bội mở cửa thành Cự Lỗ Khẩu

dẫn giặc Thát vào quan ải.

Đằng xa người ngựa tung bụi mịt mù, bóng giặc vừa hiện, Dương Lăng liền

quyết đoán, lập tức hạ lệnh:

- Hứa Thái, Liễu Bưu, lập tức điều đại quân bảo vệ núi, cố thủ, chờ viện binh.

"Cố thủ", chỉ hai chữ, song lại hàm chứa trong đó biết bao sự chém giết đẫm

máu. Ngửi thấy được mùi máu tanh trong đó, Hứa Thái và Liễu Bưu bèn nghiêm

nghị nghe lệnh. Nghe xong Liễu Bưu liền hỏi:

- Đại nhân, vậy chúng ta làm gì với năm nghìn thiết kỵ của Đóa Nhan Tam Vệ?

Dương Lăng nhìn xuống dưới núi, nơi đại quân Đóa Nhan Tam Vệ tập kết. Trên

và dưới núi có tổng cộng hơn một vạn hai nghìn quân Minh, cộng thêm đội quân

Đóa Nhan Tam Vệ tràn trề sinh lực thành gần hai vạn nhân mã, như thế ít nhất có

thể thủ ngọn núi này được một ngày. Giặc Thát tuy kiêu dũng, song không có quân

số gấp mấy lần thì làm sao có thể đánh tràn lên núi được?

Dương Lăng thầm tính toán: "Toàn bộ binh lực của Bá Nhan Khả Hãn có

khoảng hơn bảy vạn. Trải qua gần hai tháng chiến trận tiêu hao cũng bộn, kẻ còn

năng lực chiến đấu chưa tới sáu vạn. Bá Nhan có không tiếc hết thảy mà dốc toàn

bộ binh lực đánh lên núi không? Cho dù sáu vạn đại quân cùng tấn công lên núiBạch Đăng, bọn ta cũng có thể thủ được một lúc. Chỉ cần giữ vững không đổ,

Dương Nhất Thanh và Đỗ Nhân Quốc sẽ kịp kéo quân đến cứu viện.

Có điều... hiệp ước đồng minh mới vừa được ký kết, Đóa Nhan Tam Vệ vẫn

chưa mò vớt được lợi ích gì, cái tên chuyên trờ cờ theo gió Hoa Đáng có sẽ chịu

dốc toàn lực đối địch với Bá Nhan không? Có sẽ gặp tình thế không ổn liền lâm trận

trở giáo không? Không được! Trước khi thắng bại chưa phân, quyết không thể dùng

người của Đoá Nhan Tam Vệ!"

Nghĩ đến đây, Dương Lăng bèn bảo:

- Trước mắt, chỉ cần giữ được ngọn núi này là chúng ta sẽ thắng, không cần

cùng Bá Nhan so đo thiệt hơn nhất thời. Hãy cho điều đại quân lên núi, chia đóng ở

khắp nơi để ngăn địch, dưới núi chỉ để lại ba nghìn binh mã và mọi súng pháo để

kiềm chế nhuệ khí quân giặc, coi thế giặc mạnh yếu mà rút lên núi khi có thể. Còn

về phần Đoá Nhan Tam Vệ... bản quan sẽ bảo Hoa Đáng điều bọn họ lên núi. Liễu

Bưu, người của ngươi đứng chắn ở giữa, không thể để bọn chúng đến gần lều lớn.

Nhận lệnh xong hai người xuống núi, Dương Lăng trèo lên một tảng đá to, nhìn

về nơi xa. Đội kỵ binh đen kịt không ngừng hiện ra ở phía chân trời, ùn ùn kéo tới

như thủy triều, khí thế lẫm liệt ngất trời. Dương Lăng chỉ cảm thấy trong miệng

đắng nghét...

Đứng trong ngôi đình nhỏ vừa được xây trên đỉnh Bạch Đăng, Chính Đức và

đám người Hoa Đáng phóng mắt nhìn ra xa cũng đã phát hiện đại quân bất tận đang

dần kéo đến, nhất thời lại không rõ đã xảy ra chuyện gì. Mặc dù không hiện lên trên

mặt song ai nấy đều đã nổi trống trong lòng.

Đúng vào lúc này, thấy Dương Lăng dẫn sáu tay thân binh khoan thai trở về từ

sơn khẩu, Chính Đức lập tức tranh hỏi trước:

- Dương khanh, đã xảy ra chuyện gì vậy?

Bọn người Hoa Đáng cũng dỏng tai lên nghe câu trả lời của y. Dương Lăng

điềm tĩnh mỉm cười đáp:- Hoàng thượng trù tính thật không sai! Quả nhiên Bá Nhan trúng kế, đã dẫn đại

quân đến tấn công núi Bạch Đăng!

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Com

Tags: #ssss