Phần Không Tên 3
Tuy rằng địa vị thấp kém nhưng lão ta lại là người có thể thường xuyên thấy mặt Hoàng đế nhất, Hà tham tướng cũng không dám xem thường ý kiến của lão. Vị Lưu công công này ở trong cung đình chức vụ thấp hèn, thế nên mặc dù là Giám quân nhưng lão cũng không dám kiêu ngạo, suốt dọc đường đều hết sức cẩn thận, chỉ sợ sẽ để lộ cái xấu.
Vừa rồi nghe ý kiến của Diệp ngự sử, trong lòng lão ta âm thầm tính toán: "Đại quân chúng ta vừa mới tới đã đoạt lại được trạm Kê Minh ngay, có thể nói là một đại công. Nếu đưa quân đánh tiếp, lập thêm được chiến công thì đúng thật là như thêu hoa trên gấm. Nhưng nếu đúng như lời Diệp ngự sử nói, lỡ Thát Tử còn có phục binh, quân ta mà thất bại thì ta không làm tròn trách nhiệm một Giám quân, há chẳng phải sẽ bị Thánh thượng trách mắng sao? Cẩn thận vẫn hơn!"
Nghĩ đến đây, Lưu công công mỉm cười nói:
- Hà tướng quân có dũng, Diệp ngự sử thì có mưu, còn ta tầm nhìn hạn hẹp, cũng chẳng dám nói là có kiến giải gì. Có điều, đại quân lặn lội đường xa nên mệt mỏi không kém địch nhân, nếu tùy tiện truy kích, lỡ như có gì sơ suất thì sẽ không được tốt cho lắm. Hiện giờ Trịnh tham tướng và Tống tham tướng đang dẫn quân từ Trác Lộc, Xích Thành đến giáp công quân Thát Đát. Ngoài ra còn có tướng quân du kích Tề Quảng Thắng đang gấp rút chi viện cho trạm Nhị Lý Bán. Mấy cánh đại quân cùng tới như vậy, quân Thát Đát nhất định sẽ thất bại, ta nghĩ cứ cẩn thận một chút cũng tốt.
Thấy hai vị Giám quân đã có ý kiến tương tự nhau, Hà tham tướng bèn nói:
- Được, các tướng nghe lệnh đây! Lệnh cho Tất Xuân, Tôn Đại Trung lập tức thu binh, đồn trú trước cổng thành và phòng bị thật nghiêm ngặt! Sai thợ thuyền trong quân và thợ địa phương lập tức sửa chữa cổng thành! Phái thám mã thăm dò thực lực quân địch và tình hình hiện tại của Nhị Lý Bán và Ngũ Lý Phố!
Dương Lăng nghe vậy thầm lắc đầu: "Chẳng sợ kẻ địch giống hổ, chỉ e tướng nhà như heo. Rõ ràng là thời cơ cực tốt, không ngờ lại bị một gã thư sinh với một tên thái giám nói hươu nói vượn một hơi thành ra phải bỏ phí như vậy. Thật đáng tiếc!"
Hà tham tướng bảo thêm:
- Hoàng huyện thừa, Giang bả tổng, hai người cùng bản quan đi tuần tra quanh thành! À... Dịch thừa bản địa đâu?
Hoàng huyện thừa vội đáp:
- Đại nhân, Mã dịch thừa... đã chết trận! Hà tham tướng lại hỏi:
- Chủ bạ đâu?
Hoàng huyện thừa thi lễ, đáp:
- Đại nhân, Vương chủ bạ đã đưa Mẫn đại nhân xuống thành, đường đến đây đã bị nghẽn bởi đại quân nên tạm thời ông ấy chưa tới kịp. Vị này là Dương sư gia, phụ trách lo liệu toàn bộ chuyện dân sự trong thành. Tướng quân xin cứ việc phân phó!
Hà tham tướng liếc mắt nhìn Dương Lăng, thấy y còn trẻ như vậy thì không khỏi giật mình. Hoàng huyện thừa thấy thế bèn mỉm cười cung tay nói:
- Đại nhân, Dương sư gia tuổi trẻ đầy triển vọng, đã giúp Mẫn đại nhân quản lý Kê Minh trên dưới rất trật tự, ngăn nắp và rõ ràng. Đại nhân cứ yên tâm!
- Vậy sao?
Hà tham tướng đưa mắt đánh giá Dương Lăng một chút, vẻ mặt nghiêm nghị đã hòa hoãn hơn một chút, ông ta chỉ tay vào Dương Lăng, bảo:
- Ngươi giao tất cả sự vụ ở huyện nha cho Hoàng huyện thừa! Từ bây giờ ngươi sẽ tạm thay chức Dịch thừa của Kê Minh, phụ trách liên lạc và vận chuyển lương thảo. Còn nữa, đêm nay bản tướng cùng hai vị Giám quân đại nhân sẽ ở lại sở dịch thừa, ngươi hãy đi sắp xếp một chút đi!
Dương Lăng vội khom người đáp:
- Vâng! Ti chức tuân lệnh!
Hà tham tướng lại quay sang phía Diệp ngự sử và Lưu công công, hòa nhã nói:
- Hai vị Giám quân đại nhân, mời! Chúng ta đi xem xét tình hình phòng thủ của thành một chút!
Hoàng huyện thừa vội sai Vương ban đầu (đội trưởng Vương) theo Dương Lăng đi tiếp quản sở dịch thừa, sau đó lão và Giang Bân cùng ba vị đại nhân rời đi. Dương Lăng đứng thẳng lưng lên, hơi hoang mang một chút. Hàn Ấu Nương thấy y đứng đó, bộ dạng như thất thần thì không khỏi tò mò, hỏi:
- Tướng công, làm Dịch thừa là thăng quan hay giáng chức thế? Dương Lăng lắc đầu:
- Là choáng váng!
- Ối!
Hàn Ấu Nương lo lắng nói:
- Tướng công vừa rồi đã bị thương, sao gã Giang bả tổng đó còn nắm lấy mà lắc chứ? Thật là! Tướng công thân thể không khỏe, vậy mà hắn còn mạnh tay như thế!
Hàn Ấu Nương vừa nói vừa tức giận trừng mắt nhìn theo bóng Giang Bân. Dương Lăng cười nhăn nhó:
- Không phải thế đâu! Đó là tại vì ta chưa từng làm Dịch thừa bao giờ nên giờ không biết phải làm gì cả. Hoàng lão lại cùng với mấy vị đại nhân đi tuần thành rồi, thế là chẳng còn ai chỉ điểm cho.
Hàn Ấu Nương bảo:
- Thế thì ... đi hỏi Vương chủ bạ đi! Bây giờ vẫn chưa tới trưa, thời gian để sắp
xếp chỗ ở cho các vị đại nhân vẫn còn dư dả lắm.
Dương Lăng vỗ trán:
- Ừ đúng, giờ ta phải đi, nàng hãy về nhà nghỉ ngơi một chút! Vi phu lo xong sẽ về ngay, mệt thật đấy!
Ấu Nương nghe xong bèn vâng một tiếng, Dương Lăng và Vương ban đầu thì lập tức xuống dưới thành.
Khi nãy nếu nhân lúc giặc Thát vẫn còn kinh hoàng thất thố chưa kịp chuẩn bị, đưa quân tiên phong chọc thẳng vào trung khu làm rối loạn thế trận đối phương rồi lại dẫn đại quân chia làm hai cánh giáp công, ít ra cũng có thể khiến nhân mã của bọn chúng tổn thất một nửa. Đáng tiếc lại lỡ mất cơ hội tốt, thật khiến người ta phải nuối tiếc.
Vương chủ bạ đang ở gần huyện nha. Vốn lão đã khiêng Mẫn huyện lệnh theo tới gặp các nhân sỹ, định tổ chức cho trăm họ chạy trốn thì lại thấy đại quân từ thành bắc kéo vào, đương nhiên không cần phải thực hiện kế hoạch đã định từ trước nữa. Lão đưa Mẫn đại nhân về huyện nha trước, trong lúc đang hối hả quay trở lại thì gặp Dương Lăng và Vương ban đầu đang cùng cưỡi ngựa tới.
Tuy Dương Lăng không biết cưỡi ngựa, nhưng vì muốn tranh thủ thời gian nên y cũng gắng gượng leo lên chiến mã. Mặc dù ngựa không phi nước đại nhưng cũng đủ xóc nảy khiến cho hai chân y mỏi nhừ, lưng như muốn gãy sụm.
Vừa thấy Vương chủ bạ, Dương Lăng vội báo cho lão biết chuyện mình tạm thời nắm quyền Dịch thừa, sau đó khiêm tốn thỉnh giáo lão một lúc lâu. Nắm được yếu lĩnh công việc rồi, y lập tức đến sở dịch thừa.
Sở dịch thừa là một công thự dạng ngũ tiến liên hoàn viện(1) xây bằng gạch và gỗ. Cụm kiến trúc này hết sức rộng lớn, từ ngoài bước vào là dịch quán, tiếp theo là dịch thương (bộ phận coi kho), dịch học (nơi học của con quan), giang phòng (nhà tang lễ), còn phòng làm việc và phòng ngủ của Dịch thừa thì nằm ở trong cùng.
Nhận được quân lệnh do Vương ban đầu truyền, vì "không trâu phải bắt chó đi cày" nên tạm thời sở dịch thừa do Dương Lăng quản lý. Trạm Kê Minh nhỏ xíu, không có quan trông kho riêng nên Dịch thừa kiêm luôn chức này. Thủ hạ của Mã
dịch thừa gồm sáu tên tiểu lại, trong đó có bốn tên phụ trách sự vụ của sở dịch thừa, còn hai tên quản lý nhà kho.
Trong trận chiến vừa rồi, quân thủ thành tử thương rất nhiều. Sáu tên tiểu lại lên thành hỗ trợ phòng thủ chỉ còn sống sót bốn người, một kẻ lại bị trọng thương, thành thử chỉ còn ba tên để cho Dương Lăng sai bảo. Ba người này đều mặt mày đen thui vì khói lửa chưa kịp rửa ráy, tuy không đến nỗi giống hệt ông táo bếp như Dương Lăng, nhưng trông cũng đủ tức cười rồi.
Dương Lăng sai bọn họ thu dọn mấy căn phòng tốt nhất, chuẩn bị mời ba vị đại nhân vào ở. Sau đó y lại yêu cầu bọn họ đi dọn dẹp nhà kho, lần lượt là lương thảo và đồ dùng, kê khai xác nhận số lương thảo cấp dưỡng đã thu nhận được ngay tại chỗ một cách rõ ràng, rồi lập sổ, tổ chức cho đám dịch sứ phân phát tới các doanh.
Phân phó xong xuôi, Dương Lăng đưa mắt ngó quanh, nhớ lại đây chính là nơi Mã dịch thừa thường ngày làm việc, y không khỏi cảm khái vô cùng. Kể ra thì thật hai người rất có duyên, lão ấy chỉ đến trạm Kê Minh sớm hơn mình một ngày, và mình thì nhờ vụ kiện của nhà lão nên mới kết thân được với Huyện thái gia, kiếm được một chức vị để mưu sinh.
Thế mà Mã dịch thừa mới nhậm chức hơn một tháng thì đã phải chết thảm ở nơi đây, còn mình, kẻ bất cứ lúc nào cũng chuẩn bị chết lại vẫn còn sống sờ sờ ra đó, thế sự thật khó lường! Dương Lăng thầm nghĩ: "Có nên đi thăm huynh muội Mã Ngang một chút không nhỉ? Giờ bọn họ chắc đã biết tin dữ của Mã đại nhân, mình cũng nên đi thăm hỏi bọn họ một chút mới phải!"
Có điều hiện giờ xe ngựa chở quân nhu của quân doanh đang kéo tới nườm nượp, phải đón tiếp quan viên, cho lương thảo nhập kho, tính toán nhu cầu cấp dưỡng của từng đội quân, thu xếp việc cung ứng quân nhu cho các doanh. Y và mấy tên tiểu lại đang bận đến tối tăm mặt mũi, chẳng còn thời gian để đi chia buồn.
Hơn nữa Mã dịch thừa vừa mới chết, y lại đang tạm nắm quyền dịch thừa, nếu y đang đứng trước mặt anh em họ Mã mà một đám dịch sứ, tiểu lại cứ thỉnh thoảng lại chạy đến xin chỉ thị, e rằng trong lòng anh em Mã Ngang sẽ càng thêm khó chịu. Cho nên nghĩ lui nghĩ tới một hồi rồi y buộc lòng phải thôi.
Cái mớ thóc gạo lương thực ra ra vào vào này thật quá ư là lộn xộn. Dương Lăng nghĩ mãi không thông, chỉ là quân lương cho hơn chục ngày thôi, để yên trong quân doanh thì cũng có sao đâu? Điều động tới tấp như vậy, tốn của hao người, vừa mất thời giờ vừa tốn sức lực, cho dù làm vậy là để quan văn nắm giữ lấy mạch máu của quân đội, nhưng cũng không khỏi tốn hao công sức quá mức cần thiết.
Y quay mòng mòng như chong chóng, liên tục phải cưỡi ngựa áp tải lương thảo đưa đến từng cổng thành. Lúc tạt qua nhà, y bèn vội vàng nhảy xuống ngựa, định vào nhà thay chiếc áo khoác, chiếc đang mặc trên người thật đã quá bẩn thỉu.
Vừa nhảy xuống ngựa, Dương Lăng chợt cảm thấy hai chân hụt hẫng như mới vừa bước từ trên thuyền xuống. Do không biết cưỡi ngựa, hai bắp đùi non của y bị cạ đến nổi mẩn, đi đứng rất khó khăn. Sợ Ấu nương trông thấy sẽ đau lòng, lúc vào tới cửa y liền chậm bước, cố đi đứng ra vẻ tự nhiên hơn.
Vừa bước vào nhà, y đã trông thấy Hàn Ấu Nương đeo tạp dề bằng vải hoa xanh lam đang ngồi trước bếp bọc bánh cảo. Thấy tướng công trở về, nàng liền như một con chim khách vui vẻ, vô cùng phấn khởi chạy ào ra đón, khuôn mặt đỏ bừng tràn ngập vui mừng.
Trong không khí có mùi nhân bánh, Dương Lăng đưa mũi hít hít vài hơi. Ừm, đó là cảm giác gia đình, một cảm giác thật an bình. Thấy trên gò má của Hàn Ấu Nương còn dính chút bột bánh, đáy mắt y chợt dấy lên một tia yêu thương ấm áp. Hiện giờ càng lúc y càng thích nhìn vẻ mặt vừa như con nít, vừa như một người vợ bé nhỏ dịu dàng của nàng.
Thoáng thấy trên vung nồi đã xếp chỉnh tề bốn hàng bánh cảo, mỗi chiếc bánh đều như một thỏi bạc trắng tinh, y khẽ mỉm cười trách nhẹ:
- Nàng thật! Bảo về nhà nghỉ ngơi, làm mấy món ăn bình thường là được rồi, nàng còn phí sức gói bánh cảo làm gì vậy?
Hàn Ấu Nương vừa giúp y cởi chiếc áo khoác dơ dáy ra, vừa vui vẻ đáp:
- Tướng công, hôm nay là Tết mà, sao có thể qua loa chứ. Đây là... đây là năm
đầu tiên chúng ta cùng ăn tết đó.
Dương Lăng ngẩn ngơ. Một ngày đầy rẫy những sự cố nguy hiểm đã khiến y sớm quên béng hôm nay là mồng một Tết. Đêm giao thừa đầu tiên ở triều Minh không ngờ lại là đêm giao thừa mà y cùng đón với Ấu Nương trong bóng đao ánh kiếm. Trông thấy vẻ mặt tràn đầy hạnh phúc cùng nụ cười ngọt ngào không chút trách móc của Hàn Ấu Nương, lòng y chợt đau nhói. Qua cái tết này, liệu ta sẽ còn có may mắn cùng nàng đón cái tết thứ hai hay không?
Sợ Hàn Ấu Nương thấy được vẻ mặt của mình, y vội quay lưng cầm lấy chiếc áo khoác, vừa mặc vào vừa nói với nàng:
- Ừm, ta quên mất. Để lát nữa đi mua thêm chút rượu và đồ ăn, chờ ta về chúng ta sẽ cùng đón năm mới, bù cho đêm giao thừa.
Hàn Ấu Nương cất giọng trong vắt vâng một tiếng, rồi báo:
- Chiếc áo mới may của tướng công thiếp đang để ở đầu giường, đợi khi nào chàng về rồi hẵng thay.
Dương Lăng ừ một tiếng rồi vội vã trở ra ngoài, nhảy tót lên lưng ngựa, cùng hai tay dịch sứ chạy về phía nam thành. Ngoài thành phía nam đồn trú hai doanh binh mã, lúc này đang chôn nồi làm cơm, gỗ đốn tạm từ trên núi ẩm ướt khó nhóm nên nhất thời khói bay mù mịt khắp nơi.
Lên lầu thành hỏi thăm thì biết Hoàng huyện thừa và Giang bả tổng đã đưa mấy vị đại nhân đến lầu Hồng Nhạn ăn uống, thợ thuyền đang tu sửa cổng thành cũng đã đi nghỉ cả rồi. Dương Lăng ngó thấy không còn chuyện gì nữa, bèn dẫn theo vài tên tiểu lại quay về.
Bôn ba từ sáng đến giờ y mới ăn một bữa cơm, bụng đã đói đến lép kẹp. Vả lại, tuy rằng y đã dần nắm được chút yếu lĩnh cưỡi ngựa nhưng giờ vẫn cảm thấy cưỡi ngựa vất vả hơn đi bộ nhiều. Cưỡi ngựa thì cả người đều phải dùng sức, mệt đến rã rời, miệng lưỡi khô khốc.
Chớm thấy một cái giếng ven đường, y liền nhảy tót xuống ngựa chạy lại quay ròng rọc gỗ kéo lên một thùng nước. Nước giếng trong vắt, trôi nổi vài mảnh băng nhỏ trong suốt. Dương Lăng vốc lấy một vốc nước giếng ngọt lịm lạnh buốt uống ừng ực mấy ngụm lớn một cách sảng khoái. Nước giếng lạnh buốt trôi xuống dạ dày, cái lạnh xen lẫn trong vị ngọt khiến dạ dày lâm râm buôn buốt. Y hít thở mấy hơi, rồi cứ thế xối nước giếng rửa mặt mũi. Đứng thẳng người lên, y vươn vai, uốn người, hà hơi ra một màn sương trắng, những sợi tóc dính nước trong nháy mắt đã trở nên cứng ngắc.
Lúc này từ trong quân doanh ngoài thành có hơn chục kỵ binh cưỡi khoái mã cấp tốc phi tới. Khi thấy mấy kẻ vận trang phục của sở dịch thừa đang đứng bên giếng nước, tay tướng lĩnh cầm đầu liền vội vàng ghìm cương, nhưng vì ngựa phi quá nhanh nên phải lao hơn chục trượng gã mới ghìm chiến mã quay đầu lại được.
Dương Lăng kinh ngạc nhìn tay tướng lĩnh giữa đám binh sỹ kia. Vị này tuổi trạc tứ tuần, thân hình còm nhom, da dẻ đen nhẻm, dưới hàm là một chòm râu be bé. Có điều nhìn kỹ thì thấy xương gò má nhô cao, cặp mắt tam giác, tròng trắng nhiều hơn tròng đen, phần nào đã phá hỏng khí chất nho nhã của gã.
Sắc mặt gã lạnh lùng, có vẻ như đang cố nén sự oán giận. Chiến mã vừa đến trước mặt bọn Dương Lăng, gã ngạo mạn ghì cương, một tay nắm chặt roi ngựa, hỏi bằng giọng kẻ cả:
- Các ngươi là người của sở dịch thừa hả?
Phà hơi vào hai tay đã lạnh đến ửng đỏ, Dương Lăng hỏi ngược lại:
- Tướng quân là vị nào thế? Có việc chi sao? Thân binh bên cạnh gã đó lớn tiếng quát:
- Hỗn láo! Đây là Tất đô ty của bọn ta, còn không mau trả lời?
Biết gã là tướng quân hàm chánh tứ phẩm thì Dương Lăng không dám coi nhẹ, vội thẳng lưng lại chắp tay nói:
- Ty chức chính là dịch thừa tạm quyền của bổn huyện, không biết tướng quân có điều chi sai khiến?
Gã tướng quân đó nghe xong liền lập tức vung roi, "chát", ngọn roi rít lên một tiếng sắc lẻm sượt qua bên tai Dương Lăng khiến y giật nẩy mình. Thấy thế mấy tên thân binh phá ra cười ầm ĩ. Dương Lăng giận tím mặt, ngẩng đầu giận dữ nhìn gã đô ty. Chỉ thấy gã Tất đô ty nghiến răng, cười lạnh nói:
- Một tên dịch thừa cỏn con như ngươi mà cũng thật là lớn mật. Bổn tướng dẫn quân trong đêm gấp rút chi viện, đã cứu gần vạn lê dân trạm Kê Minh, vậy mà hôm nay lại định để cho binh sỹ của bổn tướng phải chịu đói, thật là quá vô lý!
Thấy vị tướng quân này ngang ngược như thế, vốn Dương Lăng đang tím mật bầm gan, nhưng khi nghe xong lời này lại không khỏi giật mình, cơn giận lập tức tiêu tan. Y nhíu mày hồ nghi hỏi:
- Sao lại có chuyện như thế?
Y quay đầu nhìn về phía cửa nam thành vẫn đang để ngỏ, chỉ tay về phía những làn khói bếp đang lượn lờ, hỏi:
- Ta đã sai người đi phân phát lương thảo, ngoài thành rõ ràng đã có khói bếp, sao có thể nói là để binh lính bị đói được?
Tất đô ty tím mặt cười gằn, đáp:
- Đó là quân doanh của Tôn Đại Trung. Thủ hạ của Tất Xuân ta cũng là quan binh Đại Minh, cho đến tận bây giờ, tướng sỹ trong quân ta chỉ được chia một nửa số gạo. Thường có câu rằng hoàng đế không để quân bị đói, chẳng nhẽ trạm Kê Minh nhà ngươi lại muốn bọn ta mang bụng đói ra trận giết địch hay sao?
Trong đầu Dương Lăng thoáng qua ý nghĩ: "Tham ô tiếm của ư?" Lúc y rời sở dịch thừa đã từng đích thân đi kiểm tra kho, lương thảo vận chuyển tới tối thiểu phải chất đầy hai phòng trong kho, đủ để cung cấp cho năm nghìn quan binh dùng trong trong mười ngày. Kẻ nào mà lớn mật như vậy, không ngờ lại dám ăn bớt mất
một nửa, hơn nữa lại đang giữa lúc đánh nhau như thế này, quả thật là gan lớn bằng trời.
Lúc này thậm chí trong lòng y còn nảy sinh ý muốn giết người, mặt mày cũng lập tức xám xịt. Cố chế ngự lửa giận, Dương Lăng quay về Tất đô ty chắp tay khom người vái một vái, thốt từng chữ như chém đinh chặt sắt:
- Đại nhân, đây là sơ suất của ty chức, mong đại nhân lượng thứ cho! Xin đại nhân hãy lập tức phái nhà bếp trong quân đến sở dịch thừa trước, ty chức sẽ về đó ngay bây giờ đích thân phân phát quân lương ngay.
Một tên tiểu lại đứng bên cạnh không ngừng giật giật ống tay áo y như thể muốn nói điều gì. Dương Lăng chẳng chút quan tâm, hai mắt vẫn nhìn thẳng vào gã đô ty nọ.
Nghe Dương Lăng nói xong, nét hung bạo trên khuôn mặt của Tất đô ty từ từ dịu lại. Gã khẽ nghiêng người, vươn thân, cặp mặt tam giác nhìn chằm chằm vào Dương Lăng một hồi không chớp. Đột nhiên gã hỏi:
- Ngươi tên là gì? Dương Lăng đáp:
- Ty chức Dương Lăng, dịch thừa tạm quyền của huyện Kê Minh. Tất đô ty gật đầu, ngồi thẳng người lên rồi cười ha hả:
- Hay, hay cho một dịch thừa tạm quyền Dương Lăng, bổn tướng sẽ nhớ kỹ.
Khâu Đại Bằng, ngươi hãy mau đuổi theo Quan Thụ Anh, kêu bọn chúng hãy ngoan ngoãn không được cướp lương nữa, cứ nói là Dương dịch thừa sẽ lập tức tới mở kho. Bổn tướng trở về đại doanh chờ tin tức của các ngươi, ha ha ha...
(1) một loại kiến trúc cổ, có năm gian (năm cụm kiến trúc) đi theo chiều dọc, ăn sâu vào trong. Ngoài ra còn có thất tinh liên hòan viện, ngũ tiến liên hòan viện, cửu liên hòan viện .
Dương Lăng hiểu được ý tứ trong lời của Tất đô ty. Y thật không ngờ gã đã phái người đến sở dịch thừa cướp lương rồi, thế là không màng đến hai bên đùi vẫn còn đau nhức, y vội vã lên ngựa phi nhanh về sở dịch thừa.
Tên tiểu lại vừa kéo ống tay áo y lúc nãy cũng vội phóng ngựa theo bên cạnh, lo lắng nói:
- Đại nhân, ngài không nên đồng ý cung cấp quân lương cho hắn! Giờ phải làm sao đây?
Bị xóc lên xóc xuống như một con rối, nhưng Dương Lăng vẫn quát:
- Có gì mà không nên chứ? Chẳng lẽ ngươi muốn để các tướng sỹ mang bụng đói đi đánh giặc hay sao? Việc ăn bớt quân lương ở triều nào đại nào cũng là tội chém đầu!
Gã tiểu lại cười nhăn nhó đáp:
- Đại nhân, đám tiểu lại như chúng tôi đây sao dám tuỳ tiện ăn bớt quân lương.
Là tự bọn họ không mang đủ quân lương, trách được ai chứ?
Dương Lăng cả giận mắng:
- Nói xàm! Rõ ràng là có hai kho chất đầy quân lương, đủ dùng cho mười ngày.
Ngươi dám gạt ta sao?
Tiểu lại vội giải thích:
- Tiểu nhân nào dám, trong kho tuy có lương thực dư, nhưng là của quân chính
quy. Đám này là quân dự bị, chỉ mang theo có chừng ấy lương thực, có liên can gì tới chúng ta nào? Đại nhân, trong quân lương của Tôn đô ty cũng có tới ba phần là lấy từ quân lương của quân chính quy đó.
Dương Lăng hỏi:
- Chậm đã chậm đã! Ngươi hãy giải thích từ từ, chuyện này là thế nào?
Tên tiểu lại vừa phóng ngựa vừa giảng giải tường tận cho Dương Lăng rõ. Thì ra trong năm doanh binh mã dưới trướng Hà tham tướng, những doanh đóng ở phía đông, phía tây và phía nam thành chính là thân tín của y, là quân chính quy khu vực Hoài Lai, cũng là quân đội đóng giữ dài hạn ở vùng này.
Trong hai doanh binh mã xông ra ngoài thành đánh trận đầu thì quân đội của Tôn Đại Trung được gọi là khách quân, cũng chính là quân ngoại tỉnh. Mặc dù xuất phát từ nhu cầu đóng giữ mà bọn họ đã bị điều đến đồn trú lâu dài ở vùng này, song cung cấp lương thảo, bổ sung nhân lực, thậm chí là cung ứng ngựa, đao hay thương cho bọn họ vẫn đều do phía nguyên quán là Hà Nam phụ trách.
Còn quân của Tất Xuân thì được gọi là quân dự bị, được tạm thời điều từ vệ sở Chiết Giang tới, vì vào thời điểm mấy tháng này hàng năm, người Mông Cổ có nhiều khả năng xâm phạm biên cương nhất. Sau đó họ sẽ phải quay về lại Chiết Giang.
Lần này người Thát đồng thời tấn công hơn mười trạm dịch giữa mấy huyện kề nhau, khói lửa của những trạm phong hỏa đài truyền đến tận kinh thành. Tổng binh Tuyên phủ phái ra ba vị tham tướng cấp tốc chi viện cho Trác Lộc, Hoài Lai và Xích huyện, ngoài ra còn sai hai vị tướng quân du kích tác chiến cơ động, đại quân đi rất vội. Doanh quân nhu là đơn vị thuộc quyền quản lý của tham tướng Vĩnh Ninh, lương thảo vận chuyển đến đương nhiên được ưu tiên cho nhân mã bản bộ trước, vì vậy quân của Tôn Đại Trung và Tất Xuân đều không đủ lương.
Tuy quân của Tôn Đại Trung là khách quân, nhưng vì họ đồn trú lâu dài ở vùng này, cho nên tạm thời rút một ít lương thảo của quân chính quy ra cũng không sao, trở về trình báo xin quan coi kho ở Phủ thành khấu trừ vào quân lương từ Hà Nam
chuyển tới là được. Nhưng quân dự bị là quân đội không cố định, qua xuân là họ trở về lại nơi đóng quân cũ. Vào thời điểm đó vận chuyển bất tiện khiến hiệu suất làm việc của quan viên địa phương thấp đi, nên tranh cãi đùn đẩy nhau, khất nợ quân lương là chuyện thường. Ngộ nhỡ bọn họ còn chưa thanh toán xong hết nợ nần mà đã thu quân về bản xứ thì ai sẽ chịu trách nhiệm về số lương thảo thâm hụt này đây?
Nghe tên tiểu lại giải thích xong, Dương Lăng cảm thấy hơi khó tin. Trong quân đội, khâu này quan trọng như vậy thế mà lại không thể làm theo kiểu "chi trả tập trung". Chế độ cung ứng quân nhu cứng nhắc, thiếu linh hoạt và không thực tế. Y thật không biết là do thằng ngu nào đặt ra nữa, chẳng trách khi nãy đi khắp toàn thành thấy chất lượng quân phục và vũ khí của binh sỹ các doanh chênh lệch nhau và không đồng đều.
Lúc này y cũng biết mình đã đáp ứng quá mức rồi, nhưng nếu như tướng sỹ ngay cả cơm còn không được ăn no, lòng quân và khí thế làm sao có thể đảm bảo chứ? Huống hồ quân nhu của Tất Xuân chẳng qua chỉ là chưa kịp vận chuyển đến, chỉ cần kịp thời viết thư đến nhà kho Phủ thành xin điều chỉnh lại sổ sách một chút, có lẽ sẽ không có vấn đề gì. Nghĩ đến đó Dương Lăng dần cảm thấy yên tâm.
Mặt trời đã ngả bóng về tây, được bao phủ bởi lớp tuyết trắng, sở dịch thừa đang tắm mình trong ánh mặt trời trông càng lạnh lẽo. Trên đường truyền tin dưới vách núi phía đông, cứ cách hai mươi bước lại treo một chiếc đèn lồng mặt giấy đã cũ kỹ, mờ đục, đang nhẹ đung đưa trong gió.
Có năm chiếc xe ngựa đang dừng trên đường truyền tin thoai thoải dốc, phía trước huyên náo tiếng người, đều là khẩu âm của người phương Nam. Đám này khoảng hơn bốn chục tên, cầm đao giương súng, sát khí đằng đằng. Trước nhà kho của trạm dịch, hơn chục tên dịch tốt cầm côn đứng chắn trước cửa kho dưới sự chỉ huy của một viên tiểu lại, đang giằng co cãi nhau như gà chọi với đối phương.
Thấy tình hình đã căng như dây đàn, Dương Lăng vội phi ngựa tới la lớn:
- Tất cả hãy dừng tay cho ta, có chuyện gì cứ nói với ta là được!
Thân binh của Tất đô ty là Trịnh Đại Bằng đi tới cạnh gã cầm đầu ghé tai nói
mấy câu. Kẻ này vai đang vác đại đao, ống tay áo xắn cao, mặt đầy sát khí, hệt như một gã đồ tể. Hắn liếc xéo Dương Lăng rồi khoát khoát tay, bọn binh sỹ lập tức im lặng.
Trông thấy Dương Lăng, viên tiểu lại canh giữ cửa kho vội gọi lớn:
- Dịch thừa đại nhân đến rồi. Đại nhân, những tên lính này muốn cướp quân lương! Hê hê, lão tử mới bò ra từ đống xác chết, còn sợ mấy tên lính to đầu các ngươi sao?
Mấy tên lính kia vừa nghe thế thì lập tức lại ầm ỹ lên, Dương Lăng vội giơ cao hai tay hô lớn:
- Im lặng một chút nào, vị Trịnh huynh đây chắc đã truyền đạt quân lệnh của Tất đô ty rồi, các vị tướng sỹ chớ gây náo động! Cho hỏi ở đây vị nào quân chức cao nhất, xin mời bước lên để tính toán việc chia lương cùng với bổn Dịch thừa. Sau khi ký tên xác nhận là có thể lĩnh lương thảo về.
Gã quan quân đứng cạnh Trịnh Đại Bằng thong thả bước ra, ưỡn ngực ưỡn bụng nói:
- Coi như ngươi thức thời! Bọn ta xông pha bán mạng ở tiền tuyến, nơi này có lương thực mà lại để cho chúng ta phải đói. Tưởng bọn ta dễ bị ức hiếp lắm hay sao?
Tiểu lại trông kho lắp bắp nói:
- Đại nhân, số lương thảo này không thể tự tiện chia cho bọn họ đâu, bọn họ là
...
Dương Lăng ngắt lời gã:
- Ta biết, bọn họ là quân dự bị, là khách quân, lương thảo quân nhu của bọn họ vẫn chưa được vận chuyển tới!
Y đưa mắt nhìn khắp mọi người, cao giọng:
- Đồng thời ta cũng biết, bọn họ là cánh quân dũng mãnh, là cứu tinh của bổn huyện. Khi trạm Kê Minh đang đối mặt với nguy khốn, chính bọn họ xông lên tiền tuyến đánh đuổi giặc Thát, bảo vệ tính mạng dân chúng toàn thành.
Y quay về phía các binh sỹ hỏi:
- Nếu như ta không nhìn lầm, đội quân dùng súng đó thuộc doanh của các vị phải không?
- Không sai!
Gã quan quân đó mặt đầy vẻ kiêu ngạo, dương dương tự đắc ngó quanh, cao giọng:
- Các tay súng trong quân phương Bắc quá ít, chỉ có quân phương Nam chúng ta mới có đội quân chuyên dùng súng mà thôi!
Dương Lăng gật đầu:
- Ừm, giờ đây quân địch đã lùi bước, bổn huyện từ trên xuống dưới, bao gồm cả cha mẹ vợ con của các vị huynh đệ đều có thể vững bụng ăn no, ngủ một giấc lành, đó là nhờ vào cái gì? Chính là nhờ vào những binh sỹ dũng cảm này giúp chúng ta canh giữ thành trì, vậy nên giặc Thát mới không dám đến xâm phạm và quấy nhiễu nữa!
Y cao giọng tiếp:
- Các ngươi nói xem, dựa vào cái gì mà trong kho có lương nhưng lại không chia? Chẵng lẽ để cho những binh sỹ chiến đấu anh dũng này vác bụng đói đi giúp chúng ta phòng thủ bên ngoài thành sao? Những anh hùng đang vì chúng ta mà đổ máu, chúng ta không thể nào để cho anh hùng đã đổ máu lại còn rơi lệ được!
Những lời này có sức kích động thật quá lớn. Thời đó có ai mà quan tâm xem mấy tên binh sĩ quèn này nghĩ gì chứ? Ai lại thực sự để ý đến tác dụng của bọn họ chứ? Đó là cái thời mà thành tích chiến thắng cả trăm trận cũng không bằng một bài văn chương hoa lệ.
Những binh sỹ đang cầm đao giương súng đó đều lặng lẽ hạ tay xuống, vẻ hung hãn trên mặt đã hoàn toàn biến mất. Bọn họ vừa tự hào vừa cảm động, mắt đã hơi ươn ướt, cơ mặt nanh ác của gã quan quân trông như tay đồ tể kia cũng đang co giật.
Tiếp đó, Dương Lăng lại đổi giọng:
- Hơn nữa... Chúng ta có gì phải lo lắng chứ? Bọn họ đến từ vùng Giang Chiết (tên gọi tắt của Giang Tô và Chiết Giang), mà Giang Chiết vốn là nơi cá lắm thóc nhiều, thuế hằng năm của cả nước mười phần thì đến bảy, tám phần là của Giang Chiết, Hồ Quảng. Địa phương trù phú như vậy mà còn sợ mượn lương không trả sao?
- Không sai, Quan Thụ Anh ta lấy cái đầu ra đảm bảo, chờ khi quân lương của quân ta vận chuyển đến, nhất định sẽ trả lại cho kho ngay, nửa hạt cũng không thiếu!
Được Dương Lăng vừa tâng vừa bốc, gã quan quân đó cũng cảm thấy mình giống như một anh hùng dân tộc, vỗ ngực bồm bộp, cao giọng hứa hẹn.
Dương Lăng thở phào một hơi, nháy mắt ra hiệu với viên tiểu lại giữ kho, sau đó quát:
- Còn không mở kho chia lương?
Rồi y lại quay về phía Quan Thụ Anh cười nói:
- Quan tướng quân, làm chậm trễ giờ ăn các huynh đệ, thật sự là có lỗi quá! Có điều nhà kho là nơi quan trọng, vẫn mong Quan tướng quân trông giúp các vị huynh đệ, chờ người của ta cân đong xong rồi hãy vận chuyển lương thảo, chớ nên làm rối trình tự!
Được y gọi là tướng quân, lập tức Quan Thụ Anh tươi cười rạng rỡ, chấp thuận ngay:
- Chuyện nhỏ, chuyện nhỏ thôi, không cần nhọc công Dịch thừa đại nhân căn
dặn!
Đoạn hắn trừng mắt, quay về phía đám binh sỹ thủ hạ quát lớn:
- Tất cả các huynh đệ hãy bình tĩnh một chút, không được làm mất mặt quân Chiết Giang chúng ta.
Đám quân lính nhao nhao vâng dạ ầm ỹ. Quan Thụ Anh vỗ mạnh vai Dương Lăng, cười hà hà nói:
- Huynh đệ là đội trưởng đội thân binh dưới trướng Tất đại nhân. Dương dịch thừa, chúng ta làm bằng hữu nhé.
Trách nhiệm của thân binh chỉ là phụ trách an nguy cá nhân của tướng lĩnh, lúc có chiến tranh thì tạm kiêm đốc thúc binh lính chiến đấu. Gã đội trưởng này tuy rằng chức quan không lớn, song quả thực là tâm phúc của Tất Xuân. Đương nhiên Dương Lăng cũng nhún nhường, tâng bốc thêm mấy câu kiểu chiến sỹ là con em của nhân dân, khiến cho Quan Thụ Anh như gặp được tri kỷ, cảm thấy thân thiết gấp bội.
Đối đáp khó khăn lắm mới tống được cái đám âm binh đó đi, Dương Lăng lật đật trở về nhà. Mãi đến lúc này y mới thấy cả người ê ẩm, xương cốt như nhũn ra. Vừa vào trong nhà, y liền ngả thẳng lưng xuống giường thở một hơi thật dài.
Hàn Ấu Nương thấy y mặt mày mệt mỏi thì liền vội tới cởi giày giúp, để hai chân y gác lên giường rồi mới ngồi bên cạnh nhẹ nhàng đấm chân cho y. Nàng dịu dàng thăm hỏi:
- Tướng công, chàng mệt rồi phải không? Nghỉ ngơi một chút rồi chúng mình ăn cơm nhé!
Đầu giường gần nơi lò lửa nên rất ấm áp dễ chịu, hai tay Hàn Ấu Nương lại hết sức nhẹ nhàng, cảm giác thoải mái khiến cơn buồn ngủ ùa đến, làm y chẳng muốn mở mắt. Mãn nguyện gối đầu lên tấm chăn, y lẩm bẩm:
- Ấu Nương, ta mệt quá, cả người đau nhức.
Hàn Ấu Nương đổi từ đấm chân sang xoa bóp nhẹ nhàng các cơ bắp đau nhức của y từ cẳng chân lên, miệng nàng hé cười:
- Ấu Nương xoa bóp cho tướng công, giờ nếu có thêm chút rượu thuốc nữa thì tốt hơn, bảo đảm ngày mai sẽ không còn đau nhức chút nào nữa.
Một cảm giác ngứa lâm râm dễ chịu từ cẳng chân truyền lên đến bụng. Dương Lăng sảng khoái "ô" lên một tiếng, thả lỏng thân thể hưởng thụ sự dịu dàng của nàng. Một lúc sau, y đột nhiên nhớ tới cái gì đó, vội mở bừng mắt, nói:
- Thân thể ta thật yếu quá đi, sau này chắc phải rèn luyện một chút. À đúng rồi, hôm nay ở trên tường thành ta thấy côn pháp nàng dùng lợi hại quá! Đó là côn pháp gì vậy?
Hàn Ấu Nương thoáng đỏ mặt, vừa ngượng nghịu xoa bóp hai chân cho y vừa lí nhí đáp:
- Là chút võ vẽ quê mùa thôi. Tướng công hỏi chuyện này làm gì?
Dương Lăng nghĩ thầm: "Chẳng lẽ lại là thứ tuyệt học gia truyền gì đó tuyệt đối không được truyền cho người ngoài."
Mặc dù y biết Ấu Nương đã trao trọn trái tim thiếu nữ cho mình, nhưng nếu gia tộc của nàng thật sự có quy định như vậy thì y cũng không thể trách nàng được, tuy tận đáy lòng y vẫn thấy có chút mất mát. Y gượng cười nói:
- Ồ, thì ra là công phu gia truyền của Hàn gia nhà nàng. Không cho phép người ngoài học sao? Ha ha, là ta lỗ mãng quá."
Theo phong tục xưa nay, con gái lớn lấy chồng phải xem nhà chồng như nhà mình, trong khi nhà cha mẹ ruột lại trở thành người ngoài. Nếu thiên vị bên ngoại hơn, vậy đã vi phạm thất xuất chi lệ (đã có giải thích ở chương trước) rồi. Với Hàn Ấu Nương, câu nói vừa rồi của Dương Lăng có thể xem như một lời trách móc hết sức nặng nề.
Nàng không khỏi lo lắng phân trần:
- Không phải, không phải đâu. Thiếp nào dám giấu giếm tướng công chuyện gì, nếu chàng muốn học, thiếp sao dám không dạy chứ? Bộ côn pháp này do cha thiếp học được từ Thiếu Lâm tự ở Hà Nam, gọi là... gọi là Phong Ma côn pháp.
Thời buổi này, quy định về xuất gia cực kỳ nghiêm ngặt, người dưới sáu mươi tuổi muốn đi tu phải được cha mẹ và quan viên địa phương đứng ra chứng nhận, sau đó lên kinh tham gia khảo thí, người nào tinh thông kinh văn mới được phát cho độ điệp (giấy chứng nhận công tác của thầy chùa – ND.) Các chùa chiền lớn do thiếu người kế tục, đành phải thu nhận rộng rãi đệ tử tục gia, cho nên cả vùng Hà Nam, Hà Bắc có rất nhiều môn đồ Thiếu Lâm tục gia. Thuở nhỏ phụ thân của Ấu Nương
cũng vì gia cảnh bần hàn nên đã tới chùa Thiếu Lâm kiếm cơm, nhờ đó mới học được một thân võ nghệ.
Nghe thấy cái tên "Phong Ma côn pháp," lại liên tưởng đến vẻ mặt giấu giấu diếm diếm của Ấu Nương, Dương Lăng chợt hiểu ra. Nhìn vẻ mặt thẹn thùng và vóc dáng yêu kiều của Ấu Nương, y càng cảm thấy đáng yêu, không khỏi bật cười lớn. (Phong ma nghĩa là điên khùng – ND.)
Bị y cười, Hàn Ấu Nương lúng túng vô cùng, bối rối nhìn chồng. Thấy Dương Lăng cứ khoái chí cười mãi mặt nàng bất giác đỏ lựng, ngượng ngùng nói:
- Ấu Nương vốn không muốn nói, đều tại tướng công ép người ta... Nghe xong rồi còn cười người ta nữa.
Nói rồi nàng dẩu môi lên. Dương Lăng cười đau cả bụng một hồi, thấy khuôn mặt nàng đầy vẻ ấm ức thì vừa cười vừa khẽ ôm Hàn Ấu Nương vào lòng vào lòng:
- Ha ha ha, ta vốn không thấy buồn cười, chỉ tại nàng quá nhạy cảm khiến ta chợt nghĩ tới cảnh một nữ tử yêu kiều như nàng nhe nanh múa vuốt sử dụng Phong Ma côn pháp gì đó thôi, thật sự không nhịn được cười.
Dương Lăng cười bật ngửa ra sau. Hàn Ấu Nương làm mặt nghiêm không nói, nhưng trong ánh mắt dần có nét vui vẻ, cuối cùng không nén được phải phì cười.
Nàng ấm ức đánh mạnh lên chân Dương Lăng một cái, hờn dỗi nói:
- Tướng công xấu lắm, cố ý trêu người ta!
Dương Lăng bị nàng đánh cho một phát đau điếng, hít vào một hơi rồi nói:
- Ui da, nhẹ chút đi mà! Yên ngựa cứng quá, ta cưỡi đến nỗi bắp đùi sắp rã ra
rồi.
Hàn Ấn Nương hoảng quá, vội vàng lấy hai tay xoa bóp , dáng điệu thiếu điều muốn kề miệng vào thổi. Nàng nhẹ nhàng, từ tốn xoa bắp đùi y, ánh mắt chăm chú nhìn y hỏi:
- Giờ còn đau không? Đợi ăn cơm xong thiếp đi mua thuốc kim sang cho chàng nhé.
- Ặc... khụ... khụ...
Dương Lăng hắng giọng, cất tiếng hơi khàn khàn nói:
- Không cần đâu, chỉ tại ta không rèn luyện thường xuyên thôi. Được rồi... ừm, không cần xoa nữa.
Tiểu nha đầu này cũng đã trưởng thành rồi, nhưng có lúc lại hết sức "ngây thơ".
Cách chỗ "hiểm" của y gần như vậy mà hai bàn tay mềm mại của nàng cứ xoa xoa bóp bóp, rõ là khiêu khích lửa dục trong người y mà. Chỗ đó giống cái phao cứu sinh dẹp lép ném xuống biển, chốc lát là phình to lên, chỉ thẳng lên trời như ma thuật.
Dương Lăng vội vã co người lại. Cảm ơn ông trời! À không, cảm ơn bác thợ may mới đúng, vì đã làm cái đũng quần rộng rãi, đủ để che lấp cái "biểu hiện tội lỗi" của y. Y không khỏi thở phào một tiếng, nhưng ngay lập tức lại phát hiện khuôn mặt xinh xắn của Hàn Ấu Nương đang cách môi mình rất gần. Trên khuôn mặt non nớt cùng làn da không chút tì vết kia, mấy sợi tóc cứ vuốt ve vào mũi y, khiến y ngứa ngáy muốn hắt hơi.
Khuôn mặt Hàn Ấu Nương mang theo một mùi hương thoang thoảng của thiếu nữ, thật khiêu gợi khiến Dương Lăng rục rịch muốn làm bậy. Y cảm thấy bàn tay đang để trên đùi mình của nàng lúc này nóng tựa hòn than, không chịu nổi nữa, y bèn ôm lấy nàng, hôn lên mặt một cái.
Thân thể Ấu Nương thoáng run lên, rồi cứng đờ. Khuôn mặt nàng mịn màng trắng trẻo, làn da tựa như mỡ đông nhưng lại căng mịn, Dương Lăng như chưa đã thèm, chồm tới hôn thêm một cái thật dài. Mặt Ấu Nương trong nháy mắt đã trở nên nóng bừng, toàn thân cứng đờ, thế nhưng đôi mắt nàng lại trở nên long lanh quyến rũ. Nét mặt nàng vừa kinh ngạc, thẹn thùng, xen lẫn với niềm vui sướng bất tận và tình ý miên man.
Đôi môi nàng đỏ mọng, trơn bóng như trái đào chín, có thể hái xuống bất cứ lúc nào. Cố nén lại dục vọng đang trào dâng mãnh liệt, Dương Lăng khàn giọng bảo:
- Ta... đói rồi, đi ăn bánh cảo thôi.
- Ưm...
Hàn Ấu Nương đáp bằng giọng mũi, nhưng thân thể vẫn không nhúc nhích, cặp mắt long lanh như mặt nước hồ thu cứ say đắm nhìn Dương Lăng, mê hoặc khôn tả.
Túc tịch bất sơ đầu,
Ti phát phi lưỡng kiên,
Uyển chuyển lang tất thượng, Hà xử bất khả liên!
(Đêm trước không chải đầu, tóc xoã xuống hai vai, dịu dàng sà lên đùi chàng, chỗ nào chẳng đáng yêu! Trích Tử dạ ca.
Đêm trước em chẳng chải đầu, Bờ vai tóc xoã một mầu tơ xanh, Dịu dàng sà nhẹ đùi anh,
Đâu đâu cũng vẻ long lanh yêu kiều.)
Hàn Ấu Nương để lộ thần thái mê người, như thể "đón chào Dương Lăng tới hái hoa." Trong tiềm thức của y, nụ hoa tươi này đang phơi bày một vẻ tự nguyện dâng hiến.
Nếu như Hàn Ấu Nương là một khóm cỏ non, vậy trên đầu Dương Lăng lúc này đã bắt đầu lú ra một cặp sừng trâu thật lớn. Y bây giờ chỉ muốn nuốt trọn Hàn Ấu Nương vào bụng, sau đó bắt đầu tận hưởng hương vị tươi mát của nàng.
Dương Lăng hếch mũi hít lấy mùi hương xử nữ toả ra từ thân thể Ấu Nương, rốt cuộc không kiềm lòng được, hai tay y bất chợt vòng ra sau đầu nàng kéo sát lại, miệng ôm lấy đôi môi ngọt ngào.
Hai bờ môi tiếp xúc, Hàn Ấu Nương vừa thở vừa rên khe khẽ, để Dương Lăng khai phá khuôn miệng xinh xắn trong trắng của mình, hoàn toàn khác vẻ dũng mãnh và bá đạo như lúc huyết chiến trên tường thành. Dương Lăng thưởng thức hương vị tinh khiết của một trinh nữ, ngón tay không tự chủ vén cổ áo nàng ra, khám phá làn da mịn màng thơm mát.
- Ưm...
Hàn Ấu Nương thốt ra một tiếng rên nhẹ, thần trí mê man mặc cho y xâm chiếm, thân thể yếu ớt ngả vào lòng y. Mùi hương trinh trắng thuần khiết của cơ thể nàng khiến cho bao mệt mỏi trong ngày của Dương Lăng vụt tan biến . Rất lâu sau y mới thoả mãn, tách miệng mình ra khỏi bờ môi đỏ ửng của Ấu Nương.
Càng lúc Hàn Ấu Nương càng toát ra phong vị vốn có của nữ nhân, ánh mắt nàng xao động như mặt nước hồ thu, đôi môi mọng đỏ bị y hôn đến ướt mềm, dáng vẻ trông mỹ miều khôn tả.
- Chụt...
Hai đôi môi lại chạm vào nhau, nhưng lần này chỉ là một nụ hôn phớt, tiếp đó Dương Lăng cười nhỏ, bảo:
- Nương tử à, có thể làm cơm cho ta được không?
Hàn Ấu Nương vốn đang si mê nhìn y, đôi mắt long lanh mọng nước, nghe thấy lời này nàng dường như sực tỉnh khỏi một giấc mộng dài, a lên một tiếng. Thẹn thùng kéo cổ áo lên, nàng bối rối bước xuống giường, lâng lâng như bước trên không. Ngoài phòng vang lên tiếng nồi niêu chén bát loảng xoảng , hiển nhiên tâm trí của nàng vẫn còn chưa bình tĩnh lại.
Dương Lăng mỉm cười, khẽ vân vê những đầu ngón tay, nơi đó vẫn còn sót lại
cảm giác mềm mại, ấm áp của ngực nàng. Con tim của y đã bắt đầu dao động, lần đầu tiên y cảm thấy căm ghét lời nói dối trá kia của mình.
Nếu như không có lời nói dối đó thì có phải giờ này mình đã có thể tận hưởng thân thể xinh đẹp trinh nguyên của nàng rồi không? Mấy ngày nay, ít nhiều y cũng đã hiểu được phần nào về tính nết nàng. Dương Lăng biết rằng, cho dù nàng vẫn còn là xử nữ, cả đời này nhất định chỉ là nữ nhân của y, tuyệt không cải giá. Niềm tin được hình thành từ nhỏ của một người, y có thể thay đổi được sao?
Vừa nghĩ đến thời hạn hai năm, đến sự chia ly đang rình rập và đã được báo trước ấy, y không còn dũng khí chiếm hữu nàng nữa. Đã không thể hứa hẹn với nàng điều gì, y sao có thể thản nhiên hưởng thụ quyền lợi của một người chồng? Thế nhưng, cho dù có phải sống trong cảnh nghèo túng ở thời đại này hay không, y đều không nỡ rời xa, bởi vì nơi đây còn có người vợ y vẫn bận lòng, người vợ y luôn quyến luyến.
Dương Lăng lặng thinh nghĩ ngợi, trái tim bắt đầu thắt lại như thể đang có kim đâm...
"Hữu phục chương chi mỹ vị chi hoa, hữu lễ nghi chi đại vị chi hạ" (*), Hoa Hạ, chữ "Hoa" trong cái tên của dân tộc lâu đời ấy xuất phát từ những phục sức mỹ lệ của nó. Trong lịch sử Trung Hoa, Hán phục nhà Minh có nhiều kiểu dáng nhất, và đương nhiên cũng đẹp đẽ nhất. Nhờ đôi bàn tay khéo léo của Ấu Nương, bộ trang phục ngày Tết đơn giản đã được khâu cắt lại trông rất hợp với dáng người Dương Lăng, mặc vào rất đẹp. (* lấy cái đẹp của phục sức gọi nó là Hoa, lấy cái quý của lễ nghi gọi nó là Hạ)
Dương Lăng mặc trường bào cổ tròn, vạt áo màu xanh, tay áo rộng, đầu đội khăn vuông, vóc dáng cao ráo, mắt sáng như sao. Khí chất nho nhã ấy khiến Ấu Nương vui sướng vô bờ.
Ấu Nương mặc quần hoa, bên ngoài khoác bằng chiếc váy kẻ ô màu lam, thân trên mặc một chiếc bì giáp (**) màu hồng lạt. Eo thon ôm sát, váy xoè đung đưa, mái tóc đen nhánh thắt thành hai bím buông dài tới eo, cả người toát ra vẻ thanh nhã thuần khiết. (**Một loại áo thời cổ, không có cổ áo và tay áo. Ảnh: )
Bên dưới ống váy lấp ló một đôi hài thêu hoa mũi vểnh. Nàng bưng bánh cảo mới ra lò, còn nghi ngút khói đến đặt xuống chiếc bàn vuông con con được để trên giường. Dương Lăng thẳng lưng, ngồi xếp bằng ngay ngắn bên cạnh bàn, ánh mắt vô cùng chăm chú.
"Đàn ông không có tiền đồ mới chui đầu vào bếp," đó là câu mà Hàn Ấu Nương vừa mới nói, so với câu "quân tử không đứng gần bếp," ý nghĩa thật không khác là bao. Dương tú tài tuân mệnh ngồi yên, nhưng trong đầu cứ suy đoán bậy bạ, ánh mắt láo liên lén thưởng thức vẻ đẹp của vị thê tử nhỏ bé đang bận bịu của mình, dĩ nhiên y cũng không hề quên cặp chân thanh tú dưới váy nàng.
Đôi bàn chân của Hàn Ấu Nương rất đẹp. Thời thơ ấu, Dương Lăng đã từng chứng kiến tục bó chân , khi ấy trông vô cùng kinh dị. Để có được " Kim Liên Tam Thốn" (***) (gót sen ba tấc,) bàn chân người phụ nữ bị biến dạng khủng khiếp, xấu xí đến thảm thương. Còn đôi chân của Hàn Ấu Nương may mắn không bị bó, Dương Lăng nghĩ có thể do gia cảnh nhà nàng bần cùng, con gái cũng phải ra đồng làm ruộng, nên mới may mắn giữ gìn được vẻ đẹp này. (*** Chân bị bó rồi được gọi là "liên", các "liên" kích thước khác nhau thì được chia vào các đẳng cấp khác nhau, trên bốn thốn là thiết liên, bốn thốn là ngân liên, còn ba thốn thì là kim liên.)
Thật ra lúc ấy, tục bó chân vẫn chưa thịnh hành cho lắm, con gái bó chân không nhiều, mãi đến cuối triều Minh tục lệ mới bắt đầu trở nên phổ biến; đến đời nhà Thanh, thứ phong tục bệnh hoạn này mới đạt đến tầm ảnh hưởng cao nhất. Bằng không với nguyện vọng cao cả của Ấu Nương là trở thành một người vợ hiền thục đức hạnh, có lý do gì để nàng không bó chân cơ chứ? Nếu như thế, hôm nay Dương Lăng đã không thể thấy được vẻ oai hùng, mạnh mẽ của nàng khi quật ngã tên cường đạo Thát Đát trên tường thành rồi.
Bánh cảo nhân củ cải trắng thịt heo được bê lên bàn, còn có một đĩa bò muối, một đĩa thịt thái miếng, và một bình rượu trắng nhỏ.
Đây đích thực là ngày tết ấm áp và hạnh phúc nhất của đôi uyên ương trong đêm đông lạnh giá, ngay sau một trận chiến sinh tử. Ấu Nương ngồi đó ăn uống ngon lành, đôi mắt sáng long lanh, hòa hợp với khung cảnh xung quanh tạo nên bức
tranh lãng mạn nhất trong mắt Dương Lăng.
Quả báo lập tức tới ngay. Dương Lăng vừa đứng dậy, định trơ mặt tới xin Ấu Nương cho phép mình rửa mấy cái bát, quét dọn linh tinh thì "rầm", cửa nhà bỗng bị đá tung, gió lạnh táp thẳng vào mặt. Vừa mới ngẩng đầu lên, Dương Lăng đã thấy một bóng người màu trắng xộc thẳng đến, giáng ngay một cú đấm rất mạnh vào vai y. Dương Lăng loạng choạng, suýt chút nữa thì ngã phịch xuống đất.
Gượng đứng vững lại, Dương Lăng thấy một nam một nữ đang đứng giữa cửa, chính là hai anh em Mã Ngang đang mặc đồ tang. Mặt Mã Ngang đỏ phừng phừng, có vẻ đang rất tức giận. Còn Mã Liên Nhi trông như một đóa sen trắng xinh đẹp thấm đầy sương mai đứng lẻ loi, chỉ có điều vào lúc này, khuôn mặt yêu kiều như tranh vẽ đó lại tối sầm đầy vẻ bất mãn, đôi mắt long lanh pha chút khinh bỉ đang trừng mắt nhìn Dương Lăng.
Dương Lăng bối rối hỏi:
- Mã huynh, Mã tiểu thư, các vị.... thế này là thế nào? Mã Ngang lớn tiếng mắng:
- Đồ cẩu tặc vong ân phụ nghĩa, ai xưng huynh gọi đệ với ngươi hả?
Mắng xong, hắn lại nhào tới trước vung quyền đánh. Không biết võ, Dương Lăng làm sao dám đánh nhau với hắn. Y vừa lùi được hai bước, Hàn Ấu Nương đã từ bên cạnh nhanh nhẹn vọt lên. "Chát" một tiếng, nàng đỡ được quyền chưởng của Mã Ngang.
Phòng ngoài không lớn, quyền chưởng của Mã Ngang hùng dũng mạnh mẽ, khí thế uy mãnh, bao trùm cả không gian. Hàn Ấu Nương giữ vững môn hộ (*), không hề tránh né, bàn tay nhỏ nhắn quẫy đảo dập dờn, khéo léo dùng kỹ xảo cầm nã thủ
giằng co với hắn, không lùi nửa bước.
(*): từ võ hiệp, ý là phòng thủ vững chắc.
Dương Lăng không biết vì sao hai anh em nhà họ lại kiếm mình gây chuyện. Y vừa bị Mã Ngang đấm một cú, giờ lại thấy hắn chẳng thèm nói năng gì mà đã ra tay đánh nhau với Ấu Nương, lửa giận trong người bốc lên.
Thấy quyền chưởng của Mã Ngang bá đạo mạnh mẽ, nếu như thân thể nhỏ nhắn đáng yêu của Ấu Nương bị dính một đòn thì nguy mất, y bèn lớn tiếng cảnh cáo:
- Mã Ngang, chuyện đâu còn có đó! Nếu ngươi đánh Ấu Nương bị thương, ta thề không đội trời chung với ngươi!
Mã Liên Nhi vốn chỉ đứng ở một bên cười lạnh xem đánh nhau, thấy y thề độc như vậy thì không khỏi dựng cặp lông mày liễu. Nàng nhoáng người lướt qua bên cạnh hai người đang giằng co, xông thẳng tới Dương Lăng. Thân thể nàng vốn yêu kiều thướt tha như liễu rủ ven hồ, nhưng khi động thân lại rất mạnh mẽ.
Hàn Ấu Nương cực kỳ nóng ruột, mặc dù giận tên thô lỗ kia đã đấm tướng công nàng một cú, nhưng biết hai anh em nhà họ từng qua lại thân thiết với tướng công cho nên nàng ra tay còn nể nang vài phần. Lúc này Mã Liên Nhi đã lao vào nhà, nàng có muốn cản cũng không kịp nữa, nên vừa lập tức rùn người xuống tránh một quyền của Mã Ngang, nàng rút ngay một đôi đũa, rướn mình vút một cái đã dí sát vào cổ họng Mã Ngang, quát lớn:
- Dừng tay!
Mã Liên Nhi cũng đã lao tới bên người Dương Lăng, cổ tay trắng nõn vươn ra, tóm lấy tay Dương Lăng vặn ra đằng sau, tay phải rút từ trong thắt lưng ra một con dao găm bén ngót, kê ngay vào cổ họng y. Vừa ngẩng đầu lên đã thấy anh trai bị Hàn Ấu Nương khống chế, nàng không khỏi giật mình kinh hãi.
Quay đầu nhìn lại thấy Dương Lăng bị tóm, Hàn Ấu Nương bèn tì mạnh đầu
đũa thêm một chút nữa, lạnh lùng quát lớn:
- Thả tướng công của ta ra!
Cùng lúc đó, Mã Liên Nhi cũng quát:
- Thả anh của ta ra!
Quát xong, cả hai đều ngẩn người, bốn mắt nhìn chằm chằm vào đối phương, không ai chịu buông tay trước.
Dương Lăng nhẹ nhàng lấy hơi để khỏi bị lưỡi dao sắc bén cứa vào cổ họng, rồi nói với Hàn Ấu Nương:
- Ấu Nương, thả Mã huynh ra! Hàn Ấu Nương không cam lòng:
-Tướng công, nhưng mà chàng...
Dương Lăng trừng mắt, đầy khí phách ngắt lời:
- Thả y ra!
Hàn Ấu Nương trề môi, đành phải hạ đôi đũa xuống. Mã Liên Nhi cười khẩy, nói kháy:
- Đại trượng phu oai phong lẫm liệt đấy nhỉ! Ngươi cho rằng ta không dám giết ngươi sao?
Dương Lăng đành hỏi:
- Dù sao giết người cũng phải có tội danh chứ? Dương Lăng tự thấy chưa hề đắc tội với hai anh em các vị, cô nương giết ta làm gì?
Tuy y không biết vì sao anh em nhà này lại tức giận như vậy, thế nhưng trong mắt hai người lại không hề có sát ý, cho nên y cực kỳ bình tĩnh.
Mã Liên Nhi nâng tay trái lên khiến tay của Dương Lăng bị kéo ngược lên cao hơn một chút. Dao sắc kề cổ nên y không dám khom lưng, chỉ đành đau đớn rên rỉ. Hàn Ấu Nương thấy vậy cực kỳ đau lòng, nhưng lúc này tướng công ở trong tay người ta nên dù muốn cũng chẳng dám động đậy. Mã Liên Nhi nghiến răng cười gằn:
- Ngươi đã từng giúp ca ca ta một bận, nhưng lẽ nào Mã gia ta đã bạc bẽo với ngươi chăng? Ngươi... vì sao ngươi lại ức hiếp người quá đáng như vậy?
Dương Lăng kinh ngạc hỏi lại:
- Mã tiểu thư, cho đến giờ ta vẫn chưa biết mình sai trái điều gì, cô nương có thể nói rõ được không?
Mã Ngang phẫn uất quát:
- Cha ta vừa qua đời, bây giờ ngươi làm dịch thừa bản huyện phải không?
Ngươi giỏi lắm, xương cha ta còn chưa lạnh, ngươi vì lấy lòng Hà tham tướng và các giám quân từ kinh đô tới mà tống cổ chúng ta ra khỏi sở dịch thừa. Thiên hạ còn có kẻ lòng lang dạ sói như ngươi sao?
Mã Liên Nhi run giọng:
- Cứ coi như là ngươi muốn trục xuất anh em ta ra khỏi sở dịch thừa đi, nhưng chúng ta vừa mới đến đây hơn nửa tháng, chưa quen với sinh hoạt nơi đây. Cuối cùng chỉ xin một gian phòng ở sở dịch thừa để lập linh đường cho gia phụ mà cũng bị người của ngươi từ chối. Người đi thì trà lạnh nhưng đến mức này thì Họ
Dương kia, Mã Liên Nhi nhìn lầm ngươi rồi!
Nàng nhớ lại ngày đó ở Hồng Nhạn lâu, mình đã nhất thời nảy sinh tình cảm, thậm chí còn bùi ngùi "hoàn quân minh châu song lệ thùy, hận bất tương phùng vị giá thời" với Dương Lăng. Ai dè người đàn ông duy nhất mình yêu mến, ngưỡng mộ lại là một kẻ bạc bẽo, mà người của sở dịch cũng hám lợi tuyệt tình như vậy, khiến lòng nàng không khỏi chua xót.
Dương Lăng ngẩn người, một hồi lâu sau mới bắt đầu kêu oan với trời:
- Mã Huynh, Liên Nhi tiểu thư, Dương Mỗ không hề làm việc quá đáng như vậy! Mã bá phụ mất ở trên thành, ta cũng rất đau lòng, chẳng qua hôm nay đại quân vừa mới tới, ta cũng vừa tiếp nhận sự vụ của sở dịch, nhiều việc còn chưa rõ, bôn ba cả ngày tới mức chân tay rã rời, vốn định ngày mai tới phúng điếu. Sao có thể đuổi hai người ra khỏi sở dịch, hai vị xem ta có phải là loại người đó không?
Mã Ngang tức giận quát:
- Lòng người khó đoán, ai biết ngươi là cái dạng quái thai gì?
Mã Liên Nhi nghe xong hơi ngớ người, từ từ buông tay Dương Lăng, cặp mắt long lanh nhìn thẳng vào trong mắt y, gằn từng tiếng một:
- Ngươi không làm như thế à?
Dương Lăng không hề e dè nhìn lại nàng, khẽ lắc đầu đáp:
- Ta không làm!
Nhìn thấy ánh mắt trong sáng đầy chân thành của hắn, Mã Liên Nhi liền tin ngay, nàng cười chua xót, đau khổ nói:
- Người còn nhân tình còn, có lẽ mấy tên tiểu lại dở trò cáo mượn oai hùm rồi.
Hai anh em ta quả là lỗ mãng đã quấy rầy vợ chồng hai vị. Anh, chúng ta đi thôi!
Nàng cụp mắt, chán nản, đau khổ lướt qua người Dương Lăng, kèm theo một mùi hương thơm ngát. Dương Lăng không khỏi nhớ tới bộ dáng hứng khởi của nàng vào ngày đầu gặp nhau.
Phụ thân của Mã Liên Nhi vốn ở tận Liêu Đông, Mã Liên Nhi lớn lên ở đó, không những rành cưỡi ngựa mà còn biết rõ tiếng Thát Đát, tính tình của nàng cũng cởi mở phóng khoáng như phụ nữ Thát Đát, rất khác với phụ nữ Trung Nguyên. Từ lúc quen nàng tới giờ, đây là lần đầu Dương Lăng nhìn thấy nàng yếu đuối bơ vơ như vậy.
Dương Lăng không khỏi nhiệt tình nắm lấy cánh tay nàng, hỏi:
- Từ từ đã! Mã thế bá gọi ta là hiền điệt, cũng xem như ta là vãn bối của ông.
Tình hình cụ thể ở đó ta còn chưa rõ ràng lắm, có thể kể lại cho ta rõ không?
Mã Liên Nhi ngoảnh đầu lại, cặp mắt như nước hồ thu của nàng đảo lên tay hắn, Dương Lăng vội vàng buông ra. Y nhất thời nóng lòng mà quên mất ở thời đại này, nếu tùy tiện cầm tay con gái nhà người ta thì quả là một hành động cực kỳ thất lễ.
Vốn là cảnh kiếm bạt cung trương, nhưng nhờ sự tín nhiệm và thầm hiểu giữa Dương Lăng với Mã Liên Nhi nên tình hình căng thẳng đã được hóa giải. Dưới ánh mắt chăm chú vẫn đầy tức giận bất bình của Mã Ngang, Mã Liên Nhi kể lại sự việc một lượt. Hóa ra là vào buổi chiều, Dương Lăng có giao viên tiểu lại ở sở dịch đi chuẩn bị mấy gian phòng tốt. Kẻ này liền vào sở dịch cho người thu dọn các phòng đã được cấp làm chỗ trú ngụ cho Mã đại nhân cùng hai con. Hắn muốn dành những gian phòng này cho các vị quan to từ kinh đô tới ngụ. Trạm dịch nhỏ bé này chưa từng đón một vị tai to mặt lớn nào, mà những phòng tốt nhất của sở dịch cũng đúng là những gian phòng này.
Lúc đó Mã Ngang và em gái biết phụ thân đã mất, liền chạy tới đầu thành nhận xác nên không biết việc này. Đến lúc họ trở về thì phòng ốc đã bị dọn trống trơn rồi. Mã Ngang bộp chộp bèn tặng cho tên tiểu lại kia mấy cái bạt tai vào mặt.
Phụ thân của hắn vừa mới nhậm chức được hơn một tháng, vẫn chưa kịp có uy đức với cấp dưới. Tiểu lại kia vốn còn định lịch thiệp mời bọn họ chuyển sang phòng bên cạnh để thờ phụng nhưng bị ăn mấy cái bạt tai nên nổi nóng, gọi dịch tốt tới đuổi bọn họ ra ngoài.
Mã Liên Nhi nghĩ tới thi thể phụ thân ở trên xe ngựa ngoài cửa còn chưa được thu xếp nên xin mượn một gian phòng để bày linh đường. Trong lúc nóng giận, viên tiểu lại lấy cớ cấp trên ngụ tại chỗ này nên từ chối, không cho lập linh đường để khỏi cản trở cảnh quan.
Anh em họ Mã đáng thương buổi sáng còn là chủ nhân của sở dịch thừa, đến
chiều lại phải vất vưởng nơi đầu đường xó chợ. Hai người lại mang theo một thây người nên ngay cả khách sạn cũng không chịu nhận. Trong lúc đau khổ hoang mang, cho rằng kẻ bày trò là tên Dương Lăng vong ân phụ nghĩa nên họ mới đùng đùng nổi giận đánh tới cửa.
Hàn Ấu Nương vốn cũng là người mềm lòng, chính nàng cũng đã phải trải qua cảnh xa lìa người thân, bơ vơ không nơi nương tựa, nếm trải cảm giác bị ức hiếp, chỉ nghe kể chuyện mà đã nước mắt lưng tròng. Nàng rưng rưng nhìn tướng công như muốn khẩn cầu, chỉ mong chàng có thể giúp đỡ hai anh em nọ một phen, nàng đã sớm bỏ qua sự xấc xược của đôi huynh muội này rồi.
Nghe xong, Dương Lăng cực kỳ phẫn nộ, y bèn bảo Mã Ngang:
- Mã huynh! Bá phụ đối xử với ta như con cháu, việc này cứ giao cho ta đi, coi như là một chút lòng hiếu của ta với lão nhân gia. Ta phụ hai người đi sửa soạn linh đường, sớm ngày mai, ta sẽ cùng chư vị đồng liêu trong huyện tới viếng Mã bá phụ!
Tên tiểu lại trực đêm nghe nói Dịch Thừa đại nhân đến liền vội vàng chạy tới trình diện. Dương Lăng thấy hai má hắn đang sưng vù thì lập tức nhíu mày. Y là người hiện đại nên không đồng tình với tư tưởng "vì mình là người thuộc giai cấp cao nên có tư cách và danh dự cao hơn người khác." Nếu đổi lại là y bị người khác đùng đùng bạt tai mấy cái thì chỉ sợ đã điên tiết lên rồi.
Do vậy nên y không vì bênh vực Mã Ngang huynh muội mà quát mắng gã tiểu lại, chỉ nhẹ nhàng nhờ hắn gọi mấy người tới giúp bố trí linh đường. Tên tiểu lại kia thấy cấp trên ra mặt, đành ngượng ngập tìm mấy tên dịch tốt đến, giúp đại nhân giải quyết công chuyện.
Vào thời điểm này cũng không thể kiếm đâu ra đầy đủ đồ cúng được, phía trước bát hương chỉ bày biện qua quýt vài món. Bên cạnh quan tài là câu đối phúng điếu và cờ trắng. Trong bồn gốm có giấy lụa, vàng mã và còn hai cây nến trắng đang cháy trên linh cữu. Mã Ngang và Mã Liên Nhi đang túc trực trước linh cữu, vừa đốt tiền giấy vừa lã chã rơi nước mắt.
Dương Lăng không chịu nổi bầu không khí đau thương buồn bã này nên khuyên giải an ủi vài câu rồi cáo từ ra về, bỗng sau lưng y có người gọi:
- Dương huynh...
Dương Lăng ngoái đầu lại, thấy Mã Liên Nhi từ cuối hành lang đang chậm rãi bước tới. Ánh đèn lay động trong gió rọi xuống bộ quần áo trắng tinh của nàng, eo thắt đai tang, bóng hình thon thả như muốn nương theo cơn gió. Ánh mắt của y bỗng dưng khẽ ngẩn ra.
Mã Liên Nhi bước tới bên người Dương Lăng, khẽ nói:
- Dương huynh, hoạn nạn mới thấy chân tình, Liên Nhi đa tạ huynh!
Nói xong nàng liền gập người vái, Dương Lăng vội vàng ngăn lại rồi nói:
- Liên Nhi tiểu thư, cô quá khách sáo rồi. Bá phụ là trưởng bối của ta, chuyện nhỏ này là trách nhiệm ta phải làm hết sức nên không thể nhận đại lễ này được.
Mã Liên Nhi nhẹ nhàng đứng thẳng lên, cười khổ nói:
- Ta muốn cảm tạ huynh là bởi vì bản thân mình mà thôi. Gia huynh ngoại trừ sức lực, thích đánh đấm thì chẳng có sở trường gì cả. Còn ta chỉ là một cô gái, nếu như không có huynh thì hôm nay chúng ta muốn làm tròn đạo hiếu của con cái cũng chẳng thể được.
Giọng nàng nghẹn ngào, than thở:
- Ta vẫn luôn hận cha đã bức mẹ phải chết, luôn luôn hận người, cho nên mặc dù đau lòng nhưng cũng không đến nỗi bi thương hết muốn sống.
Nàng lại cười khúc khích rồi nhìn thẳng vào Dương Lăng hỏi:
- Những lời mà ta vừa nói có phải là đại nghịch bất đạo không nhỉ?
Ở kiếp trước truyền thông phát triển, Dương Lăng từng thấy rất nhiều mỹ nữ, sắc đẹp đều tuyệt vời, sợ rằng đế vương của thời này chắc gì đã có khả năng thấy hết tuyệt sắc trong thiên hạ. Lẽ ra với sự hiểu biết của hắn thì không thể bị Mã Liên Nhi mê hoặc được.
Thường có câu "nữ yếu tiếu, nhất thân hiếu" (con gái mặc đồ tang trông sẽ đẹp hơn), và cả câu "đăng hạ khán mỹ nhân, dũ tăng tam phân nhan sắc" (nhìn mỹ nhân dưới đèn, sẽ thấy nhan sắc nàng đẹp hơn ba phần.) Diện mạo của Mã Liên Nhi vốn đã rất đẹp, rất quyến rũ rồi, lúc này lại mặc một bộ đồ tang màu trắng mộc mạc, toát lên vẻ thánh khiết không tì vết. Lúc này cặp mắt như sao ấy lại ngân ngấn nước, vẻ nhu mì đáng thương đó khiến người ta cảm động nói không nên lời. Rốt cuộc, Dương Lăng lại không dám đối diện với nàng.
Mã Liên Nhi yếu ớt nói:
- Ta đau lòng, mà nói thật ra là có một phần hối hận. Bởi vì cho tới tận bây giờ, ta mới biết nếu như không có cha thì ta đã không thể sống thoải mái như vậy. Dù sao đi nữa, cha ta cũng đã đối xử với ta rất tốt, ta không nên thù ghét, lúc nào cũng làm cha giận như vậy.
Dương Lăng thầm than thở: "Đây có phải là minh chứng cho câu 'tử dục dưỡng nhi thân bất tại' (**) không? Vì sao lúc nào cũng phải để mất rồi mới biết quý trọng cơ chứ?" (**: Con muốn báo hiếu cha mẹ nhưng cha mẹ không còn)
Mã Liên Nhi cười cay đắng, nói:
- Khi gia phụ lĩnh chức dịch thừa, vốn có hai huyện còn chỗ trống. Do ở đây gần vùng quan ngoại, mà ta lại cảm thấy rất thích cuộc sống ở những nơi như thế này cho nên mới năn nỉ cha ta tới đây. Chính ta đã hại cha rồi, nếu như ta có thể đoán trước được việc sẽ xảy ra, thì có lẽ...
Dương Lăng an ủi:
- Ai có thể biết trước được tương lai chứ? Liên Nhi tiểu thư, đây không phải là lỗi của cô.
"Biết trước thì có gì hay cơ chứ, nếu như không phải biết mình chỉ còn sống được hai năm thì không biết bây giờ ta và Ấu Nương đã vui vẻ tới cỡ nào rồi." Dương Lăng thương cảm khuyên nhủ:
- Đã không thể biết trước tương lai thì nên sống một cách nghiêm túc từ ngay bây giờ, nắm bắt hiện tại mới đáng quý, tương lai sẽ không hối hận. Tiểu thư thấy có phải không?
Mã Liên Nhi thấy ánh mắt trong veo của y chăm chú nhìn mình, trong ánh mắt đó chất chứa nhiều tình cảm phức tạp, tâm tình thiếu nữ khẽ rộn ràng. Nàng đâu biết Dương Lăng vì nghĩ tới Hàn Ấu Nương nên mới xót xa như vậy, liền hiểu nhầm: "Nắm bắt lấy hiện tại mới đáng quý ư? Y... muốn ám chỉ điều gì với mình sao?
Nhưng y đã thành thân rồi mà."
Mã Liên Nhi cảm thấy mặt mình như phát sốt, bị Dương Lăng nhìn nên càng hoảng hốt, nàng lắp ba lắp bắp:
- Nắm bắt hiện tại... mới đáng quý sao? Ta có thể nắm bắt được cái gì đây? Nhà thì chẳng có, đất cũng không, mặc dù gia phụ cũng có chút tích góp nhưng 'miệng ăn núi lở.' Ở đây huynh muội ta lại chẳng có ai thân thích, có lẽ... có lẽ vài hôm nữa ta cùng ca ca khiêng linh cữu về quê cũ.
Nàng nói xong, tim đập mạnh như ngựa phi nước đại: "Y có giữ ta lại không? Nếu như y giữ ta lại, ta phải làm sao đây? Ta cũng nhìn ra được là y rất yêu thương Hàn Ấu Nương, nhất định sẽ không vì ta mà bỏ nàng ấy đâu. Nhưng nếu như y bày tỏ tình yêu với ta, ta... Mã Liên Nhi này lẽ nào phải chịu làm thiếp cho người ta sao?"
Mã Liên Nhi cũng không muốn chịu cảnh nhục nhã phải làm thiếp nhà người nhưng lại ái mộ phong độ lịch lãm của Dương Lăng. Và nhất là, chỉ có người đàn ông này mới có thể hiểu và bao dung cho cách nhìn của nàng mà theo quan điểm của phụ nữ Trung Nguyên là đại nghịch bất đạo
"Hiện tại, gia cảnh của mình chắc chắn là sa sút, mà y chưa đầy hai mươi tuổi đã ngồi tới chức vị mà cha mình phải vất vả cả nửa đời người mới đạt được, có thể nói là tiền đồ không giới hạn. Liệu y có phải là người mà mình có thể lựa chọn hay không?" - Mã Liên Nhi hoảng hốt không muốn đối mặt với tình cảm đang dâng lên trong lòng, quả thật là vô cùng mâu thuẫn và bối rối.
Dương Lăng nợ Hàn Ấu Nương một mối thâm tình nặng như núi còn chưa biết lấy gì báo đáp, nào có tâm tư dây vào một mối tình khác, dù dung mạo xinh đẹp của Mã Liên Nhi quả thật khiến những người đàn ông bình thường đều yêu thích. Có điều y cũng không biết rằng Mã Liên Nhi đang dịu dàng kín đáo giãi bày tâm sự với y như vậy cũng chỉ là cho y một cái cớ để giữ nàng lại mà thôi.
Dương Lăng chợt trở nên nghiêm túc, mà sự nghiêm túc này lại xuất phát từ góc độ suy nghĩ của bằng hữu. Y cảm thấy tòa thành nơi biên cương này không
thích hợp để huynh muội Mã Liên Nhi lưu lại, bèn nói:
- Tòa thành nhỏ ở vùng biên cương này lúc nào cũng có thể xảy ra chiến tranh loạn lạc, rời đi cũng tốt, trở về đất tổ dù sao cũng có họ hàng thân hữu giúp đỡ.
Tiếng lòng của Mã Liên Nhi vừa vang lên đã vụt tắt, bàn tay đang nắm chặt cũng buông lỏng ra, trong mắt chớp qua sự thất vọng khó mà che giấu được.
Lúc Dương Lăng cáo từ rời đi đã không chú ý tới ánh mắt vô cùng u oán của Mã Liên Nhi. Y yêu cầu tiểu lại đưa đến một con ngựa rồi phi một mạch tới huyện nha tìm bổ đầu trực đêm, bảo hắn sớm ngày mai khi chư vị đại nhân đến hãy mời bọn họ đến sở dịch thừa để phúng điếu Mã dịch thừa.
Trong đám quan viên huyện nha này, Hoàng huyện thừa có chức vị cao nhất, lại luôn quan tâm tới Dương Lăng. Y lại là sư gia của Mẫn đại nhân nên những người khác cũng luôn đối xử với y rất lễ nghĩa. Dương Lăng tự tin thân phận đặc thù của mình vẫn đủ sức kêu gọi.
Dặn dò xong, Dương Lăng định trở về nhà, nhưng nghĩ tới Mẫn đại nhân chắc đã được chuyển về huyện nha, cũng không biết bệnh tình thế nào rồi, liền đi vào trong xem thử. Y đi vào phía sau nha môn, thấy trong gian nhà chính có hai tên đầy tớ đang ngồi trên giường đất uống rượu, trên bàn bày một đĩa lạc rang và một đĩa tai heo. Nhìn thấy Dương sư gia, người được đại nhân coi trọng nhất đi vào, hai người vội vàng bước xuống giường. Lý lão đầu nhe răng cười chào:
- Dương sư gia, ngài tới thăm lão gia đấy à? Dương Lăng gật đầu rồi hỏi:
- Đại nhân ra sao rồi?
Lý lão đầu tới cầm lấy áo choàng cho Dương Lăng, cười trả lời:
- Cơn sốt của lão gia đã lui rồi, chẳng qua là vẫn chưa tỉnh mà thôi, để tôi đưa ngài vào trong!
Dương Lăng xua tay nói ngay:
- Thôi không cần, đang tết nhất, hai ngươi lại hiếm khi được nghỉ ngơi, đi nghỉ cả đi, ta vào thăm đại nhân rồi về ngay!
Y vén rèm bông, bước vào phòng ngủ của Mẫn Văn Kiến. Trên chiếc bàn nhỏ phía trước giường đất đặt một ngọn đèn dầu, còn Mẫn đại nhân thì nằm ở đầu giường, đang quấn chăn kê cao gối ngủ say. Dương Lăng bước tới ngồi trước giường, thấy Mẫn Văn Kiến ngủ ngửa mặt lên trời, râu vểnh ngược, không nhịn được liền khẽ cười.
Xem xét kỹ thì thấy khuôn mặt đen thui của Mẫn huyện lệnh đã hồng hào hơn một chút. Nhẹ nhàng sờ lên trán của lão, cơn sốt đã lui, xem ra độc tố trên người đã được tẩy trừ nên không còn nguy hiểm gì nữa rồi. Dương Lăng thở phào rồi xoay người chuẩn bị rời đi thì đột nhiên Mẫn tri huyện rên rỉ một tiếng, lẩm bẩm nói:
- Nước, nước, lão tử muốn uống nước!
Dương Lăng mừng quá, vội cầm lấy ấm trà trên bàn, kê vòi ấm tới sát miệng lão. Mẫn huyện lệnh liền như cá voi hút nước, đã bắt đầu thì không dừng lại được nữa, quá nửa ấm trà đã trôi thẳng vào dạ dày, bấy giờ Mẫn râu xồm mới chậm rãi mở mắt.
Nheo mắt một hồi lâu lão mới nhìn rõ trước mặt là sư gia Dương Lăng của mình, Mẫn huyện lệnh chớp chớp mắt, nhìn quanh bốn phía, lầm bầm hỏi:
- Ta đang ở nhà à? Quân tình hiện tại như thế nào rồi? Dương Lăng cười trả lời:
- Đại nhân, ngài đã ngủ một ngày một đêm rồi. Hôm nay đại quân của Vĩnh Ninh tham tướng đã đến, Thát Tử đã rút lui vào núi rồi, vòng vây ở Kê Minh đã được giải trừ, đại nhân chớ nên lo lắng!
Mẫn tri huyện nghe vậy sắc mặt liền lộ vẻ vui mừng, mắt khép hờ một lát rồi lại mở to ra, nhìn chung quanh than thở:
- Chỉ có ngươi ở đây thôi à? Đúng là đường xa mới biết sức ngựa, hoạn nạn mới biết lòng người. Mẹ nó, tất cả đều tưởng lão tử chết chắc rồi sao?
Dương Lăng cảm thấy thẹn thùng. Hôm nay có quá nhiều việc, mấy vị quan viên có chức sắc đều đi tiếp đón đám Hà tham tướng. Mọi người biết Mẫn tri huyện không gặp nguy hiểm gì đến tính mạng nên mới không tới thăm lão. Còn riêng mình, nếu không phải vì chuyện của Mã gia thì tối nay cũng đã không tới huyện nha làm gì. Không ngờ người thô lỗ như Mẫn tri huyện lại nhạy cảm như vậy. Xem ra câu "lễ đa nhân bất quái" (lễ phép nhiều thì chẳng ai trách) quả không sai, cổ nhân cực kỳ coi trọng lễ tiết, sau này mình phải luôn chú ý mới được.
Dương Lăng vội vàng giải thích thay mọi người, lúc này Mẫn đại nhân mới trở nên thoải mái. Từ lúc trên giường bệnh tỉnh lại, chỉ có Dương Lăng ở bên, khiến lão cực kỳ vui mừng, xem ra trực giác của mình coi y là thân tín quả là không nhầm.
Dương Lăng nhớ tới việc Hà tham tướng ra lệnh bổ nhiệm tạm thời liền kể lại cho Mẫn tri huyện, lão nghe xong liền trợn mắt quát:
- Như thế sao được? Ngươi đi rồi thì nha môn của ta do ai quản?
Quát xong, lão lại nghĩ rằng cũng không nên đối xử quá tệ với người của mình, liền nói tiếp:
- Thế cũng tốt, coi như là ngươi đã chính thức bước vào quan trường rồi. Em rể của ta là tri phủ Đại Đồng, ngày mai ta sẽ sai người báo cho y biết để giúp ngươi trở thành một viên dịch thừa chính thức. Chuyển từ tạm thời lên chính thức rất dễ dàng, không tới hai ngày đâu.
Lão cười gian hai tiếng nói:
- Hê hê, chớ nên coi thường chức dịch thừa này! Chức quan mặc dù không lớn, nhưng lại rất béo bở. Chức vị này để cho ngươi làm cũng tốt, nếu để người khác chiếm mất thì ta cũng không cam lòng.
Như một tân khoa trạng nguyên(1) diễu hành trên phố, y lắc lư đến cổng sở Dịch thừa. Đột nhiên từ xa có tiếng vó ngựa gấp rút vọng lại, hơn mười thớt khoái mã lao vút tới. Dương Lăng quay đầu nhìn sang, thấy một đám vệ sỹ áo giáp sáng choang đang vây quanh một tướng quân đầu đội khôi giáp, chính là vị Tất Xuân Tất đô ty đó.
.
Tất đô ty mặt mày tươi rói, chẳng giống gì với khí thế vênh váo ép người ngày hôm qua. Y gấp roi ngựa, chắp tay cười lớn nói:
- Được Dương lão đệ quan tâm chiếu cố nhiều, bổn tướng đặc biệt đến để cảm ơn đây.
Đêm qua Quan Thụ Anh vận chuyển lương thảo về doanh và có thuật lại nguyên xi những lời của Dương Lăng cho y. Trong lúc nhắc lại, nét mặt Quan Thụ Anh vẫn tràn ngập vẻ kiêu ngạo, tay đội trưởng thân binh tính thẳng như ruột ngựa này cảm thấy lời của Dương Lăng rất hay.
Tất Xuân đã lăn lộn trên quan trường bấy lâu, sẽ không vì mấy câu đầy sức truyền cảm (2) đó mà xem Dương Lăng là tri kỷ cả đời, tuy vậy y vẫn cảm thấy vô cùng sảng khoái, càng thêm hảo cảm với Dương Lăng. Sáng sớm rong ngựa trong thành, chợt nhớ tới vị Dịch thừa này, y nhất thời cao hứng, bèn phóng thẳng đến sở dịch để tỏ lòng biết ơn.
Dương Lăng vội bước lên nói mấy lời khách sáo. Tất Xuân nghe nói y muốn đi viếng một vị trưởng giả nên không tiện bỏ đi ngay, thế là cũng vào viếng để tránh phải thất lễ.
Nhóm người bọn họ tiến vào sân thì thấy cỗ kiệu màu xanh lục quen thuộc của Mẫn huyện lệnh dừng ở trong sân. Thì ra các vị đồng liêu đã đến huyện phủ từ sớm để vấn an đại nhân trước. Vết thương trúng tên của Mẫn tri huyện không sâu, nhưng vì mũi tên có độc nên mới hôn mê lâu như vậy, đã tỉnh lại rồi thì không còn đáng ngại nữa. Lão nghe nói Mã dịch thừa đã mất, lại nhớ hồi hôm chỉ có Dương Lăng bồi tiếp mình nên không khỏi phát sinh cảm giác bầu bí thương nhau (nguyên văn "thố tử hồ bi" - thỏ chết cáo thương), thế là chẳng màng can ngăn, lão lập tức ngồi kiệu chạy đến phúng viếng.
Huynh muội Mã Ngang không ngờ Dương Lăng có thể gọi nhiều người có thân phận đến viếng đến như vậy. Chớ thấy ngày thường Mẫn tri huyện và Mã dịch thừa xưng huynh gọi đệ mà lầm. Thứ nhất là có tiền bạc "phúng điếu", thứ hai là Mã dịch thừa tốt xấu gì cũng giắt một lệnh bài Cẩm y vệ ở trên người, bằng không, phải cực kỳ nể nang lắm thì kém tới mấy cấp mới được người ta đến viếng.
Còn như vị tướng quân mà Dương Lăng đang đưa vào... Cứ thử tưởng tượng một cục trưởng cục bưu chính huyện qua đời mà lại được lãnh đạo cấp phó tỉnh đến dự tang lễ, thì sẽ biết ngay người nhà có cảm giác gì.
Những người này, có một số hai huynh muội đều chưa gặp qua lần nào, hiển nhiên bọn họ đều là nể mặt Dương Lăng mà đến. Vừa nghĩ đến đây, Mã Ngang thật sự cảm kích Dương Lăng đến rơi nước mắt. Đối với Mã Liên Nhi thì ngoài vẻ cảm kích, trong ánh mắt của nàng nhìn về phía y còn mang thêm vài phần u oán, khiến Dương Lăng cảm thấy khó hiểu.
Tất Xuân vốn chỉ định lướt vào rồi ra, nhưng vừa trông thấy Mã Liên Nhi đã không nỡ bỏ đi. Y không ngờ ở vùng đất nhỏ này lại có thể gặp được một tiểu mỹ nhân đẹp tuyệt như hoa như ngọc vậy; nàng tuổi trạc mười lăm mười sáu, duyên dáng thướt tha, thân mặc áo tang, lộ ra dáng vẻ rất đỗi mảnh mai yếu ớt.
Dung nhan mỏng manh như cánh hoa chớm nở đọng giọt sương mai, thật sự yêu kiều đến không thể diễn tả bằng lời. Ba cô vợ lớn nhỏ của mình cũng có thể xem là giai nhân xứ Giang Nam, ấy vậy mà không được sáu phần xinh đẹp của nàng ta.
Đến tận lúc hai huynh muội đến trước mặt vị quan trưởng phẩm bậc cao nhất này để bái tạ, thì Tất đô ty mới thu lại ánh mắt quyến luyến, ngồi ngay ngắn nhận một lễ của bọn họ, sau đó đưa tay phải đỡ hờ, nói:
- Hai vị hãy đứng lên đi! Lệnh tôn vì nước hy sinh, Tất mỗ rất là tôn trọng, đến đây bái tế cũng là việc nên làm.
Hai huynh muội bái một lạy nhưng lại không đứng lên, Mã Ngang nói:
- Tướng quân đại nhân, Mã Ngang muốn gia nhập quan binh, giết Thát tử, bảo vệ Đại Minh, vì phụ thân báo thù, xin đại nhân thành toàn.
- Việc này...
Tất Xuân không khỏi do dự một chút. Nếu như y là binh thuộc doanh thì tuỳ tiện thu mấy người cũng dễ. Nhưng quân đội của y lại thuộc biên chế vệ sở, lính dưới trướng đều là quân hộ (3), cha truyền con nối. Tuy cũng có kẻ lén lút mạo danh đi lính thay, thế nhưng công khai thu nạp trước mặt biết bao người như vậy thật sự rất bất tiện.
Mã Liên Nhi ngẩng đầu xin:
- Tướng quân đại nhân, huynh trưởng ta học được một thân võ nghệ, làm lính hầu cũng được. Cầu xin đại nhân có thể cho y cơ hội vì cha tận hiếu, vì nước tận trung.
Thấy mỹ nhân cất giọng êm ái thỉnh cầu, xương cốt Tất Xuân đã mềm nhũn cả ra. Cặp mắt tam giác hơi díp lại, đầu óc nóng lên, y bảo:
- Được rồi, mau đứng lên đi! Ngươi đã am hiểu võ nghệ, lại biết viết lách, trước hết hãy đến làm thân binh cho ta, nhận chức Thập trưởng (4). Sau này lập được chiến công ta sẽ lại thăng quan cho ngươi.
Mã Ngang hết sức mừng rỡ, dập đầu bái tạ rồi đứng dậy. Thập trưởng tuy là chức nhỏ, nhưng suy cho cùng vẫn xem như là một quan quân. Mã Ngang vẫn luôn tự cho mình tài giỏi, tự tin rằng dựa vào võ nghệ của bản thân y chẳng những sẽ có
thể thay cha báo thù, mà còn có thể kiếm một chức quan trong quân đội.
Thấy huynh trưởng nhà mình đã có lối đi, Mã Liên Nhi cũng mừng cho y. Chỉ là nghĩ đến chuyện huynh trưởng tòng quân rồi, sẽ trơ trọi lại mỗi mình, thâm tâm nàng không khỏi buồn rầu.
Chiến sự chưa yên nên Tất Xuân không dám nán lại lâu. Ngồi thêm một chốc y liền cáo từ trở về quân doanh, còn căn dặn Mã Ngang tang sự xong xuôi hãy đến quân doanh báo danh. Mẫn đại nhân vết thương chưa khỏi nên cũng không thể ngồi lâu, mà đám quan viên nha huyện đều có sự vụ cần làm, thành thử cũng tuần tự cáo từ rời đi.
Đáng lý huynh muội nhà họ Mã nên túc trực bên linh cữu (thủ linh) bảy ngày, sau đó mai táng để cha an nghỉ. Có điều thời đó xem trọng chuyện "lá rụng về cội", nếu như chết ở quê người, thường đều để quan tài lại ở những nơi như chùa chiền, miếu mạo, chờ khi có dịp sẽ đưa về quê nhà an táng. Một số nhà gia cảnh bần hàn, không chịu nổi chi phí vận chuyển đường dài, quan tài thậm chí phải lưu lại hơn chục năm.
Sau một hồi bàn bạc, hai huynh muội quyết định gửi quan tài ở chùa Phổ Độ nơi Kê Minh, đợi sau này mới chuyển về quê. Hiện tại Mã Ngang sốt ruột báo thù, nóng lòng muốn tòng quân, tuy không để tang theo quy định, nhưng cũng xem như là đã tận hiếu, đương nhiên sẽ không có ai trách móc.
Nhưng lúc này, sắp xếp cho Mã Liên Nhi như thế nào lại trở thành chuyện khó.
Thấy Mã Ngang đưa mắt về phía mình, Dương Lăng liền trấn an:
- Mã huynh không cần phải lo lắng, tiểu thư cứ ở lại nơi này là được! Mã Liên Nhi lạnh nhạt liếc y, nghiêm mặt bảo:
- Huynh muội ta bây giờ không còn quan hệ gì với sở Dịch nữa, ở lại nơi này há chẳng phải là danh bất chính ngôn bất thuận sao.
Phụ nữ thích nhất là thù dai, nhất là mấy người đẹp hay được nuông chiều.
Dương Lăng chỉ nghĩ nàng vẫn còn giận tên tiểu lại kia nên bảo:
- Vậy có sao đâu? Lát nữa để ta đi sắp xếp cho nàng là được. Mã Liên Nhi hếch mũi:
- Ta với huynh không thân thích, lại chẳng phải bạn bè gần gũi, đến lúc đó không chừng sẽ nảy sinh những lời đồn đại ác ý đấy.
Mã Ngang trừng mắt:
- Ai dám? Hơn nữa... không họ hàng thân thích thì còn đúng, chứ sao lại không bạn bè gì? Huynh và Dương lão đệ cũng đã xem như là bằng hữu tốt rồi, giúp huynh chăm lo cho muội tử một chút thì có sao đâu chứ?
Mã Liên Nhi giậm chân, quay ngoắt đầu không thèm để ý tới tên ngốc đó nữa. Dương Lăng thầm trù tính, cũng cảm thấy Mã Liên Nhi nói có lý. Vì y chỉ là Dịch thừa tạm thời, ngay cả gia quyến của y cũng chưa dọn vào sở Dịch thừa ở, nếu như để thêm một cô nương trẻ tuổi sống ở chỗ này, chắc chắn sẽ dẫn đến những lời ong tiếng ve.
Mẫn huyện lệnh vừa nãy trước lúc rời khỏi cũng nói đã cử người đi thông báo cho em trai vợ lão, tốt hơn trước tiên cứ để nàng ở cùng với Ấu Nương vài hôm, còn mình thì chuyển tới ở trong sở Dịch, chờ đến khi chính thức nhận bổ nhiệm, lúc ấy nhường lại căn nhà nhỏ của mình cho nàng ấy là được. Trong bụng trù tính như vậy, y nói với Mã Ngang:
- Tiểu thư nói cũng có lý, ở lại nơi này đúng là có điều bất tiện. Ta thấy nên mời tiểu thư về nhà ta ở trước...
Y vừa nói đến đây, thấy Mã Ngang miệng hả to như hà mã đang ngáp, cặp mày liễu của Mã Liên Nhi cũng xếch ngược lên nên liền vội bổ sung:
- Úi ... trước để bầu bạn với tiện nội, còn ta dọn đến sở Dịch ở là được rồi. Chờ khi Thát Tử rút lui, tiểu thư hãy quyết định đi hay ở cũng không muộn.
Mã Ngang vui mừng khôn xiết, sắp xếp như vậy còn có gì phải lo lắng chứ. Mã Liên Nhi lườm Dương Lăng một cái, suy nghĩ một chút rồi cũng không nói thêm gì. Chuyện này coi như đã được giải quyết.
Ngay trong hôm đó, Thát Tử chỉ phái ra một toán lính nhỏ do thám quân Minh. Hai phe đều thăm dò thực lực của đối phương, bên nào cũng không đưa ra quân đội tác chiến chủ lực.
Lúc trời gần tối, Dương Lăng dẫn người giúp huynh muội Mã Ngang đưa quan tài của Mã dịch thừa gởi ở chùa Phổ Độ. Mọi chuyện bố trí thoả đáng xong, Mã Ngang liền đến quân doanh của Tất đô ty báo cáo, còn Dương Lăng dẫn Mã Liên Nhi về nhà. Ấu Nương là một phụ nữ rất nhiệt tình, lại hết sức đồng cảm với vị đại tiểu thư gặp nạn này, nên sau khi nghe nói nàng ta chỉ tá túc vài hôm thì không chần chừ mà đáp ứng luôn.
Mã Liên Nhi đối xử với y thì lạnh lùng băng giá, nhưng khi thấy Hàn Ấu Nương thì lại trở nên thân thiết, thấy vậy Dương Lăng không khỏi thở phào một hơi. Cả ngày nay, thái độ của Mã Liên Nhi đối với y, thậm chí ngay cả lúc cười cũng đều lạnh nhạt, giả tạo. Dương Lăng cũng chẳng biết mình đã đắc tội với nàng ta ở chỗ nào. Y thật sự vẫn lo vị thiên kim họ Mã này đến nhà rồi vẫn sẽ giở tính khí tiểu thư. Y nhịn được, nhưng y không thể chịu được bất cứ kẻ nào làm Ấu Nương buồn giận.
Ấu Nương ít đọc sách, nhưng tính tình thuỳ mị, thông minh lanh lợi, biết cái gì nên nói, cái gì không nên nói. Mã Liên Nhi từ nhỏ lớn lên ở vùng tắc ngoại, ghét nhất là dáng vẻ làm bộ làm tịch của bọn con gái đọc nhiều thi thư ở Trung Nguyên, nên rất hợp với nàng. Chỉ một lúc sau hai người đã rất thân thiết.
Nơi sở Dịch thừa chợt xuất hiện một bóng người lặng lẽ bước vào trạm gác (môn phòng), hỏi tên lính gác cổng:
- Dịch thừa đại nhân có ở đây không?
Tên lính gác cổng này vốn là dịch tốt, do bị thương lúc ở trên thành nên cử động khó khăn. Sở Dịch hiện nay đang thiếu người, thế là để cho gã và tên lính gác
cổng ban đầu tạm thời hoán đổi nhiệm vụ. Hắn tưởng kẻ kia tìm Dịch thừa tạm thời là Dương Lăng, nên vẫn ngồi ở trên đầu giường hỏi:
- Đại nhân vừa mới ra ngoài, ngươi có chuyện gì?
Vừa hỏi hắn vừa dò xét một lượt, thì thấy kẻ đến trên người mặc áo quần thường dân, mũ trùm đầu da chó sụp sát xuống tận lông mày, nét mặt đầy vẻ phong sương.
Kẻ đó nghe xong liền lấy từ trong ngực ra một phong thư được dán kín bằng sáp, đưa cho hắn, bảo:
- Ta từ quan ngoại đến, còn phải trở về ngay trong đêm nay. Phiền ngươi chuyển cái này tới cho Dịch thừa đại nhân. Cáo từ!
Tên lính gác cổng gật đầu nhận lấy bao thư. Người nọ đẩy cổng, biến vào giữa màn đêm mù mịt. Tên lính gác cổng nhìn phong thư, thấy chỗ phong ấn vẽ một con quái ngư. Hắn cũng chẳng để tâm, ngáp một cái, rồi đặt phong thư lên đầu giường.
Chú thích:
(1) Nguyên văn "khoa quan": trong chế độ khoa cử thời xưa, tân khoa trạng nguyên sau khi thi đình được đức vua khâm điểm (tự thân chấm điểm), quan viên lại bộ, lễ bộ sẽ giơ cao thánh chỉ, gõ chiêng dẹp đường. Trạng nguyên thân vận hồng bào, mão cắm cung hoa (hoa trong ngự uyển), cưỡi tuấn mã, diễu hành trên ngự nhai ở hoàng cung kinh thành, được vạn dân chúc tụng.
(2) Nguyên văn "thanh tình tịnh mậu": nghĩa đen chỉ cỏ cây phong phú um tùm, nghĩa bóng chỉ sự truyền cảm và lôi cuốn (trong biểu diễn).
(3) thời xưa tòng quân ở Trung Quốc, các hộ gia đình được phái đi làm quân sai. Thời Đông Tấn, Nam Bắc triều, hộ tịch của binh sỹ và những người thân trong gia đình đều thuộc về quân phủ, gọi là quân hộ. Các thế hệ trong quân hộ cha truyền con nối đều phải đi lính, chưa được phép sẽ không thể thoát khỏi quân tịch.
(4) một kiểu quân hàm trong quân đội thời xưa: cứ năm người lập ra một Ngũ
tràng (trường), hai mươi người là Thập tràng (trường). Một trăm người là Bách phu tràng (trường), năm trăm người là tiểu đô thống, một nghìn người là Đại đô thống. Ba nghìn người là Chính thiên tướng, năm nghìn người là Chính thiên nha tướng, một vạn người thì thiết lập Chính phó tướng quân.
Đêm hôm qua, trong doanh trại của Tất Xuân lại náo loạn cả lên, nguyên nhân là do thiếu hụt lương thảo. Vốn dĩ Hà tham tướng chỉ quan tâm đến lương thảo cho quân chính quy của mình, nên chẳng thèm dòm ngó tới quân của Tất Xuân. Nếu không phải nhờ Dương dịch thừa hào hiệp xuất lương, có lẽ đến bây giờ quân của Tất Xuân sẽ vẫn còn ôm bụng đói, nên trong lòng y có vài phần ác cảm. Chính vì vậy khi gặp Hà tham tướng, y cũng tỏ thái độ lạnh nhạt.
Hà tham tướng cũng chẳng để bụng, sau khi xem xét việc phòng thủ trong doanh xong, đang lúc muốn đi sang doanh của Tôn Đại Trung thì thám mã trong quân doanh đã đuổi tới đại doanh của Tất Xuân. Lúc này y vừa mới rời khỏi lều của Tất Xuân, lại nhận được quân tình cấp báo nên bèn quay về quân doanh rồi thắp đèn, mở quân thư ra xem.
Quân thư được gởi tới từ Tổng binh phủ. Xem xong quân tình cấp báo, lập tức Hà tham tướng đem thư truyền xuống cho các chư tướng. Về phần mình thì đi tới đi lui trong lều, vẻ mặt không ngừng biến đổi, thần sắc cực kỳ ảo não.
Thì ra lần này tiểu vương tử Bá Nhan Mãnh Khả của Thát Đát tập trung binh mã các bộ lạc, tổng cộng có hai vạn người, chia nhau quấy phá mười mấy dịch trạm dọc biên giới nhằm cướp lương thực vật tư để bù lại những tổn thất do trời đông tuyết lớn, đồng thời để có thể qua được mùa đông này một cách yên ổn. Hy vọng những tài vật cướp được có thể giúp cho các bộ lạc của mình thuận lợi vượt qua mùa đông này. Do đó trong chiến lược lần này của bọn họ, không hề có ý định đánh lâu. Thật ra, từ sau khi Minh Thành Tổ năm lần đánh Thát Đát (1), Ngoã Lạt, cho đến tận bây giờ dị tộc ngoài biên ải vẫn chưa hồi phục được nguyên khí, vì vậy về căn bản trước mắt vẫn chưa đủ thực lực để công thành cướp trại.
Sau khi lửa hiệu truyền tới, mấy cánh quân Minh đồng loạt xuất phát. Do tuyết
lớn lấp đường nên cánh quân ở Hoài Lai là đội đến sau cùng, ngoài ra còn có hai nhánh quân khác. Trong khi người Thát Đát vẫn chưa đánh hạ được Trác Lộc thì đại quân phía bắc của tham tướng Thạch Mã Doanh đã đuổi đến. Quân địch khoảng chừng năm ngàn người, vừa mới cướp bóc được vài thôn xóm dọc đường thì đã hốt hoảng bỏ chạy, nửa đường lại bị quân của du kích tướng quân Cát Uy chặn đánh, bị tổn thất nặng nề, đại quân còn lại không đến ba ngàn. Do vậy, có thể nói nhánh quân phía bắc vừa mới xuất quân đã chiến thắng giòn giã, lập được công đầu.
Tiểu vương tử Bá Nhan Mãnh Khả tự mình dẫn một vạn kỵ binh Thát Đát công đánh Xích huyện, đã liên tục chiếm được ba toà thành nhỏ. Tham tướng Úy Quảng và du kích tướng quân Dương Gia Long ở phía nam, cùng với tướng phòng thủ Xích huyện là Vương Thừa Hiến. Ba nhánh đại quân hợp lại số lượng cũng vừa đông tới một vạn, vì vậy đôi bên giao chiến không phân thắng bại, rơi vào thế giằng co.
Nhưng mà rạng sáng hôm nay, đại quân của tiểu vương tử bỗng nhiên chia thành hai nhánh rút lui, tham tướng Uý Quảng dẫn quân liên tục đuổi theo. Trong đó một nhánh quân chuồn lên phía bắc, nhánh còn lại thì chẳng biết đã trốn đi đâu. Thư từ tổng binh yêu cầu Hà tham tướng phối hợp với đại quân hai cánh tả hữu, chiếm lại các dịch trạm đã thất thủ, đồng thời tìm cơ hội gây tổn thất cho kẻ địch.
Mặc dù tham tướng Vĩnh Ninh đã thành công bảo vệ được Kê Minh, nhưng chiến tích đó so với hai vị tướng lĩnh đồng liêu thì vẫn còn kém xa. Hơn nữa qua tình huống được miêu tả trong thư, nắm rõ được ý đồ tác chiến của quân địch, y mới hay hôm qua quân Thát không hề có viện binh, đồng thời cũng chẳng ham chiến, vậy mà khi đó y lại không thể chớp lấy thời cơ để lập đại công, bây giờ nghĩ lại không khỏi có chút cảm giác phiền muộn.
Xem xong quân thư, sắc mặt của Diệp ngự sử cũng cực kỳ khó coi. Y sợ bị vặn hỏi, bèn giành mở miệng nói trước:
- Quân ta mới đến, không rõ tình hình của quân địch thì dùng binh cẩn thận một chút cũng không có gì là không thỏa đáng. Bây giờ chúng ta đã biết quân địch không có ý đánh lâu, vậy thì ngày mai chúng ta nên truy tìm tung tích quân địch,
chủ động xuất chiến!
Lưu công công cũng gật đầu đồng ý, nói:
- Hôm nay tuy quân ta không có truy kích, nhưng quân Thát cũng không biết nội tình của quân ta, chưa chắc đã chạy xa. Ngày mai nếu chúng ta tấn công bất ngờ, thì việc lập đại công sẽ dễ như trở bàn tay.
Tất Xuân suy nghĩ một chút rồi nói:
- Tham tướng đại nhân, hai vị giám quân đại nhân, ty chức cho rằng quân Thát thành thạo dã chiến hơn chúng ta. Thêm vào đó hai nhánh quân Trác Lộc và Xích huyện đã có hai vị du kích tướng quân hợp tác, ngoài ra số lượng quân ta lại không chiếm ưu thế so với quân địch, mặt khác phía trước lại có nhiều đường núi, rất bất lợi cho đại quân truy kích, vì vậy ty chức nghĩ rằng...
Diệp ngự sử ngắt lời y:
- Bây giờ đã rõ tình hình quân địch, cũng chính là lúc thừa thắng truy kích, khiến cho Thát Tử không dám khinh thường uy thế của quân Minh ta. Tất tướng quân nói như vậy, có phải là nhát gan sợ chiến hay không?
Cặp mắt tam giác của Tất Xuân trợn lên, hiển nhiên cơn giận đã lên tới cực điểm. Y hít vào một hơi, mặt tím lại không nói lời nào, nhưng trong lòng thì lại chửi ầm: "Lúc ông đây muốn thừa thắng truy kích, mày nói ông tham công liều lĩnh, bây giờ ông không muốn đuổi nữa thì mày lại nói ông nhát gan sợ chiến, đúng là bọn văn nhân chó má đáng bị chém đầu!"
Lúc này Giang Bân nhớ tới trong thư có nói đến trong hai cánh quân trốn chạy ở Xích huyện, có một cánh quân khoảng năm ngàn người, không biết đã chạy về hướng nào, không khỏi thầm suy nghĩ. Nhưng lập tức y nghĩ đến chuyện quân Thát nếu có chạy hẳn cũng chạy về biên giới phía bắc, chẳng có lý do nào mà chạy về hướng đông, đến Hoài Lai tìm chết, cho nên lời vừa đến miệng thì lại nuốt trở vào.
Hà tham tướng liếc nhìn Tất Xuân, rồi mỉm cười nói:
- Tất đô ty từ phương nam đến, không rõ địa lý, không biết tình hình quân địch nên cũng không thể trách được. Đường núi quả thật khó đi, nhưng chính vì khó đi nên kỵ binh Thát Đát mới không thể phát huy hết sở trường được. Thuộc hạ của ta đều là người bản địa, nắm rõ địa thế nơi này, ngày mai đại quân khởi hành cứ cho nhân mã chính của ta làm tiên phong là được.
Tất Xuân cười nhạt không nói: "Đây rõ ràng là biết quân Thát rút lui, muốn quân chính quy của mình tranh chiếm quân công mà."
Hà tham tướng cũng chẳng để ý tới thần sắc của y, lập tức hăm hở truyền tin triệu tập ngay chủ tướng các lộ đến quân doanh của Tất Xuân, bắt đầu nghiên cứu bàn bạc chuyện xuất binh ngày mai.
Dương Lăng trở về sở Dịch, tạm thời ở tại phòng làm việc thường ngày của Mã dịch thừa. Căn phòng không lớn, sảnh ngoài rất nhỏ, nhưng phía trên đầu bàn cũng có treo một tấm biển. Phía sau là một gian nhỏ dùng để nghỉ tạm, chiếc giường chiếm đến hai phần ba không gian, bên cạnh giường là một dãy tủ bằng gỗ lê nặng trịch.
Từ khi đến thế giới này, đây cũng là lần đầu tiên Dương Lăng ngủ một mình.
Đêm nay khi bên cạnh không có Hàn Ấu Nương nằm chống cằm ở đầu giường cùng y rủ rỉ mấy mẩu chuyện phiếm, trong lòng y tự nhiên cảm thấy trống vắng không ngủ được. Dương Lăng cười khổ, cô bé này không ngờ lại có sức hấp dẫn đến như vậy, vô tình đã chi phối tình cảm của mình, khiến cho mình như một thằng bé mới biết yêu phải lo nghĩ thiệt hơn.
Vừa nhớ đến Ấu Nương, y cảm thấy toàn thân ấm áp và dễ chịu, trong lòng như thể được rót mật. Từ sau lần hôn trước, tiểu cô nương đó dường như cũng đã nếm được mật ngọt, mặc dù không dám chủ động hôn y, nhưng mỗi khi lên giường cũng không vội vã chui tọt vào trong chăn, trùm kín người chỉ thò ra mỗi mái tóc như trước nữa, mà lúc nào cũng nằm sấp ở đầu giường, chớp đôi mắt to đen láy tròn xoe như quả nho nhìn y cười.
Nha đầu đó không biết là cô nàng chỉ để lộ vỏn vẹn mỗi bờ vai trong chiếc áo ngủ bằng vải thô thôi, vậy mà vẻ yêu kiều thuần khiết non nớt tựa như một đoá hoa
bé nhỏ thẹn thùng đó đã ẩn chứa sức hấp dẫn vô hạn rồi. Ông trời hãy rủ lòng thương, Dương Lăng đã cảm thấy mình có thể sẽ biến thành người sói đêm trăng tròn bất cứ lúc nào rồi đây nè.
Dương Lăng càng lúc càng mất tự tin về khả năng khống chế của mình, y không biết mình còn đang khăng khăng giữ vững cái gì. Hình bóng xinh đẹp của Ấu Nương đã chiếm hết cả con tim y. Nói một cách ích kỷ, tình cảm của y dành cho Ấu Nương từ sự yêu mến thương xót lúc ban đầu cho đến yêu thương sâu đậm như hôm nay, ý niệm vĩ đại sắm vai người dẫn dắt hạnh phúc cho nàng, trao nàng vào vòng tay kẻ khác sớm đã bị y vứt đi rồi.
Nhưng đối với việc chiếm hữu nàng, để cho Ấu Nương hoàn toàn trở thành người của mình, y lại càng lúc càng lo sợ hơn. Chính vì do dự lúc ban đầu, y cảm thấy mình đã lãng phí quá nhiều thời gian, không biết là mình còn sống được bao lâu. Giống như là một con bạc, đánh đến khi trong tay chỉ còn lại một ít vốn cuối cùng, thì trở nên lo sợ, loại cảm giác lo lắng được mất mãnh liệt này khiến y không dám dễ dàng đặt xuống số tiền cược cuối cùng.
Lắc lắc cái đầu, lắc cho tan cái cảm giác vừa chua xót vừa ngọt ngào ấy, y thuận tay mở một cái tủ ra. Sau khi Mã dịch thừa chết, xâu chìa khoá của lão cũng được chuyển giao cho Dương Lăng. Hồi chiều đến chỗ này làm việc, Dương Lăng còn làm một chuyện khiến người ta cười. Một dãy bốn cái tủ bên giường được khoá bằng bốn cái khoá đồng lạ lùng khác nhau. Mẫu khoá chia ra làm các loại chó, ngựa, tôm, cá. Dương Lăng phí biết bao sức lực mới mở ra được ổ khoá chó đồng và ngựa đồng, còn cái ổ khóa tôm đồng thì vặn đến cong cả chìa cũng không mở ra được, đành phải xấu hổ gọi một tên tiểu lại vào giúp. Té ra ổ khoá hình con tôm đó không phải là vặn để mở, mà là móc ra ngoài.
Sau cùng là cái ổ khoá con cá, theo lời tên tiểu lại đó, bởi vì cá ban đêm không nhắm mắt, cho dù khi ngủ mắt vẫn mở thao láo, thành thử dùng ổ khoá con cá, ngụ ý là lúc nào cũng phải trông chừng; vì thế đây nhất định là chiếc tủ mà đại nhân cất những văn kiện quan trọng nhất. Chính vì vậy, cái ổ khoá này cũng rất là đặc biệt, chìa khoá tra vào khe xong, vặn một cái rồi còn phải đẩy vào trong thêm một cái nữa thì mới mở được.
Lúc ấy Dương Lăng vội chạy đi kiếm con dấu về, đóng dấu lên mấy công văn khẩn rồi quay về linh đường. Tủ vẫn không khoá, nên y bèn thuận tay kéo cửa, mở luôn chiếc tủ có ổ khoá con cá bằng đồng kia, thì thấy thư tín bên trong đều đã mở niêm phong, bên cạnh tất cả dấu xi niêm phong đều có một con cá hình thù quái dị.
Dương Lăng kéo chiếc bàn nhỏ gần lại, vặn sáng bấc đèn của chiếc đèn dầu lên rồi vội vã soi đèn xem sơ qua một lượt. Chỉ lật vài phong thư, y đã ý thức được đây hẳn là những tin tức tình báo của hệ thống Cẩm Y Vệ.
Những tin tức tình báo này không chỉ dừng lại ở mấy chuyện đời tư thầm kín của đám quan lại, mà còn có cả phong tục dân tình, thậm chí là cả ruộng đất thu hoạch, thời tiết hạn lụt, có thể nói là đủ thứ trên đời, không cái gì là không có.
Dương Lăng không ngờ được mạng lưới tình báo của Cẩm y vệ lại rộng lớn như vậy. Không những thế mà định hướng của việc thu thập tình báo cũng không chỉ bó hẹp ở sự trung thành và chính trực của quan lại. Nếu lợi dụng tốt được mạng lưới tình báo khổng lồ như thế này, chắc hẳn người cầm quyền triều đình nhà Minh sẽ có thể trực tiếp nắm vững mọi tình huống ở mọi mặt một cách tỉ mỉ và chân thật nhất. Điều đó hẳn là có ý nghĩa quan trọng như thế nào đối với việc cai trị quốc gia. Tiếc là, hình như chưa bao giờ nghe nói có Cẩm y vệ nào của triều Minh làm được chuyện gì tốt cả.
Sau một thời gian tiếp tục lục lọi, Dương Lăng lấy ra một phong thư từ nửa tháng trước, khi đọc thì không khỏi sững người. Trong này nói rõ, mùa đông năm nay bên ngoài biên ải tuyết lớn liên miên, vô số trâu dê của rất nhiều bộ lạc bị chết vì lạnh, một số bộ lạc nhỏ đã hết cách sinh tồn, do vậy các bộ lạc đã nhiều lần liên lạc với nhau, có thể sẽ gây bất lợi cho nhà Minh.
Dương Lăng nghĩ đến phong thư mà không ngớt cười khổ: "Tiếc cho những mật thám phải nhận lệnh liều mạng bôn ba ẩn náu khắp nơi trên đất khách quê người. Các loại tin tình báo ở mọi nơi trên toàn quốc đều đã tập trung nơi kinh thành cả rồi, nhưng cấp cao của Cẩm y vệ sẽ chỉ chú ý tới những thứ mà bọn họ cảm thấy hứng thú, phần lớn các tin tình báo còn lại sẽ bị bỏ lên giá cao không ai quan tâm. Nếu có quan viên đắc lực chú ý đến phần tình báo này từ trước thì có
phải người dân ở vùng biên giới đỡ gặp tai họa hơn rồi không?" Cảm khái một hồi lâu, Dương Lăng chợt bật cười khanh khách:
- Mình chẳng qua chỉ là một tên dịch thừa nhỏ nhoi, lại ở đây thở ngắn than dài lo cho nước cho dân, như thế có thể có ảnh hưởng gì đến cái đế quốc khổng lồ này cơ chứ? Thay vì theo đuổi những thứ xa vời, không bằng mình cứ tập trung làm những việc thiết thực đã (hảo cao vụ viễn, bất như cước đạp thật địa) (2), chăm sóc cho người mình yêu thật tốt, cố làm tròn bổn phận của mình là được rồi. Vòng quay của lịch sử, bản thân mình có thể đẩy cho chuyển động sao?
Sáng sớm hôm sau, tuyết lớn lại rơi. Dương Lăng khép sát hai tay áo lại, đứng ở ngoài hành lang thưởng thức tuyết bay đầy trời. Tuyết thời đó trắng hơn những đời sau này, bông tuyết cũng rất to, tung bay ngay trước mắt, trong suốt long lanh. Dương Lăng đưa một tay ra đón lấy vài bông tuyết rơi xuống, bông tuyết vừa chạm vào tay liền tan ra, nhanh đến mức không kịp nhìn thấy vẻ mỹ lệ của nó.
Dương Lăng thở dài tiếc nuối, vừa mới phẩy nước tuyết đọng trên lòng bàn tay thì một giọng nói yêu kiều trong trẻo vang lên từ cuối hành lang:
- Tướng công! Chú thích:
(1) Minh Thành Tổ hay Minh Thái Tông (1360 - 1424), tên thật là Chu Lệ (hay Chu Đệ), thụy hiệu là Văn Đế. Năm lần đánh Thát Đát gồm:
- Một lần trước 1410, ông sai một viên tướng đi đánh nhưng thất bại, phải rút về. Năm 1410 ông đem mười vạn quân với ba vạn cỗ xe chở lương thực, quân nhu, và một số tặng vật để lấy lòng người Oyrat (Ngoã Lạt), yêu cầu họ trung lập. Quân Mông đại bại trong cuộc chiến này. Minh Thành Tổ còn thân chinh ba lần nữa, một lần năm 1422 - ông dẫn một đoàn quân hai mươi ba vạn năm nghìn người, mười một vạn bảy nghìn cỗ xe, mỗi cỗ hai con lừa. Quân Mông Cổ trốn thoát về phía Tây, quân Minh cướp bóc được rất nhiều rồi trở về. Hai cuộc chiến sau, năm 1423 và 1424, kết quả cũng như vậy, và trong cuộc chiến cuối ông đột ngột qua đời.
(Trích wiki)
(2) Xuất xứ của từ "cước đạp thật địa": Thời kỳ Tống Anh Tông, Tư Mã Quang phụ trách chủ biên "Tư Trì Thông Giám". Ông nghiên cứu rất nhiều thư tịch lịch sử, thu thập tài liệu khắp nơi, dựa theo trình tự niên đại trước sau tập trung biên soạn, cuối cùng hoàn thành 294 quyển "Tư Trì Thông Giám". Về sau vì phản đối Vương An Thạch cải cách hiến pháp ông nên chuyển đến Lạc Dương định cư. Thiệu Ung của Lạc Dương đánh giá ông là một người "cước đạp thật địa" (làm những việc thiết thực đến nơi đến chốn).
Hàn Ấu Nương thấp hơn Mã Liên Nhi một chút. Nàng mặc váy kẻ ô màu lam, khoác bì giáp màu hồng nhạt, tuy không lộng lẫy như người bên cạnh, nhưng sở hữu khuôn mặt thanh tú và nụ cười dịu dàng giống như một cô bé láng giềng xinh đẹp .
Nàng xách một chiếc giỏ phủ vải bố màu xanh lam, ô che lệch sang hướng đó, nửa thân còn lại bám đầy tuyết rơi. Dương Lăng liền chậm rãi bước xuống thềm, trước tiên gật đầu chào Mã Liên Nhi, sau đó bước tới đón lấy chiếc giỏ trong tay Ấu Nương, rồi kéo nàng vào dưới mái hiên. Y vừa phủi bông tuyết trên vai và trán dùm nàng, vừa hỏi:
- Tuyết lớn thế này, mới sáng sớm nàng đến làm gì?
Hàn Ấu Nương gấp ô lại, phà hơi lên ngón tay đã ửng đỏ vì lạnh, chiếc mũi nhỏ nhắn nhíu lại như sóng gợn mặt hồ mùa xuân, cười ngọt ngào, nói:
- Để đưa cơm nước cho tướng công mà! Thiếp còn luộc hai quả trứng gà đó.
Tướng công vất vả việc công, không thể để bụng đói được!
Dương Lăng trách:
- Nàng đó! Ta đã ở sở Dịch thừa rồi còn lo bị đói hay sao? Đoạn y kéo Ấu Nương, quay đầu nói với Mã Liên Nhi:
- Mã tiểu thư, mau vào trong nhà đi, dưới hiên có gió lùa, cẩn thận kẻo trúng phong hàn đấy!
Mã Ngang tòng quân, muốn chuyển từ dân tịch thành quân tịch bắt buộc phải
đến nha huyện đăng ký. Hôm nay tuyết lớn, Mã Liên Nhi định hôm khác hẵng đi, nhưng thấy Ấu Nương muốn ra khỏi nhà, liền đi cùng rồi rẽ vào sở Dịch thừa trước.
Lúc này nhìn người ta có đôi có cặp, tình nồng ý ngọt, Mã Liên Nhi cảm thấy có chút cảm khái trong lòng. Nàng dỡ mũ xuống, vén mái tóc đen tuyền, suôn mượt và mềm mại hơn cả tấm vải sa tanh ra đằng sau, giậm chân rũ tuyết đọng trên ủng, rồi im lặng bước vào trong nhà.
Dương Lăng hối hả ăn cho xong bữa, vừa buông đũa thì tên lính gác cổng liền khập khà khập khiễng bước vào. Thấy phu nhân của vị dịch thừa mới nhậm chức và con gái của người tiền nhiệm đều ở trong phòng, y không dám nán lại lâu, vội lấy phong thư nhận được đêm hôm qua ra giao cho Dương Lăng, kèm theo một nụ cười, nói:
- Đại nhân, đây là thư đưa đến đêm qua, người mang thư bảo rằng nhất định phải giao cho đại nhân.
Dương Lăng không biết ai lại viết thư cho y, bèn cầm lấy phong thư bóc chỗ dán, nhận ra bên cạnh dấu xi niêm phong ở mặt sau có một hình vẽ quái ngư. Y không khỏi giật mình: "Là mật hàm của Cẩm Y Vệ sao? Những mật hàm mình xem hôm qua đều đã mở sẵn, cho nên không có gì phải sợ. Nhưng mình không phải là người của Cẩm Y Vệ, bây giờ lại tùy tiện mở mật thư của họ ra xem, mong sao đừng xảy ra chuyện gì!"
Thư đã mở, lúc này lo nghĩ này nọ cũng vô ích. Y rút bức thư ra, chỉ hy vọng nội dung là mấy chuyện vặt vãnh nào đó, vậy cho dù bị người ta biết được có lẽ cũng không có gì to tát lắm.
Cẩn thận đọc qua thư một lượt, Dương Lăng liền cảm thấy yên tâm. Trong thư không hề đề cập đến chuyện cơ mật nào, ngược lại nó còn mang đến một chuyện vui có thể công khai. Y vội cất thư vào, hưng phấn nói:
- Hoá ra tên thủ lĩnh phe địch Mẫn đại nhân chém chết đêm trước là vương tử Thát Đát, lần này Mẫn đại nhân lập được đại công rồi!
Y phấn khởi vỗ tay, nói tiếp:
- Giờ ta phải đi báo cho đại nhân một tiếng. Ấu Nương, nàng và Mã tiểu thư hãy chờ ở đây nhé, đợi cho ngớt tuyết rồi hẵng về nhà!
Hàn Ấu Nương ngoan ngoãn gật đầu. Dương Lăng vội vã bước ra ngoài. Mã Liên Nhi nhớ tới một chuyện, đột nhiên lên tiếng:
- Dương huynh, ta đi cùng huynh, hôm qua anh trai ta phải đi gấp, ta muốn đi giúp anh ấy thay đổi dân tịch.
Dương Lăng đương nhiên không thể khước từ, lập tức kêu người của sở Dịch thừa dẫn thêm một con ngựa nữa tới, hai người phi thẳng đến nha huyện. Mẫn huyện lệnh đang nằm trên giường cho lang trung thay thuốc, nghe xong tin tức Dương Lăng mang đến, lão há hốc mồm, to đến nỗi có thể nhét trọn một quả trứng vào. Ngẩn ra hồi lâu, lão đòi kiểm tra lại nội dung thư mấy lượt; rồi như mụ gà mái già đẻ trứng , lão cất tiếng cười "khục khục khục".
Lão vốn lo rằng cười lớn sẽ động vào vết thương cho nên mới nén cười như thế, ai dè càng khiến cho cơ thể run lên bần bật.
Dương Lăng thấy lão cười nhưng phải khổ sở như vậy, bản thân cũng cảm thấy khá khôi hài: "Hoá ra lỗ mãng cũng có chỗ tốt của nó. Có ai biết lão già này chỉ tiện tay vung đao, đã "hái" được công lao to lớn như vậy chứ?"
Đang vui vẻ, bỗng nhiên nụ cười trên mặt của Mẫn đại nhân tắt ngúm, lão nghĩ ngợi một chút rồi biến sắc, nói:
- Không hay! Con trưởng của Bá Nhan Mãnh Khả là một gã tàn phế, nghe nói hắn rất xem trọng nhị vương tử Húc Liệt Bột Tề này. Hôm nay con hắn đã bị ta giết chết, đại quân Thát Đát lại dễ dàng rút lui như vậy, thật sự khả nghi.
- Khi nãy có thông báo, sáng sớm hôm nay quân ta đã dỡ lều truy tìm tung tích quân địch. Nếu như Bá Nhan Mãnh Khả dẫn đại quân đến báo thù cho con trai mình, vậy sẽ cực kỳ không ổn. Phải lập tức cho Hà tham tướng biết chuyện này mới
được. Dương sư gia, ngươi hãy mau đuổi theo Hà tham tướng, đem tin tức này báo cho y!
Dương Lăng nghe xong, biết được sự tình khẩn cấp, vội vàng vâng dạ rồi nhanh chóng chạy ra ngoài. Lúc này Mã Liên Nhi đã đổi dân tịch, đang chờ y ở phòng bên tiền sảnh.Thấy Dương Lăng gấp gáp leo lên ngựa, hơn nữa lại có vẻ cấp bách, nàng cũng vội vàng dắt ngựa theo, hỏi:
- Dương huynh, có chuyện gì mà hoảng hốt vậy? Dương Lăng cao giọng đáp:
- Sáng nay đại quân đã dỡ lều đi truy kích Thát Tử. Kẻ mà Mẫn huyện lệnh chém chết hôm trước không ngờ lại là vương tử Thát Đát, chỉ e quân Thát lui binh chưa hẳn đã là thật. Nếu như bọn chúng mang lòng báo thù, sợ rằng sẽ lấy lùi làm tiến, âm thầm mai phục. Tôi phải đuổi theo Hà tham tướng, đem tin này báo cho ngài biết.
Nói đoạn Dương Lăng liền cưỡi ngựa phóng thẳng ra phía nam thành.
Mã Liên Nhi phóng lên yên, quay ngựa tại chỗ mấy vòng. Nàng nhớ đến ca ca của mình cũng đang ở trong đại quân, nếu thật sự có quân Thát mai phục, liệu có thể sống sót trong đám loạn quân hay không? Rốt cuộc nàng không yên lòng, vụt roi cho ngựa đuổi theo Dương Lăng.
Đại bản doanh bên ngoài thành lúc này chỉ còn một ít binh lính già yếu trông coi. Dương Lăng hỏi ra mới biết đại quân đã xuất phát được một canh giờ, lòng như lửa đốt, y lập tức đuổi theo bằng con đường vốn đã bị đoàn ngựa và xe của đại quân cày nát. Có điều mặt đường ngoại thành không được bằng phẳng thênh thang như đường sá nội thành, Dương Lăng lại mới học cưỡi ngựa, tay cầm cương trong khi miệng thở hồng hộc vì căng thẳng, coi bộ còn mệt hơn cả con ngựa y đang cưỡi.
Đi được hơn một dặm, y chợt nghe thấy tiếng vó ngựa vang lên từ phía sau, quay đầu lại thì thấy Mã Liên Nhi cũng đang thúc ngựa phi nhanh tới. Chiếc áo khoác lông cừu của nàng không biết đã cởi ra từ khi nào, lộ ra bộ đồ màu xanh biếc,
thân trên khoác chiếc áo da cáo, dáng vẻ đẹp mê hồn, động tác phóng ngựa phi nước đại càng thêm ưu mỹ vô cùng.
Khi ngựa của nàng phi đến bên cạnh, Dương Lăng vội nói:
- Liên Nhi tiểu thư, sao cô lại đến đây? Cũng tốt, cô giỏi cưỡi ngựa, hãy mau đuổi theo đại quân bảo họ ngừng truy bắt, đề phòng bất trắc!
Mã Liên Nhi khẽ cau mày, đáp:
- Việc hành quân của quân đội há lại để một phụ nữ như ta xen vào sao? Huynh có mang theo bức mật thư đó không?
Dương Lăng vỗ trán, thốt:
- Thôi chết, tôi để quên nó ở chỗ Mẫn đại nhân rồi!
Nghe xong Mã Liên Nhi lạnh nhạt hứ một tiếng, đột nhiên đưa tay ấn xuống lưng ngựa, eo nàng ưỡn lên, nhún người đứng thẳng trên lưng ngựa. Ngựa vẫn đang phóng băng băng, phải khen thuật cưỡi ngựa của vị cô nương này quả thật rất cao.
Nàng nói với Dương Lăng:
- Thả dây cương ra, để ta xử lý!
Dương Lăng ngỡ ngàng buông dây cương, không hiểu nàng sẽ điều khiển như thế nào. Chỉ thấy hai thớt ngựa sóng đôi, Mã Liên Nhi nhún người nhảy lên, nhẹ nhàng khéo léo đáp xuống trước người Dương Lăng, đế giày thúc về phía sau, ra lệnh:
- Nhường bàn đạp ngựa cho ta!
Dương Lăng rút hai chân ra khỏi bàn đạp, chỉ cảm thấy thân thể chênh vênh, vội cuống cuồng ôm lấy chiếc eo thon của Mã Liên Nhi. Đột nhiên bị đàn ông ôm eo, mặc dù sớm có chuẩn bị, song Mã Liên Nhi vẫn thoáng sững người, cơ bụng căng cứng lại.
Nàng hít sâu một hơi, cố làm ra vẻ tự nhiên, cầm dây cương lên, nói:
- Ôm chặt vào, ta sẽ đưa huynh đi gặp Hà tham tướng!
Mã Liên Nhi vốn lớn lên tại vùng biên thùy, tài cưỡi ngựa rất cao. Hiện giờ cơ thể cả hai lại rất nhẹ, cộng lại còn chưa bằng một giáp sĩ, hai người một ngựa chở đôi chẳng những không hề ảnh hưởng đến tốc độ; ngược lại dưới kỹ thuật cao siêu của nàng, ngựa phi càng nhanh càng vững.
Lúc này đại quân của Hà tham tướng đã tiến vào Ngoạ Hổ sơn. Thám tử được phái đi tối qua, sáng nay đã mang tin trở về: Quân Thát đã vơ vét sạch trâu, dê, xe ngựa của Nhị Lý bán và Ngũ Lý phố rồi phái người vận chuyển về biên ngoại.
Nhưng địch quân vẫn chưa rút lui, sau khi thất bại ở Kê Minh, bọn chúng rút về thủ ở Du Mộc đồn, phân ra nhiều tốp lính nhỏ cướp bóc ở những thôn trấn lân cận.
Nhận được tin báo chuẩn xác, Hà tham tướng vui mừng khôn xiết. Dù gì phía trước chỉ có một con đường độc đạo dẫn đến Kê Minh, y không sợ bị đối phương mai phục, nên mới dốc toàn bộ năm đại đội mạo hiểm vượt tuyết đuổi theo, muốn giáng cho quân Thát một cuộc tập kích bất ngờ.
Dựa theo lời của Diệp ngự sử, nhờ trận tuyết lớn, quân Thát tuyệt đối không đoán được quân ta sẽ bất ngờ tấn công. Năm xưa Lý Tố nhân đêm tuyết mịt mù tiến vào Thái châu, lập được chiến công lẫy lừng*. Lần này y đột kích, diệt sạch địch quân, cũng có thể được lưu danh sử sách, sánh kịp cổ nhân.
Đại quân đã đi được được sáu dặm, đang tiến vào Hồ Lô cốc. Sơn cốc này hai bên vách là núi cao kéo dài, chính giữa tạo thành một sơn cốc hình hồ lô. Hà tham tướng tuy nóng lòng lập công, nhưng cũng không phải là một tướng lĩnh non nớt, vẫn chưa bị công danh lợi lộc làm cho u mê, lập tức ra lệnh cho đại quân tạm thời dừng lại, phái thám mã đi dò xét phía trước.
Diệp ngự sử thấy Hà tham tướng không thúc quân tiến tới, liền giục ngựa lên, chỉ roi về sơn cốc phía trước, nói:
- Đại nhân, hẻm núi phía trước sườn núi hai mặt không dốc, hai bên cách đỉnh
núi tới mấy trăm trượng, trên núi lại không gì che lấp, căn bản không thể giấu phục binh. Nếu như quân Thát đặt mai phục trên đỉnh núi, với khoảng cách xa như vậy, cung tên kiếm kích sẽ không thể uy hiếp được đại quân ta. Có cái dốc thoai thoải dài mấy trăm trượng này, cây và đá (không chắc, giữ nguyên bản biên dịch) cũng khó mà phát huy được tác dụng. Đại nhân chớ nên lo lắng!
Lưu công công ở trong kiệu nhoài người ra quan sát chung quanh, nói:
- Ừm, tuy là tôi đây không biết việc binh, nhưng thấy trên ngọn núi này trụi lủi, quả thật không thể giấu người. Hai bên có dãy núi bao quanh, Quân Thát hoàn toàn không có khả năng đánh phủ đầu hay tập hậu chúng ta. Vả lại số lượng quân Thát kém hơn chúng ta, sao có thể lấy ít chọi nhiều chứ? Chúng ta có thể tuyệt đối yên tâm tiến về phía trước đấy!
Hà tham tướng mỉm cười, nói:
- Ha ha, hai vị giám quân nói chí phải. Bổn tướng chẳng qua lo sơn cốc này chật hẹp, quân ta phải chuyển đội hình thành một hàng dài, trước và sau không phối hợp tốt được; lỡ như quân Thát bố trí mai phục ở phía trước, binh mã ở phía sau sẽ khó bề chi viện, thành ra không thể phát huy ưu thế về quân số, tất sẽ chịu nhiều thương vong hơn. Tạm thời cứ chờ thám thính rõ ràng tình hình quân địch rồi hãy quyết định cũng không muộn.
Qua độ nửa giờ, bốn tay thám mã lần lượt trở về, báo rằng phía trước không thấy địch quân, trên lớp tuyết trong sơn cốc cũng không thấy dấu vết do ngựa, xe giẫm lên. Nên biết hiện giờ tuy tuyết rơi dày, nhưng nếu có đại đội nhân mã hành quân, cũng không thể nào che giấu hết mọi vết tích như vậy. Hà tham tướng nghe xong liền cảm thấy yên tâm, lập tức truyền quân lệnh xuống, yêu cầu toàn quân trước và sau gia tăng tốc độ, nhanh chóng vượt qua sơn cốc, nhằm hướng Du Mộc đồn thẳng tiến.
Năm ngàn binh lính tuân theo hiệu lệnh, liền tiếp tục lên đường. Đội ngũ trùng trùng điệp điệp, giống như một con rồng dài trong dãy núi tuyết. Hạ đô ty Hạ Sĩ Kiệt dẫn quân chủ lực đi đầu, vừa vượt qua đoạn cuối của Hồ Lô cốc. Ngay khi sắp sửa ra khỏi sơn cốc, đột nhiên cửa cốc phía trước vang lên tiếng trống trận "tùng
tùng tùng" như sấm nổ, cờ xí phất lên ngợp trời. Cùng lúc này, hai bên sườn núi nổi lên vô số tiếng gõ mõ, trong khoảnh khắc trên sườn núi trắng xoá bỗng hiện ra vô số bóng người, loạn tiễn bắn xuống như mưa, đuôi tên rợp trời, trông dày đặc như một trận bão tuyết.
(*): Lý Tố (hay Lý Sách) (773 - 821) là đại tướng nhà Đường, tự là Nguyên Trực, người Lâm Đàm Thao châu (giờ thuộc Cam Túc), con của Lý Thành, am hiểu binh thư, giỏi bắn cung cưỡi ngựa. Ban đầu ông nhậm chức Thứ sử hai châu Phường, Tấn. Năm Nguyên Hoà thứ mười một (năm 816 TCN), ông nhận chức Tiết độ sứ Đường, Tuỳ, Đặng, lĩnh binh thảo phạt quân phiến loạn của Ngô Nguyên Tế. Ông sở trường về quan sát tình thế, lựa chọn thời cơ. Mùa đông năm sau, thừa lúc địch quân lơi lỏng, nhân đêm tuyết ông dẫn quân đánh chiếm Thái châu, bắt sống Ngô Nguyên Tế, được trao chức Sơn Nam Đông Đạo Tiết độ sứ, phong tước Lương quốc công.
Những quân lính cầm khiên cao bằng thân người cũng kết hợp với nhau ghép thành những tấm lá chắn bảo vệ hai cánh. Chờ đến khi đội hình phòng ngự được lập xong, quân Minh mười phần đã chết mất một phần. Diệp ngự sử vội vàng nhảy xuống ngựa, chui vào xe của Lưu công công, run giọng:
- Nhìn xung quanh trống không thế này, Thát tử từ đâu chui ra thế?
Trên nóc và hai bên thành xe đều được làm từ gỗ dày, vốn không sợ tên bắn thủng. Nhưng nghe tiếng tên cắm vào thân xe không ngừng vang lên, Diệp ngự sử không khỏi lo sợ trong lòng. Lưu công công vốn là thái giám, nhưng lá gan lại to hơn Diệp ngự sử khá nhiều, tuy nhiên cũng không tránh khỏi việc cơ mặt giật giật, đa phần do sự căng thẳng tột độ khi lần đầu tiên phải trải qua cảnh chiến tranh khốc liệt thế này.
Hai bên vách núi bằng phẳng, trụi lủi, một lớp tuyết trắng xóa phủ dài từ chân đến đỉnh, căn bản không phù hợp để giấu phục binh. Nhưng lúc này trên sườn núi bọn Thát Đát lại mặc đủ thứ trang phục chạy qua chạy lại bắn tên, làm địa hình xáo trộn lên, nhờ đó quân Minh mới hiểu ra được điều bí mật phía sau đợt phục kích.
Vốn trên hai sườn núi, mỗi bên có xây một dãy tường cao hơn nửa thân người, vách tường đâm xéo lên trên, lại được thiên nhiên ngụy trang bằng một lớp tuyết dày. Theo góc nhìn từ dưới lên, quân Minh chỉ thấy một vách núi thẳng tắp kéo dài lên tận đỉnh.
Người Mông sống tại vùng thảo nguyên và sa mạc, di chuyển theo nguồn nước, sinh sống theo lối du mục, từ lâu đã phát minh ra một cách dựng thành trì đơn giản. Trong những cơn gió lạnh ào ào của mùa đông, họ dùng cỏ và những cành cây khô đặt quanh khu lều trại, sau đó rưới nước lạnh lên cho đông thành một bức tường
chắn gió rét. Bọn giặc Thát nhân ban đêm đã âm thầm đào hố đun nước, rồi dùng các dụng cụ có sẵn để xây hai bức tường thành trên hai vách núi, chỉ mất chưa tới một đêm đã xong.
Bá Nhan Mãnh Khả biết tin quý tử chết thảm liền lập tức hạ lệnh rút lui. Hắn dẫn quân đi suốt ngày đêm tới Du Mộc truân (truân là ngọn núi nhỏ); sau khi hợp quân với Bác Đạt Nhĩ Mô, binh lực đã vượt qua quân Minh, nên hắn mới dám bỏ ngựa chuyển thành bộ binh giao chiến với quân của Hà tham tướng.
Hiện giờ quân Minh ở Trác Lộc và huyện Xích đã tạo thế gọng kìm vây chặt từ hai bên cánh. Bá Nhan Mãnh Khả dùng kế này mục đích dồn sức đánh một trận diệt hết quân Minh ở Hoài Lai, báo thù cho con, sau đó tiếp tục lui quân.
Hà tham tướng ổn định lại hàng ngũ một chút rồi lập tức hô lớn:
- Phất cờ hiệu, ra lệnh cho Hạ Sĩ Kiệt cố thủ phía trước, Vương Thừa Hiến đem quân tấn công hai bên sườn, nhất định phải phá được một khe hở. Lệnh cho Tôn Đại Trung, Tất Xuân chuyển hậu đội thành tiền đội, nhanh chóng lui về sau. Trịnh Nhất Ngạc chỉ huy trung quân!
Vương Thừa Hiến ra lệnh cho cung thủ bắn tên kiềm chế quân địch ở hai cánh, tự mình dẫn lính cầm đao khiên và giáo dài công phá hai sườn núi để đại quân có thời gian rút lui. Đại tướng Bác Đạt Nhĩ Mô đang chỉ huy quân Thát, mắt thấy phe địch nhanh chóng ổn định thế trận, giờ đã bắt đầu phản công, hắn lập tức hạ lệnh:
- Bắn chết tên vẫy cờ hiệu trong quân Minh, giết chết chiến mã, không được để chúng thiết lập đội hình!
Mệnh lệnh vừa phát ra, một làn mưa tên đã được trút xuống. Tên lính vẫy cờ hiệu bị tên cắm như con nhím, chết ngay tại chỗ, đồng thời có vô số chiến mã thụ thương, đau đớn hí lên, chạy loạn xạ trong sơn cốc. Quân Minh bị chính ngựa của mình dày xéo, thế trận lập tức đại loạn, không cách nào phản công được.
Vương đô ti bất chấp mưa tên, cố gắng dẫn nhân mã của mình tấn công vách núi bên phải. Chỗ này vốn không cao lắm, nếu khống chế được điểm chiến lược
này, quân Minh có thể bố trí cung thủ áp chế ngược lại bọn Thát tử, có khả năng lập tức ổn định được tình hình, nếu không đại quân co cụm trong sơn cốc đành bó tay chờ chết.
Hắn tự mình cầm đao ứng chiến, quân Minh khắp nơi như con thú bị vây khốn, liều mạng phát động hàng loạt các đợt tấn công lên sườn núi. Từng thi thể ngã xuống, không ai kịp khóc thương cho người chết, thậm chí chẳng ai buồn chú ý người ngã dưới chân mình là ai. Trên chiến trường khốc liệt này, cái chết đã trở thành chuyện cơm bữa, cho dù người có tình cảm đến đâu cũng trở thành chai lì như gỗ đá.
Dưới sự chỉ huy của các Thập trưởng và Tiêu trưởng, quân Minh lũ lượt xông lên, giẫm đạp thi thể các đồng đội để tìm lấy cơ hội sống còn. Bọn Thát tử trên sườn núi, với lợi thế địa hình và tiễn thuật siêu việt, mỗi mũi tên bắn ra đều chí mạng.
Diệp ngự sử nấp trong xe run rẩy thét:
- Hà đại nhân, Hà đại nhân! Giặc Thát đã sớm sắp đặt mai phục, mau mau rút lui đi thôi!
Hà tham tướng cầm cây Nhạn linh đao, mặt mày xanh lè, đáp:
- Ta đã phái người thông báo cho Tất Xuân rồi. Hẻm núi này chật chội, không thích hợp cho quân ta tập kết, nếu hậu quân không chịu lui, chúng ta không cách nào xông ra được!
Diệp ngự sử tức giận nói:
- Đại quân trúng mai phục trong khi Tất Xuân còn chưa có động tĩnh gì. Bọn ta sắp chết ráo đến nơi rồi! Ta thề sẽ tố cáo hắn cái tội làm lỡ cơ hội giết giặc! Hà đại nhân, ta phải đến hậu trận đốc chiến!
Hà tham tướng đang bận chỉ huy đại quân, dĩ nhiên không có kiên nhẫn nghe họ Diệp lải nhải. Lão nghe thấy hắn bảo muốn đi đến chỗ Tất Xuân, tránh được chuyện y hoa tay múa chân làm rối chuyện ở đây bèn lập tức lệnh cho hai mươi lính cầm
khiên hộ tống hắn và Lưu công công rời đi. Một thư sinh, một thái giám - hai vị chỉ huy tối cao - lập tức lảo đảo chạy về phía hậu doanh.
Sơn cốc dưới núi Ngọa Hổ này có hình như trái hồ lô, miệng cốc hướng về phía trạm Kê Minh. Đại quân của Tất Xuân vừa tiến vào cốc, Dương Lăng và Mã Liên Nhi đã thúc ngựa đuổi kịp. Nghe Dương Lăng kể lại tình hình, Tất Xuân cũng nhận ra chuyện đã trở nên quá nghiêm trọng, vừa định dẫn y đi gặp Hà tham tướng thì giặc Thát đã phát động thế công.
Được một làn mưa tên yểm trợ, giặc Thát từ chỗ ẩn nấp trên sườn núi tràn xuống miệng cốc, cắt đứt đường lui của quân Minh. Cửa cốc vốn chật hẹp, chỉ cần mấy chục cung thủ không ngừng bắn tên, cho dù thiên quân vạn mã cũng đừng mong xông ra nổi.
Quân Thát ở sơn cốc chỉ muốn ngăn cản quân Minh thoát ra nên không công kích mà chỉ lo canh giữ chỗ quan trọng này. Mỗi tên giặc Thát mang trên lưng ít nhất bốn ống tên, trong khi Nam quân của Tất Xuân chủ lực là đao thuẫn thủ và hỏa thương thủ (lính bắn súng), căn bản không cách nào chống lại được bọn giặc Thát dũng mãnh thiện chiến, lấy một địch mười, lại chiếm được địa điểm chiến lược này.
Chỉ trong phút chốc, ngoài cốc đã la liệt trên trăm thi thể quân Minh. Mã Liên Nhi lần đầu tiên nhìn thấy cảnh máu chảy đầu rơi khốc liệt thế này, sắc mặt liền trắng bệch, còn Dương Lăng từng trải qua trận chiến thủ thành, tâm lý đã có sức chịu đựng nhất định. Y kéo nàng nấp vào giữa hai thùng xe, nhờ thế mới tránh khỏi tên bay đạn lạc.
Đòn phản công của quân Minh đã lập tức bị cung tiễn của giặc Thát cản lại, từng thi thể gục xuống giữa miệng cốc chật hẹp. Quân Minh vừa phải tranh đoạt lối thoát duy nhất với đối phương, vừa phải ứng phó với mưa tên ào ào từ phía trên, nên thương vong không ngừng gia tăng.
Dương Lăng chú ý thấy phe mình đã hết sức hỗn loạn, căn bản không thể tạo ra sư uy hiếp lên phe địch. Phải công nhận tướng chỉ huy của quân Minh vô cùng dũng cảm, ai cũng đều liều mình xông pha nơi tiền trận, nhưng tóm lại mấy gã đó chỉ biết khoe khoang cái dũng mãnh cá nhân, tuyệt đối không biết bày binh bố trận một
cách có hiệu quả.
Nói thẳng ra, nếu để bọn họ ở nơi đất bằng, nghe theo chỉ huy của cấp trên để lập trận thì còn mong ra dáng ra vẻ một chút; nhưng một khi phát sinh hỗn chiến như vầy, mệnh lệnh của thượng cấp không thể bao quát toàn quân, đám quan quân cấp thấp vô học kia chỉ biết dấn thân lên trước quân lính, vung đao đốc chiến, không hề biết cách phối hợp cái loại binh chủng sao cho hiệu quả.
Dương Lăng thấy tình hình của đại quân như vậy, lưng liền ướt đẫm mồ hôi. Mã Liên Nhi lại đang lo lắng cho sự an nguy của anh mình, nhưng khi thấy hắn đứng làm tùy tùng cho Tất đô ti nàng mới yên tâm được.
Chính vào lúc này, Diệp ngự sử và Lưu công công nhếch nhác chạy tới. Diệp ngự sử đang muốn trách móc Tất đô ti về việc không phá nổi vòng vây, bỗng nhìn thấy một cô gái mặc áo màu lục đứng gần đó, tưởng rằng Tất đô ti còn mang theo gia quyến đi hành quân, trong lòng không khỏi nổi cơn đại nộ.
Tất đô ti thấy giặc Thát trong cốc dựa vào địa thế hiểm yếu để phòng thủ, phe ta khó có thể công phá nhanh chóng; y định ra lệnh chuyển sang tấn công quân địch trên sườn núi, rồi từ trên dùng uy lực của súng ống áp chế bọn giặc Thát ở cửa sơn cốc. Nhưng theo suy nghĩ của Diệp ngự sử và Lưu công công, nhất định phải đánh phá cửa sơn cốc mới có đường sống, nếu chờ Tất Xuân tấn công lên sườn núi rồi mới quay lại chiếm lại cửa cốc, chỉ sợ lúc đó toàn quân đã bị tiêu diệt sạch rồi.
Hai người bèn thống nhất lấy thân phận Giám quân lệnh cho Tất đô ti bằng bất cứ giá nào phải mở được một lối ra. Tất đô ti đành hậm hực hạ lệnh thôi tấn công sang hai bên, chỉ lo điều động binh lực ra sức công kích cửa cốc. Hắn giận tới mức mặt vồng gân xanh, ra lệnh:
- Kỳ bả tổng, Lư bả tổng, tập trung hỏa lực vào cửa cốc, chỉ được tiến, không được phép lùi, nhất định phải mở ra một con đường máu!
Hắn lại quát bảo đội trưởng đội thân binh:
- Quan Thụ Anh ra trước trận đốc chiến, một người lui chém một người, toàn
đội lui chém đội trưởng, đội trưởng hi sinh mà toàn đội lui, giết sạch không cần bàn!
Quân lệnh như sơn, hai vị Bả tổng cũng biết đây là thời điểm ngàn cân treo sợi tóc, đành phải hạ lệnh cho quân mình đội mưa tên toàn lực đánh về hướng cửa cốc. Phía trước tên bắn như rợp trời, sườn núi hai bên tuy có hỏa lực của quân Minh áp chế nhưng tên vẫn bắn ra không ngớt, rất nhiều binh sĩ mới vừa xông ra ngoài đã bị tên ghim đầy người, máu nhuộm lênh láng.
Hỏa thương thủ xông đến vừa tầm ngắm liền bắn ra một loạt, tuy cũng giết chết rất nhiều quân Thát, nhưng đao thuẫn thủ phía sau chậm chạp không xông lên kịp, thành ra giặc Thát có dịp bắn trả một lượt, một lần nữa phong tỏa cửa sơn cốc.
Dương Lăng nhìn sang cỗ xe nặng chịch nằm dưới đất, lại liếc thấy một xác ngựa trên đất, liền nghĩ ra một biện pháp, lập tức la lớn:
- Tất đại nhân, điều khiển ngựa làm khiên thịt, đại quân đi sau ngựa, chắc chắn có thể mở ra một đường sống!
Lưu công công, Diệp ngự sử nghe được vô cùng mừng rỡ, lập tức ra lệnh cho Tất Xuân làm theo. Phải biết thời bấy giờ chiến mã có giá tới gần bốn trăm quan một con, trong khi quân Minh trước nay lại khan hiếm chiến mã, cho nên tướng sĩ chưa từng nghĩ tới chuyện dùng chiến mã làm lá chắn. Nhưng lúc này đại quân đang lâm nguy, làm sao lo cho ngựa được nữa. Họ lập tức tập trung những chiến mã còn lại ra trước trận, được đại khái hơn bốn mươi con, hỏa thương thủ liền lấy thuốc súng rắc lên đuôi ngựa, sau đó châm lửa dốt. Chiến mã bị cái nóng làm đau, tức thì hí lên điên cuồng, phi nước đại về phía trước.
Hất Lâm Đạt Đạt đang dẫn quân giữ cửa cốc bỗng thấy mấy chục con ngựa đang điên cuồng phi nước đại tới, tiếng vó ngựa vang rền, bèn kinh hoảng ra lệnh cho quân sĩ bắn tên. Một loạt tên bắn ra, nhưng sinh lực của ngựa dẫu sao cũng mạnh hơn con người, nên chỉ có vài con hí thảm ngã xuống, còn đại đa số vẫn mang tên mà chạy, phá tan đội hình của giặc Thát, điên loạn chạy ra khỏi cốc. Có mấy tên lính Thát không kịp lui liền bị ngựa giày xéo nát bét như cám, đến mức la cũng không kịp.
Nhân cơ hội này, Tất đô ti chỉ huy đại quân đội mưa tên xông thẳng ra ngoài, Hất Lâm Đạt Đạt lập tức dẫn hơn bốn trăm tên giặc Thát còn lại đón đánh. Cửa sơn cốc vốn chật hẹp, chỉ cần khoảng hai trăm người đã bịt kín hoàn toàn, hai phe trộn lẫn vào nhau đánh xáp lá cà.
*: Một đơn vị trong biên chế quân đội thời cổ, tiêu chuẩn các thời khác nhau, không rõ thời Minh là bao nhiêu
Quân Minh được thôi thúc bởi ý chí cầu sinh cực lớn, thế nên dù không ai đánh trống trận hay phát lệnh xung phong, nhưng mọi người vẫn không có cách nào dừng chân lại được. Bởi lẽ người trước chỉ hơi dừng lại một chút là lập tức bị người phía sau đẩy phải tiếp tục chạy lên, hết lớp này đến lớp khác, tựa như sóng biển lớp sau đè lớp trước.
Bọn giặc Thát chắn ở cửa sơn cốc giống như tảng đá ngầm trong cơn sóng lớn, đao bén hung hãn cắt lên thân thể quân Minh, làn sóng đang tràn tới kia bắn tung bọt nước, những bọt nước màu đỏ tươi.
Trên sườn núi, các cung thủ của giặc Thát đã không còn cách nào áp chế được quân Minh, bởi vì lúc này người của hai phe đã chen lẫn vào nhau, mắc kẹt ở cửa sơn cốc, đang liều chết đánh xáp lá cà. Bọn chúng chỉ còn cách quẳng cung tên xuống, cầm lấy đao thương, từ chỗ nấp hai bên sườn núi xông xuống chém giết giữa đám quân Minh.
Liền đó, dưới sự chỉ huy của các tướng tá, những binh sĩ vốn chỉ có thể chen chúc phía sau bị động chịu đòn đã bắt đầu xông ngược lên trên sườn núi, thọc sâu chém giết về phía sau, một chỗ hở được mở ra. Tựa như dãy domino bị ngã, cả vòng vây hoàn mĩ liền mất đi tác dụng khiến giặc Thát chỉ đành lao xuống chém giết.
Trên hai khoảnh đất bằng phẳng hình bán nguyệt của Hồ Lô cốc đồng thời diễn ra cuộc chiến xáp lá cà. Mà nơi hai đường mòn sơn cốc chật hẹp thì người chen người, người lấn người, ai ai cũng muốn cuồng chân chạy nhanh về phía lối ra, nhưng đều bị dòng người cuốn lấy, lôi chầm chậm mà hung hãn về phía trước, gần như chân không chạm đất.
Mùi máu tanh lan trong không khí lạnh lẽo, tuyết lớn vẫn tung bay. Tiếng kim loại ma sát làm người ta cảm thấy ghê răng, tiếng kim loại đâm vào thịt khiến người ta cảm thấy run rẩy, hai âm thanh ấy cứ thay nhau vang lên. Máu thịt trong mưa tuyết tạo thành một bức tranh đẹp đến thê lương.
Phía sau người lúc nhúc, nhưng các binh sĩ có thể chiến đấu ở phía trước lại không quá trăm người. Ở cả hai bên, người phía trước vừa tử thương thì lập tức có người phía sau hăng hái xông lên thế chỗ. Nơi quân hai bên giao chiến dần dần bị xác người và máu tươi chồng chất lên nhau thành một đường ranh giới.
Trong đám thi thể trên mặt đất liên tục có những binh sĩ ôm nhau vật lộn, những người xông lên tiếp theo căn bản không có thời gian phân biệt địch ta, cũng chẳng hở chút thời gian để giúp đỡ nên cứ thế đạp lên thân thể và máu tươi của họ, và lúc ấy lớp quân địch mới cũng đã hùng hổ lao đến.
Khung cảnh tráng lệ của vạn quân quần nhau đã bắt đầu. Đây là một trận đánh hỗn loạn thực sự, lính không thấy tướng, tướng không thấy lính. Mỗi người đều nắm chặt binh khí trong tay, chăm chăm tìm kiếm một đôi mắt thù địch, để rồi rống lớn xông lên.
Trước sau trái phải đều là đao thương kiếm kích, thỉnh thoảng còn có tên bắn lén bay qua. Lúc này mạng người tuyệt đối bình đẳng, một tướng lĩnh chỉ huy ngàn quân cũng có thể bị một tên lính quèn nhất đâm chết. Võ công kỹ xảo gì cũng không dùng được, căn bản đến chỗ tránh né cũng chẳng có, chỉ là chặt chặt chặt, giết giết giết! Sơn cốc lúc này như nồi nước đang sôi, thứ nước đỏ rực màu máu, mà chỗ thoát duy nhất chính là cửa sơn cốc, vị trí mấy người bọn Dương Lăng đang đứng.
Bộ hạ của Hất Lâm Đạt Đạt đều là những kẻ dũng mãnh giết người không chớp mắt, nhưng sức ép tìm chỗ thoát của dòng "nước lũ" thật quá lớn, mạng chúng liên tiếp bị đối phương lấy đi, mở cửa sơn cốc chỉ còn là vấn đề thời gian.
Những binh sĩ cầm khiên bảo vệ Diệp ngự sử và Lưu công công tay nắm đoản đao, cố gắng hết sức vây quanh hai lão di động về phía cửa sơn cốc. Nhưng dòng người chen chúc quá chật chội, Diệp ngự sử chỉ lảo đảo ngã xuống đất một cái là
lập tức bị vô số đôi chân đạp lên, của giặc Thát có, của những sĩ tốt mà hắn vẫn xem là cấp thấp cũng có.
Không ai có thời gian nhìn xem đám thịt mình giẫm dưới chân là của một sĩ tốt quèn hay là của một đại nhân cao quý. Đao thương đoạt mạng đang múa may trước mắt, bản năng duy nhất còn lại là vung vũ khí để tìm đường sống.
Hai binh sĩ bảo vệ muốn nâng hắn dậy nhưng mới vừa cúi xuống liền bị làn sóng người không thể kháng cự cuốn ngã và hàng loạt đôi chân giẫm lên. Điều này khiến lòng dạ những binh sĩ khác trở nên cứng rắn hơn, không ai nhìn lại một lần nào nữa. Cả dòng người bất luận địch ta đều bị một sức mạnh to lớn ép di chuyển về phía cửa sơn cốc một cách không thể tự chủ.
Dương Lăng đã trở nên ngây ngốc. Trong loạn quân kiểu này, cá nhân dù thần dũng đến đâu cũng chẳng ăn thua gì, huống chi thể lực y chẳng bằng một tên lính quèn, phản ứng bản năng của y chỉ là chỗ nào ít người thì chen tới đó. Trong bóng đao kiếm cùng tiếng thét gào chém giết không dứt thì trách nhiệm duy nhất mà y còn nhớ là giữ chặt tay Mã Liên Nhi, nàng đã theo mình tới đây, tuyệt đối không được bỏ trốn một mình.
Ai cũng đều muốn xông ra khỏi cửa sơn cốc, đó mới là đường sống. Nhưng Dương Lăng cũng biết trong đám loạn quân này mình căn bản không có năng lực chạy tới cửa sơn cốc, cho dù không bị giặc Thát giết chết thì thân thể gầy yếu của y cũng sẽ bị người ta chen ngã thành một đống thịt vụn thôi.
Dương Lăng kéo Mã Liên Nhi đang đờ đẫn thoát khỏi dòng lũ đó, chạy lên sườn núi. Phạm vi chém giết ngày càng mở rộng bởi sự phản công của quân Minh nên hai người chỉ có nước chạy lên cao hơn.
Giặc Thát phát hiện trên sườn núi có hai người đang đứng, lập tức có kẻ vung đao xông tới, hoàn toàn là phản ứng bản năng muốn tiêu diệt mọi sinh mạng đối địch.
Nhìn thấy quần áo trang sức không giống mình, phản ứng bản năng của chúng chính là chém giết. Hiện giờ người của hai bên đều trở thành những sinh vật khát
máu và điên cuồng nhất, đôi tròng mắt đỏ ngầu đã không còn chút lý trí nào, chỉ chăm chăm tìm sinh mạng theo bản năng để mà hủy diệt đi.
Dương Lăng thầm kêu khổ, y bây giờ chỉ còn lại một loại bản năng, đó là chạy trốn. Dòng người trong sơn cốc giống như một dòng sông đang chảy xiết, chen chúc cuốn lẫn nhau, va đập vào nhau, với khí thế ấy, chỉ cần rơi vào trong là sẽ lập tức bị xé thành mảnh vụn nên y chỉ có thể chạy lên chỗ cao hơn.
Dưới sự truy đuổi ráo riết của mấy tên giặc Thát đang kêu những tiếng ồ ồ như dã thú, hai người cố hết sức chạy lên đỉnh núi. Lúc đầu là Dương Lăng kéo Mã Liên Nhi đang sợ hãi kinh hoàng chạy, khi còn cách đỉnh núi hơn hai chục mét thì Dương Lăng đã mệt phờ, bắt đầu được Mã Liên Nhi kéo chạy lên trên.
Thân thể đúng là thiếu luyện tập quá rồi, Dương Lăng cảm thấy tim đập thình thịch, hai tai lùng bùng, cơ bắp trên đùi run rẩy, cảm giác đau đớn đến nghẹt thở ấy khiến y gần như muốn buông bỏ việc chạy trốn, thà chịu bị Thát tử chặt đầu còn hơn.
Thế nhưng Mã Liên Nhi rõ ràng không nghĩ thế, tuy cổ họng nàng đã phát ra tiếng thở gấp hoàn toàn không phù hợp với bề ngoài như tiên nữ của mình, nhưng nàng đã thức tỉnh khỏi sự choáng váng do cảnh máu me, bắt đầu dùng hết sức kéo Dương Lăng chạy trốn.
Nếu lúc này có người ngồi ở không gian khác nhìn bọn họ, nhất định sẽ cho rằng đang coi phim chiếu chậm. Trong gió tuyết tung bay, phía trước một nam một nữ chầm chậm cất bước, phía sau mấy kẻ như hung thần ác sát cầm đao rõ ràng chỉ cần chạy mấy bước là có thể đuổi kịp, nhưng vẫn cứ chậm chạp bước đi, trợn trừng đôi mắt như muốn ăn tươi nuốt sống người ta, cặm cụi đuổi theo.
Hai người cuối cùng cũng lên tới đỉnh núi, Mã Liên Nhi vừa nhìn thấy tình hình trước mắt thì không khỏi thầm giật mình sợ hãi, tia hy vọng chạy thoát cuối cùng đã tan tành. Đỉnh núi chật hẹp, sường dốc gần bảy mươi độ, căn bản không có đường nào để chạy. Tuyệt vọng buông tay Dương Lăng, nàng quay đầu nhìn bọn giặc Thát đuổi riết không tha, rồi bỗng thò nhanh tay vào ngực rút ra cây trâm vàng mà trước khi phi ngựa khỏi thành nàng đã cất vào ngực, đặt lên yết hầu.
Dương Lăng thở phì phò chỉ tay vào nàng, y thở gấp đến mức không thể nói nổi thành lời. Mã Liên Nhi ngực phập phồng nhìn y, ánh mắt hết sức phức tạp. Liếc sang thấy mấy tên giặc Thát đang cười hung tợn đã gần bò tới đỉnh núi, nàng không nén nổi tiếng cười bi thương. Quay đầu nhìn Dương Lăng một cái thắm thiết, rồi nhắm hai mắt lại, nàng nắm chặt cây trâm đâm mạnh vào yết hầu mình.
Cơ bắp toàn thân Dương Lăng đều run bần bật vì dùng sức quá độ. Đã mệt đến mức không muốn cử động chút nào, nhưng thấy hành động của Mã Liên Nhi, y vẫn cố hết sức lao lên đập cái "bốp" vào tay Mã Liên Nhi, năm ngón tay xước qua gò má nàng.
Mã Liên Nhi bị mũi trâm vạch một vết xước trên cổ nhưng trâm vàng đã bay khỏi tay, dấu năm ngón tay hằn rõ trên mặt. Nàng ngẩn ngơ đứng đó, kinh ngạc nhìn Dương Lăng. Biết nàng sợ bị giặc Thát làm nhục nên mới muốn tự tận, nhưng lúc này y đã vô cùng mệt mỏi, cũng không có thời gian để giải thích nữa rồi. Y thất tha thất thểu nhào tới trước dốc, phía trước tuy không có đường, nhưng muốn chạy trốn thì đó dường như là con đường duy nhất.
Quay lại tay không đánh nhau với mấy chiến binh Mông Cổ dũng mãnh kia ư? Khỏi cần nghĩ cũng biết, bóng đao lướt qua là cái đầu xinh đẹp của y sẽ lập tức lìa khỏi thân. Y đưa mắt xem xét vách núi gần như thẳng đứng khiến người ta chóng mặt. Vừa gấp rút tính toán cơ hội sống, y vừa vẫy tay gọi Mã Liên Nhi, cất giọng khàn khàn: "Qua... khục khục... Qua đây!"
Trong đám giặc Thát đuổi theo đã có hai tên đã leo lên sườn núi. Bọn chúng mới vừa chém giết một hồi lâu trong sơn cốc, thể lực đã hao tổn rất nhiều, bây giờ đuổi một hơi lên núi nên hai tên đều thở dốc như trâu. Thấy địa hình, bọn chúng biết hai người phía trước không có đường chạy nữa nên cũng cảm thấy yên tâm.
Chúng chống đao xuống đất thở hồng hộc, giờ cũng cần phải khôi phục sức lực để vung đao chém người.
Hai tên giặc Thát đưa ánh mắt hung ác đánh giá một nam một nữ trước mặt, vẻ tàn bạo hung dữ trong mắt dần dần mất đi, bắt đầu thay bằng ánh mắt dâm tà. Hai đôi mắt đầy dục vọng như muốn lột sạch quần áo của Mã Liên Nhi, sức lực đã mất
bắt đầu khôi phục lại rất nhanh vì bản năng của giống đực.
Lúc cha Mã Liên Nhi làm công tác thu thập tin tình báo cho Cẩm y vệ ở vùng Tái Ngoại, thân phận công khai là một nhà buôn đồ da, thường giao thiệp với các bộ lạc Thát Đát. Mã Liên Nhi từ nhỏ đã từng nghe nói giữa các bộ lạc Thát Đát, vì tranh chấp thảo nguyên tươi tốt mà không ngừng nổ ra chiến tranh, vợ con của phe bị thua phải làm nữ nô chịu đủ thứ lăng nhục. Nữ nhân rơi vào trong tay loại người dã man này thì giá trị không bằng một con gia súc, kết quả so với rơi xuống địa ngục quả thật còn thảm hơn.
Mã Liên Nhi thấy thân hình hai tên giặc Thát ấy bề ngang bề dọc to bè như nhau, vẻ ngoài chẳng khác dã nhân là mấy, mắt bừng bừng lửa dục thì không khỏi giật mình run rẩy, khắp người lạnh buốt tới xương. Lựa chọn duy nhất của nàng chính là chạy theo Dương Lăng, trong lòng chỉ nghĩ: "Thôi, không thể giữ vẹn thi thể, đành nhảy xuống núi cho dã thú lấp bụng vậy, thế cũng hơn là bị người giày vò tới chết."
Tiếng gió không ngừng vang vun vút bên tai do hai người đang trượt xuống rất nhanh. Vốn Mã Liên Nhi không sợ chết nhưng ở trong cảnh hung hiểm này nàng lại sợ đến hồn phi phách tán, áp sát cả thân hình vào người Dương Lăng, nhắm nghiền hai mắt.
Dương Lăng đã từng chơi trượt cát nên y ước đoán chỉ cần tốt số không bị va quệt vào cọc gỗ, gốc cây thì sẽ còn cơ hội sống sót. Y ôm chặt Mã Liên Nhi, căng thẳng nhìn chăm chăm vào sườn núi phía dưới. Ở bên này không có cây gỗ lớn, những bụi cây thấp nhỏ bị tuyết đọng che phủ và những đám cỏ dại đã cào rách áo của y nhưng không làm tổn thương đến da thịt.
Mắt thấy sắp tới chân núi, với độ dốc như thế và tốc độ lao xuống như hiện tại, bọn họ sẽ bị đập thẳng xuống mặt tuyết như một viên đạn. Dương Lăng đột ngột ngửa mặt lên trên, ngả người ra phía sau chuyển từ ngồi thành nằm, đồng thời cố sức giữ đầu cách mặt tuyết một chút để tránh va vào đá và chạc cây.
Bị bất ngờ, Mã Liên Nhi chúi người về phía trước, môi bập vào miệng Dương Lăng, tạo thành một nụ hôn môi rất chi là không lãng mạn. Cả hai cùng rên lên một tiếng, trong miệng ứa ra vị tanh mằn mặn.
Mã Liên Nhi trợn tròn cặp mắt, cô nàng còn chưa kịp nói gì thì "phịch" một tiếng, tuyết văng tung toé, thân thể của Dương Lăng nện mạnh xuống mặt đất, tiếp tục trượt đi. Chân phải Dương Lăng bỗng đạp phải một gốc cây nhỏ, ngay cùng lúc ấy, chỉ nghe rắc một tiếng, thân thể của hai người liền chuyển hướng, xoay ngang rồi lăn long lóc.
Lăn vòng vòng một hồi mới dừng lại được. Hoàn hồn, Dương Lăng đưa mắt dáo dác nhìn quanh, thấy mình đã lọt vào trong một khu rừng, chếch về phía sau
khoảng hơn chục mét là gốc cây bị y đạp gãy khi nãy, hai mét trước mặt chính là một khối đá to phủ một lớp tuyết dày.
Mã Liên Nhi cũng đã bớt căng thẳng, lúc này nàng mới phát giác mình đang nằm trong lòng Dương Lăng với một tư thế hết sức ám muội. Khuôn mặt thanh tú thoáng đỏ bừng, nàng ra sức nện mạnh lên ngực Dương Lăng một quyền. Dương Lăng đang vui mừng vì "thân thể mềm mại" vốn luôn yếu ớt của mình lần này bình an không tổn thương gì, bị cô nàng nện cho một cú mới phát hiện là trên người mình còn có một thân thể mềm mại khác đè lên, y giật nảy mình vội buông tay ra, Mã Liên Nhi đỏ mặt bò dậy.
Dương Lăng dày mặt đứng dậy bước tới trước Mã Liên Nhi, ngẩng đầu nhìn lên đỉnh núi hai người vừa trượt xuống. Lúc này tuyết rơi mờ mịt, trong rừng tầm nhìn không quá trăm bước nên y không thấy rõ được tình hình trên đỉnh.
Tim Mã Liên Nhi đập thình thịch như ngựa chạy, nàng lén đưa mắt nhìn chiếc áo dài của Dương Lăng đã rách bươm, để lộ chiếc quần vải bông màu xanh bên trong, hai miếng bông vải trên mông cũng lộ cả ra, hình dạng cực kỳ thảm hại.
"Y thật dũng cảm! Một thư sinh yếu đuối thế mà dám nhảy từ trên đỉnh núi băng dốc đứng thế này." Nhớ tới lúc lăn xuống núi, y vẫn luôn ôm chặt lấy mình, để mình nằm trên, làm đệm cho mình, Mã Liên Nhi thầm cảm thấy ngọt ngào, trong mắt bất giác dấy lên một tia âu yếm.
Dương Lăng không hề hay biết mình giống như một công đực đang khoe đuôi, có điều là đang nhìn từ phía sau. Y quay lại hào hứng nói với Mã Liên Nhi:
- Giặc Thát không dám nhảy xuống núi như vậy đâu! Chúng ta hãy vào rừng trốn một lúc, tránh sự lùng sục của bọn chúng.
Nhìn cánh rừng bao la heo hút, trong rừng im ắng không vết chim bay, không dấu chân người, Mã Liên Nhi hơi do dự:
- Sườn núi dốc như vậy, chắc bọn chúng sẽ không dám xuống đâu. Nếu chúng ta lạc trong rừng, sẽ bị mắt kẹt lại ở nơi này đó.
Dương Lăng thoáng chau mày, gượng gạo:
- Nếu chỉ một mình tôi, quân Thát chưa chắc sẽ đuổi theo. Nhưng có thêm cô thì khó nói lắm, hay là cứ trốn đi đã.
Mã Liên Nhi bỗng nhướng mày:
- Huynh có ý gì vậy? Chẳng lẽ tôi là họa... Ư ừm... Vậy chúng ta trốn đi! Nàng chợt đổi thái độ, ngượng ngập đồng ý.
************************
Dương Lăng vốc một nắm tuyết cho vào miệng, ngậm tan từ từ, đến lúc nước không còn lạnh nữa mới chậm rãi nuốt xuống, đồng thời cẩn thận ngó chung quanh. Mã Liên Nhi cũng nhếch nhác không thể tả, mồ hôi nhễ nhại, thoa lệch tóc rối, vạt váy cùng ống tay áo bị xé thành mấy mảnh rách bươm.
Tuyết đã ngừng rơi, trời bắt đầu chạng vạng tối, ngọn núi trống trơn vắng vẻ, bốn bề mênh mông. Khung cảnh
đối với cặp ăn mày này tựa như trong chốn Dao Trì tiên cảnh vậy. Đá tảng, cây tùng, mặt đất, hết thảy đều được tuyết che phủ, khoác lên mình một bộ áo trắng tinh khôi...
Cảnh sắc rất đẹp, rất nguyên thủy, đủ khiến người ta lưu luyến khó quên, tinh thần vui tươi thanh thản. Có điều, đó là nếu bọn họ không bị lạc đường, và sau lưng không có một con sói bám theo.
Ban đầu hai người chỉ muốn trốn trong rừng một lúc, nhưng khi bọn họ đang loạng choạng bước vào rừng rậm, một con sói đang kiếm mồi bỗng dưng xuất hiện sau lưng bọn họ như ma quỷ. Phản ứng đầu tiên của hai người là chạy trốn, con sói cứ thong thả lững thững theo sau, chờ đợi bọn họ cạn kiệt hết sức lực.
Mã Liên Nhi đã sinh sống trên thảo nguyên nhiều năm, nàng biết không thể cứ tiếp tục chạy như vậy, bằng không sẽ dễ dàng trở thành món ăn trong miệng con sói
này. Nàng lượm một cành cây bị tuyết đè gãy ở trên nền đất đầy tuyết, đứng lại đương đầu vói con sói đen to lớn đó.
Dương Lăng thấy nàng không chạy, cũng nhặt một cành cây lên, tham gia vào cuộc chiến. Có lẽ người hiện đại ngay từ nhỏ đã nghe quá nhiều truyện đồng thoại về những con sói xám to đùng, nhưng khi thật sự gặp loài động vật trông không khác mấy so với "chó hoang" này, một người trưởng thành đang cầm cây gậy to sẽ khó mà sinh ra cảm giác sợ hãi chúng.
Mã Liên Nhi biết rõ sự đáng sợ của loài sói, Dương Lăng thì không, mà không biết thì không sợ. Dương "tú tài" hăm hở vung gậy lên, quát to một tiếng, nhắm đầu sói nện mạnh một gậy. Tuy thể trạng y không được tốt, nhưng cú đánh dùng toàn lực này cũng đủ sức đập vỡ sọ một người thân thể tráng kiện.
Cây gậy rắn chắc vừa phang trúng ngay đầu của con sói, Dương Lăng còn chưa kịp cao hứng thì Mã Liên Nhĩ đã thét lớn:
- Cẩn thận!
Rồi nàng vung gậy quét ngang tới.
Bị trúng một gậy nặng nề của Dương Lăng, con sói to lớn lăn ra mặt đất kêu ăng ẳng như chó, rồi trở mình bò dậy, hung tợn nhảy chồm lên lao về phía y.
Dương Lăng giật nẩy mình trước phản ứng mau lẹ của con sói, y đã thấy rõ những chiếc nanh trắng hếu lởm chởm trong miệng nó. May thay chiếc gậy trong tay Mã Liên Nhi mang theo tiếng gió rít cũng đã đánh đến, cây gậy quét mạnh trúng chân sau của con sói. Nó rơi xuống đất tru lên thảm thiết rồi khập khà khập khiễng lủi vào một lùm cây, nhưng vẫn hung hãn nhìn chằm chằm bọn họ không rời.
Hai tay Mã Liên Nhi nắm chặt cây gậy, giải thích với Dương Lăng:
- Xương sọ của sói rất cứng, muốn đánh phải đánh vào chân và lưng của nó. Sói là loài "đầu đồng chân đất, đuôi sắt hông bùn", cứ nhè vào đó mà đánh!
Con sói cũng nhận ra hai sinh vật này không phải là thứ dễ đối phó, nhưng lại
vẫn không chịu bỏ đi. Hai người đuổi theo, sói liền bỏ chạy, hai người quay đi, sói lại bám theo. Cứ đánh đánh chạy chạy lòng vòng như vậy cho đến giờ, con sói không biết đã đi đâu, còn hai người cũng đã lạc lối.
Bọn họ bây giờ đã mệt đến nửa bước cũng khó lê nổi. Bên trong quần áo ướt đẫm, mồ hôi trong xiêm áo đã nhanh chóng đóng băng, cái lạnh khiến cả người bọn họ co ro run rẩy. Lúc này đã là buổi hoàng hôn, nếu cứ như vậy qua đêm, hai người không bị sói ăn thì cũng sẽ chết cóng. Thế là dưới sự hướng dẫn của Mã Liên Nhi, Dương Lăng đã học được một chút kỹ năng sinh tồn nơi dã ngoại: đào tuyết làm ổ.
Trong rừng tuyết đọng phủ lên không ít cây cổ thụ cao chọc trời, cổ thụ đổ xuống, ở dưới liền hình thành mấy cái hố. Lòng hố tuy không rộng nhưng có khe hở để có thể hít thở. Dương Lăng khoét rỗng cái hố bị tuyết lấp đầy, chất mấy cành cây khô vào. Hai người cuộn người ngồi vào trong, vừa có thể chống rét, vừa tránh được dã thú.
Màn đêm đã hoàn toàn buông xuống, hai chân của Dương Lăng đã tê cóng. Không biết tự lúc nào Mã Liên Nhi đã cuộn người sát vào Dương Lăng, đầu gục xuống vai y mệt mỏi như muốn ngủ.
- Không được ngủ, chúng ta phải trò chuyện để tỉnh táo, nhất định phải cố chịu đựng cho tới khi trời sáng!
Mí mắt Dương Lăng cũng sắp díp lại, y nhéo mình một cái, cố sức hét gọi Mã Liên Nhi.
- Ôi..., Dương tú tài, Dương dịch thừa, Dương đại ca, huynh rủ lòng thương một chút đi mà! Muội vừa mệt, vừa đói, vừa buồn ngủ. Cho muội dựa một chút, dựa một chút, chỉ một chút xíu thôi, đến trời sáng... là được rồi.
Mã Liên Nhi yếu ớt rên rỉ đáp, giọng điệu thỏ thẻ chừng như như đang làm nũng. Nếu đang ở trong khuê phòng ngan ngát hương trầm mà nghe được âm thanh nỉ non như thế chắc chắn sẽ khiến cho người ta cảm thấy ướt át nóng bỏng đến thấu xương, lòng không kìm nổi nghĩ bậy nghĩ bạ.
"Không được!" Tuy tự bản thân Dương Lăng chưa từng trải qua những chuyến sinh tồn nơi dã ngoại bao giờ, nhưng lại xem quá nhiều câu chuyện trong báo và tạp chí nói về việc người ta chết cóng vì lạnh lúc ngủ. Y muốn gọi Mã Liên Nhi tỉnh dậy nhưng Mã Liên Nhi mệt đến độ không hề muốn cử động, cả thân thể mềm mại không xương uể oải dựa vào người Dương Lăng, rõ là đang ương bướng không chịu tỉnh dậy.
- Không được, ngồi dậy cho ta! Đợi đến lúc trời sáng thì cô cũng đã chết cóng rồi, cả người đóng một lớp băng cứng đến nỗi ngay cả sói cũng gặm không nổi! Ta không muốn kéo một bức tượng băng về đâu!
Dương Lăng nóng ruột, đưa tay vỗ vào mặt nàng.
Cảm thấy đôi môi hơi đau, Mã Liên Nhi mở mắt. Trong hố tối như bưng, nhưng hơi thở của Dương Lăng đang không ngừng phả vào mặt nàng, thật ấm, đó là hơi ấm duy nhất. Mã Liên Nhi càng buồn ngủ hơn, nàng lẩm bẩm:
- Nói... nói cái gì thế? Để muội... ngủ một chút đi mà!
- Không được ngủ! Dương Lăng nóng ruột:
- Phấn chấn tinh thần lên đi, thân thể xương cốt của ta sợ sẽ không qua nổi đêm nay đâu. Mỡ của phụ nữ dày hơn, chịu lạnh tốt hơn đàn ông, để ta cởi đồ cho cô mặc. Không được ngủ, có thể sống được người nào thì sống người đó!
Đầu óc đang lơ mơ, nhất thời Mã Liên Nhi không tiêu hoá được lời của Dương Lăng. Nàng tham lam rúc sát hơn vào người y, giọng mơ màng:
- Cái gì... Mỡ gì cơ?
- À, là lớp mỡ dưới da... Chà, có nói cô cũng chẳng hiểu, cứ coi nó như là thịt mỡ là được.
- ...
Một lúc lâu sau, dưới hố tuyết trong bóng tối tĩnh mịch của núi rừng chợt vang lên một giọng nữ cao vút:
- Thịt mỡ ư? Ta béo lắm sao?
Tỉnh ngủ rồi thì cảm giác lạnh buốt càng lúc càng khó mà chịu đựng nổi, hai hàm răng nàng đánh vào nhau lách cách. Cảm thấy trên vai hơi nặng, nàng thử đưa tay sờ vào, thất thanh kêu lên:
- Huynh lấy áo đưa cho ta, thế còn huynh thì sao? Dương Lăng thở dài:
- Tôi sợ mình sẽ không cầm cự nổi đến sáng đâu.
Vừa dứt lời, chiếc áo đó đã trở về trên người y và một đôi tay choàng qua ôm chặt lấy y. Mã Liên Nhi run rẩy nói khẽ:
- Chúng ta... kề sát lại một chút, có lẽ sẽ vượt qua được. Hoàn cảnh... hoàn cảnh cấp bách thì cũng nên linh động, đúng không?
Kề sát lại quả nhiên ấm hơn nhiều, Dương Lăng cũng lặng lẽ ôm chặt Mã Liên Nhi, lấy chiếc áo dài bọc cả hai người lại. Có lẽ do căng thẳng, hai người hít thở có phần gấp gáp. Dương Lăng nghĩ đến Ấu Nương, nhớ tới đêm đông giá lạnh bọn họ ôm nhau sưởi ấm ấy, lòng bỗng không yên.
Một lúc sau, từ bên ngực y vang lên tiếng hỏi rụt rè:
- Không phải huynh nói là muốn tán gẫu ư? Sao không nói gì hết vậy?
-Ừm? Ồ... nghe nói cô sống ngoài biên thùy từ nhỏ, quê cô ở đâu vậy? Dương Lăng trấn tĩnh lại, vớ đại lấy một đề tài.
Sau chút xấu hổ và lúng túng ban đầu, Mã Liên Nhi đã dần quen với sự thân
mật của hai người, nàng khẽ cựa thân thể mềm mại để tư thế thêm thoải mái, tự nhiên.
- Quê ta à...?
Nàng ngáp một cái, nép sát vào bộ ngực ấm áp của y, đáp:
- Quê ta ở kinh đô, nhưng ta chưa tới đó bao giờ, chỉ biết đại thúc (bác) và thúc thúc (chú) vẫn còn ở đó.
- Kinh đô ư? Quê cô ở Bắc Kinh à?
- Cái gì? Huynh thế mà cũng là tú tài à? Mã Liên Nhi phì cười:
- Kim Lăng mới là kinh đô, Bắc Kinh là kinh sư.
- Ồ!
Dương Lăng toát mồ hôi, hỏi:
- Kim Lăng sao? Vùng đất nổi tiếng phồn hoa từ xưa đó à? Đại Minh chúng ta tại sao chuyển kinh sư đến Bắc Kinh thế? Ở đó vừa gần Thát Tử, thời tiết lại giá lạnh.
Mã Liên Nhi hứ một tiếng:
- Tú tài của ta ơi, muốn đùa với ta cũng không cần phải giả đò như vậy đâu! Hay là huynh đang kiểm tra ta đó hử? Thiên tử thủ quốc môn (vua phải giữ biên cương), hiểu chưa?
Không để ý thái độ của mình với Dương Lăng đã càng lúc càng thân mật, nàng nói tiếp:
- Từ nghìn năm nay, mối uy hiếp đối với Trung Nguyên đa phần đến từ phương bắc, phía bên kia tường thành là kẻ địch. Yến Kinh (tên cũ của Bắc Kinh) nằm nơi
hiểm yếu, phía bắc thì núi non hùng vĩ, phía nam có thể khống chế Trung Nguyên, lại thông với vùng Giang Hoài (1), liền sa mạc, hơn nữa lại gần vùng giặc Thát.
Thành Tổ dời đô về đây, chính là để giữ biên giới!
- Huynh nghĩ xem, kinh sư nằm ở đây, triều đình không muốn chú trọng đến phương bắc cũng không được. Nếu không tại sao lại phải lập trọng binh đồn trú ở cửu biên (2)? Tại sao Cẩm y vệ lại phái nhiều mật thám quanh năm ẩn náu ở quan ngoại như vậy?
Dương Lăng còn tưởng vì thấy Yến Kinh có điềm lành xuất hiện nên Chu Lệ mới dời đô về đấy, ai ngờ còn bởi nguyên nhân này. Ngẫm lại, hoàng đế Đại Minh các triều đại dù ngu dốt cỡ nào, phần nhiều vẫn chấp thuận thực thi chính sách "thiên tử thủ quốc môn". Vào cuối thời Minh, khi mạng sống bị đe doạ mà hoàng đế Sùng Trinh vẫn không sử dụng tinh binh ở Sơn Hải Quan (3), đại thế mất rồi, ông ta vẫn không chịu lánh xuống phương Nam mà tự vẫn tại Môi Sơn. Rốt cuộc thì ông ta đã không làm nhục khí tiết người Hán, đến chết cũng làm tròn sứ mệnh "Thiên tử thủ quốc môn".
Mã Liên Nhi đau lòng nói:
- Sau khi cha ta gia nhập Cẩm y vệ liền bị phái đến vùng quan ngoại làm thám tử, chịu đựng nửa đời người, khó khăn lắm mới được trở về quan nội, kết quả lại... hiện giờ cũng không biết ca ca đã ra sao rồi?
Nói đoạn nàng bật khóc nức nở. Dương Lăng an ủi:
- Yên tâm đi! Lúc đó binh mã hoảng loạn, nhưng Mã huynh ở bên người Tất đô ty sẽ không có gì đáng ngại đâu. Cố qua đêm nay, ngày mai chúng ta tìm đường quay trở về thành, Mã huynh nhất định đã ở trong thành rồi đó.
- Ừm...
Mã Liên Nhi lau nước mắt, nói:
- Chỉ mong chúng ta có thể qua được đêm nay. Huynh kể chuyện cho ta nghe được không? Vậy sẽ không buồn ngủ nữa.
Dương Lăng vắt óc suy nghĩ một hồi lâu, cố nhịn cơn đói đang réo ùng ục trong bụng, bắt đầu kể:
- Ngày xưa có một ngọn núi tên là Ngũ Chỉ Sơn, trên núi có một đám cường đạo, kẻ đứng đầu tên là Chí Tôn Bảo (4)...
Chẳng lẽ người ở thời đại này không ai biết đến bộ "Tây Du Ký" hay sao?
Dương Lăng buồn bực nghĩ thầm. Thế là vừa mới kể được một chút, y đã phải bắt đầu kể lại từ Đông Thắng Thần Châu, Hoa Quả sơn, Thuỷ Liêm động, giới thiệu bằng hết lai lịch xuất thân của Tôn Ngộ Không. Vừa mới kể thêm được một hồi, y lại phải kể sang chuyện Đường Tăng, từ lúc còn là Kim Thiền tử đến quá trình phiêu lưu của lão.
Mã Liên Nhi thoải mái ngồi tựa trong lòng y, im lặng nghe kể chuyện. Nhưng Dương Lăng kể rất gượng gạo, bởi vì y cảm thấy có mấy đoạn hết sức khôi hài mà Mã Liên Nhi lại chẳng cười lấy một tiếng. Chẳng lẽ phụ nữ thời Minh không có tế bào hài hước à?
Khi kể đến Tử Hà Tiên Tử, Mã Liên Nhi mới trở nên hứng thú. Nghe đến đoạn Tử Hà Tiên Tử đòi Chí Tôn Bảo hôn mình, nàng chợt nhớ đến "nụ hôn" vô ý của hai người lúc trượt xuống núi. Vừa nghĩ đến chuyện này, môi nàng lại thoáng đau, song trong lòng lại có phần bồi hồi.
Nàng không kìm được, bật hỏi:
- Tại sao Chí Tôn Bảo không tiếp nhận nàng ấy vậy? Bạch Tinh Tinh là yêu tinh, y là đại thánh bị đày xuống phàm trần, hai người vốn chẳng phải một đôi. Tử Hà tiểu thư mới là thần tiên, vả lại Chí Tôn Bảo nói đúng đó, duyên phận là do ông trời an bài, ông trời là lớn nhất!
Sặc, lần đầu nghe thấy có người lấy môn đăng hộ đối ra giải thích "Đại Thoại Tây Du"! Đến phút cuối Mã Liên Nhi lại hỏi:
- Vậy cuối cùng Chí Tôn Bảo thích ai?
- Ơ... Tử Hà Tiên Tử.
- Hứ! Đàn ông, miệng một đằng tim một nẻo!
Mã Liên Nhi hậm hực. Dương Lăng đỏ mặt biện bạch:
- Có lẽ cô nói đúng, cho dù là Tề Thiên Đại Thánh cũng không thể đấu với ông trời. Trời cao định sẵn duyên phận mà, y cũng đành nghe theo vận mệnh an bài mà thôi.
Mã Liên Nhi rúc vào trong lòng y như một con chim nhỏ, im lặng một hồi lâu, nàng bỗng nhiên run rẩy nói:
- Vậy chúng ta... chúng ta có thể xem như là duyên phận do ông trời an bài hay không?
Lấy hết dũng khí nói xong câu đó, nàng cảm thấy hoàn toàn kiệt sức. Mặt nóng rần, nàng vùi đầu vào trong lòng y chẳng dám ló ra. Dương Lăng giật mình kinh hãi, ngớ ra một hồi lâu mới nói:
- Cô... đừng nên nghĩ ngợi lung tung, tuy rằng chúng ta má ấp vai kề nhưng không quan hệ bất chính, hơn nữa... hơn nữa cô không nói, ta không nói, cũng chẳng ai biết.
- Trời biết đất biết, huynh biết ta biết, hôn huynh cũng đã hôn rồi, ôm cũng đã ôm rồi, còn bảo ta làm sao xuất giá đây?
Trong màn đêm che phủ, Mã Liên Nhí nói một cách "hùng hồn", song con tim lại đập loạn thình thịch, nàng tiếp:
- Bất kể lần này thắng hay bại, Mẫn đại nhân cũng đã giết chết được một vương tử, nhất định sẽ được thăng quan. Huynh là tâm phúc của lão, lại trẻ tuổi có tài, có lẽ thêm vài ba năm nữa, ắt có thể làm quan phụ mẫu của một huyện. Ta... Ta tuy là con gái nhà tiểu lại, nhưng cũng biết đọc sách hiểu lễ nghĩa. Huynh làm quan rồi,
cũng cần một người vợ xứng với huynh.
Nàng nói mà xấu hổ không thôi, trong lòng thầm nghĩ: "Mã Liên Nhi ta vẫn luôn tâm cao khí ngạo, hôm nay dày mặt tự tiến cử mình như vậy đã là việc xấu hổ chết người rồi, còn muốn xúi dục người ta bỏ vợ. Nhìn thế nào cũng đều thấy mình giống một nữ nhân xấu xa vô liêm sỉ nhất, nhưng... nhưng ai mà không có một lần ích kỷ chứ?"
Nghe nàng có ý bảo mình bỏ vợ tái hôn, Dương Lăng bừng giận, y ưỡn thẳng lưng, lạnh lùng nói:
- Mã tiểu thư, cô từ nhỏ đã trưởng thành ở vùng biên ngoại, ta thích nhất chính là cá tính hào phóng thẳng thắn của cô, cũng không tin cô sẽ để ý đến những thứ cổ hủ ngu xuẩn. Hôm nay ta có thể vì cô mà bỏ nàng ấy, sau này lẽ nào sẽ không vì người khác mà bỏ cô sao? Tử Hà Tiên Tử nói rất hay: "Nếu như không thể ở cùng với người ta thích, cho dù để ta làm Ngọc Hoàng đại đế ta cũng sẽ chẳng vui vẻ gì." Ta cũng vậy, nếu như muốn ta bỏ Ấu Nương, cho ta làm Hoàng đế ta cũng không làm!
Bị y trách mắng Mã Liên Nhi xấu hổ vô cùng, nàng vừa ngượng vừa thẹn nói:
- Vậy ta... ta... ta nguyện làm tiểu thiếp của huynh, như vậy... như vậy huynh có chịu không?"
Dương Lăng ngây người, trong lòng vừa cảm động lại vừa khó xử, y cười nhăn nhó:
- Liên Nhi tiểu thư, tội tình gì cô phải đày đoạ bản thân như vậy? Dương Lăng không tiếp nhận nổi tấm lòng của cô đâu.
Mã Liên Nhi bỗng vùng ra khỏi lòng y, trừng mắt giận dữ nói:
- Huynh chê ta không đủ xinh đẹp hay bởi vì ta không phải là một người phụ nữ
tốt?
Dương Lăng vội nói:
- Liên Nhi tiểu thư, cô rất xinh đẹp, rất đáng yêu, và ta cũng tin cô là một người con gái kiên cường, có lòng tự trọng. Cô coi thường đám nam nhân xem nữ nhân như đồ chơi, miệt thị cái gọi là vợ phải theo chồng của bọn họ. Chính vì như vậy, một khi cô đã thích một người, nhất định sẽ không bao giờ chùn bước. Được xem trọng như thế, Dương Lăng thật sự ghi khắc trong tim.
- Nói thật dễ nghe! Ta đã nguyện lòng ở dưới người khác rồi, chỉ bởi ta tin huynh sẽ thật sự đối xử tốt với ta, tại sao huynh còn... Trong lòng huynh, trên đời này không có ai sánh được với Ấu Nương phải không?
Dương Lăng cảm khái nói:
- Cô sai rồi! Trong lòng ta, Ấu Nương là một cô gái rất bình thường. Cô ấy không phải là người xinh đẹp nhất, cũng không nhất định là đáng yêu nhất. Thế giới rộng lớn, chưa xem hết toàn bộ phong cảnh, ai dám nói là đã nhìn thấy phong cảnh đẹp nhất chứ? Nhưng với phong cảnh, cô vẫn có thể đi đến từng nơi để thưởng thức, lựa ra một chỗ đẹp nhất làm chốn cự ngụ cho mình, nếu có năng lực cô thậm chí còn có thể chiếm giữ tất cả. Nhưng với phụ nữ lại không giống vậy, yêu không chỉ là thưởng thức và chiếm hữu, mà đôi bên còn phải có trách nhiệm với nhau, đã yêu nhau thì nên hết lòng tuân thủ ước hẹn "cho tới bạc đầu."
- Biển người mênh mang, phụ nữ xinh đẹp rất nhiều. Không lẽ ta gặp ai cũng yêu, gặp người tốt hơn thì vứt bỏ người cũ đi? Nếu vậy thứ ta chiếm được cũng sẽ chỉ là thể xác của phụ nữ mà thôi! Như lời cô đã nói ở Hồng Nhạn lâu, nếu chỉ coi vợ như đồ vật, không hề có tình cảm chân thành thì dựa vào cái gì để đòi họ thật tâm đối đãi với mình đây chứ?
Mã Liên Nhi yên lặng một hồi lâu, đột nhiên bật cười:
- Ngài tú tài thao thao bất tuyệt, nói tràng giang đại hải, tại hạ cam bái hạ phong. Người ta trêu huynh thôi, sao kích động quá vậy?
Dương Lăng ngẩn ra, không biết cô nàng thật sự nói đùa hay đang che giấu sự xấu hổ của bản thân. Tiếc là trời tối đen như mực nên y không nhìn thấy được vẻ kỳ dị trong mắt nàng và cả nụ cười chứa đầy ẩn ý trên môi nàng nữa. Đó là nụ cười của
người thợ săn khi đã xác định được con mồi nhất định phải bắt.
Mã Liên Nhi ngẫm lại lời của Dương Lăng, rồi trong lòng thầm nghĩ: "Đứa con gái từ vùng biên ngoại như mình đây mà là khác thường ư? Gã tú tài này mới thật sự là khác thường. Biển người mênh mang, có lẽ y quả thực không phải là phong cảnh đẹp nhất, nhưng lại là phong cảnh thích hợp với mình nhất. Ông trời đã đưa y đến trước mặt, không giữ chặt lấy y há chẳng phải là có lỗi lắm sao? Hì... tương lai còn dài mà!"
Sau một hồi lâu tâm tình nàng đã bình ổn trở lại, thoáng mang vẻ tươi cười, nàng bắt chước lời thoại mà Dương Lăng vừa nãy đã kể:
- Đêm dài đằng đẵng, không lòng dạ nào để ngủ, chi bằng Dương huynh hãy kể cho ta thêm một câu chuyện xưa nào đặc sắc hơn chút đi. (Câu này bắt chước lời thoại trong Đại thoại Tây Du)
Dương Lăng cũng cười thầm: ai nói phụ nữ thời Minh không biết hài hước là gì chứ? Đoạn y phấn chấn tinh thần nói:
- Được, ta sẽ kể cho cô một câu chuyện giúp tinh thần hưng phấn. Câu chuyện này có tên là Hoạ Bì!
Chú thích:
(1) Chỉ vùng đất nằm giữa Trường Giang và Hoài Hà. Gồm có Giang Tô, An Huy và một bộ phận nhỏ của Giang Tây, Hồ Bắc, Hà Nam.
(2) Tên gọi chín điểm quân sự cần trấn giữ vùng biên tái bắc bộ thời Minh. Sau khi nhà Minh được thành lập, quân Nguyên lẩn trốn ở biên tái phía bắc vẫn không ngừng quấy nhiễu, uy hiếp nghiêm trọng đến sự thống trị của nhà Minh. Để củng cố biên phòng khu vực bắc bộ, Minh thái tổ Chu Nguyên Chương nhiều lần phái tướng bắc chinh, đồng thời phân đất phong hầu cho các con là Chu Lệ, Chu Quyền đem trọng binh trú thủ biên tái bắc bộ. Minh thành tổ Chu Lệ vừa xuất quân ra sa mạc phía bắc, vừa bố trí trấn giữ vùng biên duyên, phái binh trấn thủ. Ban đầu thiết lập bốn trấn giữ ở Liêu Đông, Tuyên Phủ, Đại Đồng, Diên Tuy, kế tiếp lập trấn ở Ninh
Hạ, Cam Túc, Kế Châu, rồi lại lập hai trấn ở Sơn Tây, Cố Nguyên, ấy là cửu biên.
(3) Sơn Hải Quan là cửa ải đầu tiên của Trường Thành, bắc dựa dãy Yên Sơn, nam liền biển Bột Hải, non xanh nước biếc, quang cảnh hùng vĩ, nằm ở nơi giáp ranh giữa hai tỉnh Hà Bắc và Liêu Ninh, khởi điểm của Trường Thành. Người đầu tiên xây dựng Sơn Hải Quan là Từ Đạt, vị tướng nổi tiếng của nhà Minh. Với con mắt sắc bén về quân sự, Từ Đạt đã xây dựng Sơn Hải Quan để kiểm soát được núi, lại khống chế được biển. Ải này có 4 cửa, cửa phía Đông có một bức hoành phi với dòng chữ "Thiên hạ đệ nhất quan". (sưu tầm)
(4) đây là bộ "Tân Tây Du Ký" (Đại thoại Tây Du) gồm 2 phần do Châu Tinh Trì thủ vai chính. Chí Tôn Bảo trong phim là hậu thân của Tôn Ngộ Không 500 năm sau.
Trong tiếng thét chói tai của Mã Liên Nhi, Dương Lăng đã kể xong truyện "Oan quỷ lục". Hê hê! Thật là thành công rực rỡ. Mã Liên Nhi đang sợ run cầm cập, cực kỳ giống một chú chim cun cút, nói chung y đã vớt vát được một chút mặt mũi cho "Đại thoại Tây Du".
Cười thoả mãn, Dương Lăng nhìn lên miệng hố trắng nhờ nhờ bên trên. Mặc dù trời vẫn chưa sáng nhưng trong không khí đã thoáng có chút hơi ấm của buổi sớm mai.
Mã Liên Nhi vẫn co ro trong chiếc áo choàng, có thể là vì lạnh, cũng có thể là vì sợ. Dương Lăng buồn cười, vỗ vỗ vai nàng, khích lệ:
- Trời sáng rồi, chúng ta đã chịu đựng được.
- Trời sáng rồi ư?
Từ trong lòng y, Mã Liên Nhi chầm chậm ló đầu ra, tham lam nhìn những tia sáng dịu nhẹ trên miệng hố. Trời sáng thì tốt rồi, trời sáng thì sẽ không còn phải sợ nữa. Không ngờ tên tú tài đáng ghét này lại biết kể không ít truyện, nhưng mấy truyện ma quỷ đó cũng kích thích thật.
Dương Lăng cười thầm trong bụng, cả đêm kể liền mấy truyện đã được y gia công chỉnh sửa như "Oán quỷ lục", "Hồn ma hoa anh đào", "Ký túc xá nam sinh số 17", nói thật, ngay bản thân y cũng thấy nổi da gà.
Thấy vẻ cười cợt trên mép y, Mã Liên Nhi hậm hực lườm y một cái, làm mặt giận:
- Là huynh cố ý phải không?
Dương Lăng giật mình, thái độ của cô nàng trông không được thoải mái lắm, có lẽ do nằm trong lòng mình quá lâu. Một bên má nàng đã bị ép đến đỏ lựng, tóc tai rối bời, dáng vẻ càng thêm mấy phần quyến rũ, tựa như một cô vợ vừa mới thức dậy, lười biếng và yêu kiều, vẻ mặt hờn dỗi trông lại càng động lòng người quá đỗi.
Dương Lăng vội quay đầu, múa may chân tay đang tê rần một hồi rồi chầm chậm chui ra khỏi hố tuyết. Như chiếc lưới trong tay người đánh cá, màn đêm đang được từ từ thu lại, trời đất chìm trong màu xám bạc. Mặt trời vẫn chưa xuất hiện, song chân trời đã bắt đầu ửng sáng.
Thật là lạnh. Đối với một người đang đói như y, cái cảm giác khi không có một tia nắng nào quả thật giống như đang ở dưới địa ngục. Phóng mắt nhìn chung quanh chỉ thấy một màu trắng xoá, không biết mình đang ở nơi nào, không có ánh nắng, thậm chí y không thể nhận ra phương hướng giữa núi rừng bị băng tuyết bao phủ như thế này.
Mã Liên Nhi cũng chui ra khỏi hố tuyết, nàng ngó quanh rồi vui mừng:
- Thật may trời không âm u, tuy mặt trời chưa ló dạng nhưng cũng có thể thấy được đông tây nam bắc rồi. Đi theo muội, chỉ cần ra khỏi khu rừng này, chúng ta sẽ có hy vọng trở về.
Hai người đã không thể nào tiếp tục chịu đựng thêm một đêm trong núi rừng nữa rồi, phải nhân lúc còn tí sức lực mà cố gắng nhanh chóng rời đi. Trải qua một đêm khốn đốn, thể lực của bọn họ đã kém trước nhiều, hai người đành phải vừa dìu nhau vừa khập khiễng đạp tuyết men theo một dòng suối đã bị đóng băng mà đi từ từ. Cùng sóng vai dắt nhau đi, Mã Liên Nhi và y lại giống như một đôi bạn đồng hành đang "đạp tuyết tìm mai".
Đã chẳng thể nhìn ra được diện mạo ban đầu của dòng suối là như thế nào nữa, lớp tuyết dày đặc đóng trên bề mặt giống như một con đường uốn lượn giữa núi rừng. Chỉ có những cột băng cao ngất thỉnh thoảng mọc lên ở hai bên bờ nhắc nhở người ta rằng đây từng là một dòng suối nhỏ nước reo vang chảy siết. Từng cơn gió nhẹ thổi qua, trút những hạt tuyết trên cây xuống cổ hai người, thỉnh thoảng có tiếng chim kêu qua những tầng cây.
Đi được hơn nửa canh giờ, hai người đã ra khỏi khu rừng rậm, lên tới một sườn núi tuyết cây cối thưa thớt. Ngẩng đầu nhìn quanh, từ phía tây trải dài về hướng đông bắc đều là những ngọn núi không cao lắm nhấp nhô đan xen. Ngoại trừ những thân cây có màu tàn tro, khắp ngọn núi chìm trong thế giới màu bạc trắng xóa.
Tia nắng đầu tiên ló dạng mang đến chút hơi ấm cho hai người. Hai người đang hăng hái muốn tiếp tục đi về phía trước thì một con sóc chợt nhảy phốc qua trước mặt, để lại một hàng những dấu chân lờ mờ trong vùng đất tuyết bao la vô hạn. Rồi sau đó nó kéo theo chiếc đuôi to xù lủi vào trong một hang tuyết.
Mã Liên Nhi mừng rỡ, vội vã buông tay Dương Lăng, hớn hở chạy tới nằm trườn trên mặt tuyết nhìn một lúc, sau đó bất chấp cái lạnh bắt đầu lấy tay đào bới. Dương Lăng cười nhăn nhó bước tới hỏi:
- Đại tiểu thư à, lúc này mà cô còn muốn bắt sóc để chơi sao?
Mã Liên Nhi vẫn nằm soài như một chú cún con đang cào tuyết, thở hổn hển đáp:
- Đừng ngốc nữa! Mau giúp muội đào đi nào! Trong hang sóc chắc chắn sẽ có đồ ăn. Trong hang của một con sóc có thể lấy được tới mấy cân lương thực đó. Đào được rồi, cho dù hôm nay không thoát khỏi đây được, chúng ta cũng sẽ không chết đói.
Vỗ trán một cái, Dương Lăng vứt cây gậy trong tay, phụ nàng đào bới. Đầu tiên hai người dẹp hết đống tuyết phía ngoài, sau đó lại ba lần làm gãy khúc gậy mới mở rộng được miệng hang đông cứng. Con sóc đã trốn mất bằng một cửa hang khác.
Hang của nó rất sâu, Dương Lăng đưa tay vào mò, mò đến khi mặt mày dính đầy bùn đất mới được toại nguyện, y moi ra được rất nhiều quả khô như hạt dẻ, hạt kê, táo gai (họ Crataegus)...
Hai người phấn khởi ngồi xổm trên tuyết kiểm lại chiến lợi phẩm. Dương Lăng cầm hai hạt kê lên, chà chà lên vạt áo, rồi đưa cho Mã Liên Nhi một hạt. Hai người tham lam dùng miệng bóc vỏ hạt, sau đó nhai lấy nhai để nghe rôm rốp cái hạt đã đông cứng ngắc.
Dương Lăng mỉm cười nhìn Mã Liên Nhi đang nhai ngon lành, vốn định khen nàng mấy câu, đột nhiên thấy cô nàng biến sắc, mặt trắng bệch như tuyết. Dõi theo ánh mắt kinh hoàng của nàng, Dương Lăng đưa mắt nhìn ra sau lưng, trái tim lập tức nặng trĩu. Sói! Đến những bốn con, con nào con nấy so với con hôm qua còn to hơn, khoẻ mạnh hơn, dữ tợn hơn.
Bốn con sói cùng bước nhẹ nhàng nhanh chóng áp sát bọn họ. Dương Lăng đột nhiên đứng dậy. Bốn con sói, một trước ba sau, tạo thành hình tam giác từng bước áp sát. Hàm răng lởm chởm trắng nhọn, ánh mắt hung tợn khiến người ta phải khiếp sợ.
Mã Liên Nhi cũng run rẩy đứng dậy. Tuyệt vọng liếc nhìn những con sói hoang đang tới gần hơn, nàng bất chợt gọi to:
- Dương Lăng!
Dương Lăng bị kéo xoay người lại, đón lấy y chính là khuôn mặt đang ửng hồng cùng với đôi mắt không rõ đang ẩn chứa tình cảm gì của Mã Liên Nhi. Nàng đột nhiên nhào tới, ôm chặt lấy Dương Lăng, giọng run run:
- Dương Lăng, huynh ôm muội đi!
Cả người run rẩy, nàng siết chặt lấy Dương Lăng, hơi thở gấp gáp tìm kiếm bờ môi y.
Bốn con sói vì hành động quái dị của hai sinh vật này mà thoáng dừng chân lại. Con sói đi đầu gừ một tiếng uy hiếp, đoạn tiến nhanh dần. Mười lăm trượng, mười trượng, năm trượng, tiến vào phạm vi có thể tấn công. Cái chân sau mạnh mẽ của nó chợt co lại, nó đã muốn phóng lên.
Ngay vào lúc này, "tách", tiếng dây cung bật mạnh, một mũi tên nhọn hoắt không biết từ đâu bắn đến xuyên qua bụng con sói. Lực tên bắn cực mạnh, đầu mũi tên xuyên thủng bụng sói rồi cắm vào trong tuyết. Con sói tru lên một tiếng dài thê lương, hai chân lẩy bẩy rồi ngã xuống mặt đất. Chỉ trong chốc lát máu tươi đã thấm đỏ một mảng lớn.
Nghe tiếng tru thảm thiết, bọn Dương Lăng lập tức quay đầu nhìn lại. Ba con sói hoang thấy con sói kia bị trúng tên nên đã dừng chân lại, cùng tru gào nhìn quanh tìm kiếm nơi bắt nguồn của sự uy hiếp. Thân hình thon mảnh của chúng nhanh nhẹn chạy quanh một vòng, sau đó quay lưng định chuồn đi.
Lúc này lại có ba mũi tên nhọn xé gió xuyên qua rừng cây bay vút ra, bắn chết cả ba con sói một cách cực kỳ chuẩn xác. Con sói có thể hình nhỏ nhất bị lực tên bắn văng lông lốc, thân thể nảy lên không trung rồi rơi phịch xuống đất, tắt thở.
Dương Lăng và Mã Liên Nhi vừa kinh ngạc vừa vui mừng, ngước đầu nhìn quanh tìm kiếm ân nhân cứu mạng. Trên sườn núi là một vùng trắng xoá, ánh nắng của mặt trời mọc phản chiếu từ đó khiến mắt hai người bị chói loà. Dương Lăng nheo mắt lại, phát hiện dưới những cây bạch dương bên sườn núi lộ ra bóng dáng mấy người đang từng bước đi về phía bọn họ.
Tổng cộng có bốn người. Dẫn đầu là một đại hán thân hình vạm vỡ, mặc chiếc áo dài màu tro xanh, tuổi chừng ngoài bốn mươi, thân trên khoác chéo một tấm da thú đã sờn rách, lưng đeo một cây cung săn dài, tay cầm một cây xiên sắt.
Ba người đi sau, người lớn nhất khoảng hơn hai mươi tuổi, đang cầm một cây cung, sau lưng mang ba, bốn con gà rừng, bộ lông dài của chúng đung đưa trong gió. Nhỏ nhất là một thằng bé kháu khỉnh, khuôn mặt bụ bẫm đỏ bừng, tuy trông bẩn thỉu nhưng lại cứng cáp như một tảng đá.
Nó chỉ độ mười hai, mười ba tuổi, mặc chiếc áo da dê rách nát, lưng đeo một cây cung, tay đang nắm dây thừng dắt một con hoẵng nhỏ bị thương. Cặp giò nhỏ nhắn, ngắn ngủn của con vật đang vất vả khó nhọc nhấc bước trên mặt tuyết phủ dày quá gối, thằng nhỏ đôi khi quay đầu lại dùng cây gậy trong tay vụt xuống mông con hoẵng một cái.
Người thanh niên chừng hơn hai mươi tuổi trông khá anh tuấn, y liếc nhìn hai người Dương Lăng một cách thân thiện, rồi kêu gã trông trẻ hơn một chút và thằng nhóc mép chỉ mới lún phún lông măng cùng đi thu thập xác sói. Họ rút mũi tên ra khỏi xác mấy con vật, quệt máu trên mũi tên lên da sói, cắm tên lại vào trong bao, sau đó nện mạnh một phát xuống đầu con sói còn chưa tắt thở, rồi lấy dây thừng ra
cột chung chân của bốn con sói lại.
Người trung niên đi đến trước mặt hai người Dương Lăng, nhìn họ từ trên xuống dưới. Ông thấy hai người này, nam thì mặt dính đầy bùn, nhưng lại có khí chất của một kẻ đọc sách; nữ thì quần áo xốc xếch, nhưng chất liệu vải không tầm thường, dung mạo cũng không giống với người sống trong núi. Ông ta hoài nghi hỏi:
- Hai vị là người ở đâu? Sao lại chạy đến vùng rừng núi hoang dã ở Ngũ Sách Lĩnh này?
Dương Lăng thấy ông ta râu ria xồm xoàm, tuy trông cục mịch song mặt mũi ngay thẳng có vẻ chính khí, nên cảm thấy hơi yên tâm. Có điều đây là vùng núi rừng hoang vu, y vẫn phải cẩn thận một chút, không dám nói thật với gã đại hán trông như ngọn núi này.
Y chắp tay đáp:
- Chúng tôi... Huynh muội chúng tôi vốn định đi tới trạm Kê Minh thăm người thân, trên đường gặp phải quan binh và giặc Thát đang đánh nhau, trong lúc trốn chạy đã trốn đến nơi này. Đa tạ ơn cứu mạng của đại thúc!
- Hi hi, huynh muội ư? Vị đại ca này, vừa rồi đệ thấy hai người đang thơm môi nhé!
Thằng bé kháu khỉnh bụ bẫm không biết đã chạy tới từ lúc nào, đang vừa giậm tuyết vừa nói. Chân nó quấn một đống xà cạp, bên trên lại khoác hai tấm da thú, khiến cho vóc người vốn không phải là thấp cũng trở nên béo lùn, hết sức đáng yêu.
Mặt của Dương Lăng và Mã Liên Nhi lập tức đỏ bừng, người trung niên mắng:
- Đừng nói bậy bạ nữa, đi giúp anh mày buộc thú săn lại đi! Thằng nhóc lè lưỡi, ấm ức:
- Vốn là vậy mà, bọn họ có thơm môi mà. Có con thấy, đại ca thấy, nhị ca thấy,
cha cũng thấy...
Đại hán đá một cước vào mông của thằng nhóc đang lẩu bẩu lầu bầu, cười mắng:
- Thằng nhóc này, mày lắm mồm quá đấy, về ta sẽ phạt không cho mày ăn cơm!
Sau đó ông quay đầu lại nhìn hai người, ánh mắt cảnh giác loé lên vẻ lạnh lẽo sắc bén, hỏi:
- Ta họ Hàn, là thợ săn trên núi. Hai vị rốt cuộc là người ở đâu?
- Đại thúc, xin lỗi thúc. Cháu và... tướng công đang rời nhà đi xa. Đại thúc hơi quá cẩn thận rồi!
Dương Lăng giật mình, lúc này y mà giải thích nữa thì không khỏi càng rối rắm hơn nên đành ngậm miệng làm thinh. Đại hán chợt nói:
- Ta biết rồi, năm mới về nhà mẹ phải không? Quân Thát gây khổ nhiều quá.
Chúng ta cũng từ trong thành trốn tới đây, vậy cùng đi với nhau nhé!
Đại hán họ Hàn, gọi là Hàn Lâm, con trai trưởng là Hàn Uy, con trai thứ là Hàn Võ, còn cậu út có tên hơi tầm thường một chút, gọi là Mãn Thương (đầy kho).
Người dân có hoàn cảnh thiếu hụt thường đặt cho con mình cái tên may mắn để lấy khướt. Dương Lăng đã từng biết mấy người có tên Mãn Thương rồi, đáng tiếc là đa số những người có tên như vậy đều nghèo rớt mùng tơi.
Hàn Lâm náu mình ở vùng núi hẻo lánh nơi biên thùy, dọc đường đã thu nhận khoảng một trăm người dân đang chạy giặc, tất cả đều phải dựa vào tay nghề săn bắn của cha con họ mới có thể sống sót. Cả nhà xem ra cũng khá chất phác, gió lạnh át tiếng không tiện chào hỏi nhiều nên họ chỉ cười cười khách khí rồi vác thú săn được lên lưng, đi nhanh về phía trước.
Chú bé Mãn Thương tới dắt con hoẵng đi, cười hì hì hết nhìn Dương Lăng lại nhìn Mã Liên nhi. Cậu tới sát Dương Lăng, líu lo:
- Dương đại ca, vợ của huynh đẹp thật đấy! Xinh hơn chị của đệ nhiều. Mã Liên Nhi nghe được đỏ cả mặt, thoáng nét vui mừng. Được gọi là "vợ"
khiến cô nàng mới biết yêu này ngây ngất mãi. Dương Lăng ngượng nghịu chẳng thể thừa nhận hay phủ nhận, đành ho khan giả điếc.
Hàn Võ nói với Hàn Uy:
- Đại ca, sau khi có tuyết lớn thì bầy thú kéo nhau đi kiếm ăn, quả thực là cơ hội săn bắn rất tốt. Xem ra cả trăm người đều có thể húp canh thịt rồi.
Hàn Uy đáp:
- Ừ, những người trẻ tuổi đều lập nhóm tới vùng lân cận hái hoa quả khô, thêm vào thú săn được của chúng ta thì có thể khiến mọi người đều được ăn no. Phỏng chừng chập tối là có thể đến Kê Minh rồi.
Hàn Võ liền cất tiếng chửi:
- Ngay cả ông già với trẻ con còn biết đi xung quanh nhặt củi khô để mọi người sưởi ấm đấy! Nhưng tên tam ca nhà họ Dương lại quá hèn hạ, chẳng chịu làm gì cả, lúc ăn cơm lại còn cố vơ vét, thật khiến người ta bực cả mình!
Hàn Uy huých hắn một cái:
- Đừng cằn nhằn nữa, cha mà nghe thấy lại đá vào mông đệ đấy! Dù sao đó cũng là bà con của em rể chúng ta, không nên so đo với gã làm gì.
Bên cạnh, Hàn Mãn Thương vừa ra sức kéo con hoẵng nhỏ vừa hào hển nói:
- Theo đệ thì chúng ta không nên chạy trốn nữa. Đám giặc Thát tới thôn ta chỉ hơn ba chục tên, bằng võ nghệ của cha và chúng ta thì sao không thể trừng trị được chúng chứ?
Hàn đại thúc đang đứng trên một mỏm đá, gằn giọng quát con:
- Cuồng vọng kiêu căng! Chúng ta có thể trừng trị được mấy chục tên giặc Thát kia, nhưng khi chúng quay lại sẽ dẫn theo vài trăm vài nghìn tên đến san bằng cả thôn. Một cá nhân võ nghệ cao cường so với vạn quân thì có tác dụng gì chứ?
Lão chống nạnh dạy bảo con trai:
- Lúc ta còn ở Thiếu Lâm học nghệ, đã từng nghe kể, lúc Tổ Tĩnh gặp nạn, Đạo
Diễn đại sư mời ba trăm tăng binh của phái Thiếu Lâm tới trợ chiến. Cuối cùng chỉ có hơn một trăm người trở về, phân nửa đã tàn phế. Lúc đó, dẫn đầu là trưởng lão Hư Vân đại sư của La Hán đường, có công phu Kim Chung tráo và Thiết Bố sam đao thương bất nhập cũng chỉ chống đỡ được trong thời gian uống cạn chén trà rồi bị loạn tiễn bắn như con nhím.
Hàn Mãn Thương không phục nên hỏi lại:
- Vậy thì học võ cũng chẳng có tác dụng gì ư? Hàn lão nhẹ giọng đáp:
- Cũng không hẳn như thế! Ba trăm tăng binh Thiếu Lâm kia cũng chiến đấu ngoan cường được trong vòng một canh giờ với hai nghìn quân địch. Nhưng khi đại quân giao chiến thì mấy trăm cao thủ võ thuật có tác dụng gì chứ?
Dương Lăng thấy tên nhóc con kia có vẻ chán nản liền phỉnh:
- Đừng nhụt chí! Đó là do người chỉ huy không biết cách thôi. Phái những cao thủ như thế đi xông pha chiến đấu thì tất nhiên không có tác dụng gì rồi. Nếu như giao cho họ cướp đốt lương thảo, ám sát tướng địch thì còn có tác dụng hơn mấy vạn đại quân đấy.
Dương Lăng nói tới đây chợt nghĩ đến một điều khiến y giật thót mình: "Không phải chứ? Y họ Hàn, có ba đứa con trai, từng học nghệ ở Thiếu Lâm, bây giờ là một thợ săn ".
Dương Lăng hơi hoảng hốt: "Lẽ nào đây chính là cha vợ, anh vợ và em vợ mà mình chưa từng được gặp sao? Mình không biết họ đã đành, thế quái nào mà họ cũng không nhận ra mình như vậy nhỉ?"
Thực ra, nếu bây giờ mặt hắn không dính đầy bùn đất thì lão Hàn cũng không thể nhận ra ông con rể của mình được. Sau khi con gái mình lấy chồng, tuy lão Hàn cũng từng gặp con rể mình vài lần nhưng khí sắc hiện tại của hắn khác xa vẻ mặt vàng vọt, hơi thở thoi thóp trước kia.
Từ miệng của những người dân trong làng đang chạy nạn, Hàn Lâm biết được con rể đã bình phục và dọn vào Kê Minh ở rồi. Cho nên bây giờ dù có thấy Dương Lăng quen quen thì lão cũng không thể nghĩ tới cái tên mang vợ vào thành thăm người thân lại là con rể mình được.
Mà chính Dương Lăng cũng chưa từng gặp người nhà của Ấu Nương. Trước đây vì sợ Ấu Nương phát hiện sơ hở nên mỗi khi nàng tán gẫu nhắc tới người nhà, y cũng đều không dám dò la tên tuổi của họ là gì. Lúc này cảm thấy nghi nghi, Dương Lăng liền luống cuống.
Y thấp thỏm bất an, ngượng ngập bắt chuyện với lão Hàn:
- Hàn đại thúc, các người từ đâu trốn tới đây vậy? Hàn Lâm đáp:
- Từ dãy núi Bình Vân. Chúng ta đi săn trong núi khoảng mười ngày, vừa mới về làng thì đụng phải giặc Thát, phải vội vàng cùng dân làng chui vào khe núi. Còn hai người từ đâu tới đây thế?
Dương Lăng giật thót, dãy núi Bình Vân à? Không thể sai được rồi, người đàn ông vạm vỡ mặc đồ da thú, tướng người rắn rỏi bị mình lừa chính là cha vợ của
mình!
Y khục khục cười gượng, vội vàng nói chữa:
- Đại thúc hiểu lầm rồi, vị tiểu thư này không phải vợ của cháu. Vì vừa rồi chưa biết rõ ngọn nguồn nên mới nói dối thúc.
- Ồ?
Hàn Lâm nhìn y ngờ vực, Dương Lăng vội giải thích:
- À ừm.. Thực ra chúng cháu chạy tới đây báo tin cho quân Đại Minh. Rút cuộc khi chiến sự xảy ra, bọn cháu bị quân Thát truy đuổi mà lạc vào khu rừng này. Còn việc... là do lúc đó nàng quá sợ hãi. Ngài là người từng trải, chắc ngài cũng hiểu
phải không? He he he....
Hắn vênh mặt với ông bố vợ, cười đúng chất của một gã đàn ông đích thực.
Hàn Lâm hiểu ý cười hô hố rồi vuốt vuốt râu, xem ra chính lão cũng không biết mình hiểu cái gì nữa, tuy nhiên lão cũng không tiện hỏi lại. Dương Lăng thừa cơ kể sơ qua hàng loạt chuyện mình đã trải qua, bao gồm đưa tin, gặp mai phục, chạy trốn, gặp sói để "gài hàng" với ông bố vợ.
Đám người trong khe núi lợi dụng địa thế tự nhiên, dùng thân cây dựng lên rất nhiều lều cỏ hình chóp, trên nóc được lợp lá cây để chắn tuyết, tạo thành những ngôi nhà tạm. Bây giờ, phía trước mỗi túp lều đều có một nồi sắt sứt miệng bắc trên những chiếc bếp xếp bằng đá, gỗ cháy tí tách, tuyết trong nồi đã được đun sôi, khói trắng bốc lên mịt mù.
Những người chạy nạn này dường như đã có kinh nghiệm chạy giặc nên chậu, nồi, bát, muỗng đều đủ cả. Thực ra, bình thường tất cả tài sản của họ cũng chỉ có mấy thứ này thôi. Thấy cha con Hàn Lâm mang về được nhiều thú như vậy, những người dân ăn mặc lam lũ, mặt mày ngây dại đều trở nên có sức sống hơn, nhao nhao tới giúp bọn họ khiêng thú vào giết mổ.
Mặc dù Hàn lão đại mang về hai người khách lạ, một người lại là một mỹ nhân xinh như hoa như ngọc, nhưng bọn họ, kể cả là những thanh niên khí huyết cương phương cũng không thèm nhìn lâu. Trên đường chạy nạn, họ đã nhìn thấy quá nhiều rồi. Mà bây giờ đối với bọn họ, sắc đẹp không có sức mê hoặc bằng một chiếc màn thầu.
Hàn Lâm mời Dương Lăng và Mã Liên Nhi tới trước lều của mình ngồi. Hàn Uy cắt vài miếng thịt sói, thịt hươu quẳng vào trong nồi. Có một bà già tóc bạc cẩn thận lấy ra một chiếc túi vải, thả vào từng chiếc nồi một ít gạo, rồi thêm một chút muối, cuối cùng thả vào rất nhiều quả khô do những người dân chạy giặc kiếm được. Trong không khí bắt đầu tỏa lên mùi thức ăn.
Lúc này, có một giọng nói già nua cất lên:
- Hàn Lão đệ, hôm nay có thể tới được Kê Minh không? Có một vài bà con bị trúng phong hàn, không thầy không thuốc, sợ rằng không chịu nổi nữa rồi.
Nhìn về phía tiếng nói, Dương Lăng thấy một ông lão chống gậy lảo đảo bước tới. Ông có gương mặt chữ điền, khuôn mặt đỏ au, đôi lông mày dài bạc phơ. Vừa nhìn thấy Dương Lăng, ông lão liền ngẩn người, Dương Lăng cũng giật mình nhìn kỹ lại ông ta. Y đã nhận ra ông lão này, ngày thứ hai sau khi sống lại chính ông lão này còn lên núi thăm hắn. Vị này chính là tộc trưởng họ Dương, Dương lão thái gia.
Ông lão ngẩn người một lúc rồi đột nhiên tức giận, quơ gậy nhằm đánh Dương Lăng, miệng thì chửi:
- Cái thằng chẳng ra gì này, ngay cả sản nghiệp tổ tiên cũng đem đi bán! Ngươi có xứng với cha ngươi không? Có xứng với liệt tổ liệt tông không hả? Chuyện đại sự như vậy lại không bàn với ta, ngươi đã trưởng thành hay chưa vậy?
Dương Lăng ngỡ ngàng lùi về phía sau, không biết cụ lớn này nổi giận vì điều gì: "Ta bán đất của ta thì việc gì phải bàn bạc với ông nhỉ? Lại còn tức giận như thế nữa, chẳng nhẽ ngay cả chuyện này cũng phải hỏi gia tộc sao?"
Hàn Lâm giữ tay Dương lão thái gia lại, cười nói:
- Sao lão ca lại làm thế? Có chuyện gì thì cứ nói cái đã. Dương lão thái gia căm hận trả lời:
- Biết ngay là ông bênh con rể ông mà! Tên tiểu súc sinh này bán cả sản nghiệp tổ tiên, chuyện lớn như vậy mà không bàn bạc với người trong tộc, hắn có còn coi mình là người họ Dương nữa không chứ?
- Y... y đúng là con rể của ta à?
Dương lão thái gia trợn mắt, cười khẩy:
- Sao vậy? Hai người còn muốn cùng nhau lừa ta nữa à? Ta tuy già rồi nhưng chưa có mù đâu nhé, tên nhóc Lăng Nhi này là do một tay ta chăm sóc từ bé đến lớn, làm sao có thể nhìn lầm được?
- Hả? Ngài là cha vợ ư?
Dương Lăng liền giả vờ 'giật nảy mình', 'vui mừng ngạc nhiên' tiến lên chào hỏi. Nếu y không làm nhiều trò như vậy thì sợ rằng ông bố vợ sẽ không chịu tin lời giải thích về chuyện vừa nãy. Ai bảo khoảnh khắc y sắp chết thì bị Mã Liên Nhi 'cưỡng hôn', lại còn bị ông bố vợ nhìn thấy chứ?
Dương lão gia tử vẫn chưa hết tức giận, đứng ở bên cạnh xem vở kịch nhận người thân. Ông bố vợ tuy chưa đến mức lú lẫn nhưng bị Dương Lăng 'gài hàng', nên lúc này nhìn thấy ông con rể quả thật đang vui sướng nhảy cẫng lên, mặt mày hớn hở thì chỉ biết hỏi han tình hình gần đây của con gái mình.
Nhưng hai ông anh vợ thì lại không dễ bị lừa, sau khi nghe nói biết y là em rể của mình, hai người đều tỏ vẻ hơi khó chịu. Về phần mình, Dương Lăng cũng thấy hơi run khi nhìn vào nắm tay to bằng chiếc bát của họ. Thấy Dương lão thái gia và vài ông lão vẫn còn lấn cấn về chuyện mình tự tiện bán sản nghiệp của tổ tiên nên nhân cơ hội này, y bèn tìm cách thoát khỏi hai ông anh rể. Rồi Dương Lăng chủ động tiếp cận với Dương lão thái gia:
- Đại bá, cháu biết ngài không vừa lòng với việc cháu bán đất. Tuy vậy, cháu có câu này muốn hỏi đại bá, tổ tiên của họ Dương từ đâu tới đây, hay là vừa mới đến
nơi này đã có ngay đám đất đai ruộng vườn này?
Dương lão thái gia giật mình, tuy chưa biết y hỏi là có ý gì nhưng cũng trả lời:
- Chúng ta là hậu duệ của người kế nghiệp Đại Tống, từ Sơn Tây chuyển tới đây, tính ra thì cũng đã năm đời. Lúc đó, Thuận Đức công chuyển lên phía bắc, chỉ mang theo vợ con tới Kê Minh mua mười mẫu ruộng núi. Nhưng bây giờ tộc chúng ta đã hưng vượng, ruộng đất có hơn trăm mẫu, tất cả đều do tổ tông chúng ta chắt chịu mà có. Chúng ta, phận là con cháu thì phải có trách nhiệm giữ gìn không được thay đổi, sao lại có thể phá hoại như ngươi được?
Lúc Dương lão thái gia tới thăm Dương Lăng, lão cũng đã lải nhải về sự tích chói lọi của tổ tiên. Nghe nói bọn họ là hậu duệ của Dương gia tướng ở Sơn Tây, cũng thuộc dòng dõi của Long Hổ vệ thượng tướng quân Dương Hữu của triều trước. Thời Hồng Vũ, có một vị tổ tiên tên là Dương Thuận Đức chuyển tới đất này, hình thành nên họ Dương. Hồi đó khi Dương Lăng nghe xong nguồn gốc của mình cũng giật mình kinh ngạc một hồi lâu.
Tuy nhiên, Dương gia tướng hưng thịnh phát đạt, con cháu đông đúc. Các triều Bắc Hán, Bắc Chu, Tống, Nguyên, Minh đều có hậu duệ của Dương gia vào triều làm quan. Mỗi triều đều có hậu duệ kiệt xuất làm đến các chức quan cao, hiển quý không chỉ trăm năm. Do đó, nếu khiên cưỡng gán ghép như thế thì có cả đống người mang họ Dương nhân đó mà dựa hơi Dương gia tướng, chính vì thế nên Dương Lăng mới nửa tin nửa ngờ.
Nghe Dương lão thái gia nói thế, Dương Lăng liền hân hoan trả lời:
- Chính thế, nghèo thì phải thay đổi. Lúc Thuận Đức công chuyển tới đây thì không nhà không cửa, không tấc đất cắm dùi, chẳng phải nhờ xông pha mà có phần gia nghiệp này sao? Đã khi nào người ôm khư khư lấy gia viên mà không thay đổi cho thích ứng không? Chính vì điều này nên cháu đã tìm ra lối thoát, làm rạng rỡ họ Dương đó. Bây giờ cháu được bổ nhiệm làm Dịch Thừa của Kê Minh, không tốt hơn là ôm đống ruộng vườn làm nông dân sao?
Dương lão thái gia nghe nói Dương Lăng giờ đã làm quan, cười tít mắt sung
sướng, cơn tức giận liền tan biến ngay lập tức, còn xoay ra hỏi việc làm quan của Dương Lăng. Theo đó, y liền đem việc mình làm sư gia, thêm mắm dặm muối việc mình nhậm chức Dịch thừa, tuần tự kể ra một lượt. Dương lão thái gia còn chưa kịp nói gì thì mấy ông già trong tộc đã khen ngợi không ngớt. Hiển nhiên, một người làm quan cả họ được thơm lây.
Dương Lăng lòe xong mấy lão già ngang bướng, vừa quay đầu lại thì thấy hai ông anh vợ vẫn đang nhìn mình trừng trừng, thầm kêu khổ. Y chợt nhận ra hai ông anh vợ này không hề chất phác như vẻ bên ngoài, mà ngược lại từ ánh mắt có thể thấy họ rất lanh trí.
Thấy Dương Lăng đã nói chuyện xong với những người trong họ, Hàn Võ tươi cười đi tới, vỗ vai Dương Lăng, thân thiết nói:
- Em rể giỏi thật đấy, mới lên huyện được hơn một tháng mà đã làm quan rồi. Em gái của ta tuổi còn nhỏ, nếu làm gì không đúng quy củ ở nơi ấy thì mong em rể khoan dung nhiều hơn nữa.
Dương Lăng mỉm cười, khổ sở nói:
- Nhị ca sao lại nói thế, Ấu Nương đối với đệ rất tốt, chúng em là vợ chồng cùng chung hoạn nạn, đệ và Ấu Nương rất là ... rất là đằm thắm.
Hàn Võ vui vẻ nói:
- Thế thì tốt, thế thì tốt, em rể là người đọc sách, hiểu biết nhiều, chắc cũng rành đạo lý phải quý trọng vợ từ thuở hàn vi, quả thật ta đã quá lo lắng rồi.
Dương Lăng trả lời với vẻ mặt nhăn nhó:
- Phải, phải, nhị ca cứ yên tâm đi.
Vừa rồi bị ông anh vợ vỗ một cái, không hiểu sao khớp hai vai của Dương Lăng bị sái, bây giờ mềm oặt không thể động đậy. Y ủ ê mặt mày ngước mắt nhìn lại, thấy Hàn Mãn Thương đang ngồi bên cạnh nồi sắt đang cười khúc khích, làm mặt quỷ với y. Ba anh em đều ghét một người, cặp mắt đen láy đầy vẻ lanh lợi kia
không hề hiền lành như vẻ bên ngoài.
Dương Lăng giận thầm:
- Anh vợ thì "chơi khó" mình, em vợ thì mình không chấp. Ấu Nương còn biết đọc biết viết, hai ông anh vợ này sao có thể là kẻ quê mùa không biết chữ nghĩa chứ? Chỉ sợ chút mánh khóe này của mình chỉ có thể gạt được ông bố vợ hiền lành chất phác thôi.
Hàn Uy vốn đĩnh đạc, thấy Dương Lăng đang khó xử liền bước tới bắt chuyện với y:
- Em rể, ta và nhị đệ đều rất yêu thương cô em gái nhỏ. Em rể là người đọc sách, thông tình đạt lí, tất nhiên sẽ không bạc đãi Ấu Nương. Nhị đệ tuy tính tình cương trực, nhưng thực ra lại là người có tấm lòng rất tốt, đệ đừng nên trách y.
Y tươi cười vỗ lên vai Dương Lăng:
- Đi nào, chúng ta đi ăn chút gì đó, nếu em gái biết ta để tướng công của nó đói thì nó sẽ nổi giận với ta mất, ta không gánh nổi trách nhiệm này đâu.
Y mượn động tác lại gần, lặng lẽ huých vào tay trái Dương Lăng, tay phải giữ lấy bả vai ông em rể, tiếng khớp xương khẽ kêu "khục khục", lập tức phục hồi lại nguyên trạng hai khớp vai bị sái.
Dương Lăng cảm thấy bất lực, thầm nghĩ xem ra mình cũng cần phải nhanh chóng thúc đẩy quá trình học "Phong ma côn pháp" thôi. Nếu không thì mình làm thịt cá cho mấy người này làm dao thớt, cuộc sống của mình sau này sẽ không dễ chịu tí nào đâu.
Buổi chiều tà, khi vừa vượt qua ngọn núi cuối cùng ở phía trước, cổ thành Kê Minh bỗng hiện ra trong tầm mắt. Vừa leo qua núi, mọi người đều sững sờ, kinh hoàng. Lúc này ánh hoàng hôn đỏ như máu, từng đụn khói thuốc súng lập lờ bốc lên từ cánh đồng tuyết, pha lẫn mùi máu tanh nồng nặc. Trên mặt tuyết, hàng trăm xác người đang nằm ngổn ngang, giống như bị đàn trâu chạy qua giày xéo. Mỗi ngọn
giáo đều xuyên qua một thi thể, lẻ loi vươn cao trong làn gió. Trên xác rất nhiều quân Minh hoặc quân Thát đều vương những ngọn cỏ khô, tuyết nhuộm chiến bào.
Vài con chiến mã vô chủ mang theo vết thương trên mình đang chậm chạp bước đi trên cánh đồng tuyết, thỉnh thoảng hí lên những tiếng thảm thương khiến cho khung cảnh đầy xác người càng toát lên vẻ thê lương.
Từ tình cảnh này có thể thấy, một ngày một đêm đó, quân Minh và quân Thát ở trước trạm Kê Minh giằng co chém giết không biết bao nhiêu hiệp. Không rõ tình hình hiện tại ra sao, quân Thát đã lùi chưa hay vẫn còn đánh chiếm Kê Minh? Lòng Dương Lăng trầm xuống, nếu như trạm Kê Minh đã bị Thát tử chiếm rồi, vậy thì Ấu Nương....
Nghĩ tới điều này,trong lòng y cực kì trống rỗng, hồn bay phách lạc, muốn lao nhanh xuống núi. Thấy vậy, Hàn Lâm liền giữ y lại, quát lên:
-Chớ nên lỗ mãng, phải nhìn cho rõ đã!
Hàn Uy đứng ở nơi cao, rẽ đám cỏ lạnh, nheo mắt nhìn một lát, hưng phấn kêu
lên:
- Là cờ của nhà Minh, trạm Kê Minh vẫn nằm trong tay quân Minh.
Hơn trăm nạn dân nghe vậy, vẻ mặt đang lo lắng trở nên rạng rỡ phấn khởi. Không cần kêu gọi, cả đoàn người liền ráng sức băng qua chiến trường đẫm máu đáng sợ này, nhanh chân chạy về phía Kê Minh. Dương Lăng biết mình suốt một ngày một đêm không trở về, không biết Ấu Nương sốt ruột đến nhường nào. Lúc ở trên núi y biết có vội cũng chẳng có tác dụng gì nên còn giữ được bình tĩnh, nhưng lúc này đây thấy Kê Minh đã ở trước mắt, trong lòng kích động, y càng chạy càng nhanh hơn.
Nhưng đôi giày của y lại không thích hợp để đi đường núi, vừa mới chạy đã mệt lử, khiến cho y loạng choạng ngã mấy lần liền. Mấy anh em Hàn Uy phải chăm sóc cho các cụ cao tuổi nên không rảnh tới giúp y. Mã Liên Nhi thấy thương, tuy cũng muốn tới đỡ y, nhưng người nhà họ Hàn, họ Dương gia ở đây, nàng là người
dưng sao có thể đỡ một người đàn ông, nên chỉ đành coi như không thấy.
Hàn Lâm thấy vậy thầm lắc đầu, biết rằng xương cốt thân thể con rể vẫn còn yếu đuối quá. Mà y là tú tài, chắc là không thèm để ý tới cái phương pháp rèn luyện thân thể bằng cách múa thương xách đao của mình đâu. Lão mò mẫm móc từ trong người ra một cái bao bố, bên trong đều là những thứ lão kiếm được trong lúc đi săn, bao gồm cẩu kỷ (vị thuốc đông y), nhung hươu, đuôi hổ, xương hổ... Ừm... trong lòng lão thầm tính toán chờ đến khi vào thành rồi sẽ ủ rượu hầm canh cho con rể uống để bồi dưỡng thân thể mới được
Càng tới gần cổ thành, từ nam chí bắc, tử thi và máu trên mặt đất càng nhiều.
Cổ thành Kê Minh được xây bằng gạch xanh, cô độc đứng sừng sững dưới bóng núi nhập nhoạng. Có thể thấy rõ cổng thành dù đã sụp một góc nhưng vẫn vươn lên trời cao, tạo thành một đường cong tuyệt đẹp. Trên tường thành thấp thoáng bóng người đang qua lại.
Đoàn người càng dìu nhau tới gần, số người trên tường thành cũng nhiều hơn. Ánh chiều tà rọi xuống tháp canh, làm cho đao thương và những bó tên trong tay bọn họ lấp lánh bén ngọt. Dương Lăng sợ quan binh trên tháp canh tưởng nhầm mình là Thát Tử mà bắn tên bừa, do vậy, y liền chặn bước chân của nạn dân, một mình đi lên phía trước, vừa đi vừa hét to về phía trên thành:
- Ta là Dịch thừa Kê Minh Dương Lăng. Đằng sau là người dân ở thôn trấn phụ cận, vị đại nhân nào hiện đang trấn giữ tháp canh, mời ra gặp mặt.
Y còn đang do dự nhìn đám người trên tháp canh (tường thành), thì bỗng một bóng người quen thuộc lọt vào trong tầm mắt. Là Ấu Nương, nàng đứng trên tháp canh cao cao. Bóng tà dương chiếu xuống cổ thành, cũng chiếu xuống người nàng, khiến cho thân thể nàng như được phủ một lớp viền màu vàng.
Dương Lăng ngửa mặt nhìn nàng, thấy ánh mắt vui mừng khôn xiết của nàng tỏa sáng như ánh mặt trời. Bốn mắt nhìn nhau, sóng lòng dâng trào. Trên tháp canh, Giang Bân cất cao giọng ồ ồ:
- Đúng là Dương Dịch thừa rồi, mau mở cổng thành! Mau mở cổng thành!
Hàn Ấu Nương ngẩn ngơ nhìn Dương Lăng, khuôn mặt thùy mị hiếm có, không hề nghe thấy gì chung quanh.
Trên dải đất bằng phía trước trạm Kê Minh xuất hiện một cảnh tượng chiến tranh chưa từng có: vây chặt xung quanh bọn tướng tá của hai bên địch, ta có ít nhất khoảng trăm tên thân quân, còn lại đều quấn lẫn vào nhau. Trong đó, xông lên phía trước cả chính là quân Minh, phía sau là quân Thát, phía sau nữa lại là quân Minh, cuối cùng là quân Thát. Mọi người cùng chạy đến nỗi nón xiên giáp lệch, kèn lệnh, chiến kỳ đều bị vứt sạch. Tất cả là một khối "thịt ba rọi" đang "lăn" về phía trước.
Đám quân Thát chạy ở đằng đầu chẳng có lòng dạ nào mà rượt đuổi. Nhưng khi bọn chúng vừa ngoái đầu nhìn lại, thì thấy cuồn cuộn mênh mông quân Minh đang chạy thục mạng áp sát sau lưng. Nếu dừng chân, thì cho dù không bị giết cũng sẽ bị quân Minh giẫm chết, thế là bọn chúng đành phải cắm đầu cắm cổ chạy về phía trước. Theo sau quân Minh chính là hai cánh quân Thát ở trên chóp núi lúc đầu, vì nhìn thấy đằng trước quân Minh có người của mình, lại không nghe thấy thủ lĩnh ra lệnh thu binh, thế là bọn chúng cũng liền "bèo trôi theo nước" mà "chảy" về phía trước. Do vậy hai bên vừa chạy vừa đánh, trong khi thực lực binh sỹ cũng tương đương, nên nhất thời không phân thắng bại.
Từ lúc Dương Lăng rời khỏi huyện nha chạy đi báo tin, Mẫn huyện lệnh không yên lòng bèn kêu người khiêng đến thành đầu chờ. Khi nhìn thấy đám quân như một cơn hồng thuỷ từ xa xa ập đánh tới, Mẫn huyện lệnh sợ bắn người, liền vội vã ra lệnh cho sỹ tốt thủ thành dàn đại pháo, chuẩn bị nghênh địch.
Đến khi loạn quân chạy tán loạn đến dưới thành, thấy cảnh tượng kinh ngạc ngàn năm có một này, nhất thời Mẫn tri huyện nhìn mà miệng mồm há hốc, hai hàng lông mày dựng đứng cả lên. Lão thật không rõ tình hình bên dưới thế nào, là quân Minh đã tạo phản hay là quân Thát đã quy hàng. Đến khi thấy loạn quân dưới thành vẫn "ngươi một đao, ta một thương" chém giết nhau không ngừng, lão mới
đoán ra mấy phần căn nguyên.
Nếu mở cổng thành lúc này, loạn quân Thát Đát thế nào cũng sẽ thừa lúc hỗn loạn mà xông vào thành. Để đội quân hơn một vạn người này biến trạm Kê Minh thành chiến trường, toà cổ thành này chắc chắn sẽ bị phá huỷ. Do vậy, Mẫn Văn Kiến quyết định dứt khoát, lập tức ra lệnh cho quân đội sở thuộc của Giang Bân nghiêm thủ thành trì, không mở thành cho bất kỳ ai.
Dưới thành binh sỹ quân Minh kêu gào "mở thành", Hoàng huyện thừa dìu Mẫn tri huyện đứng trên thành đầu, hướng xuống thành la lớn:
- Giết giặc là trách nhiệm của các ngươi, giữ đất là chức trách của bổn huyện.
Quân Thát còn chưa lui thì cổng thành còn chưa mở!
Đôi khi, nỗi sợ hãi cực độ cũng có thể khiến người ta sinh ra dũng khí giết người. Trong lúc binh sỹ quân Minh còn chưa hết kinh hoảng thì lại bị chặn mất đường lui, quay đầu lại nhìn, vốn dĩ bọn Thát tên nào cũng cao to, kéo đến kéo đi như một cơn gió, nhưng hôm nay bọn chúng cũng giống như bọn họ, chạy đến nhễ nhại mồ hôi, trông cực kỳ thảm hại, tức thì bọn họ dũng khí dâng trào, không cần tướng, tá hạ lệnh liền bắt đầu "bắt cặp" chém giết luôn.
Mẫn huyện lệnh điều động toàn bộ hơn bốn trăm quan binh lưu thủ ở ba cổng thành khác đều đến bờ tường thành nam, dùng cung tiễn hiệp trợ quân Minh dưới thành. Nhiều mũi tên bất ngờ được bắn đi, tuy rằng địch ta hỗn loạn đã giảm thiểu lực sát thương, nhưng sức uy hiếp về tâm lý lại cực lớn.
Bá Nhan Mãnh Khả tự mình dẫn đại quân chặn đường quân Minh ở cuối đầu Hồ Lô cốc, lấy khoẻ ứng mệt (dĩ dật đãi lao). Sỹ tốt Thát Đát lại như sói như hổ, nghênh chiến với quân Minh đang quýnh quáng, dĩ nhiên quân Minh lập tức tan rã, Hạ đô ty Hạ Sĩ Kiệt tử trận. Bá Nhan Mãnh Khả liên tục đuổi theo, nhưng không ngờ trận chiến lại biến thành như thế này.
Lúc này số lượng nhân mã của hắn vốn đã hơi chiếm thượng phong so với quân Minh, về năng lực cận chiến thì lại càng bỏ xa quân Minh, nhưng muốn giết chết hết một nghìn binh lính quân Minh thì bản thân cũng tổn thất hết tám trăm. Vì vậy,
nếu như thật sự muốn quét sạch những binh sỹ quân Minh đã đỏ mắt liều mạng này, hắn cũng không chắc sẽ còn người nào có thể bình yên trở về hay không.
Ngoài ra hắn vẫn chưa quên tham tướng doanh mã Trác Lộc Thạch đang chỉ huy một đội quân đang tiến tới gần. Mặc khác, đại quân của Quảng tham tướng Uất huyện tuy bị một cánh nhân mã khác của mình dẫn dụ, nhưng hơn hai nghìn quân tinh nhuệ của Du kích tướng quân Dương Gia Long cũng đang thẳng tiến về phía Hoài Lai, nếu không thể tốc chiến tốc thắng thì sẽ bị quân Minh bao vây ngược lại. Thế là, Bá Nhan Mãnh Khả đã đưa quân đánh lén được một trận, hết cách đành phải thu thập loạn binh, bắt đầu thoái lui.
May mắn cho quân Thát là lúc này quân Minh tự ai nấy đánh, nên không cách nào tổ chức phản kích một cách hiệu quả. Vì vậy, hỗn chiến kéo dài đến nửa đêm, Bá Nhan Mãnh Khả đã có thể thu thập loạn quân rút lui, cướp lấy ngựa rong bên ngoài Hồ Lô cốc rồi trốn xa.
Lúc này Mẫn tri huyện mới mở cổng thành cho tàn quân vào thành. Quân Minh bấy giờ như chim sợ cành cong, hối hả rút vào thành, không có lấy cả dũng khí để thu dọn chiến trường. Trận chiến này quân Minh tổn thất hai nghìn binh sĩ, ngoài ra ba trăm cỗ chiến xa, tám trăm thớt chiến mã đều bị vất lại ở Hồ Lô cốc.
Hà tham tướng thủ ở trạm Kê Minh thêm ba ngày, rồi phụng lệnh Tổng binh Tuyên phủ thu binh quay về thành, còn nhân mã quân đội sở thuộc của Tất đô ty thì lưu thủ tại Kê Minh. Lúc này, Hà tham tướng biết rằng con đường làm quan của mình đã mịt mờ rồi, đành ngoan ngoãn chờ nghe hạch tội.
Sau khi về thành, Dương Lăng đã viết lại một ít tri thức về tăng cường tố chất binh lính và vận dụng hoả khí đưa cho Hà tham tướng. Y thấy rằng, hiện nay loại quân đội "trọng tướng không trọng binh, hai quân giao chiến đều dựa vào dũng tướng, tướng dũng thì binh cũng như hùng sư (sư tử đực), mất tướng thì trăm vạn sỹ binh cũng biến thành cát vụn" này thật sự là quá có vấn đề. Tuy nhiên ngay khi y vừa mới rời đi, thì những điều y đã khổ tâm tư lự viết ra liền bị Hà tham tướng cười khẩy ném xuống bàn:
- Một kẻ thư sinh thì biết quái gì về quân sự chứ?
Trái lại, vị Lưu công công kia lại lặng lẽ nhặt lấy bức thư cất vào trong ngực áo.
Bây giờ bất cứ thứ gì có thể gây chút bất lợi cho Hà tham tướng đều là "chứng cứ" để lão "chạy tội", đùn đẩy trách nhiệm cho người khác. Vị Lưu công công này ít học nhưng không ngờ lại có thể viết ra được một bản sớ chương "trình độ cao" đưa khoái mã phi báo về kinh sư: quân ta tổn thất thê thảm, một vị đại quan tứ phẩm tử trận, tất cả đều vì Hà tham tướng ngang ngược độc hành, tham công mạo tiến, mắc mưu giặc Thát.
Ngày thứ bảy sau khi cuộc chiến chấm dứt, Dương lão thái gia bận lòng về nhà cửa ở quê, cho nên thế cục vừa ổn định liền không nhẫn nại được nữa, đòi dẫn tộc nhân trở về Dương gia bình. Thấy vậy, Dương Lăng thở phào nhẹ nhõm. Qua bảy ngày này, y mới biết dấu ấn gia tộc in sâu trên thân thể một người ở thời đại này như thế nào. Nếu trong gia tộc có một người tài hoa xuất chúng, bất luận quan hệ họ hàng xa hay gần, kẻ đó đều phải gánh vác trách nhiệm trọng đại cho cả gia tộc. Vì thế, cả nhà họ Dương nhân khẩu khoảng sáu, bảy mươi người (trong đó có vài người chỉ là họ hàng cùng chi gần cả trăm năm trước), vào thành ăn, ở toàn bộ chi phí đều đến đòi y một cách rất là "hợp tình hợp lý", hệt như đó chính là nghĩa vụ mà y phải hoàn thành.
Hơn nữa những người khác, bất kể là Ấu Nương hay là hương thân đồng liêu, họ cũng đều coi chuyện đấy là lẽ đương nhiên. Tuy nhiên, đối với Dương Lăng thì điều này thật sự hơi khó hiểu. Do vậy, sau khi vất vả tiễn đưa những người này xong, Dương Lăng liền nhẹ nhõm trở về sở Dịch. Một tên tiểu lại chạy đến trước mặt bẩm báo:
- Đại nhân, có một vị tiên sinh muốn gặp ngài, chờ trong phòng khách đã lâu.
Đưa cương ngựa cho một tên dịch tốt, vội chạy đến phòng tiếp khách be bé của sở Dịch thừa, Dương Lăng thấy một lão già mặc áo bào xanh đang ngồi vắt chân trên chiếc ghế dựa chậm rãi nhấp trà. Dương Lăng biết trà của sở Dịch được chia thành bốn cấp, nếu không phải là những quan viên mà mình tự thân khoản đãi, bọn tiểu lại sẽ không dâng loại trà ngon thượng đẳng lên. Khi thấy loại trà tứ đẳng thấp kém ấy mà lão vẫn thưởng thức ngon lành đến vậy, y bèn thầm đánh giá: xem ra lão ta cũng chẳng phải là nhân vật trọng đại gì. Nghĩ vậy, y lấy làm yên tâm, bèn ung
dung cười nói:
- Vị tiên sinh đây, tại hạ chính là Dịch thừa của bổn huyện, không biết có điều chi chỉ giáo?
Lão già mặc áo bào xanh một tay bưng trà, một tay nhịp khẽ lên bàn ra điều hài lòng. Nhìn dung mạo của lão thấy tuổi trạc ngũ tuần, vẻ mặt quắc thước, cặp mắt phượng đang khép hờ. Nghe tiếng Dương Lăng, lão hơi mở mắt, nhìn từ trên xuống dưới mấy lượt, rồi cười ha hả nói:
- Dương lão đệ đã về rồi à? Còn nhận ra ta không?
Lão vừa nói, vừa nhẹ tay đặt chén trà lên bàn. Dương Lăng liếc thấy trên tay lão đeo một chiếc nhẫn ngọc lục trong suốt. Thời đó vẫn chưa có sản phẩm hợp chất nhân tạo, màu sắc chiếc nhẫn lại êm dịu như vậy nhất định giá trị của nó không nhỏ. Dương Lăng chột dạ, càng cảm thấy thêm phần hiếu kỳ đối với thân phận của người này. Y bèn nhìn kỹ lại, thấy lão thật cũng có hơi quen quen, song nhất thời y lại không nhớ nổi đã gặp lão ở đâu rồi.
Lão già áo bào xanh thấy Dương Lăng có phần lúng túng, không kìm được bèn bật cười ha hả, đứng dậy nói:
- Lần trước ta và ngươi đã gặp nhau, cũng là ở trong sở Dịch thừa này, khi đó ta là khách, ngươi cũng là khách. Nhưng mà không ngờ chưa đến một tháng, ngươi đã làm chủ nhân rồi.
Dương Lăng "a" lên một tiếng, vui vẻ chắp tay nói:
- Ta nhớ ra rồi, ông là... Ông là bằng hữu của Mã dịch thừa Mã đại nhân, đại dược thương (buôn dược) của Xuyên, Thiểm, Ngô Kiệt, Ngô lão tiên sinh.
Ngô Kiệt, cũng chính là nhà buôn dược lớn đã giúp Mã dịch thừa khuyên nhủ nhà họ Vương rút kiện khi xưa, nghe xong cũng phá ra cười to, liền đó chỉnh lại nét mặt, nghiêm túc nói:
- Ta không phải là bằng hữu của Mã dịch thừa, mà chính là thượng cấp của y.
Dương dịch thừa, hôm nay... Ta cũng là thượng cấp của ngươi.
Dương Lăng mặt mày rúng động nhìn lão già thoắt cười tươi roi rói, thoắt thâm trầm lạnh nhạt này, trong lòng chợt loé linh quang, không khỏi la thất thanh:
- Lão tiên sinh là... là Cẩm Y...
Ngô Kiệt nét mặt dãn ra, mỉm cười, chậm rãi nói:
- Hiện giờ ngươi không phải cũng vậy sao? Dương đại nhân, Dương bách hộ!
Dương Lăng sững sờ. Bách hộ? Bách hộ là một chức quan chánh lục phẩm đó trời, và còn là quan chức thuộc vệ sở nữa. Từ lúc nào mình đã tòng quân, lại còn được lên Bách hộ vậy?
Thấy mặt y tràn đầy vẻ kinh ngạc, Ngô Kiệt cười lớn khoát tay nói:
- Không cần phải ngạc nhiên. Ngươi vừa được nhậm chức Dịch thừa tạm thời, thì bộ Lại đã phát công văn, phỏng chừng không lâu sau thì ngươi sẽ có thể tiếp nhận lệnh bổ nhiệm thôi. Dịch thừa Đại Minh chúng ta tuy thuộc quản hạt của bộ Hộ, nhưng ai ai cũng biết rằng, tất cả dịch thừa đều là người của Cẩm Y Vệ chúng ta. Bổn Thiên hộ đã phái người điều tra về ngươi rồi. Ngươi là tú tài năm Hoằng Trị thứ mười lăm, gia thế trong sạch, là hậu duệ của danh tướng Bắc Tống nhà họ Dương. Bây giờ, ta phụng chỉ dụ của Bắc Trấn phủ ty (2) Trấn phủ Trương đại nhân triệu ngươi gia nhập Cẩm Y Vệ, phụ trách truy bắt và thám thính tình báo khu vực Hoài Lai, trao chức Bách hộ, mọi việc ngươi sẽ trực tiếp chịu sự điều khiển của bổn Thiên hộ.
Nói đoạn, Ngô Kiệt rút từ trong ống tay áo ra một cuộn giấy, một thẻ bài giắt lưng, mỉm cười đưa cho Dương Lăng rồi nói tiếp:
- Dương bách hộ! Mã dịch thừa vất vả nửa đời, cũng chưa được phong Bách hộ. Ngươi tuy mới sơ nhiệm Dịch thừa, nhưng đã vì Đại Minh ta lập được đại công, thế nên giành được sự tưởng thưởng này. Ha ha, Bách hộ của Cẩm Y Vệ ta so với Thiên hộ trong quân hãy còn cao hơn ba phần, ngươi chớ có mà phụ sự ân thưởng của
Trấn phủ Trương đại nhân đấy nhé!
Mù mờ nhận lấy thẻ bài và chỉ dụ, Dương Lăng lắp bắp:
- Đại nhân, tại hạ... ti chức thật sự không hiểu, ti chức đã từng lập được đại công gì?
Ngô Kiệt cười nói:
- Có công mà không kiêu ngạo, quả nhiên rất tốt, có điều đã là công của ngươi thì ngươi cũng không cần phải khiêm nhường. Tiểu vương tử Thát Đát bố trí mai phục ở Hồ Lô cốc muốn một mẻ tóm gọn quân ta, nhưng may nhờ mật thám Cẩm Y Vệ nhận được tin tức này, Dương dịch thừa lại phi ngựa báo tin mới khiến quân đội Đại Minh tránh được họa thua trắng. Đây còn không phải là một đại công sao?
Dương Lăng thất thanh:
- Cái gì? Nào có chuyện đó, Thiên hộ đại nhân đã hiểu lầm rồi. Khi tại hạ nhận được tin tức đuổi đến thì đã chậm trễ, nếu không phải nhờ Tất đô ty dẫn quân liều chết mở một đường máu thì quân ta đã...
Nói đến đây, y bất giác lạnh người, lập tức không dám nói tiếp những lời phía sau nữa.
Lúc này, ánh mắt của vị Ngô thiên hộ diện mạo quắc thước, phong thái nhẹ nhàng đã trở nên âm u lạnh lẽo, trên người toát ra vẻ lạnh lùng mà chỉ những kẻ có thể tuỳ ý quyết định sinh tử kẻ khác mới có thể có. Lão thoáng cười nhạt, rất lâu sau mới buông ra từng chữ:
- Tiểu vương tử Thát Đát bố trí mai phục ở Hồ Lô cốc, muốn một mẻ tóm gọn quân ta. Hà tham tướng tham công mạo tiến, nhưng may nhờ Cẩm y vệ Dương dịch thừa phi ngựa báo tin, nên quân Đại Minh không bị tiêu diệt, có đúng hay không?
Dương Lăng lạnh người, bất giác đáp:
- Việc này... Ti chức... Đúng ạ!
Ngô Kiệt nhẹ gật đầu, đột nhiên lại mở miệng cười, nói:
- Ngươi vốn là một kẻ đọc sách, thân lại ở xa chốn triều đình nên không biết chuyện trong triều, không hiểu một số chuyện vốn cũng không thể trách ngươi được. Nhưng giờ ngươi đã là người của Cẩm Y Vệ, cho nên... Những chuyện trước đây không hiểu, bây giờ nhất định ngươi phải hiểu!
Dương Lăng không cầm lòng được hỏi:
- Ý đại nhân là...
Ngô Kiệt đưa ngón tay đeo ban chỉ (3) bằng ngọc xoa xoa cằm, thong thả:
- Triều đình cần một chút thể diện, quân đội lại cần một con dê thế tội, Cẩm Y Vệ thì cần phần công lao này, ngươi hiểu chứ?
(1) Thời Minh, chế độ quân đội vệ sở cũng lập ra Bách hộ sở. Bách hộ là quan chỉ huy (trưởng quan) của Bách hộ sở, thống lĩnh 112 quân, gồm 2 tổng kỳ, mỗi tổng kỳ gồm 5 tiểu kỳ; mỗi tiểu kỳ 10 lính. Bách hộ sở trực thuộc Thiên hộ sở. Có lẽ con số 112 bao gồm 2 vị chỉ huy tổng kỳ lẫn 10 vị chỉ huy tiểu kỳ
(2) Nhà Nguyên, Minh đều cho chư vệ bố trí Trấn phủ ty, thiết lập cấp quan Trấn phủ. Cẩm y vệ sở thuộc của nhà Minh có Nam Bắc Trấn phủ ty.
Nam Bắc Trấn phủ ty là cơ cấu phụ trách thám thính và truy bắt hình sự của Cẩm y vệ, trong đó "Nam Trấn phủ ty" phụ trách quân kỷ, pháp kỷ của bản vệ. "Bắc Trấn phủ ty" ghi chép các án kiện mà Hoàng đế đã khâm định, có ngục riêng (Chiếu ngục), có thể tự do bắt bớ, tra hỏi, hành quyết mà không cần phải qua tổ chức tư pháp.
(3) Một loại nhẫn to đeo trên ngón tay cái, có từ đầu nhà Thanh, đến cuối nhà Thanh mới được biết đến rộng rãi. Đầu đời Thanh, ban chỉ được làm bằng xương, dùng để bảo vệ ngón tay cái khi bắn cung. Sau này, ban chỉ được làm bằng vàng, bạc, ngọc thạch và dùng để trang sức cho giới quý tộc Mãn thanh, hoặc là tặng phẩm của vua ban cho bề tôi có công. (Nguồn: baike)
Mãi đến hơn mười ngày sau, lệnh bổ nhiệm của bộ Lại mà theo lời của Ngô thiên hộ là sẽ lập tức đến ngay mới rề rà đưa đến, khiến cho Dương Lăng được một phen kiến thức trọn vẹn sự chênh lệch giữa hệ thống tình báo bí mật và đường đi bình thường của quan phủ.
Hôm nay, Mẫn huyện lệnh thiết tiệc khoản đãi Tất đô ty. Tuy rằng thưởng phạt của triều đình còn chưa ban bố, song ai nấy đều biết Mẫn tri huyện sắp được thăng chức. Tuy quân Hoài Lai thua trận, nhưng trách nhiệm không thuộc về huyện lệnh. Hơn nữa, huyện lệnh là quan văn mà có thể tự tay chém chết vương tử của thủ lĩnh địch quân, trong mắt của thánh thượng và đám đại học sỹ, ý nghĩa chính trị của nó đã vượt xa bản chất của cuộc chiến.
Đang lúc rượu cao hứng, Mẫn tri huyện cười hề hề đi đến trước mặt Dương Lăng, thấp giọng:
- Dương sư gia à, em rể của bổn huyện đã đưa tin đến cho bổn huyện, kinh thành muốn điều ta đi phương nam, nghe đâu là điều nhiệm làm Phó sứ Diêm vận ty Hải Ninh.
Dương Lăng không biết chức quan này phẩm cấp cỡ nào, song thấy Mẫn tri huyện mặt mày hớn hở, nên y nghĩ chắc hẳn chức quan không nhỏ. Hơn nữa vùng đất biên thùy nghèo xác hoang vu này đương nhiên không thể so sánh với Hải Ninh, thế là y vội vàng vòng tay chúc tụng:
- Chúc mừng đại nhân! Chúc mừng đại nhân!
Phó sứ Diêm vận ty là quan Tòng ngũ phẩm, đối với tri huyện một huyện cấp ba như Mẫn Văn Kiến có thể được xem là đã thăng liên tiếp ba cấp rồi (1). Quan
trọng nhất chính là Diêm vận sứ là một chức quan cực tốt. Diêm thương (nhà buôn muối) vùng đó đều là ức vạn phú ông, giàu nứt đố đổ vách, chỉ cần chút tiền lọt qua kẽ hở ngón tay thôi cũng đủ cho người ta ăn cả đời rồi.
Mẫn tri huyện thích chí cười tít mắt, xua tay lia lịa:
- Nói nhỏ chút đi! Nhỏ chút đi! Chiếu chỉ còn chưa ban xuống, chưa thể nói gì được.
Thoáng nhìn đám quan lại đang luân phiên mời rượu nhau, nói cười rôm rả, lão nói tiếp với Dương Lăng:
- Sau khi bổn huyện qua đó, một khi ổn định rồi sẽ liền giúp ngươi hoạt động, cũng điều ngươi đến Giang Nam. Bổn huyện ngồi ở cái xứ Kê Minh khỉ ho cò gáy này hết hai năm cũng không được chút công tích nào, ngươi vừa tới, bổn huyện liền được thăng quan. Ngươi thật đúng là phúc tướng của bổn huyện.
Điều đến Giang Nam tất nhiên là tốt, nhưng mà tôi còn mạng hưởng phúc sao? Vả lại thân phận công khai trước mắt của tôi là Dịch thừa, trong tối đã là Cẩm y vệ Bách hộ, còn cao hơn lão đại ông một cấp, không được Cẩm y vệ gật đầu, việc điều động đâu dễ vậy được?
Nghĩ đến đây, Dương Lăng gượng cười, đáp:
- Đại nhân đã yêu mến đề bạt ti chức, Dương Lăng thật cảm động, xin ghi khắc trong tim, không biết lấy gì báo đáp!
Trộm thấy y có vẻ lơ đễnh, Mẫn tri huyện không khỏi cười ha hả. Lão đấm vai Dương Lăng, thân mật nói:
- Đại trượng phu chí tại bốn phương, chớ nên bi quan như vậy. Vả lại sau khi ta nhậm chức, thế nào cũng phải mất một năm rưỡi mới có thể tìm được cơ hội điều ngươi đi. Ngươi nên thoải mái một chút, thời gian dài như vậy đủ để sinh con rồi.
Đã có lòng thì "ra tay" sớm chút đi, chớ nên lề mề chậm chạp.
Dương Lăng ù ù cạc cạc, chả hiểu mô tê gì:
- Ủa! Ủa? Sao ti chức chẳng hiểu đại nhân đang nói gì cả? Mẫn tri huyện bĩu môi, liếc xéo y nói:
- Tiểu tử nhà ngươi chả thành thật! Chuyện này mọi người đều biết cả rồi, ngươi còn muốn giấu ta sao? Ha ha, cũng khó trách ngươi phải giấu giấu diếm diếm, đứa con gái đó thật sự là "mọng véo ra nước" quá mà. Nhưng ngươi yên tâm đi, ông đây không ham nữ sắc, ha ha ha...
Dương Lăng đầu óc mù mờ còn đang muốn truy vấn, Tất đô ty đã gọi lớn kêu Mẫn tri huyện qua. Y đang cảm thấy thắc mắc quay người lại thì Lưu điển sử mỉm cười đi tới, nâng chén chúc mừng:
- Dương lão đệ, chúc mừng song hỷ lâm môn, hôm trước vinh dự nhậm chức dịch thừa, ít hôm nữa lại "đỗ nhỏ" (2). Đến lúc đó Lưu mỗ lại phiền kính một chén rượu nhạt đấy.
- Nào có, nào có, Lưu đại nhân khách khí rồi!
Dương Lăng cười rồi cùng nâng chén. Lúc này y mới ngẫm lại ý tứ trong câu nói vừa rồi: "Đề tên trên bảng vàng là đỗ lớn, động phòng hoa chúc là đỗ nhỏ. Hắn nói mình 'đỗ nhỏ' là có ý gì?"
Dương Lăng muốn hỏi lại cho rõ, nhưng ai nấy đều chỉ uống cho cao hứng rồi đi lung tung chuyện trò, vớ lấy một người thì lè nhè vài câu. Lưu điển sử vừa dứt lời đã loạng choạng đi thẳng đến chỗ Vương chủ bộ. Ánh mắt Dương Lăng mãi dõi theo lão đến nổi Hoàng huyện thừa đến bên cạnh mà cũng không hay biết.
Hoàng huyện thừa thong thả bước đến cạnh y, ho nhẹ một tiếng, rồi mỉm cười
nói:
- Mẫn đại nhân sắp thăng quan! Dựa vào tư cách, lai lịch của cậu và mối quan hệ với Mẫn đại nhân, theo lão phu đoán, không tới mấy năm cậu sẽ có thể lên đến thất phẩm. Tiếp đó có thể vượt được Vũ môn hay không, phải xem phúc khí của cậu nữa. Cậu còn trẻ, chỉ cần cẩn thận làm quan, một mai phong vân tề tụ (3), tiền đồ tự
nhiên vô lượng, nóng vội sẽ lại không được.
Dương Lăng thấy Hoàng huyện thừa đến, vội cung kính đáp:
- Đa tạ Hoàng lão chỉ điểm, học sinh xin thụ giáo!
Hoàng huyện thừa thấy chung quanh không ai chú ý, đột nhiên thấp giọng nói:
- Có điều chuyện lần này cậu thật đã lỗ mãng rồi! Nhà họ Mã tuy đã sa sút nhưng suy cho cùng người ta cũng từng làm quan, hôm nay chuyện của các cậu ai ai cũng đã biết, tại sao cậu cứ kề cà không chịu sắm đồ mua thiếp (4)? Nếu trong túi eo hẹp, mấy năm nay lão phu vẫn còn chút tiết kiệm, cậu cứ tạm cầm để ứng phó trước vậy.
Dương Lăng thất kinh:
- Hoàng lão, ông nói gì vậy? Nạp thiếp? Tôi... tôi... Tôi nói là muốn nạp thiếp khi nào vậy? Hơn nữa tiểu thư nhà họ Mã vì lý gì lại chịu làm thiếp người ta?
Y vừa nói xong, Hoàng huyện thừa đã giật nảy mình, vội luôn miệng nói:
- Cẩn thận lời nói, cẩn thận lời nói! Cậu nói bậy bạ gì thế? Làm thiếp người ta tuy hơi mất thể diện, nhưng cũng không ai lại chê cười nàng. Còn cậu nói như vậy, lỡ mà lan truyền ra ngoài, tiểu thư nhà họ Mã làm sao sống được đây?
Dương Lăng trợn mắt hỏi:
- Hoàng lão, rốt cuộc là đã xảy ra chuyện gì vậy? Tại sao... tại sao học sinh nghe mà không hiểu?
Hoàng huyện thừa cười nói:
- Nạp thiếp rước người đẹp về, đó là chuyện hết sức phong lưu, cậu còn nghệch mặt ra là sao? Hôm đó cậu cùng Mã tiểu thư quay về thành, bọn ta với Mẫn tri huyện đã nghe Mã tiểu thư kể lại đã từng cùng cậu trải qua một đêm trong hố tuyết trên rừng núi ...
Nghe xong, lúc này Dương Lăng mới chợt tỉnh ngộ, không kìm được đành bật cười ha hả, nói:
- Hoàng lão quả nhiên đã hiểu lầm rồi. Tôi cùng Mã tiểu thư chỉ là vì trời đông đất lạnh, không hề có bất kỳ...,
Nói đến đây, y chợt nhớ đến chuyện hai người từng ôm nhau qua đêm; cho dù ở thời hiện đại cũng đủ coi là mờ ám rồi, thế là y lập tức nghẹn họng, không nói gì được nữa.
Hoàng huyện thừa vân vê chòm râu, hơi phật lòng, nói:
- Tóm lại chuyện cô nam quả nữ cùng nhau qua đêm là thật, đúng không? Nàng ta dám kể chuyện này cho mọi người, hiển nhiên đã có tình ý với cậu. Nữ tử coi trọng danh tiết, nàng còn có thể chọn chồng khác tái giá được sao? Làm giàu thì phải nhân từ, làm quan thì phải liêm chính, làm người thì phải có tình nghĩa. Cậu là kẻ đọc sách thánh hiền, chẳng nhẽ còn không hiểu đạo lý này hay sao? Ta coi cậu như con cháu nên mới nói câu chân thành như vậy với cậu, cậu nhất định chớ phạm sai lầm đó!
Dương Lăng thoáng nghẹn lời, nhất thời cũng không nói thêm được gì...
***
Tuyết đọng dưới chân bờ tường trên con đường truyền tin bị Dương Lăng giẫm lên phát ra những tiếng "rộp rộp". Bước vào gian thứ tư của dịch quán, ngẩng đầu nhìn thấy đèn treo trong sân của Mã Liên Nhi vẫn sáng, Dương Lăng nhớ lại lời Hoàng huyện thừa đã nói trong bữa tiệc hồi tối, trong lòng máy động bèn chầm chậm bước tới.
Cửa phòng không đóng, dưới ánh đèn có thể thấy khói bếp bên trong lan toả ra ngoài, Dương Lăng bước tới cửa, nhìn thấy Mã Liên Nhi đang ngồi trên chiếc ghế đặt trước bếp, một tay chống cằm, một tay đun củi vào lò, dáng trông rất nhàm chán, tư thế uể oải yêu kiều động lòng người.
Ánh lửa soi lên khuôn mặt trắng bóng như ngọc của nàng, thoáng lộ vẻ ửng hồng mỹ lệ, đôi mắt quyến rũ mê người lờ mờ lộ vẻ trưởng thành: sự dằn vặt khiến cho người ta trở nên chín chắn. So với buổi đầu gặp gỡ, vị đại tiểu thư này hôm nay đã bớt sôi nổi và khinh xuất, bất giác đã nhã nhặn và trầm tĩnh hơn.
Dương Lăng gõ nhẹ lên khung cửa. Mã Liên Nhi ngẩng đầu, nhìn thấy y, trong mắt nàng bỗng loé lên một tia vui mừng và thân thiết. Nàng phấn khởi định đứng dậy, song lại lập tức thu lại tình cảm đã biểu lộ, mỉm cười nói:
- Từ lúc trở về thành, đã mấy ngày rồi không gặp huynh! Tiệc rượu đã tàn rồi sao?
Dương Lăng giật mình, không nhịn được bèn hỏi:
- Làm sao cô biết tôi đi dự tiệc?
Mã Liên Nhi không trả lời, chỉ dùng cặp mắt biết nói liếc y thật sâu. Dương Lăng chợt sững người. Y chợt biết, những ngày qua chắc chắn Mã Liên Nhi không lúc nào không để ý tới hành tung của y. Những lời nàng nói trong cái đêm trên Ngũ Sách Lĩnh đó, thật chỉ là nói đùa sao?
"Nàng ta dám kể chuyện này cho mọi người, hiển nhiên đã có tình ý với cậu.
Nữ tử coi trọng danh tiết, nàng còn có thể chọn chồng khác tái giá được sao?" Ngẫm lại lời Hoàng huyện thừa, Dương Lăng chợt hiểu. Mình không biết có nhiều cấm kỵ như vậy, nhưng Mã Liên Nhi lại có thể không biết sao? Nàng đã kể lại những chuyện này, rõ ràng là đang tạo ra một sự thật đã rồi, lợi dụng dư luận khiến mình phải rước nàng về.
Dương Lăng không khỏi cười khổ:
- Liên Nhi tiểu thư! Có phải là cô đã cố ý đem chuyện chúng ta bị lạc trong rừng, cùng trải qua một đêm dưới hố tuyết kể cho mấy người Mẫn đại nhân phải không? Cô rõ ràng biết những thứ lễ nghi phiền phức đó hại chết người, vậy mà còn đem danh tiết của mình ra đùa được. Sao cô có thể làm ra chuyện ngốc nghếch như vậy chứ?
Mã Liên Nhi chợt ngưng bỏ củi vào lò, im lặng một hồi, rồi đột nhiên bật cười lớn đáp:
- Chẳng phải ngốc sẽ tốt hơn hay sao? Chẳng phải người ta thường nói con gái bất tài thì có đức sao? Huynh thích muội thông minh một chút hay là ngốc một chút?
Nàng cười có phần xảo quyệt, lại có phần đắc ý như đã đạt được quỷ kế. Dương Lăng giậm chân nói:
- Sao cô lại chẳng biết nặng nhẹ đến vậy? Mồm mép chết người, cô... Cô thật quá khinh xuất rồi!
Tay Mã Liên Nhi thoáng run lên. Không hề ngẩng đầu lên, nàng cứ cúi đầu một hồi lâu rồi bỗng nghẹn ngào hỏi:
- Dương Lăng! Có phải huynh rất ghét muội hay không?
Bếp lửa hồng bùng lên những ngọn lửa, Dương Lăng bắt gặp một giọt nước mắt trong suốt nhỏ xuống mu bàn tay nàng, bất giác mềm lòng, bèn vỗ về:
- Sao lại có thể như thế được chứ? Có lúc nào cô thấy tôi ghét cô không? Mã Liên Nhi nín khóc, mỉm cười:
- Đương nhiên là... chưa thấy. Huynh có thích muội hay không, muội nhìn ra ngay.
Bếp lửa hồng sáng rực, vẻ mặt tươi cười rạng rỡ đang mang đầy nét vui sướng lẫn đắc ý.
Dương Lăng buồn bực. Nha đầu này chẳng những diện mạo giống hồ ly tinh, bụng dạ cũng hệt như một cô nàng tiểu hồ ly. Thật không biết mới nãy nàng ta thật sự đau lòng hay là giả đò đau lòng nữa, bộ dạng của nàng nào có giống như người mới khóc đâu?
Bị y nhìn chằm chằm, Mã Liên Nhi vậy mà lại biết thẹn thùng, nàng ngượng nghịu cúi đầu, đỏ mặt nói:
- Dương đại ca, đêm đó là muội không tốt. Huynh nói đúng, nếu như huynh thật sự thôi Ấu Nương, vậy còn đáng để muội yêu sao? Hôm đó ở dưới thành, nhìn thấy ánh mắt huynh nhìn Ấu Nương thì muội đã biết cả cuộc đời này sẽ không có ai có thể thay thế vị trí nàng ấy trong trái tim huynh. Muội nào dám mộng tưởng tranh giành địa vị đó, muội chỉ hy vọng... chỉ hy vọng huynh cũng có thể đối xử tốt với muội, thì muội đã đủ thoả mãn rồi.
Nàng ngẩn ngơ nhìn chăm chăm vào ánh lửa bập bùng, ánh mắt tràn ngập sự khao khát được hạnh phúc, rồi nói với giọng mơ màng:
- Muội chỉ cần có một phu quân có thể cưng muội, yêu muội thì đã cảm thấy mỹ mãn rồi. Ăn ngon mặc ấm? Muội không khao khát. Còn địa vị chính thê?...
Hừm! Nếu như một nam nhân coi nữ nhân là tài sản riêng của mình, giống như cha muội, và cũng như rất, rất nhiều nam nhân Đại Minh chúng ta, thì cái gọi là chính thê đó, liệu có đem đến hạnh phúc cho người ta không?
Bằng giọng điệu cứng cỏi chứa đựng một sự chín chắn không cân xứng với tuổi tác, nàng thổ lộ nội tâm thiếu nữ với Dương Lăng:
- Muội lớn lên vùng biên ngoại, ăn nói, cư xử không biết giữ lễ, quy củ như con gái Trung Nguyên chúng ta. Nhưng muội tuyệt đối không phải là một đứa con gái tuỳ tiện. Dương đại cạ, muội sẽ tuân theo đạo làm vợ, kính trọng Ấu Nương.
Dương Lăng giậm chân cười khổ:
- Cô... Ngày thường thấy cô thông minh lắm mà, sao lại bất chấp lý lẽ như vậy chứ? Tôi không đùa với cô nữa, ngày mai tôi sẽ lập tức đi tìm Mã Ngang bái kết nghĩa. Hẳn không ai có thể huyên thuyên chuyện huynh muội vì mạng sống mà náu thân cùng một chỗ chứ?
Mã Liên Nhi thấy y quay người sắp bỏ đi thì phát hoảng, nàng vội vã phóng tới ngăn y, rồi lao vào lòng ôm lấy y hờn mắng:
- Cả nửa tháng huynh mới tới gặp muội, muội không cho huynh đi! Dương Lăng cuống lên, vội vã kêu:
- Mau bỏ tay ra, để người ta trông thấy thì còn ra thể thống gì?
Mã Liên Nhi càng ôm cứng lấy y không chịu buông. Khuôn mặt ngọc còn chưa khô lệ hé một nụ cười lấy lòng:
- Kẻ có danh tiết không biết giữ là muội, kẻ đáng bị người ta nhổ nước bọt dìm chết cũng là muội. Hết thảy muội đều không sợ, huynh sợ gì chứ?
Dương Lăng nghẹn họng, lắp bắp nói:
- Là... Tôi... là tôi lo cho cô thôi!
Mã Liên Nhi chợt đảo đôi mắt trong veo, quyến rũ nói:
- Chàng vẫn có thể cưới, thiếp còn chưa gả, muội mới không sợ kẻ khác nói lời đàm tiếu.
Trong ánh mắt loé lên một tia khinh miệt và oán hận kỳ lạ, nàng bỗng nhiên căm giận thốt lên một câu tục ngữ: "Nghe tiếng dế kêu mà không trồng trọt ư(5)!"
Dương Lăng đứng trơ ra đấy, dở khóc dở cười. Mã Liên Nhi nở một nụ cười xinh đẹp, hai tay vẫn ôm lấy cổ Dương Lăng, say sưa nói:
- Từ sau đêm ấy, muội rất nhớ vòng tay của huynh, nhớ đến những câu truyện xưa vừa dễ sợ, lại hấp dẫn mà huynh kể cho muội nghe. Huynh biết không, bắt đầu sau cái đêm ấy, muội đã không thể nào cách xa huynh được nữa.
Lời của nàng thật sự thốt lên tự đáy lòng, ngữ khí hết sức chân thành. Đáng tiếc khuôn mặt trời sinh đoan chính của nàng vốn chứa sức mê hoặc của loài yêu tinh, chỉ là vì tuổi tác hãy còn nhỏ, còn chưa hiện quá rõ. Lúc này hình ảnh một thiếu nữ mơ mộng trong tình yêu, vẻ mặt nhu mì, má đỏ hây hây, bất kể có tình cảm chân thành và nồng nàn như thế nào cũng vẫn mang vẻ yêu kiều lẳng lơ, dường như đang
cố ý quyến rũ người.
Thấy vẻ mặt khó xử của Dương Lăng, nàng ranh mãnh nói:
- Huynh thật muốn kết bái với đại ca muội à? Thật sự muốn làm thân ca ca của muội?
Đôi mắt lấp lánh đen nhánh đó cháy ngầm hai ngọn lửa, bờ mi thẹn thùng rũ xuống, miệng khẽ ngâm nga một bài hát: "Củi khô ~ Lửa cháy ~ Nấu nên cơm ngon í a ~ Nghĩa huynh, nghĩa muội ~~~ Càng thêm thân ~~", chỉ hát được mấy câu, nàng không nén được xấu hổ mà vùi vào lòng Dương Lăng, lấy hết dũng khí nói:
- Bài hát này muội học ở biên ngoại, huynh muốn làm anh... kết nghĩa của muội? Được á, muội thấy chả sao cả!
Dương Lăng hoàn toàn hoá đá: "Đồng chí, đồng chí từ nơi nào vượt thời không đến đây vậy?" Cô nàng đại tiểu thư ở trước mặt người khác thì hoá trang thành một tiểu thục nữ này, ở trưóc mặt y lại tràn trề nóng bỏng hệt như một người đàn bà vùng quan ngoại, không chút che giấu (cái hotness của her!).
Mã Liên Nhi lấy hết dũng khí mạnh dạn thổ lộ nỗi lòng xong, nhiệt độ trên khuôn mặt xinh xắn không ngừng tăng lên. Bàn tay của nàng dán lên cổ Dương Lăng, mu bàn tay bị lò bếp hun, mềm mại và nóng hừng hực. "Đôi gò bồng đảo đầy đặn mê người ở trước ngực nàng có phải cũng 'mềm mại và hừng hực' như vậy hay không?"
Dương Lăng biết rõ là không nên nghĩ đến nó, nhưng khi ánh mắt vừa chạm phải đường cong ưu mỹ trước ngực nàng, trong đầu y không tự chủ mà loé lên cái ý nghĩ đấy. Y chỉ cảm thấy bụng dưới nóng lên, một loại xao động khó có thể chế ngự khiến y thiếu chút nữa mất tự chủ, hôn lấy đôi môi anh đào có thể tuỳ ý "chiếm đoạt" ấy của nàng.
"Bước thêm một bước thì sẽ không thể quay đầu được nữa đâu!" Dương Lăng âm thầm cảnh báo chính mình, rồi vùng thoát khỏi vòng tay của Mã Liên Nhi. Bị bất ngờ, Mã Liên Nhi loạng choạng lui lại mấy bước, sắc mặt lập tức trở nên trắng
bệch, đôi mắt cong vút tựa vầng trăng bỗng nhiên đờ đẫn, giống như tử tù bị áp giải ra pháp trường - tràn ngập sự hoảng sợ.
Nếu như Dương Lăng có tình, có ý với nàng, nếu như y chịu nạp nàng làm thiếp, thì sao y có thể đối xử với nàng như vậy? Mã Liên Nhi cố kìm chế bản thân, muốn giữ lại chút tôn nghiêm cuối cùng, nhưng nước mắt lại cứ tuôn trào, đồng thời khoé miệng nhếch lên một nụ cười thê lương.
Dương Lăng không đành lòng, bèn quay đầu đi, khẽ nói:
- Liên Nhi tiểu thư! Dương Lăng không phải là người đáng để cô phó thác cả đời. Thật đấy, lời tôi nói ngày hôm nay không phải vì bản thân tôi, cũng không phải vì Ấu Nương, mà chỉ là vì cô. Hai năm, nhiều nhất là hai năm, cô sẽ hiểu vì sao tôi lại cự tuyệt cô!
Y không dám quay đầu lại, cứ vậy bước thẳng ra ngoài, mất hút trong màn đêm. Mã Liên Nhi chầm chậm bước đến cửa, đôi mắt đượm nỗi mất mát thất thần nhìn về phía y vừa biến mất, một lúc lâu sau lại chậm rãi hướng lên bầu trời.
Trời đêm trong vắt, một vầng trăng sáng như chiếc mâm bạc lấn át bầu trời, soi sáng vô số chùm sao.
Lệ đẫm nhoè mi, Mã Liên Nhi khẽ ngâm: "'Kim phong ngọc lộ nhất tương phùng, tiện thắng khước nhân gian vô số (6).
Muội không biết huynh đang nói gì, không hiểu huynh đang tìm cớ gì. Có lẽ đối với huynh, ở chung với nhau đêm đó không đáng là gì, nhưng mà huynh có biết, với muội, đó lại là hạnh phúc mà suốt cuộc đời muội cũng khó thể quên."
(1) Tri huyện Kê Minh Dịch là quan Tòng thất phẩm
(2) Thuở xưa, việc thi đậu và việc cưới vợ gần như liên tiếp gắn liền với nhau, vì thi đậu Trạng Nguyên thì được nên danh phận, rồi có nhiều gia đình quyền quí kêu gả con gái cho. Do đó, người xưa xem việc thi đậu Trạng là Đại đăng khoa (đậu lớn), cưới vợ là Tiểu đăng khoa (đậu nhỏ).
(3) Nguyên văn "phong vân tế hội" ý chỉ gặp được cơ hội hiếm có, sẽ thăng quan tiến chức vù vù.
(4) Thời đó, khi cưới vợ (thê) thì được gọi "thú" (cưới), mà thiếp lại là "nạp". Lễ vật tặng cho gia đình nhà vợ khi "thú thê" (cưới vợ) được gọi là "sính lễ", mà lễ vật dành cho lúc "nạp thiếp" thì lại bị gọi là "đồ mua thiếp".
(5) Nguyên văn "thính lạt lạt cổ khiếu, hoàn bất chủng địa liễu ni": "lạt lạt cổ" là một loại côn trùng có hại cho hoa màu, thuộc họ dế nhũi, nghĩa đen là: nghe thấy tiếng dế kêu mà sợ không dám trồng trọt. Tục ngữ này răn chớ nên nghe những lời tầm phào (tiếng dế) mà hãy cứ làm chuyện mình nên làm (trồng trọt).
(6) Dịch thơ
"Gió vàng sương ngọc tìm nhau
Đường trần muôn kiếp có đâu sánh cùng" (vietkiem.com)
Đây là câu thơ trích trong bài "Thước kiều tiên" (Cầu ô thước) của Tần Quán viết khi bị đày ra biên cương, chia cắt với người vợ là Tô Tiểu Muội.
Hai câu này miêu tả sự gặp gỡ của Ngưu Lang và Chức Nữ (kim phong: gió thu, do mùa thu thuộc hành kim), ám dụ rằng phu thê của tác giả chia cách đôi nơi, nhưng với tình cảm sâu đậm của phu thê họ, gặp nhau một lần còn giá trị hơn nhiều lần gặp mặt của người khác.
Nguyên văn:
鵲橋仙 纖雲弄巧飛星傳恨
銀漢迢迢暗度 金風玉露一相逢
便勝卻人間無數柔情似水
佳期如夢
忍顧鵲橋歸路 兩情若是久長時又豈在朝朝暮暮Hán Việt:
Tiêm vân lộng xảo, Phi tinh truyền hận,
Ngân Hán điều điều ám độ.
Kim phong ngọc lộ nhất tương phùng, Tiện thắng khước nhân gian vô số.
Nhu tình tự thuỷ, Giai kỳ như mộng,
Nhẫn cố thước kiều quy lộ!
Lưỡng tình nhược thị cửu trường thì, Hựu khởi tại triêu triêu mộ mộ?
Dịch nghĩa:
Từng đám mây màu nhỏ khoe đẹp
Sao bay truyền cho nhau nỗi hận Sông Ngân vời vợi thầm vượt qua Gió vàng móc ngọc một khi gặp nhau Hơn hẳn bao lần ở dưới cõi đời
Tình mềm tự nước
Hẹn đẹp như trong giấc mơ
Không nỡ nhìn cầu Ô Thước là lối về Hai mối tình đã thật sự là lâu dài
Há đâu cứ phải gặp nhau chiều chiều sớm sớm Vài bài dịch thơ :
Mây viền khoe đẹp, Sao bay đưa hận,
Thầm qua sông Ngân vời vợi.
Gió vàng, móc ngọc một gặp nhau, Hơn biết mấy người đời gần gụi.
Tình mềm tựa nước, Hẹn đẹp như mơ,
Cầu Thước nhìn về ngại nỗi. Hai tình ví phỏng mãi lâu dài,
Đâu cứ phải mai mai tối tối. (Nguyễn Xuân Tảo, thivien.net) Âm thầm quá bước Ngân hà
Sao bay gửi hận mây hoa khoe màu Gió vàng sương ngọc tìm nhau
Đường trần muôn kiếp có đâu sánh cùng Nhu tình mộng đẹp tương phùng
Ngậm ngùi chẳng nỡ ngoảnh trông thước kiều Tình xưa nếu mãi còn yêu
Cần chi sớm sớm chiều chiều bên nhau (Phi hoa phi tuyết, Vietkiem.com)
Trên sân đập lúa bằng phẳng sực nức mùi thóc gạo. Bọn dịch tốt đã chuyển tất cả lương thực trong kho ra ngoài sân đập; chân để trần, tay giơ cào gỗ, xới thóc lên phơi.
Tiếp sau đó, Dương Lăng được một phen "bận rộn". Thấy lương thực đã được trải đều, y liền xỏ giày thong thả bước ra khỏi sở Dịch. Công việc hiện giờ của y rất nhàn hạ, thành Kê Minh vừa trải qua trận chiến, ngoại trừ một số thư từ công văn ra thì không phải tiếp nhận nhiệm vụ gì cả. Song ở bên phía Cẩm Y Vệ, tin tức bí mật lại lui tới như thoi đưa.
Theo như tình hình được miêu tả trong các bản tin tình báo, các bộ lạc trên thảo nguyên cũng đang không ngừng phân tranh. Lúc hợp lực tấn công cướp bóc các thành trì gần biên giới Đại Minh, bọn chúng giống như một đám cường đạo kết phường cướp bóc, ngầm hẹn phối hợp với nhau. Khi lui về, sẽ lại vì phân chia chiến lợi phẩm không đồng đều mà bắt đầu hiềm khích lẫn nhau. Giữa các bộ lạc Thát Đát và các bộ tộc khác thường xảy ra chuyện đánh giết.
Nghe đâu Nữ Chân, Tây Phiên và một số bộ lạc nhỏ thân đơn thế cô của Thát Đát, mặc dù cũng tham gia cướp phá đợt này, nhưng kết quả là nhân mã tổn thất thảm trọng, tài sản được phân chia lại ít nhất. Trải qua trận chiến này cuộc sống bọn họ lại càng thêm gian khổ: nấu cơm không có nồi sắt, nêm món ăn không có muối, không có lấy cả một bộ quần áo chỉnh tề. Có điều lúc này cỏ đã mọc xanh trên thảo trường, chim oanh bay lượn khắp nơi, những người dân du mục mưu sinh bằng chăn nuôi sắp bắt đầu cuộc sống mới cho nên không còn lo bọn họ tấn công nhà Minh vào mùa này.
Mẫn huyện lệnh đã đến Hải Ninh nhậm chức. Sắp tới đây Tất đô ty cũng phải lên đường trở về Giang Nam. Còn cha con Hàn Lâm vốn là hộ săn bắn trong núi,
không có ruộng đất, không cần phải trở về. Trong trận chiến vừa qua, dịch tốt Kê Minh tử thương gần ba phần, đang lúc thiếu người, Dương Lăng bèn thu xếp đưa cha vợ và anh vợ vào làm việc trong sở Dịch. Còn cậu em vợ Hàn Mãn Thương, mặc dù chú ta cũng nhao nhao đòi làm dịch tốt nhưng cho dù có khai man tuổi thì cái bộ mặt búng ra sữa của nó cũng quá rành rành, nên đành phải thôi.
Dưới nỗ lực của Dương Lăng cùng với sự trợ giúp trấn áp của Vương chủ bộ và Hoàng huyện thừa, nhìn chung lời đàm tiếu về "Dương dịch thừa tuyết dạ bạn mỹ nữ, tú tài công chánh nguyệt nạp kiều nương (1)" lưu truyền trong nha môn đã được khống chế, không lan truyền đến dân thường và quân lính.
(1) Tạm dịch:
Dương dịch thừa đêm đông cùng mỹ nữ Ông tú tài giêng đến nạp thiếp xinh
Dương Lăng phải suy nghĩ nhiều như vậy, mối bận tâm về Mã Liên Nhi cũng phai nhạt đi, chuyện cứ thế trôi qua. Ai ngờ, không biết bởi vì hai người cùng tuổi hay vì Mã Liên Nhi là bạn gái duy nhất của Hàn Ấu Nương trong dịch thự, mà chuyển đến chưa được mấy hôm, hai người đã đối xử với nhau rất thân thiết.
Tuy Mã Liên Nhi tránh mặt không gặp Dương Lăng, song tình thân giữa nàng với Hàn Ấu Nương thì lại càng lúc càng mật thiết. Hai ngày trước Dương Lăng vô tình gặp cô nàng một lần. Mới chỉ hơn một tháng, hai má của nàng đã gầy đi, cằm cũng nhọn hơn, đôi mắt có vẻ to hơn nhưng ánh mắt thì lại ít có thần hơn.
Trông thấy vậy, Dương Lăng cũng không biết là nên đau lòng hay nên áy náy. Y chỉ có thể cố hết sức trong khả năng của mình, căn dặn người chiếu cố cho cuộc sống nàng tốt hơn một chút. Mạng sống của bản thân y quá ư ngắn ngủi, trong khi Mã Liên Nhi vẫn còn có thể lựa chọn khác; với sắc đẹp của nàng ấy, không nghi ngờ gì sẽ có thể tìm được một tấm chồng yêu thương và nuông chiều nàng. Nhận nàng làm thiếp ư? Như vậy là quá ích kỷ. Nếu lợi dụng lúc nàng không hay biết về cuộc sống đoản mệnh của mình mà bỉ ổi tiếp nhận nàng, vậy ta yêu nàng hay làm hại nàng? Như vậy là quá bất công cho nàng!
Về phần Ấu Nương, y đã suy nghĩ nghiêm túc và đã thông suốt. Từ giây phút y mở mắt ra, Ấu Nương đã được ông trời xếp đặt là người của y. Những ngày qua, y đã biết rõ Ấu Nương là một phụ nữ rất truyền thống, rất chất phát. Ngay từ lúc đầu, khi còn hoàn toàn lạ lẫm với phu quân, còn chưa có tình cảm gì, nàng đã quyết tâm vì y trọn đời thủ tiết, huống hồ giờ đây tình cảm bọn họ đang nồng nàn sâu đậm như vậy.
Lối nghĩ mà ban đầu y cho là đúng, tuyệt nhiên không thể thành hiện thực được. Nếu cứ cùng Hàn Ấu Nương sống hết hai năm với thứ tình cảm nửa như tình thân, nửa như tình yêu này, nhất định y sẽ ôm theo mối hận suốt đời mà bắt đầu kiếp luân hồi mới. Còn Ấu Nương? Những gì mình để lại cho nàng sẽ chỉ là nỗi đau thương vô tận và thêm nhiều nhung nhớ.
Nếu đã như vậy, thì sao không để cả hai cùng trải qua hai năm trong ngọt ngào và hạnh phúc? Nếu có thể cho nàng một kết tinh của tình yêu... Mắt Dương Lăng đã ươn ướt. Làm chồng, làm cha, chỉ cần nghĩ một chút, một cảm giác trách nhiệm nặng trĩu và thành tựu đã khiến y kích động không ngừng.
Tuy rằng sinh mạng hơi ngắn ngủi, nhưng cuộc sống chung của bọn họ cũng muôn màu muôn vẻ. Nếu lại có thêm một đứa con bé bỏng thì cho dù có mình có mất đi, Ấu Nương vẫn sẽ có chỗ dựa, vẫn có thể dũng cảm sống tiếp. Đứa con của bọn họ vẫn sẽ đem lại niềm vui và hạnh phúc cho nàng.
Nhưng mà, khi y vừa có cái quyết tâm khiến y kích động không thôi này, lời nói dối đáng chết đó lại trở thành chướng ngại vật. Sẽ phải nói với Ấu Nương thế nào đây? Cho dù Ấu Nương vẫn luôn tuân lời y, nhưng e rằng việc này liên quan đến sống chết của y, tiểu nha đầu cũng khó mà đành lòng để y thắt cổ trong yên bình.
Nàng không thuận lòng lên giường, chăng nhẽ y phải giở trò cưỡng gian? Ha, đợi đến khi nào mày đánh thắng được nàng rồi hãy cân nhắc nhé!
Dương Lăng gãi cằm cười khổ không thôi. Bản tính y vốn ngả ngớn hoạt bát, nhưng từ khi gặp được Ấu Nương, y lại càng lúc càng trở nên trầm tĩnh và thực tế, quả thật chẳng giống chính mình. Cái cô bé cưng ngây thơ thuần khiết, dịu dàng đáng yêu này thiệt là!
Dương Lăng vừa đi vừa nghĩ đến Ấu Nương, khi thì mỉm cười, khi thì lại khẽ nhíu mày. Bên bờ sông nhỏ ngoài phía đông thành, nước sông đã tan hoàn toàn, dòng nước trong veo vui sướng chảy băng băng. Lấy tay dò thử thì thấy nước vẫn lạnh thấu xương, song đã có thể chịu được.
Y cảm thấy gần đây thân thể đã săn chắc hơn thấy rõ. Rượu thuốc nhạc phụ đại nhân ngâm cho uống quả là rất tốt, không biết có phải là phương thuốc bí truyền của võ tăng chùa Thiếu Lâm hay không. Khi y hỏi thì nhạc phục cũng không đáp, chỉ bảo rằng rượu này được ngâm bằng thảo dược trân quý trên núi, có công hiệu bồi bổ căn nguyên, cường thân kiện thể.
Phải nói, rượu thuốc này đúng là chính hiệu. Lần đầu không biết độ mạnh của thuốc, y uống một hơi ba chung, kết quả là tối hôm đó y quá đỗi dễ chịu luôn, hai bên eo sau nóng hầm hập như đang chườm hai túi nước nóng, thậm chí tinh thần cũng hết sức sung mãn, mãi đến tận nửa đêm mới ngủ được. Bây giờ vào mỗi bữa cơm tối Ấu Nương đều pha cho y một chung, y càng uống càng hứng thú.
Một thiếu phụ trẻ tay cầm làn tre nhảy qua những hòn đá trên sông. Trông thấy một người thanh niên đang đứng bên bờ nhìn mình, cô nàng e thẹn lướt qua bên người y, bị ánh mắt sáng rỡ của y ngắm nghía, cô nàng nhất thời không dám xoay bờ eo thon lại.
Ánh mắt Dương Lăng dõi theo bóng dáng mềm mại phơi phới tuổi xuân của nàng ta lả lướt đi thật xa, đến khi có một cơn gió lạnh thổi thốc vào mặt y mới định thần lại. Y tự tát mình một cái: "Chết tiệt, gần đây sao kỳ vậy ta? Sao dạo này thường hay thích ngắm gái đẹp quá ta! Chẵng lẽ xuân đến, cả loài người cũng lên cơn động cỡn hay sao?"
Dương Lăng nhìn vũng nước ở phía trước, không có gì làm nên y đang tính đi kiếm cần câu giết thời gian, đột nhiên nghe một giọng nói trong trẻo đáng yêu:
- Tướng công, chàng đang chờ bọn thiếp trở về sao?
Dương Lăng nghe tiếng liền ngẩng đầu lên, trông thấy Hàn Ấu Nương và Mã Liên Nhi xinh đẹp dịu dàng đang bước men theo con đường nhỏ từ trong núi đi đến.
Tay trái Hàn Ấu Nương khoác chiếc giỏ vuông, tay phải đang đung đưa một cành đỗ quyên rực rỡ, mặt tươi như hoa, xinh xắn như nước suối dưới khe . Mã Liên Nhi đi cạnh, y phục trắng hơn tuyết, xinh đẹp thướt tha, cả người không chỗ nào không quyến rũ.
Hai người lên núi hái rau dại mới trở về, đột nhiên thấy Dương Lăng đang đứng bên bờ sông. Hàn Ấu Nương vui mừng, hí hửng bước nhanh tới trước nghênh đón. Mã Liên Nhi vừa đuổi theo mấy bước, chợt bước chậm lại, ngẫm nghĩ cẩn thận lời của Hàn Ấu Nương: "Tướng công, chàng đang chờ 'bọn thiếp' trở về sao?"
Những ngày gần đây, Hàn Ấu Nương tỏ ra thân cận với nàng, Mã Liên Nhi cực kỳ thông minh, lẽ nào không thấy được? Nàng chỉ biết Dương Lăng thu xếp để Ấu Nương đến chiếu cố cho mình, nhưng bây giờ càng lúc nàng càng cảm thấy dường như Hàn Ấu Nương đang tỏ ý muốn xúc tiến cho mình và Dương Lăng. Nàng ấy... nàng ấy thật sự vui lòng để mình bước vào nhà họ Dương ư?
Vừa nghĩ đến khả năng này, trống ngực Mã Liên Nhi không khỏi đập thình thịch. Nàng biết quá rõ vị trí của Ấu Nương trong trái tim của Dương Lăng, nếu như nàng ấy chịu gật đầu, vậy chuyện này sẽ rất có hi vọng.
"Mình thật là ngốc! Nếu trực tiếp đến với tên ngốc Dương Lăng này không được, sao mình lại không nghĩ ra cách lấy lòng Ấu Nương nhỉ? Sau này khi thật sự trở thành tỷ muội rồi, mình cũng phải được nàng ấy cho phép mới có thể gần gũi y. Đã vậy, bây giờ nên đối xử tử tế với nàng ấy mới được."
Hàn Ấu Nương lại không phát hiện sơ hở trong lời nói của mình. Nàng nở một nụ cười rực rỡ, chạy đến bên cạnh Dương Lăng, giơ chiếc giỏ lên như thể muốn hiến dâng bảo vật, nói:
- Tướng công, thiếp ngắt được rất nhiều rau dại nè. Chàng xem, nào là nấm tai mèo, rau tề, rau khúc (2). Còn nữa, chàng xem, quả thù lù này to không? Để thiếp rửa rồi chàng nếm thử, ngon lắm đó.
(2) Rau tề (tề thái, cỏ tâm giác, địa mễ thái): tên một thức cỏ, hoa trắng, khi còn non ăn được, dùng làm thuốc giải nhiệt, lợi tiểu, cầm máu...
Rau khúc (thử khúc thảo, thanh minh thảo): Tên một loài rau dại. Hằng năm, cứ tới mùa xuân, cây lại xuất hiện, mọc lên khắp nơi, thường hay gặp nhất ở trên các bãi hoang, bờ ruộng, bờ cát ven sông... Rau khúc vừa làm bánh được vừa làm thuốc chữa bệnh rất tốt.
Hàn Ấu Nương phấn khởi đặt chiếc giỏ xuống đất, chọn quả thù lù to nhất rồi chạy ra bờ sông rửa. Lúc này, Mã Liên Nhi cũng đã đi đến, nhìn Dương Lăng cười một cách thiếu tự nhiên.
Dương Lăng nhìn nàng. Mã Liên Nhi toàn thân mặc đồ trắng, cách ăn mặc đã giản dị hơn nhiều so với trước kia. Ánh nắng ấm áp của ngày xuân chiếu lên khuôn mặt mịn màng thanh tú của nàng, tựa như trong suốt. Trên chiếc eo thon thon khiến người ta hận không thể siết lấy kia, chiếc đai lưng phe phẩy theo gió núi, như thể chỉ khẽ giật nhẹ sẽ lột trần tấm thân ngọc ngà ấy. Khoé miệng Dương Lăng méo xệch: "Gần đây mình bị sao thế nhỉ? Sao cứ có những suy nghĩ không đứng đắn vậy ta?"
Không gặp hơn một tháng, Mã Liên Nhi cũng không thay đổi nhiều lắm. Trên môi vương những sợi lông măng nhỏ bé. Vẫn là bộ dáng thiếu nữ còn mang vẻ ngây thơ, nhưng cõi lòng từng trải và chín chắn khiến nàng như lột xác, giống như một đoá thược dược mảnh mai, yểu điệu lung linh.
"Cô ấy đã gầy đi nhiều!"
"Y đã cường tráng hơn nhiều!"
Mã Liên Nhi thật sự giống như Ấu Nương đã nói, chiếc cằm thon lại, đôi mắt thật to, khuôn mặt trái xoan ấy đã sắp đuổi kịp hình ảnh hồ ly tinh trong phim hoạt hình rồi, vẻ yếu ớt gầy ốm càng tăng thêm phần quyến rũ. Mà Dương Lăng vốn là một kẻ văn nhã, song cái vẻ phong độ của kẻ trí thức ấy lại có phần nho nhã yếu đuối. Hôm nay lưng của y đã thẳng hơn, cặp mắt đã đen và sáng hơn, cặp lông mày cũng đã trở nên khí khái bừng bừng.
Hiện tại y mặc một chiếc áo đơn màu xanh, răng trắng môi hồng, mắt sáng như sao, hệt như một chàng công tử phong lưu văn nhã. Gò má vốn tái nhợt cũng hồng
hào lên rồi. Vừa nói đến hồng thì đã thấy hồng rồi, ừm... rất là... hồng!
Cảm thấy chóp mũi chợt lạnh, Dương Lăng thuận tay quẹt qua, không ngờ máu đỏ cả tay. Ơ... kém dữ vậy sao? Gần đây y cảm thấy mũi hay bị khô, còn tưởng là do trong nhà đốt giường đất, hoặc vì mùa xuân khí hậu khô hanh. Nhưng bây giờ nhìn thấy người ta lại chảy máu mũi, chuyện này coi bộ khó giải thích à!
Y lúng túng đưa tay lên mũi giữ chặt. Máu vẫn đang chảy, đã tràn qua miệng, cho nên y không dám mở miệng. Mã Liên Nhi sợ hãi la lên:
- Dương đại ca, huynh chảy máu kìa!
Bất đắc dĩ Dương Lăng đành đảo mắt ra hiệu đã biết, cái này trông giống như bọn họ đang có bất hoà không thèm nói chuyện với nhau. Vừa ngước mắt lên thấy vậy, Hàn Ấu Nương liền cuống quít chạy tới hỏi:
- Chàng bị sao vậy? Mau ngửa cổ lên đi!
Nói đoạn nàng dùng bàn tay còn ướt vuốt trán giúp Dương Lăng.
Dương Lăng ngửa đầu nhìn trời, bầu trời thật trong xanh, mây trắng cuộn chung quanh, giống như màn tơ, dằng dặc nhớ đất trời...
Đang thầm lặng hỏi ông trời, đột nhiên ai đó nhét một vật mềm mại vào trong tay, y thoáng sờ qua, thì ra là một chiếc khăn nhỏ. Y vội chụp lên mũi, lau máu.
Chiếc khăn tay trắng tinh toả ra một mùi hương nhàn nhạt.
Đây không phải là mùi của Ấu Nương. Mùi hương của Ấu Nương là một mùi thơm dịu nhàn nhạt như hoa nhài, còn đây là mùi hương cực phẩm cao cấp. Dương Lăng máy động trong lòng: "Đây là khăn của Liên Nhi!"
Máu đã ngưng chảy. Dưới ánh mắt ân cần của hai tiểu mỹ nhân đang lom lom nhìn, Dương Lăng bối rối chạy ra bờ sông rửa mặt. Mã Liên Nhi và Hàn Ấu Nương nhìn y, lại nhìn nhau, rồi chột dạ quay đầu đi chỗ khác.
Mã Liên Nhi cắn môi, hơi chột dạ, hơi buồn cười, lại hơi đắc ý. Cách biệt một
tháng, không ngờ vừa gặp lại nhau, y lại có thể xịt máu khi thấy mình.
Hàn Ấu Nương nhìn Dương Lăng với vẻ khẩn trương, nhủ thầm: "Hỏng rồi!
Cha nói thứ rượu thuốc dùng nhân sâm, hổ cốt, nhung hươu, cẩu kỷ để pha chế này dùng để bồi bổ thân thể, song thuốc quá mạnh, gân cốt tướng công lại yếu, cho nên phải uống cẩn thận. Nhưng mình thấy tướng công thích uống, nên mỗi ngày rót nhiều thêm một chút, ai ngờ... 'hư bất thụ bổ' (3) thật rồi. Tướng công sẽ không có chuyện gì chứ?"
(3) Theo Trung y, cơ thể con bệnh quá yếu, được bồi bổ mà bệnh tình không những không thuyên giảm mà còn nặng hơn hoặc xuất hiện di chứng thì gọi là "hư bất thụ bổ" (yếu nên không tiếp thu chất bổ được).
Trông thấy ánh mắt Mã Liên Nhi đang liếc nhìn tướng công, Hàn Ấu Nương thầm nghĩ: "Đệ đệ không nói càn, quả nhiên Liên Nhi tỷ tỷ có tình ý với tướng công."
Lời của tiểu đệ Mãn Thương tố cáo với nàng lại văng vẳng bên tai:
- Tỷ! Đệ nói cho tỷ nghe, khi bọn đệ đến cứu tỷ phu, thì thấy y đang cùng với vị tỷ tỷ xinh đẹp ở trong sở Dịch, à... là Liên Nhi tỷ tỷ đang thơm môi đó.
Hàn Ấu Nương khẽ thở dài, lại nhớ đến lời dặn của cha:
- Ấu Nương, chồng có cương thường của chồng, vợ có đức hạnh của vợ, lời thầy dạy con đã quên hết rồi sao? Người vợ ghen tuông sẽ bị ruồng bỏ đó! Con thử xem tự cổ chí kim có kết cục tốt nào cho nữ nhân được cưng chiều mà kiêu ngạo không?
Luật pháp nhà Minh chúng ta quy định bốn mươi không con mới được nạp thiếp. Nhưng đó là cho bách tính thường dân, không áp dụng được cho kẻ làm quan. Cô gia (con rể) tiền đồ rộng lớn lắm. Con gái à, rất nhiều phụ nữ bản triều chủ động nạp thiếp cho phu quân mình, ai cũng nói bọn họ hiền hậu rộng lượng. Con chớ nên để mang tiếng ghen tuông, sẽ lợi không bằng hại đấy!
Chúng ta xuất thân bần hàn, con có thể cưới được ông tú tài này là vì năm xưa ta đã cứu Dương lão gia khỏi miệng cọp, cho nên mới có thể kết thông gia với họ. Con là một đứa nhỏ tốt phúc, con hãy xem trong thôn chúng ta, làng trên xóm dưới có ai mà không hâm mộ con?
Hai con mắt tinh tường này của cha không nhìn lầm người đâu. Cô gia là người phúc hậu, đối đãi với con cũng rất tốt. Chỉ cần con tận tâm hầu hạ chồng, sớm ngày hạ sinh quý tử cho nhà họ Dương, thì cho dù tiểu thư nhà họ Mã của y có xinh đẹp hơn con, thân thế có tốt hơn con, vị trí của con cũng sẽ vẫn vững chắc, không ai có thể chiếm đoạt được.
Không được nổi máu ghen tuông! Theo cha nghĩ, nếu cô gia đã thích Mã tiểu thư rồi, chi bằng con chủ động giúp nàng ấy một chút, sau này thành tỷ muội rồi cũng sẽ dễ sống chung hơn, cô gia sẽ càng kính trọng con hơn. Như vậy không tốt cho con sao?
Hàn Ấu Nương thầm thở dài một tiếng. Đã làm vợ, ai lại không mong muốn chồng mình xuất chúng hơn người chứ? Nhưng có tiền đồ rồi thì lập tức chồng mình sẽ có thêm người khác. "Hối giáo phu tế thỏa phong hậu" (4), đời người có được thì cũng có mất thôi.
(4) Trong câu này chữ (mịch) viết sai thành chữ 妥 (thỏa), chữ 侯 (hầu) viết sai thành chữ 候 (hậu). Câu đúng là "hối giáo phu tế mịch phong hầu".
Câu thơ này trích trong bài "Khuê Oán" (閨怨), tạm dịch "nỗi oán phòng khuê" của Vương Xương Linh thời Thịnh Đường, miêu tả tâm trạng u sầu của người thiếu phụ có chồng đang tham gia chinh chiến.
Nguyên văn
閨怨 王昌齡
閨中少婦不知愁, 春日凝妝上翠樓。
忽見陌頭楊柳色, 悔教夫婿覓封侯。
Hán Việt:
Khuê trung thiếu phụ bất tri sầu
Xuân nhật ngưng trang thượng thúy lâu Hốt kiến mạch đầu dương liễu sắc
Hối giáo phu tế mịch phong hầu Dịch thơ :
Cô gái phòng the chửa biết sầu Ngày xuân trang điểm dạo lên lầu Đầu đường chợt thấy tơ xanh liễu Hối để chồng đi kiếm tước hầu Ngô Tất Tố
Ngày xuân trang điểm má hồng
Lên chơi gác Thúy, nàng không biết sầu Đường xa, kìa liễu xanh mầu
Xui chồng đi giật tước hầu, dại chưa! Vũ Hoàng Chương
Buổi chiều Ấu Nương luộc mớ rau dại, chưng một con gà nhỏ, mời Liên Nhi qua dùng bữa chung. Trời còn chưa tối Ấu Nương đã đưa nàng ấy về phòng, đến giờ vẫn chưa trở lại, cũng chẳng biết hai người bọn họ đang nói những chuyện gì. Dương Lăng cũng lười không muốn quan tâm.
Lúc cần chẳng quyết, nay phải lo toan. Tình hình thực sự của bản thân không thể kể cho bất kỳ người nào cả, dù gì cũng không thể giở lại cái câu dối trá "nội trong hai năm ắt chết" ra gạt thêm Mã Liên Nhi, nếu để Hàn Ấu Nương biết được, thế thì chẳng khác nào lạy ông tôi ở bụi này.
Dương Lăng đang chìm trong suy nghĩ, Hàn Ấu Nương đã bước vào trong sân.
Miệng còn ngậm bọt muối, Dương Lăng gật đầu đón nàng:
- Đưa nàng ta về rồi à?
- Dạ!
Hàn Ấu Nương đáp lời, bước đến cạnh Dương Lăng, chần chừ không vào nhà.
Súc miệng xong, Dương Lăng thấy nàng vẫn đứng cạnh mình, trên khuôn mặt không biết giấu diếm đó rõ ràng đang viết "có chuyện muốn nói", không nhịn được bèn mỉm cười trìu mến véo nhẹ mũi nàng, bảo:
- Đứng ngây ra đó làm gì? Đi, vào nhà thôi!
Dương Lăng cài cửa lại, ngồi xuống giữa phòng, đưa tay lấy bình trà. Cô nàng Ấu Nương chu đáo không biết đã thay trà tự khi nào, bây giờ vừa khéo đủ ấm để uống. Tường đặt ghế dựa là kiểu tường vách đôi được hun khí nóng bởi hệ thống sưởi chung trong sở dịch, vách tường được giữ ấm suốt ngày nên gian phòng rất ấm cúng.
Y vừa đưa mắt nhìn, Hàn Ấu Nương liền luống cuống đan hai ngón tay mảnh khảnh lại vào nhau, đảo mắt nhìn khắp phòng mấy vòng, rồi trộm liếc y, vẻ do dự. Thấy vậy,
Dương Lăng lấy làm thú vị, bụng bảo dạ: "Ấu Nương trước giờ chưa từng có vẻ mặt khó xử như vậy, chuyện gì khiến nàng ấy khó mở miệng như vậy chứ? À, đúng rồi, hình như nghe nhạc phụ nói đang xoay sở tiền nong làm mối cho Hàn Uy cưới vợ. Chẵng nhẽ là muốn mượn tiền?"
Khi mấy mươi cái miệng người họ Dương tới đây ăn uống, nàng đã không chút keo kiệt chu cấp cái ăn cái mặc cho bọn họ, còn luôn lo lắng mình sẽ trách móc nàng không chăm sóc chu đáo người nhà họ Dương. Lần này nàng lại đứng ra mượn tiền cho nhà mẹ đẻ, thật làm khó cho nha đầu này quá rồi.
Dương Lăng không nỡ để nàng khó xử thêm, bèn chủ động hỏi:
- Ấu Nương, có phải nàng có chuyện muốn nói không?
- Á?
Cơ thể Hàn Ấu Nương thoáng run lên, nàng hoảng hốt lắc đầu:
- Phải, á, không phải, ưm... Trà nguội rồi phải không? Để thiếp đi đun thêm nước.
Dương Lăng phì cười, nói:
- Nàng thật! Có phải là đại ca thiếu tiền để cưới vợ không? Nghe nói y và vị Trương cô nương cùng chạy nạn vào thành đó rất là thân thiết à. Thiếu tiền lo liệu hôn sự phải không nào? Mấy chuyện này nàng không cần hỏi ta, nhà chúng ta do nàng làm chủ, thiếu bao nhiêu nàng cứ lấy là được.
- Không phải mà!
Hàn Ấu Nương dẩu môi, ngồi xuống chiếc ghế bên cạnh, nguýt yêu y:
- Không phải vì chuyện của nhà ngoại. Cha đã nói rồi, anh cả muốn cưới vợ thì phải tự mình kiếm tiền để cưới, tướng công tìm việc làm cho cha và hai anh là đã quí lắm rồi.
- Xem nàng nói kìa! Dương Lăng cười ha hả:
- Ta phải cảm kích nhạc phụ đã cho ta cô vợ đáng yêu, dịu dàng như vầy mới phải chứ! Lại còn phải cảm kích đại ca, nhị ca đã sinh ra sớm hơn nàng nữa, bằng không thì chừng nào mới đến phiên chúng ta xứng đôi như thế này? Có phải không hử, cô vợ bé nhỏ của ta?
Thấy dáng vẻ đáng yêu của nàng, Dương Lăng không chế ngự được lửa dục dâng trào, quên sạch mình đang muốn hỏi gì. Y thích chí ghé sát qua ôm lấy bờ vai thơm của Ấu Nương, hôn đánh chụt lên má nàng.
Hàn Ấu Nương thẹn thùng nhích vai tránh ra, dài giọng trách:
- Tướng... công..., mùi rượu nồng quá à!
- Giỏi nhỉ! Dám chê miệng tướng công có mùi rượu! Ta phải chấp hành gia pháp, phạt nàng đứng phơi mông trong sân.
Dương Lăng mượn rượu giả khùng.
Không biết có phải do bị Ấu Nương đùa bỡn không, y chỉ cảm thấy lửa dục đang thiêu đốt, nhất thời không kìm được mà thi triển ma thủ lên bộ ngực trắng mềm và bờ mông căng tròn của Ấu Nương.
Hàn Ấu Nương ngượng đến nhũn cả người. Nàng uốn éo tấm thân hòng tránh né sự tập kích của y, yêu kiều lí nhí trong hơi thở gấp:
- Bỏ chàng đi! Ở đâu lại có... có kiểu phạt vợ mình như vậy chứ?
Nàng quẫn bách đấm nhẹ lên người Dương Lăng, ánh mắt chợt sáng lên; tưởng
tượng nếu như tướng công phạt mình như vậy thật... Lập tức bị ý nghĩ bạo dạn của mình làm cho ngượng chín mặt, nàng lấy tay che mặt, giậm chân, lắc vai:
- Tướng công nói bậy quá à, thật là ngượng chết đi...
Vẻ khêu gợi hấp dẫn đầy nữ tính đó khiến Dương Lăng hưng phấn không thôi, hận không thể lập tức "làm thịt" Ấu Nương ngay tại chỗ. Y hít vào một hơi, nâng tấm thân mềm mại của Ấu Nương đặt lên gối mình, hôn phớt lên má nàng một cái, rồi chủ động trở về chủ đề chính:
- Được rồi, tướng công không làm loạn nữa. Nói cho ta nghe, nàng muốn nói gì với tướng công vậy?
Hàn Ấu Nương thẹn thùng liếc y cười, dí dỏm:
- Tướng công đòi chấp hành gia pháp mà! Thiếp sợ quá nên quên hết rồi.
Dương Lăng thấy nàng cười đỏ cả mặt, mắt ngọc đong đưa, vẻ nũng nịu rất quyến rũ, tức thời lửa dục vừa mới dằn xuống lại bùng lên, bên dưới cơ thể lập tức cứng như thép.
Hàn Ấu Nương đang khúc khích cười trêu tướng công, bờ mông tròn lẳn hoạt bát vừa hơi dịch đi bỗng chạm phải một vật cứng như khúc gỗ. Thoạt tiên nàng giật mình, sau đó liền như một con thỏ trúng tên, nhảy vụt ra khỏi lòng Dương Lăng, hai tay bưng lấy khuôn mặt đỏ bừng, nóng như lửa, lắp bắp:
- Tướng công, chàng... chàng... thiếp... thiếp... , Ấu Nương không trêu... Không trêu chàng nữa.
Dương Lăng cười khổ. Y cảm thấy mũi khó chịu như thể lại sắp chảy máu, bèn vội vàng cầm lấy chén trà đã nguội uống cạn một hơi, hắng giọng vài tiếng, rồi ra vẻ đạo mạo trang nghiêm:
- Tiểu nha đầu, vậy còn không mau kể đi. Rốt cuộc là muốn nói chuyện gì với
ta?
Hàn Ấu Nương hé ngón tay, trộm liếc Dương Lăng, rồi mới từ từ bỏ tay xuống, giọng thẹn thùng pha lẫn rụt rè:
- Tướng công! Thiếp... Thiếp biết Liên Nhi tỷ rất thích tướng công. Ấu Nương nghĩ... Nếu như tướng công đồng ý, hôm nào thiếp sẽ nói chuyện với Liên Nhi tỷ tỷ. Chúng ta sẽ... sẽ rước nàng ấy về. Tướng công nhân phẩm xuất chúng, dưới gầm trời tướng công là giỏi nhất, cũng coi như chúng ta không làm nhục mặt người ta.
Chợt đổi sắc mặt, Dương Lăng nhíu mày hỏi:
- Nàng nghe ai nói vậy? Là... Mãn Thương nói à? Hàn Ấu Nương ngập ngừng:
- Tướng công! Ấu Nương sớm đã... đã nghe người ta nói rồi. Nữ tử rất coi trọng danh tiết đó. Thiếp nghe nói Mã đại ca muốn rời đi cùng Nam quân, Liên Nhi tỷ tỷ không danh không phận ở lại nơi này cũng không thích hợp. Nháy mắt sẽ qua hạn cúng thất tuần rồi, nếu bây giờ không rước người ta về, vậy sẽ phải chờ thêm ba năm nữa. Nếu chàng đồng ý, chúng ta sẽ cho nàng một danh phận trước, khi đó cho dù có rước về chậm một chút cũng không sao.
Thời xưa, đối với con gái, cha mẹ tạ thế là đại tang, theo quy định sẽ phải chịu tang ba năm. Nhưng có vài trường hợp có thể châm chước được, người xưa cũng không quá cứng nhắc. Ví dụ như chuyện tòng quân của Mã Ngang, hay bản thân là đại quan trọng yếu của triều đình, vì đại sự quốc gia cần kíp được vua đích thân giữ lại, thì gọi là "Đoạt tình".
Trong dân gian, cũng có một tình huống, đó chính là: cha mẹ mất đi trong vòng bảy bảy bốn chín ngày thì cho phép kết hôn, dân gian gọi nó là "Xung hỷ". Tục ngữ có câu "Thiên quan tòng môn xuất, kỳ gia hảo hưng vượng"(1), nghĩa là vì sự ra đi của người chết đem đến sự ra đời của thêm nhiều sinh mạng mới cho gia tộc, con đàn cháu đống, kế tục hương hoả dài lâu, như vậy không bị xem là bất hiếu.
Dương Lăng yên lặng nhìn Ấu Nương một hồi lâu. Cặp mắt trong veo của nàng có chút tủi thân, chút ghen tuông, song nhiều hơn lại là sự lo lắng cho Mã Liên Nhi
và sự tín nhiệm vô điều kiện đối với y.
Dương Lăng chậm rãi lắc đầu, đoạn nói:
- Đừng nghe người khác nói xàm, nàng không cần phải dây vào chuyện vớ vẩn đó. Ta đã tìm hiểu rồi, tháng tư hằng năm sẽ có một đoàn buôn hàng da từ quan ngoại ghé qua Kê Minh xuống phương nam. Đến lúc đó ta sẽ thu xếp để bọn họ giúp đỡ Mã tiểu thư đưa linh cữu xuôi nam, trở về cố hương là được.
Hàn Ấu Nương tròn mắt, thắc mắc:
- Nhưng mà... Chàng và nàng ấy...
Nhẹ nhàng hôn lên chiếc môi anh đào không cho nàng nói tiếp, đoạn lướt miệng đến bên tai nàng, Dương Lăng khẽ nói:
- Giữa ta và nàng ấy không phức tạp như nàng tưởng tượng đâu. Ngoan đi, thời gian trôi qua tự nhiên sẽ không còn có ai nhắc đến nữa, Liên Nhi tiểu thư cũng sẽ không còn nhớ đến những chuyện này, hiểu không?
- Dạ!
Hàn Ấu Nương ngoan ngoãn khép miệng lại. Tuy nàng không rõ những gì tướng công nói lắm, nhưng hàng chân mày lại hiện lên vẻ nhẹ nhõm và vui sướng.
Vốn chỉ đòi voi, lại được thêm tiên, còn có gì để mà không vui chứ?
***************************
Dương Lăng nằm trên giường, đầu gối lên tay, hai mắt nhắm hờ, thầm tính: "Ấu Nương cũng biết chuyện giữa mình và Mã Liên Nhi rồi, xem ra người biết chuyện này thật không ít. Tuy nhiên, đến khi Mã Liên Nhi đưa linh cữu về Kim Lăng, hết thảy mọi việc tự nhiên sẽ tan theo mây khói, từ đây trở đi mỗi người một phương.
Thiếu nữ dù si tình đến mấy, nhưng giữa hai người lại chưa có thâm tình gì đáng kể, liệu nàng ta sẽ còn nhớ đến mình sao?"
Chắc chắn qua một hai năm, nàng ấy sẽ buông xuôi đoạn tình cảm này, bắt đầu cuộc sống mới. Dương Lăng tin tưởng vào điểm này, y vẫn chưa "tự sướng" đến độ cho rằng một khi thích y thì phụ nữ sẽ "không bao giờ chùn bước, trọn đời không quên". Y cũng chỉ là một thằng đàn ông bình thường, không có sức hấp dẫn đến cỡ đó.
Cảm thấy gò má nhồn nhột, Dương Lăng mở mắt thấy Ấu Nương đang ngồi bên cạnh, dịu dàng nhìn y. Mái tóc dài hơi ẩm ướt, chạm vào mặt lành lạnh. Tiểu nha đầu vừa mới tắm rửa xong.
Khuôn mặt xinh xắn thuần khiết khuất sau mái tóc vẫn còn phơn phớt hồng sau khi tắm. Hàng mi mềm, đôi mắt ươn ướt, quyến rũ không nói lên lời. Những tâm tư phiền não trong lòng Dương Lăng lập tức hóa thành hư không. Y thở dài, bắt đầu chuyển sang cân nhắc nên làm thế nào để phá vỡ cục diện bế tắc hiện nay. Một người con gái xinh đẹp mỹ miều phơi bày ngay trước mắt như vậy, song chỉ có thể nhìn mà không thể "ăn", thật khó chịu muốn chết à.
Chẳng biết vì sao, Hàn Ấu Nương mặt mày hớn hở, còn mang vẻ nhu mì khó tả, hình như... còn đang cười lấy lòng? Dương Lăng chớp chớp mắt, nghi ngờ mình đã nhìn lầm.
Nàng mặc áo ngắn, nằm sấp trên giường, kề sát bên Dương Lăng, thả dài mái tóc về phía trước, tươi cười bắt đầu kể chuyện linh tinh với y:
- Tướng công, hôm nay thiếp và Liên Nhi tỷ tỷ lên núi hái rau, thấy một cây hòe già phải đến mấy trăm năm tuổi mà hai ngày trước đã bị sét xuân bổ cháy đó.
Thân thể nhỏ nhắn xinh xắn mê người, bộ ngực mềm mại vô ý chạm vào khuỷu tay Dương Lăng. Ngửi thấy huơng vị xử nữ tươi mát từ người nàng, phần dưới mới vừa "nguội" của Dương Lăng lại không thể kìm chế bắt đầu xuất hiện phản ứng "căng phồng".
Thân thể mềm mại của Hàn Ấu Nương lại dựa sát hơn, kề mặt trên ngực y, hào hứng kể chuyện:
- Bọn thiếp nghe đại thúc sống trong núi nói, đó là bởi vì cây hoè già muốn thành tinh, nên Lôi thần đã nổi giận đó. Nếu là trước kia thì thiếp sẽ còn bán tín bán nghi, nhưng mà tướng công cũng đã gặp được thần tiên, thiếp cũng không dám không tin, nên đã kéo Liên Nhi tỷ tránh đi. Tướng công, nếu như cây hoè già đó bị sét đánh không chết, có thật nó sẽ biến thành yêu tinh không?
"Nha đầu à, ta không biết là cây hoè già có biến thành yêu tinh hay không, ta chỉ biết là nàng sắp biến thành yêu tinh đến nơi rồi! Còn ta... ta cũng đã chuẩn bị khẩu 'đại pháo trần gian' rồi đó, biết không hử? Tiểu yêu tinh!" Dương Lăng nghiến răng nghiến lợi thầm nghĩ.
(1) Nguyên văn:
千棺从 出, 其家好 旺. 子存父先死, 在祖乃
Hán Việt:
Thiên quan tòng môn xuất, Kỳ gia hảo hưng vượng.
Tử tồn phụ tiên tử, Tôn tại tổ nãi táng. Nghĩa là:
Nghìn quan tài qua cửa, Nhà đó hẳn có thời.
Con còn cha mất trước, Cháu sống ông đi rồi.
Vẫn cố đè nén lòng ham muốn Ấu Nương, Dương Lăng khổ sở cười, đáp:
- Ừm! Biết đâu được, có thể thành tinh đấy.
Tham lam rờ rẫm khuôn mặt trơn nhẵn của Ấu Nương, y cố ý ngáp to một tiếng, rồi bảo:
- Vừa mới tắm xong, nàng hãy mau đắp chăn lên rồi ngủ đi kẻo nhiễm lạnh.
- Không, bây giờ nóng quá à!
Con người có thể thích nghi với hoàn cảnh. Sự nuông chiều và dung túng của Dương Lăng đã khiến bản tính của Hàn Ấu Nương đều phát huy ra hết, không còn vì tướng công là ông tú tài mà lúc nào cũng bị gò bó, mất tự nhiên. Nàng như một đứa trẻ đang làm nũng, nằm sấp trên giường, co hai cái chân nhỏ nhắn đong đưa trên không:
- Sở Dịch vẫn đốt giường sưởi mà. Sáng nào thức dậy cũng phải uống nhiều nước hết, miệng khô rồi nè. Lát nữa thiếp thay chăn mỏng. Tướng công! Chàng có muốn thay không?
Dương Lăng rướn người dậy, dồn gối cao lên một chút, đoạn đáp:
- Không cần, "xuân che đông đậy", nàng hiểu không? Thay chăn sớm sẽ bị cảm mạo đó. Nàng cũng đừng nên thay vội, đợi thêm vài bữa nữa đi!
Hàn Ấu Nương bĩu môi:
- Nóng vậy mà tướng công còn chưa chịu thay. Tối ngủ chàng hay đạp chăn ra,
thiếp vẫn phải đắp lại cho chàng nhiều lần lắm đó.
Chải tóc xong, nàng khéo léo vén lên cao để lộ cần cổ xinh đẹp. Đưa mắt dõi theo tà áo hở lệch, y bắt gặp làn da trơn mượt của bầu ngực. Quả đào non bé xinh xinh đã bắt đầu tạo thành đường cong tuyệt mỹ.
Dương Lăng nhìn chăm chăm, không nỡ thu lại ánh mắt, rồi nhìn dọc xuống xuôi theo tấm lưng nàng. Một đôi chân trắng nõn nhỏ nhắn đang xoè ngón đong đưa trên không, làm co giãn chiếc váy lót của nàng, thi thoảng hiện rõ đường cong của bờ mông tròn trịa khoẻ khoắn.
Tiểu cô nương mới mười bốn, mười lăm, tướng mạo vẫn còn hơi giống một quả nho xanh, nhưng cặp mông tròn lẳn ấy đã có hơi hướm xinh đẹp của phụ nữ rồi.
Theo cách nói của các cụ, mông như vậy sẽ đẻ tốt, Dương Lăng "xấu xa" suy nghĩ. Dạo gần đây y thường hay có những ý nghĩ xấu xa.
Thân trên của Ấu Nương thon thả, đáy thắt lưng ong, nhưng mông và đùi lại đã nẩy nở như một người phụ nữ trưởng thành. Theo hiểu biết của Dương Lăng, thân dưới phát dục sớm cho biết sau này nàng sẽ không lớn lên theo hướng cao gầy, mà hẳn sẽ vẫn duy trì vóc dáng nhỏ nhắn đáng yêu này.
Trông thấy ánh mắt bốc lửa của trượng phu, Hàn Ấu Nương thẹn thùng bỏ chân xuống, khuôn mặt càng thêm ửng hồng. Nàng vẫn chưa biết cách phơi bày tư thế khêu gợi để trêu chọc đàn ông, nhưng động tác và dáng điệu ngây thơ thuần khiết này lại càng quyến rũ mê người hơn.
Không nhịn thêm được nữa, Dương Lăng thở gấp, tung chăn ra, xoay vai Ấu Nương lại. Trong tiếng kêu dịu dàng, Ấu Nương khẽ trở người ngả vào lòng y.
Nàng tràn trề hạnh phúc tựa vào ngực y, hưởng thụ những cái vuốt ve mơn trớn của phu quân.
Những lúc hai người nằm trên giường tán gẫu chuyện gia đình, Dương Lăng vẫn thường táy máy tay chân nên Ấu Nương cũng dần dần quen với những vuốt ve của y. Hôm nay cảm kích phu quân đã từ chối nạp thiếp, Hàn Ấu Nương càng để cho y thoả sức vuốt ve, không hề trái ý.
Dương Lăng ôm chiếc eo thon của nàng, vuốt ve bộ ngực non nớt cùng bờ mông đầy đặn săn chắc, rất đàn hồi của nàng. Đường cong mềm mại mượt mà ấy dường như có thể tạm xoa dịu dục vọng của y.
Ấu Nương nhắm mắt lại, ngất ngây trong lòng trượng phu, cánh mũi khẽ phập phồng. Bỗng nhiên Dương Lăng đưa tay mò vào trong quần lót của nàng, bờ mông săn chắc, trơn tuột bị y bóp mạnh. Làn da mịn màng trơn bóng tựa như một dòng suối chảy xuôi, lờ mờ toát ra sức sống tràn trề của tuổi thanh xuân.
Hàn Ấu Nương cảm giác động tác của trượng phu hôm nay có chút khác với ngày thường. Nàng thẹn thùng cụp mi, cản:
- Tướng công, chàng đừng... đừng... mà!
Tinh trùng lên não có thể khiến cho đàn ông có thể nói những lời bình thường không thể nói, làm những chuyện bình thường không thể làm, hơn nữa còn có thể ra sức điều động tế bào não bộc phát cơ trí. Nhân loại tiến bộ là nhờ theo đuổi dục vọng mà. Lúc này, Dương Lăng chợt loé sáng kiến, nảy ra một biện pháp giải quyết cho nan đề của mình.
Y chẳng nói chẳng rằng ôm chặt lấy Ấu Nương, nhẹ giọng bảo:
- Ấu Nương! Ngày đó ta đã uống rượu, cũng buồn ngủ rồi, lại thêm vì nàng đang khóc nên ta hơi sốt ruột, có vài điều vẫn chưa nói kịp cho nàng hay.
- Ừm?
Hàn Ấu Nương mở mắt ra, nhìn sang Dương Lăng dò hỏi. Mặt giả thần giả quỷ, Dương Lăng ra vẻ nghiêm túc nói:
- Thành hoàng còn nói với ta rằng, nếu như mời hoà thượng làm phép rồi đeo một tượng phật đã được khai quang (1) trên người thì... thì cũng sẽ không ảnh hưởng đến chuyện sinh hoạt vợ chồng.
- Ồ!?
Khoé miệng Hàn Ấu Nương hơi nhếch lên. "Sinh cho phu quân một đứa con, thừa kế hương hoả nhà họ Dương, thì con sẽ không sợ mất đi sự yêu thương của hắn", lời cha nói bỗng lướt qua đầu nàng. Trải qua chuyện của Mã Liên Nhi, nàng hơi có cảm giác không an toàn, cho nên ngay lập tức nghĩ đến vấn đề quan trọng cần đưa vào lịch sinh hoạt thường ngày.
Nàng phấn khởi siết chặt vòng tay quanh ôm cổ trượng phu:
- Kê Minh Dịch có miếu tự nhưng không có hoà thượng. Chúng ta sắp xếp thời gian đi Phủ thành một chuyến được không? Tìm một vị đại sư...
"Được, đương nhiên là được rồi, nhưng còn bây giờ thì sao đây? Tên đã lên dây cung rồi, không thể không bắn đâu à!" Uống rượu bổ hơn một tháng nay, bây giờ quả thật Dương Lăng đã như thác lũ tràn bờ, đại hồng thủy chứ chẳng chơi à!
Dương Lăng ậm ờ:
- Được! Được! Có thời gian chúng ta sẽ đi Phủ thành một chuyến. Vừa nói y vừa lật mình đè lên người Ấu Nương.
Thân thể non nớt của Ấu Nương phối hợp một cách hoàn mỹ với y; đùi, eo và tay đều tràn trề sự mềm dẻo, không chỗ nào không đàn hồi, không chỗ nào không linh hoạt tự nhiên. Đó là kết quả của việc Ấu Nương đã chạy nhảy, leo trèo trong rừng từ nhỏ.
Lửa dục của Dương Lăng bị thân thể trẻ trung tràn trề sức sống của nàng bùng thổi. Y vứt bỏ gánh nặng trong lòng, ôm chầm lấy tấm thân tuyệt mỹ của Ấu Nương, tuỳ ý nhấm nháp đôi môi anh đào ngọt ngào và mềm mại của nàng.
- Tướng công! Bây giờ vẫn chưa được. Bây giờ... đừng... Hàn Ấu Nương vừa thích vừa sợ, hoảng loạn đẩy người y ra.
- Yên tâm nào vợ yêu, tướng công... Hôm nay tướng công không đòi thân thể của nàng, sẽ không tính là gần nữ sắc đâu!
Dương Lăng thở hổn hển, đành miễn cưỡng lùi bước mà cầu xin.
Hàn Ấu Nương ngạc nhiên chẳng hiểu, chớp chớp đôi mắt xoe tròn long lanh bóng nước, bàn tay nhỏ bé đã bị Dương Lăng kéo vào trong quần lót của y.
Một tiếng "á" khẽ cất lên, Ấu Nương rút mạnh tay về như thể bị ong chích.
Nhưng Dương Lăng đã giữ chặt lấy cổ tay nàng, tách từng ngón ra, để nàng nắm lấy cái vật cứng ngắt, nóng hổi đang kích động ở trong đó.
Cả người Hàn Ấu Nương run lên vì căng thẳng, nàng nhắm tịt mắt, người cứng đờ, không dám nhúc nhích. Dương Lăng dẫn dắt tay nàng vuốt lên vuốt xuống, rồi hôn nhẹ vành tai xinh xắn của nàng, nhỏ giọng:
- Cứ như vậy, hiểu không?
Hàn Ấu Nương hé một con mắt nhìn y, rồi lại lập tức nhắm nghiền lại, mặt đỏ bừng như lửa, lắp bắp:
- Thiếp... thiếp... ưm..., nhưng... vậy... như vậy không tính là gần nữ sắc à?
- Ừm, không tính!
- Thật ư?
- Đương nhiên rồi! Tướng công là người đọc sách mà!
- Ờ...
- Nhẹ quá... nàng làm mạnh thêm chút đi.
- Ờ...
- Ui da... Nàng đang nhổ cải hay sao vậy? Nhẹ tay chút đi cưng.
- Ờ...
Ngoài cửa sổ ánh trăng sáng ngời. Trong phòng, Dương Lăng đang kiên nhẫn
phổ cập tri thức vỡ lòng cho Ấu Nương. May mắn gặp một học sinh giỏi tiếp thu rất nhanh, cho nên cuối cùng y cũng dần lạc bước thiên thai, bay bổng như tiên.
Hàn Ấu Nương ngồi xếp bằng bên cạnh Dương Lăng, mái tóc rối tung buông xoã, đôi mắt long lanh chứa đựng vẻ ngượng ngùng không thể che giấu. Đôi bàn tay thon thả trắng phau đang "chấp hành" chỉ thị của Dương Lăng, không ngừng hoạt động dưới chăn. Một lúc lâu sau nàng mới cố nén ngượng ngùng, tò mò hỏi:
- Tướng công, làm như vậy rất dễ chịu à?
Dương Lăng đang nhắm mắt say sưa tận hưởng vui thú. Bàn tay nhỏ bé của Ấu Nương đã mềm lại có sức, tuy nàng không biết kỹ thuật gì, nhưng lúc này y cũng chẳng lo, sau này cứ từ từ "chỉ dạy" thôi. Hiện tại động tác như vậy cộng thêm dáng vẻ loli của nàng đã đủ kích thích rồi, cho nên y chỉ khẽ "ừm" một tiếng.
Hàn Ấu Nương nghĩ ngợi một chút, rồi lại dừng tay, vẻ mặt nghiêm túc:
- Tướng công, thiếp vẫn cảm thấy... Như vầy thật không tính là gần nữ sắc sao? "Nàng không biết là nói về mấy chuyện này cần phải có quá trình chuẩn bị hay
sao? Sao bỗng dưng lại cứ muốn dò hỏi vấn đề này?" Dương Lăng khóc không ra nước mắt, chỉ đành cắn răng nhắc lại từng chữ một:
- Tin ta đi! Không sai đâu, bởi vì ta là kẻ đọc sách mà!
Hàn Ấu Nương rụt rè cười, không thắc mắc nữa. Vẻ mặt nàng rất chuyên tâm, dưới ánh đèn, khuôn mặt non nớt yêu kiều khoác lên thêm một quầng sáng màu hồng nhạt, ngũ quan xinh xắn toát ra vẻ dịu dàng đáng yêu.
Lưng Dương Lăng bắt đầu cứng lại. Thoáng nhìn Ấu Nương như một con sói nhìn mồi, y phát hiện đôi môi của nàng cong cong, mảnh mai, hàm răng hơi hé mở, mắt đẹp tựa mùa xuân. Ban nãy sao không phác giác ra nhỉ? Theo tính nết ngoan ngoãn vâng lời của Ấu Nương đối với y, nếu như dùng cái miệng chúm chím như quả dâu đó để..., Chỉ mới vừa nghĩ như vậy, cơn hưng phấn đang gần đạt đến đỉnh điểm của y liền không kiềm chế được mà phun trào.
Ấu Nương không hề có kinh nghiệm, nên vừa cảm nhận được phản ứng kích động của y, tay nàng càng hoạt động hăng hơn. Cơ thể sau khi mới phát tiết xong cực kỳ mẫn cảm, Dương Lăng vội nắm lấy cổ tay nàng, ngăn cô nàng vì lòng tốt mà "giày vò" mình.
Vừa hổn hển khôi phục thần trí xong, y thấy Ấu Nương đang tròn xoe đôi mắt nhìn mình tựa như còn chưa biết đã xảy ra chuyện gì, nhưng trong ánh mắt trong veo thánh khiết đó lại mang đầy vẻ hứng thú. Khi ánh mắt hai người vừa chạm nhau, đôi mắt ấy lập tức e thẹn dời đi.
- Tướng công, chàng đỡ rồi à? Nàng cúi đầu thẹn thùng hỏi.
Dương Lăng khẽ vuốt chân nàng, "ừm" một tiếng. Hàn Ấu Nương bị nhột bèn rụt chân lại, sau đó vui vẻ mỉm cười như thể đã hoàn thành một nhiệm vụ vĩ đại.
Như một cô mèo con mềm mại, nàng mãn nguyện ngả vào lòng Dương Lăng, khẽ nói:
- Tướng công, như thế... thật sự không tính là gần nữ sắc ư?
- Ờ... Đương nhiên! Tướng công là kẻ đọc sách mà!
Dương Lăng vừa dứt lời, Hàn Ấu Nương lại cười ngọt ngào:
- Tướng công, tim chàng đập nhanh quá!
Dương Lăng bật cười, y vừa cười vừa ôm chặt hơn cô vợ bé bỏng đáng yêu này vào lòng.
Y bỗng hiểu "chẳng qua Ấu Nương chỉ muốn trò chuyện với mình mà thôi". Y âu yếm vuốt mái tóc mềm mại như tơ của Ấu Nương.
******************
Sáng sớm hôm sau, Dương Lăng đi đến kho sân lương thực ở gian hai, thấy hơn
mười tên lính sắp hàng bên xe ngựa đang chờ sẵn trong sân, dẫn đầu chính là đội trưởng thân binh của Tất Xuân - Quan Thụ Anh. Dương Lăng vội vàng bước lên nghênh đón.
Trông thấy y, Quan Thụ Anh cười lớn chào:
- Dương dịch thừa dậy sớm thật! Vì trong quân cần lương thảo cho nên tại hạ đưa người đến để nhận thêm ba ngày lương thực.
Dương Lăng đã sớm nghe tin đại quân của Tất Xuân sắp sửa lên đường quay về Chiết Giang, cho nên y cũng đã tính toán để bọn họ nhận lương thảo theo từng hạn ngắn, phòng sau này còn phải nộp lên trên, vì thế quân dụng phải chia ra nhận nhiều lần. Hai người đang đứng tán gẫu trong sân, chợt thấy Mã Ngang tay cầm roi ngựa hầm hầm từ sân sau bước ra.
Y đoán Mã Ngang mới vào thăm em gái, chỉ không biết đã cãi nhau với Mã Liên Nhi chuyện gì mà vẻ mặt có phần không vui. Dương Lăng chắp tay:
- Mã huynh! Đã lâu không gặp!
Mã Ngang thấy y thì hơi ngạc nhiên, song cũng vội chắp tay đáp lễ:
- Dương dịch thừa!
Quan Thụ Anh cười hì hì, nói chen:
-_Mã lão đệ, sao sắc mặt khó coi quá vậy. Chẵng nhẽ... lệnh muội không đồng
ý?
Mã Ngang gượng cười, đáp:
- Làm gì có chuyện đó! Đại nhân đã coi trọng, để mắt đến anh em của bọn đệ như vậy! Thường có câu 'huynh trưởng như cha', chuyện của em gái còn không phải do đệ làm chủ hay sao?
Quan Thụ Anh cười vờ vịt:
- Nói cũng phải, ta chúc mừng Mã lão đệ trước vậy! Sau này vẫn mong lão đệ chiếu cố nhiều một chút đấy!
Trên mặt hơi loé lên một tia đắc ý, Mã Ngang đáp:
- Không dám, chúng ta cùng là huynh đệ dưới trướng Tất đại nhân, nên chiếu cố cho nhau mới phải. À! Đệ còn phải đi chùa Phổ Độ một chuyến. Dương dịch thừa, lão Quan, ta đi trước đây!
Đưa mắt tiễn Mã Ngang vội vã rời đi, Dương Lăng thắc mắc:
- Quan huynh! Mã đại ca đang làm gì vậy? Sao lại gấp gáp vậy? Quan Thụ Anh nói với giọng điệu kỳ quái:
- Đại nhân đã nhìn trúng em gái của Mã Ngang, có ý muốn nạp nàng ta làm thiếp. Có được cơ hội kết thân với Đô ty đại nhân, vị nhân huynh này đây dĩ nhiên cầu còn không được rồi. Có điều xem bộ dạng thua cuộc của y, quả hồng này không dễ cầm à. Xem ra đứa em gái đó của y cũng không phải là cô gái không có chủ kiến. Ha ha, muốn dùng em gái làm bàn đạp, xem ra cũng không dễ dàng gì!
Nhìn gã cười như vậy, cũng không ai biết là vì gã khinh thường Mã Ngang, hay là vì đố kỵ mình không có một cô em gái như hoa như ngọc để mình cũng một bước lên trời, trở thành ông anh vợ của đại quan tứ phẩm triều đình.
Dương Lăng nghe xong không khỏi thất kinh, "Tất đô ty đã nhìn trúng Mã Liên Nhi rồi sao?" Nghĩ đến tuổi tác của Tất đô ty và cha Mã Liên Nhi không hơn kém bao nhiêu, lại nghĩ đến cặp mắt tam giác có điều khắc bạc đấy của hắn, hơn nữa Mã Liên Nhi mới mười sáu mười bảy, xinh đẹp và ngây thơ, hình tượng "đầu bạc má hồng"(trâu già gặm cỏ non) lướt qua đầu, bất chợt y cảm thấy khó chịu.
Cự tuyệt Mã Liên Nhi xong, y cảm thấy mình đã nợ người ta một phần tình cảm, cho nên mới hao phí tâm sức lợi dụng chức quyền muốn giúp nàng đưa linh cữu về quê, coi như là đền bù. Nếu như nàng có thể tìm được một tấm chồng vừa ý, y cũng sẽ có thể trút bỏ được gánh nặng trong lòng. Ngờ đâu anh trai nàng lại tự
dưng chen ngang, vì tiền đồ của bản thân mà muốn nàng làm thiếp một kẻ tuổi đã gần năm mươi. Chẳng nhẽ thật sự hồng nhan bạc mệnh, Mã Liên Nhi chỉ có số làm thiếp người ta thôi sao?
Trông bộ dạng đùng đùng bỏ đi của Mã Ngang, hiển nhiên là gã đã ăn phải quả đắng ở chỗ Mã Liên Nhi, cô em gái trong cứng ngoài mềm rồi. "Mình có nên đi thăm nàng ấy một chút không?" Dương Lăng tự hỏi, muốn xoay người song lại sững ra, dừng lại: "Dù sao đây cũng là chuyện của nhà người ta, mình lấy tư cách gì mà xen vào chứ?"
Thấy Dương dịch thừa nghe lời mình xong thì hơi thừ người, Quan Thụ Anh không khỏi cảm thấy kỳ quái. Tay lính xuất thân là thợ mổ heo này lại rất tinh ý, gã lập tức nhìn ra vài phần căn nguyên ngay: "Trông dáng điệu thế này, chẵng nhẽ Dương dịch thừa cũng thích Mã cô nương? Ừ nhỉ, bọn họ ở chung trong một đại viện, 'Thư sinh với tiểu thư sau vườn hoa' mà, trong hí kịch vẫn thường hát như vậy."
"Ha! Có kịch hay xem rồi. Tên tiểu tử Mã Ngang đó, khi trước gặp mình lúc nào cũng một điều Quan đại ca, hai điều Quan đại ca; bây giờ còn chưa có gì mà hễ mở miệng là luôn mồm lão Quan rồi, nghe chối tai bỏ mẹ. Nếu để nó lên làm anh vợ của Tất đại nhân, đạp lên mặt mũi mình, thì chắc mình sẽ biến mẹ nó thành tiểu Quan quá! Ừ, chuyện này mình phải tính toán một chút. Tiểu Dương này trượng nghĩa, giúp y cũng là giúp mình mà!"
Trong khi hai người đang mang những tâm sự riêng, một tên tiểu lại đã vội vội vàng vàng chạy đến, từ xa đã gọi vọng:
- Dịch thừa đại nhân! Người lần trước lại đến tìm ngài rồi, đang ở tiền thính (sảnh chờ) đợi ngài đó.
Câu nói không đầu không đuôi làm Dương Lăng ngây người, y hỏi dồn:
- Cái gì mà lần trước tới? Người nào vậy? Tiểu lại bẩm:
- Chính là cái lão buôn thuốc tự xưng là họ Ngô ấy, lão nói là có chuyện gấp cần gặp đại nhân ngài đấy ạ!
(1) "Khai quang" là thỉnh một Pháp thân của Phật nhập vào tượng Phật; rồi sau đó coi tượng Phật như một thân thể hữu hình của ngài để thờ cúng.
Dương Lăng chợt cảm thấy hồi hộp, xem bộ dạng này, nhất định Ngô Kiệt có chuyện trọng yếu mới đến, chẳng lẽ Cẩm y vệ đã xảy ra chuyện gì sao? Trông thấy y đi tới, Ngô Kiệt liền lập tức đứng lên. Thấy tên tiểu lại vừa nhắn tin cũng đang theo sau Dương Lăng, lão ta vội vàng nói:
- Dương đại nhân! Mời vào nội sảnh nói chuyện!
Thấy vậy, Dương Lăng phất tay để tên tiểu lại rời đi, rồi khép chặt cửa phòng, thấp thỏm theo Ngô Kiệt bước vào phòng trong. Y vừa định dùng lễ ra mắt của hạ quan với cấp trên thì bất ngờ Ngô Kiệt chợt xoay người, sụp gối quỳ đánh soạt:
- Hạ quan Ngô Kiệt, bái kiến Cẩm y thân quân Chỉ huy sứ ti Đồng tri (1) Dương Lăng Dương đại nhân!
Dương Lăng giật nảy người, lúng ta lúng túng nâng Ngô Kiệt dậy, vẻ bối rối không hiểu:
- Ngô đại nhân, ngài nói gì vậy? Đồng tri gì? Việc này... việc này... Ngô Kiệt cố nặn bộ mặt tươi cười, vòng tay đáp:
- Chúc mừng đại nhân! Đề đốc Cẩm y vệ Trương đại nhân rất xem trọng tài học của Dương đại nhân, đã lệnh cho đại nhân lên chức Cẩm y vệ Đồng tri, thăng quan ngũ phẩm. Hạ quan vào kinh xử lý công vụ, đặc biệt tiếp nhận lệnh dụ này thông tin trước cho đại nhân.
Phải biết Ngô Kiệt là Thiên hộ Tòng ngũ phẩm, chỉ thua y nửa cấp nên không cần phải giữ lễ đến cỡ đó. Nhưng hiện thời Dương Lăng đã là quan viên kinh thành, tham gia bộ phận trung ương của Cẩm y vệ, lại mới chỉ có mười tám tuổi, tiền đồ vô
cùng rực rỡ, Ngô Kiệt sao dám không ra sức bợ đỡ?
- Hả?
Dương Lăng càng thêm ngỡ ngàng, tù mù chẳng hiểu gì. Y không có chút khái niệm gì về chức quan Đồng tri, nhưng về ngũ phẩm thì lại biết rành. Ngây người một hồi, Dương Lăng mới lắp bắp hỏi:
- Ngô đại nhân, chuyện này... Sao đột nhiên lại điều ta vào kinh làm quan vậy?
Ngô Kiệt nghe mà thiếu điều muốn khóc: "Ngươi hỏi ta, ta biết hỏi ai đây? Ta chỉ là Cẩm y vệ thế tập (là con cháu của Cẩm Y vệ đời trước), khổ cực ba mươi năm mới lên được chức Thiên hộ. Trong số Cẩm y vệ được tuyển chọn từ dân gian mà thăng tiến từng bước cũng có kẻ đạt đến cấp bậc này, nhưng bọn họ đều cũng phải lăn lộn cả đời, lập không biết bao nhiêu công lao mới được chức đó. Ai mà biết được phần mộ tổ tiên nào của tiểu tử nhà ngươi đã kết phát(2) chứ! Ta vẫn còn ức đến run người lên đây này!"
Có điều mấy lời này nào dám nói ra, lão vội vừa cười vừa đáp:
- Hạ quan tiếp nhận xong lệnh dụ liền từ kinh thành chạy đến đây ngay trong đêm, cũng không rõ tình hình cụ thể trong đó. Có lẽ bụi trần không che được ngọc sáng, ngọc rực rỡ chói loà, đại nhân tài học xuất chúng, nổi trội hơn người, sao triều đình lại có thể chôn vùi nhân tài chứ? Ha ha ha...
Vừa cười, Ngô Kiệt vừa rút từ trong ống tay áo ra một tấm giấy nhét vào trong tay Dương Lăng, rồi nói tiếp:
- Đại nhân lần đầu lên kinh, mua nhà lập đất, thăm viếng đồng liêu, nhất định sẽ tốn chút chi phí. Hạ quan kính biếu nghìn lạng gọi là lộ phí, xin đại nhân vui lòng nhận cho.
Dương Lăng vừa nghe nói nghìn lạng bạc ròng thì nào dám nhận, Ngô Kiệt nghiêm mặt giải thích:
- Đại nhân chớ quan tâm! Hằng năm hạ quan bôn ba biên ngoại, khổ thì có chút
khổ, nhưng để che dấu thân phận nên thường tiến hành riêng một vài vụ buôn bán dược liệu, da, trà, muối... với ngoại tộc. Có thân phận Cẩm y vệ che chở nên tiền bạc kiếm được cũng khá dễ, chút bạc này không đáng là bao, chỉ là chút thành ý của hạ quan, đao cùn không đáng tra vỏ mà thôi. Nếu như đại nhân không nhận, thật tình hạ quan sẽ rất khó xử.
Không đợi Dương Lăng cự tuyệt, lão đút ngân phiếu vào trong ống tay áo y, rồi làm ra vẻ bịn rịn không nỡ xa, nói tiếp:
- Hạ quan và đại nhân quen biết nhau đến nay khá hợp duyên. Lần này đại nhân tiến kinh, chỉ đến khi trở về kinh thành báo cáo nhiệm vụ hằng năm hạ quan mới có thể đến phủ của đại nhân để bái kiến rồi.
Ôi chao! Hạ quan tuổi đã cao, quanh năm bôn ba vùng biên ngoại, chân cẳng đã cảm thấy bất tiện. Lần này đại nhân tiến kinh nhất định sẽ được trọng dụng, đến lúc ấy vẫn mong đại nhân có thể nói tốt vài lời cho hạ quan. Nếu có thể điều hạ quan về kinh, hạ quan nguyện sẽ theo làm tuỳ tùng cho đại nhân.
Dương Lăng thầm nghĩ "Xem ra vị Ngô thiên hộ này chẳng được lòng người trong kinh, bằng không có lắm người quyền cao chức trọng như thế, y không cần phải nhờ vả đến mình. Nhưng mà, một tiểu lại như mình được vẻ vang thăng quan lên Bách hộ, còn có thể nói là nhờ Cẩm y vệ vì đón cầu ân huệ ở trước mặt hoàng đế mà tranh đoạt chiến công đi, chứ hôm nay chẳng biết vì sao lại thăng mình lên làm Đồng tri như thế này, quả thật có vẻ quá ư quỷ dị!"
Ngô Kiệt về kinh lần này chính là để chạy chọt trên dưới khắp nơi muốn được điều hẳn về kinh, không phải chỉ thông qua riêng mỗi một cửa. Những người này làm quan lâu năm, kết bè kết phái, rất chú ý đến những động thái thay đổi nhân sự trong triều. Dương Lăng tuổi chưa tròn hai mươi, lại do đích thân thủ lĩnh tối cao Cẩm y vệ hạ lệnh tấn chức vào kinh, tiền đồ đương nhiên không thể lường được.
Nếu như hôm nay không tạo dựng tốt quan hệ, sau này còn ai thèm để ý dệt hoa trên gấm (nói tốt) cho họ chứ?
Dương Lăng suy nghĩ một hồi rồi lại hỏi:
- Ngô đại nhân, bây giờ tôi vẫn mang thân phận dịch thừa, không cần lệnh điều động của bộ Lại sao? Khi nào thì tôi mới có thể vào kinh vậy?
Ngô Kiệt ngẩn người, đáp:
- Đại nhân! Trong kinh lệnh cho hạ quan phải cấp tốc chạy về đây ban lệnh dụ ấn tín, nhưng lại không hề đề cập đến ngày tiến kinh của đại nhân. Ồ, phải rồi, đến cùng với hạ quan có hai vị Cẩm y Hiệu úy, là người trong kinh phái tới hộ tống đại nhân, đại nhân có thể hỏi thăm bọn họ.
Dương Lăng thu lệnh dụ ấn tín xong, cả hai cùng trở ra ngoại sảnh. Ngô Kiệt mở cửa gọi hai người trẻ tuổi ban nãy vào. Hai người bọn họ cao xấp xỉ như nhau, cùng ngươi sáng mắt trong, trông mười phần thông minh lão luyện. Hai người đã sớm biết lệnh bổ nhiệm từ kinh thành nên vừa bước vào phòng liền ôm quyền, quỳ một gối, hành lễ với Dương Lăng:
- Ti chức Liễu Bưu, Dương Nhất Thanh bái kiến Đồng tri đại nhân!
Dương Lăng chưa quen bị người ta dùng đại lễ như vậy để yết kiến, vội vàng bước tới nâng hai người dậy. Hỏi kỹ một hồi, y biết được mệnh lệnh mà hai người nhận được là mặc thường phục bảo vệ y về kinh, rồi diện kiến Trương đại nhân.
Còn phần lúc nào về kinh, Trương đại nhân từng căn dặn kỹ càng sắp đến trong kinh sẽ đưa một đội ngũ khác đến nghênh đón, bọn họ chỉ cần ở yên đó chờ là được, đồng thời tạm thời không thông báo cho quan phủ địa phương chuyện y thăng chức Đồng tri.
Dương Lăng và Ngô Kiệt nghe xong trố mắt nhìn nhau, hết sức ngạc nhiên.
Phải biết rằng thân phận của Cẩm y vệ chia làm ba loại. Một loại là làm ban sai (3) trong nha môn, thân phận công khai, là thành viên nòng cốt của Cẩm y vệ; một loại là bán công khai giống như cái chức dịch thừa này, ai ai cũng biết y có lớp thân phận này, nhưng không ai vạch trần, là nhân viên ngoại vi của Cẩm y vệ; loại thứ ba chính là loại như Ngô Kiệt, lấy thân phận thường dân để hoạt động, người ngoài tuyệt đối không thể biết được
thân phận thật sự của họ là mật thám của Cẩm y vệ.
Dương Lăng được thăng chức Đồng tri, vào kinh đô làm quan, chính là thân phận công khai. Bây giờ lại không cho y thông báo với quan phủ địa phương, hiển nhiên trong đó còn có ẩn tình. Trong kinh còn có người đặc trách đến để nghênh tiếp y? Điều này càng khiến cho Ngô Kiệt nghĩ rằng nhất định Dương Lăng đã kiếm được chỗ dựa lớn nào đó ở trong kinh, cho nên thái độ càng thêm cung kính. Về phần hai tay Hiệu úy đã là thân binh do Dương Lăng quản lý, thấy vị đại nhân này trẻ tuổi như vậy cũng hết sức vui mừng.
Hậu nhân của những công thần huân khanh (bề tôi có công) của các triều đại trong Cẩm y vệ rất nhiều, đều là quan chức truyền đời, hai người bọn họ lại là Cẩm y vệ được tuyển chọn và điều động từ trong dân gian. Điều này giống như người ta học hệ đại học chính quy, còn anh chỉ tốt nghiệp trung học dạy nghề, cho dù năng lực làm việc của anh có cao hơn người ta, việc thăng tiến của anh cũng sẽ gặp phải trùng trùng cách trở. Hôm nay hai người bọn họ được hầu hạ vị đại nhân trẻ tuổi có tiền đồ rộng lớn như vậy, hơn nữa lại cùng hệ bình dân, đương nhiên cơ hội thăng tiến sẽ càng lớn.
Tiễn Ngô Kiệt xong, Dương Lăng thu xếp cho Liễu Bưu và Dương Nhất Thanh trọ lại dịch quán. Ngẫm lại, hôm nay mình đã là quan lớn ngũ phẩm, hơn nữa còn là Cẩm y vệ quyền cao chức trọng, sau phút ngỡ ngàng y bỗng cảm thấy vui sướng khôn tả. Không nén được rạo rực, y chạy thẳng vào hậu viện để báo tin mừng cho Ấu Nương.
Đàn ông đang yêu ai cũng đều giống như trẻ con, có chuyện gì hay ho đều chỉ mong sao cho người thân yêu nhất của mình có thể biết tin càng sớm càng hay.
Dương Lăng phấn khởi chạy ào đến sân trong gian thứ tư (tứ tiến), đúng lúc gặp Mã Liên Nhi rẽ ra cổng sân, tay bưng một chậu nước đổ ào ra ngoài. Nàng đeo tạp dề, mái đầu tóc đen quấn khăn trắng, tay áo xắn lên phân nửa, phơi trần hai cánh tay nõn nà như ngó sen đã đỏ ửng vì ngâm lâu trong nước dưới tiết trời hãy còn se lạnh; dáng điệu áo vải, váy rũ hiếm khi thấy được của nàng lại đem đến một ý vị khác biệt.
Khóe mắt nàng đo đỏ, hình như vừa mới khóc. Chợt thấy Dương Lăng đi tới, Mã Liên Nhi giật mình thất kinh, không muốn bị y bắt gặp bộ dạng nhếch nhác hiện
giờ nên nàng vụt quay đầu bước nhanh vào trong sân. Trông thấy nàng, Dương Lăng sực nhớ đến chuyện Tất đô ty nạp thiếp vừa nghe ban nãy, liền vội vàng đuổi theo. Vừa lách người vào trong sân lại thấy Dương Lăng lẽo đẽo theo vào, Mã Liên Nhi cuống cuồng, vội vã bê một chậu gỗ khác ở dưới đất lên rồi hoảng hốt bước vào phòng.
Từ khi nào Mã Liên Nhi lại sợ gặp người khác như vậy nhỉ? Càng thêm hiếu kỳ, Dương Lăng không chút nghĩ ngợi liền bước theo vào phòng. Vừa giận vừa thẹn, Mã Liên Nhi đặt chậu gỗ lên bàn, lúng túng xoay người chắn phía trước, cáu gắt:
- Huynh đuổi theo ta làm gì?
Dương Lăng buông thỏng tay, vẻ bất đắc dĩ:
- Khi không cô chạy làm gì? Trong chậu có vật gì không thể cho người khác thấy hay sao?
Mã Liên Nhi chợt đỏ mặt, tức giận lườm Dương Lăng, gắt gỏng:
- Ai cần huynh lo? Huynh là gì của ta chứ... Chó mà cứ thích bắt chuột (ý nói nhiệt tình một cách không cần thiết)!
Mặt đỏ hồng, nàng kéo khăn trải bàn che chậu gỗ lại, rồi đi đến đầu giường ngồi phịch xuống, hai chân co lên, hai tay ôm gối, gác cằm lên đầu gối, nhìn Dương Lăng hỏi:
- Huynh đuổi theo ta làm gì? Có chuyện muốn nói sao?
Dương Lăng chú ý thấy nàng mang một đôi hài cong màu trắng, đó là đôi giày mang để tang cho phụ thân; hai chân gập lại, váy căng ra, đằng sau đôi chân thẳng tắp là nửa cung tròn tuyệt mỹ như vẽ bằng com-pa.
Vừa quét mắt nhìn, cảm thấy lòng hồi hộp kích động, lập tức Dương Lăng không dám nhìn lâu, ánh mắt dời lại chiếc chậu gỗ được khăn trải bàn che phủ, y mới chợt ngộ ra ban nãy rất có thể nàng giặt giũ một loại yếm lót của nữ nhân. Đấy
là những thứ cấm kỵ nhất của nữ nhân, ngay cả Ấu Nương khi giặt giũ những thứ đồ lót này cũng đều tránh mặt mình. Thảo nào Mã Liên Nhi lại cứ như giẫm phải đuôi chuột mà chạy về phòng, té ra là muốn cất giấu vật đó gấp.
Buông người ngồi xuống chiếc ghế đối diện, y trầm ngâm một lúc rồi hỏi:
- Nghe nói... sáng nay Mã huynh có ghé qua?
Liếc y một cách đầy hàm ý, Mã Liên Nhi nhếch miệng:
- Không phải huynh đã gặp y rồi sao? Dương Lăng đỏ mặt, ngượng ngập hỏi:
- Cô... Sao cô biết?
Mã Liên Nhi đảo mắt một vòng, thoáng nở một nụ cười khó hiểu, trả lời:
- Ta... nghe nói sáng nay huynh đã gặp y. Dương Lăng gượng cười nói:
- Còn chọc à? Sao cô vẫn không biết lo sầu gì thế? Nghe nói ca ca cô muốn ép cô gả cho Tất đại nhân hả?
Mã Liên Nhi trợn mắt, thầm nhủ: "Ta lo lắng cái gì? Ca ca lại hám lợi đến mê muội tâm can. Chẳng lẽ ta không tự nguyện, y dám trói ta giao cho người khác bắt làm thiếp hay sao?"
(1) Tên chức quan xưa, tên gọi của chức phó.
(2) Nguyên văn "tổ phần mạo thanh yên" (nghĩa đen là mộ tổ tiên toả khói xanh), là một kiểu nói theo phong thuỷ, khói xanh (thanh yên) đại khái mang khí chất xanh tươi, cát tường, là một điềm báo đại cát đại lợi. Dựa theo cách nói xưa là mộ phát, có thể làm quan.
(3) Giúp quan phủ hoặc quân đội giải quyết những việc như trưng thu thuế má,
chiêu mộ phu dịch, vân vân.
"Chi bằng mình...," nàng cắn nhẹ môi, cười nửa miệng liếc Dương Lăng, "Mình thử khích y xem sao, nếu có thể làm cho y mở mang đầu óc là tốt nhất. Ôi! Thật không biết kiếp trước mắc nợ y cái gì nữa?! Thân là con gái mà phải trăm phương nghìn kế, nhẫn nhịn để được việc mà xuống nước cầu xin y!"
Thầm oán lườm Dương Lăng, Mã Liên Nhi cất giọng u uẩn:
- Ừm! Ta có thể như thế nào chứ? Một nữ nhân như ta, huynh nói có thể khuấy lên phong ba gì chứ? Huynh trưởng như cha, y lấy danh nghĩa phụ huynh ép ta, Tất đô ty lại là quan lớn, ta có thể làm sao đây?
Thấy nàng ngân ngấn lệ, Dương Lăng không cầm lòng được, thấp giọng an ủi:
- Cô là người tự do, nếu cô không bằng lòng, ai có thể cưỡng ép cô chứ? Mã Liên Nhi vốn chỉ muốn khơi dậy lòng thương hoa tiếc ngọc của Dương
Lăng, không ngờ nói rồi lại gợi lên chuyện đau lòng của mình. Có chút không kiềm chế được tâm tình, nàng chán nản nói:
- Người tự do? Từng có việc đó sao? Người con gái có thể có quyền tự lựa chọn phu quân ư?
Giọng nàng dần nhỏ lại:
- Ta vẫn muốn..., ta chấm một người. Vì hắn, ta không tiếc phải trả giá bằng danh tiết của mình, tự dồn bản thân vào đường cùng, chẳng qua là bởi thích hắn, muốn ở cùng hắn mà thôi. Người ta sẽ tiếp nhận sao? Biết đâu trong lòng hắn, ta bị coi là một đứa con gái nham hiểm, vô sỉ, thích dùng cơ mưu. Nếu như hắn thích ta, vậy thì xong, nhưng nếu hắn không muốn, kẻ khác sẽ chỉ ca tụng hắn là anh hùng
cao cả, danh sỹ phong lưu, mọi cô gái đều thích. Nhưng còn cô gái từ đó về sau lại sẽ không thể ngẩng đầu, chịu hết mọi đắng cay nghiệt ngã.
Mã Liên Nhi đỏ bừng mặt, trừng mắt oán hận nhìn Dương Lăng:
- Huynh cùng Ấu Nương nghĩa nặng tình thâm, từ hôm dưới thành đó ta đã rõ.
Được, ta tự nguyện làm thiếp, hầu chồng lo việc nhà, vậy mà vẫn khó được toại nguyện. Ha ha, là ta tự làm tự chịu, hôm nay danh tiết đã huỷ, còn có người nguyện đối đãi với ta như là vợ chính sao?
Dương Lăng ngây người một hồi lâu, rồi hổ thẹn chống chế:
- Cô... Cô thông minh thanh khiết, đoan trang dịu dàng, không phải người đàn ông nào cũng sẽ để ý đến những lời ong tiếng ve này đâu.
Không để ý đến những lời y nói, Mã Liên Nhi tự cất giọng xa xăm:
- Tất đô ti lấy ba nàng tiểu thiếp ở Giang Nam, nghe nói y đối đãi với tiểu thiếp vô cùng hà khắc, chánh thê thì lại hết sức hung hãn, ta... Hôm nay ta muốn làm thiếp cũng không còn đường lựa chọn... Tự mình tạo nghiệt thì không còn đường sống nữa ư?
Dương Lăng im lặng một hồi lâu mới hít vô một hơi thật sâu, hạ giọng:
- Liên Nhi, không phải Dương Lăng thật sự muốn ép cô bước trên con đường này. Số mệnh là vậy, tôi... Tôi thật sự là có nỗi niềm khó nói.
Mã Liên Nhi nghe xong, rèm mi cụp xuống, hai hàng lệ trong vắt trào ra, đau thương đến chết lịm cõi lòng. Lời đã nói đến dường này, vậy mà Dương Lăng vẫn tìm cớ cự tuyệt nàng; nàng thật sự đã tuyệt vọng rồi.
Từ sau đêm cùng ở bên nhau trong hố tuyết giữa núi rừng ấy, Mã Liên Nhi đã khắc sâu hình bóng của Dương Lăng vào trong tim, y chính là đấng phu quân thích hợp với nàng. Nếu chưa bao giờ gặp gỡ y, có lẽ sau này nàng vẫn còn có thể tuỳ ý tìm lấy một người chồng, thế nhưng biết y rồi, làm sao những nam tử bình thường cổ hủ ngu muội, xem nữ nhân như đồ chơi đó còn có thể được nàng để vào mắt
chứ?
Dương Lăng kính trọng nàng, hiểu nàng, không xem nàng như một người con gái đi ngược truyền thống. Nàng đã thấy y cưng chiều yêu thương, không bỏ rơi ruồng rẫy Ấu Nương như vậy, nếu như nàng nên vợ nên chồng với y, thành tâm hầu hạ, nhất định y cũng sẽ thật tâm che chở và yêu thương nàng, sẽ không vì thân phận tiểu thiếp mà xem thường nàng, sẽ không vì thứ bậc xếp sau mà ruồng bỏ nàng. Phu quân như vậy còn không đáng để mình một lòng một dạ hay sao? Thế nhưng, dù đặt cược hết danh tiết của bản thân vào một ván, rốt cuộc nàng vẫn thua, thua hoàn toàn, thua đến thảm.
Dương Lăng thấy nàng lệ châu lăn xuống, nhất thời không biết phải làm thế nào; khuôn mặt xinh đẹp ấy đã không còn chút sinh khí, tựa như một bức tượng điêu khắc bằng ngọc. Một hồi lâu y mới thở dài, bất lực cúi đầu nói:
- Nước mắt của phụ nữ...! Liên Nhi, cô nên cư tang cho cha ba năm. Bây giờ tôi và cô lập một ước hẹn quân tử ba năm, sau ba năm, nếu như Dương Lăng chưa ch... úi... chưa "lạc phách" (1) thì sẽ rước cô về! Dĩ nhiên để cho công bằng, cô vẫn được xem như chưa gả, cho đến lúc đó cô vẫn có thể chọn lựa khác, chỉ cần cô gặp được người đàn ông hợp ý!
Mã Liên Nhi bừng mở lớn hai mắt, cố gắng chớp chớp cho rơi hết lệ, không dám tin:
- Thật chứ?
Dương Lăng cười giễu bản thân:
- Thật đấy! Chỉ cần nội trong thời gian đó Dương mỗ vẫn chưa... "lạc phách", vẫn có thể nuôi được cô. Khi ấy nếu cô bằng lòng bước vào nhà họ Dương tôi, sẽ không ai có thể ngăn cô!
Mã Liên Nhi từ khóc hóa cười, nàng nhảy phóc xuống đất, vui mừng muốn nhảy bổ đến ôm lấy y. Song khi Dương Lăng đã chấp nhận nàng, sự mạnh dạn và đáo để vốn có lại hoàn toàn biến mất, thay vào đó là vẻ thẹn thùng khó kềm nén.
Mắt ngọc xoe tròn, hàng mi cong vút, nàng cắn môi, nhẹ giọng nói với Dương Lăng:
- Nghèo khó thì đã sao? Chẳng lẽ bây giờ chức quan huynh đang làm khiến cho người ta ao ước sao? Hừm! Có phải huynh cho rằng tiểu nữ bị huynh mê hoặc đến ngay cả giữa dịch thừa và đô ti, chức quan nào lớn hơn cũng không phân biệt được sao? Huynh đó nha, người ta hết lần này đến lần khác tỏ lòng với huynh như vậy, huynh còn không rõ tấm lòng của người ta hay sao?
Dương Lăng cười gượng:
- Chức quan hiện tại thì sao chứ? À phải rồi, tôi có chuyện muốn nói với cô.
Tôi dự tính hai tháng nữa, lúc thương nhân buôn hàng da ở quan ngoại ghé qua Kê Minh, tôi sẽ nhờ bọn họ giúp cô đưa linh cữu về quê. Có điều...
Dương Lăng đem tin được thăng chức lên Cẩm y vệ chỉ huy Đồng tri, sắp sửa lên kinh sư kể cho nàng một lượt. Mã Liên Nhi nghe xong mừng đến mặt mày rạng rỡ, hồ hởi nói:
- Tốt quá rồi, vừa rồi muội còn lo vì muội mà... Tất đô ty sẽ tìm huynh gây phiền toái, bây giờ không phải sợ hắn nữa!
Nàng thoáng suy nghĩ, rồi bỗng chau mày lo lắng nói tiếp:
- Không đúng à! Thăng cấp trong quân đội nào phải trò đùa, chuyện này thật cổ quái!
Dương Lăng cười lớn đáp:
- Tôi cũng cảm thấy cổ quái, tuy nhiên ngẫm lại, thấy cũng chẳng phải là chuyện xấu. Ai mà tốn hao bấy nhiêu công sức cho tôi một chức quan to, rồi lại lo nghĩ tìm cách hại tôi chứ?
Mã Liên Nhi, lúc này đã chuyển sang vai trò người vợ nhà họ Dương, suy nghĩ cẩn thận rồi lắc đầu:
- Có câu nói 'quan lộ hiểm ác' huynh có biết không? Để muội suy nghĩ một chút, ừm... với 'công lao' mà huynh lập được, tuyệt không có lý nào thăng liền ba cấp, thẳng đến trung ương của Cẩm y vệ. Trong kinh lại càng không thể có ai tốt bụng mà vô duyên vô cớ thăng chức cho huynh như vậy. Chúng ta phải suy nghĩ thật kỹ xem sao, không thể để bị kẻ khác hãm hại được...
Mã Liên Nhi càng nghĩ càng cảm thấy có vấn đề. Trên đời làm gì có chuyện tốt như vậy, trong chuyện này ắt có một mấu chốt quan trọng nào đó chưa thể lần ra.
Dương Lăng lên kinh lành hay dữ nhất định có quan hệ với cái mấu chốt này.
Thấy nàng ngồi ở đầu giường, mày ngài nhíu chặt, lẩm bẩm một mình, Dương Lăng bèn bật cười:
- Tôi thấy cô sắp sửa có thể mở hiệu xem số mệnh cho người ta rồi đó. Suy nghĩ nhiều như vậy để làm gì? Chờ đến khi tôi vào kinh diện kiến vị Trương đại nhân đó rồi, bí ẩn tự nhiên sẽ tỏ tường thôi. Bây giờ có suy nghĩ thêm nữa thì vẫn là võ đoán, hà tất phải đa nghi?
Mã Liên Nhi lườm y, quở trách:
- Huynh hay quá nhỉ! Không phải người ta lo là lo cho huynh sao? Nghẫm nghĩ một lúc, nàng lại lắp bắp:
- Thế... thế huynh vào kinh, vậy muội thì sao đây? Dương Lăng đáp:
- Chiều nay tôi sẽ đi gặp Hoàng huyện thừa nhờ Hoàng lão giúp đỡ. Hai tháng sau đoàn buôn phương bắc sẽ xuôi nam, giúp cô trở về Kim Lăng.
Ánh mắt Mã Liên Nhi chợt ảm đạm, bịn rịn:
- Vậy muội... chẳng phải là sẽ không thể gặp lại huynh trong suốt ba năm rồi sao? Huynh... có vì lâu ngày chày tháng mà quên mất người ta hay không?
Nàng thầm tính trong lòng: "Đưa linh cữu phụ thân trở về cố hương xong, mình có nên lên kinh sư để gặp huynh ấy không nhỉ? Nếu huynh ấy thăng chức Chỉ huy Đồng tri, mà thật sự không ai có ý gì với huynh ấy, theo lẽ thường hẳn sẽ không thể nhậm chức tại nha môn quan trọng như Bắc trấn phủ ty. Nếu như huynh ấy được điều đến Kim Lăng Nam trấn phủ ty làm quan, vậy chẳng phải... Ừm, đợi khi có tin tức chuẩn xác của huynh ấy rồi hẵng nói vậy".
******************************
Trong lều của Tất Xuân, Tất đô ty vui vẻ nói với Mã Ngang:
- Mã Ngang, không lâu nữa quân ta sẽ trở về Chiết Giang rồi. Ngươi biết đấy, qua ngày cúng thất tuần của lệnh tôn thì bổn quan sẽ không tiện... Ha ha ha, nếu không thì cái đám ngự sử mọt sách ngớ ngẩn của tỉnh Giang Chiết biết được, tấu lên trên thì thật không đáng. Không biết hôm nay ngươi đã đề cập với lệnh muội tâm ý của bổn quan chưa?
Mã Ngang biết em mình giỏi cưỡi ngựa bắn cung, tinh thông âm luật, lại xinh đẹp quyến rũ, tính khí luôn ương bướng, thiết nghĩ nàng ta sẽ lập tức đáp ứng chuyện tốt "thà làm thiếp anh hùng còn hơn làm vợ kẻ tầm thường". Cho nên khi nghe Tất Xuân tiết lộ tình cảm yêu thích Mã Liên Nhi, chưa thèm dò hỏi ý tứ của em gái y đã đồng ý ngay lập tức. Nào ngờ hôm nay đề cập chuyện đó với em gái thì bị nàng ta khóc lóc mắng cho một trận rồi đuổi ra ngoài.
Lúc này thấy Tất Xuân hỏi tới, mặt gã không khỏi đơ ra, ngập ngừng đáp:
- Chuyện này... Ty chức chỉ mới dò xét ý tứ của em gái một chút, vẫn chưa đề cập tới ý của đại nhân. Có điều đại nhân lãnh đạo quân đội một phương, quyền cao chức trọng, cô ấy xưa nay xem trọng anh hùng trượng phu, có lẽ sẽ không cự tuyệt.
Cặp mắt tam giác của Tất Xuân vẫn luôn chăm chú nhìn vẻ mặt của Mã Ngang, vừa nghe gã trả lời một cách miễn cưỡng, mặt lập tức sa sầm. Hôm nay sau khi trở về, Quan Thụ Anh đã lỡ miệng nói với hắn là có người đồn rằng vị Dương dịch thừa và Mã Liên Nhi cô nương có tình ý với nhau, nghe đâu gần đây muốn nạp nàng ta làm thiếp, khi đó Tất Xuân đã hết sức không vui.
Chẳng qua hắn nghĩ Mã Liên Nhi đang trọ trong dịch thự, sẽ khó tránh được lời ong tiếng ve của những kẻ rỗi việc. Luận thân phận, luận địa vị, Dương Lăng sao có thể bì được với mình? Nếu như Mã tiểu thư quả thật có ý làm thiếp Dương Lăng, vậy chẳng phải mình càng có hy vọng hay sao?
Nghĩ đến dáng vẻ cực kỳ xinh đẹp, kiều diễm của Mã Liên Nhi, hắn liền không quan tâm đến những lời đồn đãi kia nữa. Nhưng lúc này trông thấy thần sắc của Mã Ngang, hắn nghĩ "chẳng lẽ Mã tiểu thư không biết thủ lễ, thật đã có tư tình với Dương dịch thừa sao?", trong lòng liền cảm thấy khó chịu.
Mã Ngang thấy sắc mặt hắn âm u, không khỏi rùng mình, vội hoảng hốt nói tiếp:
- Việc hôn nhân đại sự nào ai cho phép phận gái tự mình làm chủ? Tục ngữ có câu "quyền huynh thế phụ", lời của ty chức sẽ là ý của cô em gái. Cô ấy giỏi cưỡi ngựa bắn cung, dạo gần đây tù túng ở trong thành nhất định cũng rất buồn chán.
Hôm trước Trương huyện lệnh mới nhậm chức đã mở tiệc chiêu đãi đại nhân, chi bằng ngày mai đại nhân mời Trương tri huyện đi săn, đến lúc đó ty chức sẽ hẹn em gái đi cùng. Đi săn về, trên bàn tiệc, ty chức tuyên bố gả em gái cho đại nhân ở trước mặt mọi người là xong.
Vẻ âm u trên mặt Tất Xuân lập tức tiêu tan, hắn cười ha hả:
- Nếu là như vậy, chuyện này sẽ giao cho ngươi! Chốc nữa hãy lấy thiệp của ta đi gặp Trương đại nhân nhé.
Mã Ngang khom người đáp:
- Vâng, đại nhân!
Tất Xuân vẫy tay cười, nói:
- Không cần câu nệ như vậy! Ngày mai ta và ngươi sẽ là người một nhà rồi, còn khách khí làm gì, ha ha ha...
(1) Ở đây Dương Lăng chơi chữ: "lạc phách" vừa có nghĩa là nghèo khổ, bần
cùng (còn gọi là "lạc bạc" 落泊), vừa có nghĩa là mất đi hồn phách. Y nói như vậy thì Mã Liên Nhi sẽ nghĩ đến nghĩa đầu, mà không nghĩ y đang nói đến cái chết.
Hồ hởi đến nỗi hai má căng mọng như quả táo chín, Hàn Ấu Nương vui sướng
nói:
- Thiếp biết mà! Tướng công là người đọc sách có tiền đồ nhất, nhất định sẽ có thể làm quan lớn. Đợi cha về thiếp sẽ nói cho người biết chuyện này, nhất định người sẽ cao hứng lắm đây.
Dương Lăng mỉm cười kéo nàng vào lòng, khẽ nói:
- Xem nàng cao hứng chưa kìa, nhỏ giọng một chút đi, tí nữa bẩm với nhạc phụ một tiếng là được rồi. Công hàm trong kinh đặc biệt nói rõ là tạm thời chưa được rêu rao ra ngoài, người biết chuyện càng ít càng tốt.
Hàn Ấu Nương cũng biết đây là quy củ làm quan của Cẩm y vệ, mặc dù có chút tiếc nuối vì chuyện phu quân làm đại quan mà không thể vinh hiển với xóm làng, nhưng y đã nói là không thể để người khác biết, nên nàng liền ngoan ngoãn đáp lời:
- Vâng, vậy chút nữa thiếp sẽ thông báo cho cha một tiếng, không nói ra ngoài là được rồi.
Hàn Ấu Nương càng ngoan ngoãn nhu mì, Dương Lăng càng cảm thấy áy náy trong lòng. Tuy rằng "tấm séc khống" chi cho Mã Liên Nhi chỉ là hoa trong gương, là trăng trong nước, là toà lâu đài vẽ trong không khí, nhưng y vẫn không đành lòng giấu gạt Ấu Nương. Thở dài một hơi, y vùi đầu vào cổ Ấu Nương, nhẹ vuốt làn da mịn màng của nàng, dè dặt nói:
- Ấu Nương, tướng công... còn có một chuyện...
Vừa nghe đến đó cơ thể Hàn Ấu Nương liền run lên, tức thời khuôn mặt đỏ
bừng như lửa, cả người trở nên mất tự nhiên. Đêm qua, sau khi được kiến thức "hung khí" đáng sợ của tướng công, lại nhớ đến lời mà mấy bà dì, bà thím vô duyên nhiều chuyện đã nói với mình, Ấu Nương không khỏi suy tưởng liên miên. Ai nói thiếu nữ không tơ tưởng yêu đương chứ? Sau khi Dương Lăng đã say giấc nồng, cô gái nhỏ này vẫn thường nằm chống cằm, si mê ngắm nhìn y non nửa buổi tối.
Lúc này bị Dương Lăng ôm vào lòng với một tư thế thân mật như vậy, lại nghe ngôn từ ám muội của y, lập tức Ấu Nương nghĩ lệch ý đi. Lông măng toàn thân dựng đứng cả lên, nàng ngượng ngùng hỏi:
- Tướng... tướng công, là chuyện gì?
Dương Lăng ấp úng kể lại chuyện Mã Ngang muốn gả em gái làm thiếp cho Tất đô ty cùng với chuyện hẹn ước ba năm của mình cùng Mã Liên Nhi. Kể xong, Dương Lăng đưa mắt nhìn trộm Ấu Nương, chỉ thấy vai của tiểu nha đầu này thoáng trùng xuống, vẻ ủ rũ lộ rõ trên khuôn mặt.
Dương Lăng áy náy:
- Ấu Nương, chuyện này là ta không tốt... Nhưng Tất đô ty đó... Ta... Ước hẹn ba năm của ta bây giờ cũng chỉ là nói suông như vậy thôi, tướng công chưa từng nghĩ tới việc hễ thấy con gái đẹp là rước về nhà đâu. Có nàng, tướng công thật sự đã rất thoả mãn rồi. Đừng giận có được không?
Khi vừa nghe Dương Lăng kể xong, thật sự Hàn Ấu Nương cảm thấy hơi khó chịu, nhưng nghĩ lại thấy tính cách của tướng công quả thật không phải là loại đàn ông phong lưu thành tính, mà kẻ làm quan lớn có mấy ai lại không năm thê bảy thiếp? "Theo tập quán, khi muốn nạp thiếp phu quân tuyệt nhiên không cần phải được mình đồng ý. Bây giờ chàng lại còn dè dặt, chỉ lo mình không vui như vậy, mình cũng nên biết tự vừa lòng rồi."
"Cha nói đúng, tướng công càng thương mình, mình càng phải thường xuyên nhắc nhở bản thân, ngàn vạn lần chớ nên vì được cưng yêu mà kiêu ngạo. Hơn nữa... Ài, ai bảo tướng công đã cùng trải qua một đêm với người ta làm chi, đổi lại là mình, đặt vào hoàn cảnh đó, về sau cũng sẽ khó mà lấy người khác, không thể hại
cả cuộc đời của Mã tiểu thư được."
Nghĩ vậy, Ấu Nương vui vẻ nói với Dương Lăng:
- Tướng công! Ấu Nương không phải là kẻ ghen tuông, đây cũng là duyên phận của Liên Nhi tỷ tỷ và chàng. Nếu đã như vậy, chút nữa chúng ta sẽ nhờ trưởng bối có danh vọng trên huyện ra mặt ước định chuyện này với nhà họ Mã trước nhé!
Dương Lăng thở phào nhẹ nhõm, đáp:
- Không cần đâu, bây giờ chưa nói tới chuyện đó vội. Tất đô ty là người có địa vị, chỉ cần Mã tiểu thư một mực không bằng lòng, hắn sẽ không dám làm chuyện ép gả ép cưới đâu. Không lâu nữa Mã tiểu thư sẽ đưa linh cữu về quê nhà Kim Lăng, nơi ấy những kẻ tài hoa, gia thế hiển hách nhiều không kể xiết. Không chừng ba năm sau người ta đã nhìn trúng một thanh niên tài năng xuất chúng nào đó rồi, hà tất phải trói buộc người ta làm gì!"
Tuy Hàn Ấu Nương không cam lòng chia sẻ tình yêu của trượng phu với người khác, nhưng cũng không thích nghe y nói lời hạ thấp bản thân. Trong con tim bé bỏng của nàng, phu quân mới là người trượng phu tài ba nhất, biết quan tâm tới nương tử nhất. Nếu như có một ngày Mã Liên Nhi thật sự chọn kẻ khác, vậy đúng là cô ấy có mắt không tròng.
Nghe Dương Lăng nói như vậy, nàng vứt bỏ lòng ghen tuông qua một bên, có phần không phục nói:
- Hứ, nếu thật sự như vậy thì nàng ta không có phúc rồi! Có ai tốt hơn tướng công của thiếp chứ?
Được nghe nàng khen như vậy, trong lòng Dương Lăng thầm cảm thấy ấm áp, y không kìm nổi bèn trêu:
- Nếu tướng công nàng tốt như vậy, vậy để ta kiếm thêm mấy tỷ muội nữa về cho nàng nhé?
Tuy biết rõ tướng công đang trêu mình nhưng Hàn Ấu Nương vẫn không khỏi
quýnh quáng:
- Không cần, không cần, không cần! Chúng ta... Chúng ta... Nồi trong nhà chúng ta không đủ nấu cho nhiều người như vậy đâu.
Thấy nàng luống cuống đưa lý do như vậy, Dương Lăng bật cười rộ, nào ngờ Ấu Nương lại bồi thêm một câu:
- Vả lại thân thể tướng công không tốt, chàng có thể không lo chứ thiếp phải lo đấy!
Tiếng cười của Dương Lăng bất chợt tắt ngúm, mãi một hồi lâu y mới "thẹn quá hoá giận", hầm hừ:
- Cái gì? Nàng chê thân thể ta yếu hử? Thân thể tướng công yếu lắm phải không?
- Không, không, không phải mà!
Hàn Ấu Nương cười tít mắt, giọng dịu dàng như thể đang dỗ trẻ con:
- Tướng công đổ oan người ta rồi! Người ta là nói thân thể chàng vừa phải mà, ưm ưm...
Lời còn chưa dứt, Dương Lăng đã khoá cái miệng xinh xắn của nàng bằng một nụ hôn, trong lòng tức tối thầm nhủ: "Bé con này được mình chiều quá đâm hư rồi, không ngờ đã bắt đầu trêu chọc mình. Hôm nay mình phải chấp hành gia pháp mới được, bằng không e chẳng bao lâu sẽ không còn 'Phu cương' gì nữa."
Nào ngờ chỉ hôn một lát, Dương Lăng đã cảm thấy có nơi nào đó bắt đầu phồng lên, y không khỏi say đắm nhìn xuống cái miệng nhỏ xinh của Ấu Nương, mang vẻ "nhục mất nước" mà khẩn cầu:
- Vợ yêu ơi! Tướng công vừa gần gũi nàng thì đã chịu không nổi nữa rồi, hãy giúp tướng công một chút được không? Ấu Nương ngoan, Ấu Nương...
Hàn Ấu Nương bật cười, tức tốc nhảy phóc ra khỏi đùi y, chạy vội ra ngoài. Chỉ nghe tiếng "loảng xoảng" vang lên, giọng nói của Ấu Nương vọng vào từ phía xa xa bên ngoài phòng:
- Mùa xuân trong người nhiều hỏa khí, tướng công uống nhiều trà một chút đi nhé! Sẵn tiết trời đang đẹp, thiếp đi giặt... giặt mền.
****************************** "Một chú ong mật chăm chỉ cần cù."
Đó là lời bình luận của Dương Lăng về ái thê. Nàng không cho y động tay động chân, lý do là đàn ông không nên rớ tới những thứ này. Do bị chiều riết đâm trở nên "kiêu ngạo", tiểu cô nương ngày càng lớn mật này còn bồi thêm một câu:
- Nam nhân chân tay vụng về, mang tiếng là giúp thu dọn đồ đạc, nhưng càng giúp càng bừa. Tướng công đại nhân của thiếp ơi, chàng hãy ngoan ngoãn ngồi yên ở đó đi!
Chàng tướng công họ Dương ngoan ngoãn ngồi yên được một lát, thấy Hàn Ấu Nương loay hoay lục lọi, thu xếp vật dụng cần đem lên kinh, y ngẫm thấy mình cũng nên thanh lý sổ sách, chỉnh lý lại những công hàm bí mật tới lui của Cẩm y vệ một chút, phòng khi vào kinh cần giao tiếp cũng đỡ phải luống cuống chân tay. Thế là y bèn báo Ấu Nương một tiếng rồi vội chạy về sở dịch.
Sắp xếp công hàm lại một lượt, vừa cho tất tần tật vào cái tủ có treo chiếc khóa hình con cá vàng, khóa tủ xong, Dương Lăng chợt nghe từ gian ngoài vang lên tiếng đập cửa, y vội kéo lê đôi giày chạy ra. Vừa mở cửa, Dương Lăng ngay lập tức nhìn thấy Mã Liên Nhi tay lót khăn đang bưng một chiếc nồi sắt nhỏ nghi ngút khói.
Dương Lăng rất đỗi ngạc nhiên, vội vàng tránh lối cho nàng bước vào. Mã Liên Nhi đặt chiếc nồi sắt lên bàn rồi e thẹn nói:
- Muội... muội thấy tối rồi mà huynh vẫn còn xử lý công vụ cho nên đã làm chút đồ ăn, cũng không biết có hợp với khẩu vị của huynh không.
Dương Lăng đã không còn ngây ngô như lúc mới đến thời đại này nữa, một người con gái chủ động làm cơm cho con trai là có ý gì, trong lòng y hiểu rất rõ. "Ba ngày xuống bếp làm cơm. Rửa tay, nấu bát canh thơm đã rồi (1)", Mã Liên Nhi lúc này đây đang mang tư tưởng cô dâu muốn xắn tay hầu hạ y.
Lúc dự tiệc trên huyện, Dương Lăng đã có ăn qua món này, biết được cái món "đả-biên-lô" (hay tả-pí-lù, tạp-pín-lù) này chính là món lẩu (2). Y mở vung ra, chỉ thấy trong chiếc nồi nghi ngút khói là rau cải xanh biếc, nấm ăn đen đen, thịt hoẵng trắng hồng, gừng lát xanh nhạt..., thật khiến cho người ta phải phát thèm. Dương Lăng buột miệng khen:
- Thơm quá! Còn thơm hơn cả bếp trưởng ở lầu Hồng Nhạn nấu nữa.
Được y khen ngợi, Mã Liên Nhi vui mừng ra mặt. Nàng lấy đôi đũa từ trong ống tay áo ra, định bảo y nếm thử, thế nhưng ngoài cửa chợt vọng vào giọng nói phấn khởi của Hàn Ấu Nương:
- Tướng công, đại ca đem từ Phủ thành về một ít vật hiếm lạ nè, đây là...
Theo tiếng nói, Hàn Ấu Nương sải bước vào trong cửa, vừa trông thấy Mã Liên Nhi cũng ở đây, nàng không khỏi ngẩn người. Tuy Mã Liên Nhi đã được Dương Lăng chấp nhận, nhưng dẫu sao thân phận vẫn xem như là người ngoài, hôm nay bị Ấu Nương bắt gặp tại trận, nàng lập tức xấu hổ đến nỗi đỏ bừng cả mặt.
Dương Lăng cũng không hề chuẩn bị tâm lý cho cục diện "hậu chiếu hậu" như thế này. Ba người tròn mắt ngẩn tò te nhìn nhau một chốc, bất chợt Hàn Ấu Nương nhoẻn miệng cười:
- Liên Nhi tỷ tỷ, tỷ cũng ở đây à?
Mã Liên Nhi thở phào nhẹ nhõm. Nàng ngượng nghịu nói:
- Ấu Nương muội muội, ta... tối nay ta có làm món đả-biên-lô, thế nên mang đến mời Dương đại ca nếm thử. Tay nghề của ta không sánh bằng muội, nếu muội không chê, hãy đến đây nếm thử chút đi!
Thấy trong tay Ấu Nương đang cầm mấy vật không nhìn rõ do khuất ánh đèn, Dương Lăng tò mò hỏi:
- Ấu Nương, nàng cầm gì thế? Hàn Ấu Nương đáp:
- Tướng công! Đây là thứ mà đại ca mang từ Phủ thành về, nghe nói nó được mang tới Đại Minh chúng ta từ các nước phiên bang, gọi là khoai ngọt, luộc chín ăn rất ngọt. Chàng nếm thử đi! À, Liên Nhi tỷ tỷ, tỷ cũng nếm thử xem!
Nhìn thấy vật được nàng giơ lên ấy, Dương Lăng không khỏi ngạc nhiên thốt:
- Khoai lang?
Cẩn thận nhìn kỹ, đây quả đúng là hai củ khoai lang. Hàn Ấu Nương lấy làm lạ hỏi:
- Tướng công biết nó à? Đây là sản vật từ phiên bang mang về đấy. Nghe đại ca nói ở phương nam có người trồng, ở nơi này nó vẫn là của hiếm, nhưng không hề đắt. Thế nên đại ca mua một ít về nếm thử cho biết.
Dương Lăng vội lấp liếm:
- Ta... à, lúc ta đi tới Phủ thành thi hương, từng thấy thứ này. Đoạn y cười nói tiếp:
- Trông thế này e là nó đã để qua cả mùa đông, lượng nước ít đi, nướng lên ăn sẽ ngọt hơn. À phải rồi, so với ngũ cốc chúng ta trồng ở đây, thứ này dễ sinh trưởng hơn, sản lượng lại nhiều, sao không trồng với số lượng lớn nhỉ? Một mẫu phỏng chừng có thể thu hoạch được không ít lương thực đấy.
Nhìn vật trong tay, Hàn Ấu Nương tò mò hỏi:
- Vật này không có hạt giống thì sao mà trồng nhỉ? Hơn nữa cũng không biết nó
có thích hợp với đất canh tác nơi đây của chúng ta hay không, người làm nông vẫn phải dựa vào thu hoạch mỗi mùa để mà sống qua ngày, ai dám mạo hiểm trồng nó chứ?
Lúc này Dương Lăng mới sực nhớ rằng y chưa bao giờ nhìn thấy các loại cây nông nghiệp thích hợp trồng trọt ở phương bắc như ngô, khoai lang, khoai tây được trồng ở Kê Minh cả. Cây nông nghiệp ở nơi đây căn bản vẫn là các giống như lúa mạch, lúa gạo, đậu, kê, vân vân... Xem ra, theo con đường mậu dịch hàng hải, những sản vật của nước ngoài này đã được đưa vào Đại Minh, chỉ có điều vẫn chưa được phổ biến rộng rãi. Nếu phổ biến những loại cây nông nghiệp này, vậy sản xuất nông nghiệp của cả Đại Minh sẽ được nâng cao biết bao.
Dương Lăng biết nông dân xem trọng nhất là đất đai, nếu như đột nhiên bắt bọn họ trồng những thứ cây lạ lẫm thay thế cho những giống cây lương thực truyền thống từ mấy trăm năm qua, chỉ sợ sẽ chẳng có ai dám mạo hiểm như vậy. "Lần này tiến kinh, có lẽ nên tìm cơ hội đề xuất với triều đình một phen, nếu chuyện này được chú trọng, rồi sau đó triều đình ra mặt phát triển những thứ cây trồng này trên diện rộng, vậy cũng xem như là mình đã làm được một chuyện ích nước lợi dân rồi!"
Nghĩ đến đó, Dương Lăng mừng vui khôn xiết. Y biết mình chưa động đến thì Ấu Nương nhất định sẽ không ăn một miếng nào, nên bèn khấp khởi nhận lấy củ khoai lang từ tay Ấu Nương. Y bẻ một miếng lớn, trìu mến đút vào cái miệng nhỏ xinh của nàng, nói:
- Nàng nếm thử xem ăn có ngon không?
Đưa mắt liếc qua, thoáng thấy mặt Mã Liên Nhi đầy vẻ hâm mộ, những tưởng là nàng cũng thèm vật hiếm lạ mà trước giờ chưa từng được thấy này, y bèn nhét củ khoai lang vào tay nàng, cười bảo:
- Đây, cô cũng nếm thử đi, ngọt lắm!
Mã Liên Nhi ưm một tiếng, nhìn y đầy vẻ tình ý mặn nồng. Nàng vừa cho khoai lang vào miệng, chợt nghe Hàn Ấu Nương "ợ" một tiếng, vẻ mặt trở nên khá là kỳ
dị. Hoá ra bị Dương Lăng bẻ một miếng khoai lang lớn đút vào miệng, ngại má phồng lên sẽ trông khó coi nên Hàn Ấu Nương nuốt vội, không ngờ lại bị nghẹn.
Mã Liên Nhi thấy vậy vội vàng bỏ củ khoai qua một bên, dìu Ấu Nương ngồi xuống ghế, mang chén trà của Dương Lăng đến, nói:
- Ấu Nương muội muội! Muội uống miếng trà đi!
Ấu Nương đón lấy chén trà, hớp vài hớp cho thấm họng, thông cổ, đoạn liếc nhìn nàng như có thâm ý, ngại ngùng nói:
- Khiến Liên Nhi tỷ chê cười rồi, có điều cái thứ này ngọt thật đấy. Liên Nhi tỷ, tỷ cũng nếm thử đi!
Mã Liên Nhi ừm một tiếng, cầm lấy củ khoai, sau đó lại đặt đôi đũa vào tay Ấu Nương, nhẹ giọng bảo:
- Muội muội cũng nếm thử tay nghề của ta đi! Ta không giỏi nấu nướng, muội đừng chê cười nhé!
Hai người con gái, một người ăn khoai lang, một người nếm lẩu, bầu không khí bỗng trở nên chan hoà trong tiếng nói cười vui vẻ. Dương Lăng đứng một bên, không hề hay biết vừa rồi "thượng viện" và "hạ viện" đã đạt được một nghị quyết chung về vấn đề chủ quyền quốc gia và liên hợp cầm quyền.
(1) Hai câu thơ này được trích trong bài "Tân giá nương" (Nàng dâu mới) của Vương Kiến (王 建 ) thời Đường.
Nguyên văn:
Tam nhật nhập trù hạ, Tẩy thủ tác canh thang. Vị am cô thực tính,
Tiên khiển tiểu cô thường.
Dịch nghĩa:
Ngày thứ ba (cô dâu) xuống bếp Rửa tay sạch rồi nấu món canh
Vì chưa biết rõ khẩu vị của mẹ chồng Nên nhờ cô em chồng nếm thử trước. Dịch thơ - Trần Trọng Kim:
Ba ngày xuống bếp làm cơm,
Rửa tay, nấu bát canh thơm đã rồi. Chưa hay tính mẹ thường xơi,
Nhờ em nếm trước, xem mùi được không. (theo thivien.net)
(2) Lẩu là cách gọi theo kiểu phiên âm từ chữ 爐 ( lú), đọc là lô. "Đả biên lô" tức là món ăn nấu chín bên lò lửa (biên lô).
Tất đô ty và Trương huyện lệnh mới nhậm chức cùng một số quan chức dân sự lẫn quân sự đang cưỡi ngựa đi vòng qua núi Kê Minh. Phía trước là một thảo nguyên, vài chú chim đang bay lượn là là trên thảm cỏ. Trương huyện lệnh là tiến sỹ năm Hoằng Trị thứ mười hai (1499), tuy là thư sinh tuổi trạc tam tuần nhưng lại đang cưỡi chiến mã, kỵ thuật cũng tương đối rành rẽ.
Đi song song với Trương huyện lệnh, Tất đô ty quay sang mỉm cười nói:
- Tất mỗ xưa nay vẫn cho là thuật cưỡi ngựa bắn tên trong học xá (như trường học - ND) chỉ là chuyện hư hão mà thôi. Khi nãy nghe quý sư gia nói Trương đại nhân có thể kéo cung ba thạch (1 thạch bằng 60 kg, cung ba thạch là loại cung cần dùng lực kéo 180kg mới có thể kéo được – ND.), trong vòng trăm bộ (khoảng 167 mét, một bộ là 5/3 mét – ND.) bách phát bách trúng, ấy thật là văn võ song toàn.
Vừa nói ánh mắt hắn lại vừa lơ đễnh liếc trộm Mã Liên Nhi. Mã Liên Nhi đang cưỡi một thớt ngựa đỏ tía, trên người mặc trang phục đi săn, khoác thêm một chiếc áo lụa mỏng ở bên ngoài, tất cả đều có màu xanh sẫm, chân nàng vẫn xỏ đôi giày tang, lưng thắt đai trắng, bên hông còn giắt thanh loan đao nhỏ như để làm đồ trang sức. Nàng khoác nghiêng chiếc cung, lưng đeo ống tên, trang phục khoẻ khoắn mang phong cách của dị tộc vùng Tái ngoại khiến nàng càng thêm phần lộng lẫy.
Gió xuân thổi chiếc áo khoác lụa tung bay, vừa hay giúp cho bộ trang phục đi săn tôn lên những đường cong quyến rũ của nàng. Đằng sau chiếc áo lụa mỏng tanh, những đường cong hoàn mỹ mang đầy hơi thở của tuổi thanh xuân ấy lúc ẩn lúc hiện, quyến rũ vô cùng. Nghĩ đến việc mấy ngày nữa sẽ có thể ôm lấy tiểu mỹ nhân quyến rũ này vào lòng, Tất đô ty không khỏi sinh lòng dâm dục.
Thật tình hắn lười chẳng muốn để ý đến Huyện thái gia, trong lòng thầm hận
trên thảo nguyên này không thể chỉ có hắn và Mã Liên Nhi, hai người lấy đất làm giường, lấy trời làm chăn, điên đảo một phen cho sướng. Nhưng dẫu gì hắn cũng là đại quan có thân phận trong triều đình, đừng nói hiện giờ Mã Liên Nhi còn chưa phải là thiếp của hắn, cho dù đã được hắn cưới về, lúc này hắn vẫn đang ở cùng một chỗ với đồng liêu, nếu chỉ lo cho ái thiếp của mình thì thật quá mất thân phận.
Nghe được lời "khen tặng" của Tất đô ty, Trương huyện lệnh dè dặt mỉm cười, vuốt râu khiêm tốn đáp:
- Đại nhân quá khen rồi. Lúc còn ở học xá, bổn huyện tuy cũng tập bắn cung cưỡi ngựa, nhưng nào so được với đại nhân và các vị mãnh tướng trong quân. Về phần cây cung ba thạch đó thì... bổn huyện quả thực là không giương nổi, có điều bách phát bách trúng... Ha ha ha, Tất tướng quân hẳn không biết! Bia trong học xá của chúng ta ở Phúc Kiến có đường kính gần một trượng.
Bia lớn có đường kính một trượng? Tất đô ty nghe xong, thoạt tiên ngây người, sau đó bật cười ha hả. Các quan bên cạnh phần lớn là người phương bắc hoặc tướng lĩnh trong quân, tất cả đều không kềm được vẻ tủm tỉm, có người vội hắng giọng nhằm che giấu nụ cười. Với bia có đường kính một trượng, nếu nói trong vòng trăm bộ bách phát bách trúng thì thật sự cũng chẳng có gì đáng khoe khoang. Bọn họ quả thật không ngờ bia trong học xá ở phương nam lại lớn như vậy.
Mã Liên Nhi ngồi trên lưng ngựa, vẻ mặt như cười mà chẳng phải cười, tâm tư ngơ ngẩn, chỉ thả hồn vào tâm sự của bản thân. Mã Ngang cẩn thận liếc nhìn vẻ mặt của em gái, thấy nàng sắc mặt bình tĩnh, hắn còn tưởng rằng nàng thấy Tất đô ty đầu đội mũ, thân mặc giáp, oai phong lẫm liệt, thế nên đã bị rung động bởi khí phách anh hùng của gã, lúc này mới cảm thấy yên tâm.
Buổi sáng Mã Liên Nhi bị ca ca gạt ra ngoài, lấy lý do là rủ nàng đi dạo chơi săn bắn. Lúc này trái tim đã có chốn về, Mã Liên Nhi đang cảm thấy cực kỳ vui vẻ, do vậy nàng cũng không muốn tỏ ra quá khắt khe với người thân duy nhất của mình. Huống hồ khi ở tái ngoại, hầu như mỗi ngày nàng đều cưỡi ngựa bắn cung, từ khi trở về Trung Nguyên thì đã lâu không thử lại tay nghề, nên nàng bèn vui vẻ đồng ý ngay. Nào ngờ sau khi cưỡi ngựa ra ngoài thành bằng con chiến mã do ca ca
dắt đến, Mã Liên Nhi thấy một đám quan chức, lại còn có cả Tất đô ty, lúc bấy giờ nàng mới hiểu rõ ý đồ của ca ca mình.
Vốn Mã Liên Nhi muốn quay đầu ngựa bỏ đi ngay, nhưng hiện đang có nhiều quan viên không hiểu rõ sự tình đang ở đây, nàng làm như vậy sẽ quá thất lễ. Sợ rằng nàng vừa mới bỏ đi, lập tức sẽ xuất hiện rất nhiều lời võ đoán và chỉ trích. Nếu là trước đây nàng còn có thể chẳng để tâm đến cách nhìn của người khác, nhưng hôm nay nàng đã tự xem mình là người của nhà họ Dương, nên không dám không kiêng nể điều gì như trước nữa, đành phải đi theo tới thảo nguyên.
Tối hôm qua, sau khi được Ấu Nương ngầm tỏ ý tiếp nhận, xem như chuyện sau này được gả vào nhà họ Dương đã là trăm phần trăm, Mã Liên Nhi vừa yên tâm lại vừa cảm thấy ngọt ngào. Nàng hoàn toàn ngây ngất trong tâm tình của bản thân, đôi mắt lung linh trong veo như nước hồ thu thỉnh thoảng hoà theo dòng cảm xúc.
Nàng lúc thì mỉm cười, khi thì e thẹn, phối hợp với ngũ quan xinh xắn mê người tạo nên một vẻ quyến rũ khôn tả.
Khi Tất đô ty nhìn nàng bằng ánh mắt nóng bỏng thì nàng cũng nhận biết. Nàng thấy hắn tự cao rằng bản thân là người có danh phận, chẳng những không dám đến gần bắt truyện với nàng, mà còn khi nhìn nàng cũng phải mượn lúc nói chuyện với người khác rồi liếc một cái thật nhanh, như thể sợ sẽ làm mất cái vẻ "oai phong" của một gã tướng quân vậy. Trong lòng nàng chỉ cảm thấy cái vẻ giả dối của hắn thật buồn cười.
Dương đại ca. Ôi, Dương đại ca!
Nghĩ đến Dương Lăng, lòng Mã Liên Nhi lại thầm cảm thấy ngọt ngào. Dương đại ca chẳng như cái kẻ kia, huynh ấy thèm vào quan tâm đến việc người khác nghĩ gì về bản thân. Ngày đó hai người bọn mình từ trong vùng rừng núi trở về thành, mấy người Mẫn đại nhân, Giang bả tổng đều đứng trên tường thành, nhưng khi bước vào thành Dương đại ca lại chỉ ôm chặt lấy Ấu Nương đang đẫm lệ vào trong lòng, sau đó còn dỗ dành, chọc cười muội ấy, mặc kệ những người xung quanh. Lúc nhìn Ấu Nương, đôi mắt ấy huynh ấy tựa như đang ngắm bảo vật trong lòng vậy.
Nghĩ đến đây, lòng Mã Liên Nhi lại không khỏi rạo rực. Chỉ cần có một ngày
huynh ấy cũng có thể nhìn mình bằng ánh mắt chở che yêu thương như vậy, đừng nói là chờ ba năm, dù có chờ ba mươi năm, chờ cả đời, mình cũng sẵn lòng.
Nghĩ vậy, Mã Liên Nhi bất giác lại mỉm cười.
Suốt nãy giờ Giang Bân vẫn ở bên cạnh ngắm nàng, lúc này thấy nụ cười xinh như nụ đào hé nở làm mê đắm lòng người kia, cặp mắt hắn không khỏi muốn rớt ra ngoài. Hôm đó Mã Liên Nhi từ ngoài thành trở về, áo quần nhếch nhác, tóc mai tán loạn, trong mắt hắn nàng đã chẳng khác gì tiên nữ rồi. Hôm nay nàng trang điểm nhạt, trang phục khoẻ khoắn, đẹp đến mức khiến người ta phải nghẹt thở. Ôi trời, nếu như có thể cưỡi lên người đại cô nương hoa nhường nguyệt thẹn này thì...
Giang Bân nuốt nước miếng ừng ực, rồi ngẩng đầu oán hận liếc nhìn Tất Xuân, trong lòng thầm nhủ: "Con mẹ nó, nếu mình mà cũng là một đại tướng quân, dù gì cũng phải cưới cô nàng như vậy về thì mới không tính là uổng phí cuộc đời."
Từ miệng thân binh trong quân của Tất đô ty, gã cũng đã nghe phong phanh tin tức Tất Xuân muốn nạp Mã Liên Nhi về làm thiếp. Hôm nay Tất Xuân mời các vị quan lại trong vùng du xuân, chỉ đem theo mỗi một cô gái này, thật ra không chỉ có gã, đa số quan lại có mặt nơi đây cũng đã đoán được vài phần.
Từ trong bụi cỏ phía trước một con hươu bào béo múp chợt nhảy ra, lao về phía sườn núi cách đó không xa. Quan Thụ Anh hô to lên:
- Đại nhân, ngài mau nhìn kìa, có một con hươu bào!
Những kẻ này ai nấy trên lưng đều đeo quân cung (Để phân biệt với cung dùng trong săn bắn – ND.), nghe thấy vậy đều vội vã lấy cung ra cầm trên tay. Nhưng đám quan viên thì không ai động thủ, những thân binh kia có bắn tên ra cũng chỉ để chặn đường chạy của con hươu, dọa nó phải chạy sang hướng khác mà thôi. Con mồi ư? Đương nhiên là để dành cho tướng quân đại nhân bắn rồi.
Con hươu bào ngốc nghếch đáng thương đó bị những mũi tên chuẩn xác của đám thân binh dọa sợ hãi chạy loạn cả lên. Hai người Tất đô ty đứng đầu võ tướng và Trương huyện lệnh đứng đầu văn quan lúc này đều đã cầm cung, rút tên, nhưng
lại không ai động thủ. Hai tên cứ ở đó khiêm tốn nhường nhau, toàn nói mấy câu khách sáo kiểu nhà quan như "mời đại nhân bắn trước mở màn, để bọn tôi được kiến thức một phen"...
Mã Liên Nhi thấy bọn họ đi săn mà cũng giả tạo khách sáo như vậy, hoàn toàn không có cái lạc thú của việc dạo tiết thanh minh hay săn bắn, bèn thầm hừ một tiếng, khinh bỉ quay ngoắt đầu đi. Thị vệ tùy thân của Tất đô ty là Trịnh Đại Bằng thúc ngựa chạy lên phía trước thưa với Tất Xuân và Trương huyện lệnh:
- Các vị đại nhân, hôm nay Mã tiểu thư là phụ nữ duy nhất trong nhóm chúng ta, theo ty chức thấy, mũi tên mở màn này chi bằng mời Mã tiểu thư ra tay. Mã tiểu thư vận quân trang, chắc hẳn thuật cưỡi ngựa bắn cung cũng bất phàm.
Trương đại nhân được mệnh danh có thể giương được cung ba thạch, nội trong trăm bộ bách phát bách trúng, đối mặt với con hươu bào béo ú cách có mấy chục bộ đó thật sự cũng hơi lo, lo là mũi tên mở màn ấy nếu thật có trúng thì cũng sẽ phải nghe toàn những lời hoan hô ngược mà thôi. Cho nên khi nghe thấy lời của Trịnh Đại Bằng, hắn như được đại xá, lập tức vỗ tay cười nói ngay:
- Hay lắm, hay lắm, bậc anh thư không thua gì trang nam tử mà. Vậy mời Mã tiểu thư bắn mũi tên mở màn này, chúng ta xin rửa mắt mà trông.
Được gãi đúng chỗ ngứa, cặp mắt tam giác của Tất đô ty cũng trở nên hoà nhã hơn hẳn. Cuối cùng hắn cũng có cơ hội đường hoàng quay sang nói chuyện với Mã Liên Nhi mà không sợ kẻ khác dị nghị chê cười. Hắn lập tức nghiêng người sang phía Mã Liên Nhi, cười nói:
- Mã tiểu thư, vậy mời cô thi triển thân thủ được không?
Hắn vừa nói xong, mọi người lập tức dạt ra hai bên, nhường đường cho Mã Liên Nhi.
Thật ra, do câu nói vô tình mời Mã Liên Nhi bắn phát tên đầu của Trịnh Đại Bằng mà lúc đó Tất đô ty mới nảy ra ý nghĩ lấy lòng nàng. Nhưng Mã Liên Nhi lại không biết nội tình, nàng cho là gã Tất đô ty thông đồng cùng thân binh sắp đặt từ
trước, nên trong lòng càng thêm chán ghét gã.
Nàng nheo đôi mắt lại thành hai đường cong vút, sau đó mỉm cười đáp:
- Tất tướng quân thân kinh bách chiến, sát khí bức nhân, Trương đại nhân thiện xạ như thần, trăm phát trăm trúng. Tiểu nữ lưng đeo cung chẳng qua cũng chỉ là hư trương thanh thế, nào dám múa rìu trước mặt hai vị đại nhân? Tiểu nữ còn mong được kiến thức sự thần dũng của hai vị đại nhân một chút nữa cơ.
Giọng nói nàng vô cùng mềm mại và ngọt ngào. Thật ra chẳng qua nàng chỉ cố ý nói bằng giọng trong trẻo hơn một chút, nhưng âm thanh như vậy phát ra từ miệng mỹ nhân, kẻ khác sẽ có cảm giác nũng nịu lả lơi, quyến rũ khôn tả.
Mã Ngang vừa nghe liền biết không ổn. Hắn là người biết rõ tính khí của em gái mình nhất, hiểu rằng một khi cô em dùng giọng điệu như vậy để nói chuyện, chính là lúc nàng sắp hết kiên nhẫn, muốn nổi nóng rồi. Hắn vừa định chạy lên dàn xếp, không ngờ Giang Bân vừa nghe âm thanh hớp hồn của Mã Liên Nhi, xương cốt liền nhũn ra, thiếu chút nữa đã ngã cắm đầu xuống đất.
Lúc ấy mọi người đều đang nghe Mã Liên Nhi nói, mà gã lại ở gần Mã Liên Nhi nhất, cho nên tức thời toàn bộ ánh mắt đều tập trung trên người gã. Tuy da mặt không phải là mỏng, nhưng Giang Bân cũng hơi xấu hổ ngượng ngùng. May là gã rất nhanh trí, vội vàng cười nói:
- Ài, câu bậc anh thư không thua gì trang nam tử của Trương đại nhân làm ty chức lại nhớ đến phu nhân của Dương dịch thừa.
Trên chiến trường nào đã từng cho phép đàn bà ra trận, nhưng ngày đó giặc Thát công thành, Dương phu nhân nữ cải nam trang, đã ở trên thành hiệp trợ quân ta anh dũng giết giặc, đó chẳng phải là Hoa Mộc Lan, bậc anh thư không thua gì trang nam tử hay sao? Dương phu nhân đã từng một tên bắn chết gã Thát Tử khiêu chiến dưới thành. Lúc ty chức đi thu dọn xác chết, thấy gã đó bị mũi tên cắm vào từ sau gáy, rồi xuyên hẳn ra ngoài ngay dưới cổ họng ba tấc, một tên trí mạng. Tiễn pháp ấy thật không tầm thường, ha ha ha, thật không tầm thường.
Tất đô ty nghe xong bèn cười ha hả khen:
- Dương dịch thừa trói gà không chặt, không ngờ Dương phu nhân lại giỏi võ nghệ như thế. Mã tiểu thư, cô cũng chớ nên khước từ nữa, chi bằng cô cũng thi triển tài nghệ đi được chăng?
Thật ra thì tiễn thuật của Mã Liên Nhi ra sao hắn cũng chẳng để ý, chẳng qua là muốn dỗ dành cho nàng vui vẻ mà thôi, cho dù nàng có sẩy tay thì hắn cũng có thể cười xoà, nữ nhân mà!
Tuy Mã Liên Nhi mang lòng cảm kích Hàn Ấu Nương, đã xem nàng là tỷ muội thân thiết nhất của mình, song nội tâm con người rất là kỳ lạ, trong tiềm thức nàng lại rất sợ mọi người nghĩ rằng Ấu Nương tài giỏi hơn mình. Địa vị của nàng sau này đã không thể bằng với Ấu Nương, nếu Ấu Nương lại còn xuất sắc hơn nàng ở mọi mặt, trong lòng nàng sẽ càng cảm thấy không an toàn.
Cho nên vừa nghe Giang Bân nói tiễn thuật của Ấu Nương xuất sắc, Mã Liên Nhi liền nổi lòng háo thắng, lập tức thôi không khước từ nữa mà tháo cung tên xuống, tay phải đưa ra sau rút luôn năm mũi tên từ trong ống. Mọi người không khỏi kinh ngạc ồ lên một tiếng, không biết nàng muốn làm gì. Có vài gã quan văn không am tường võ nghệ còn cười thầm, cho là nàng căn bản không biết bắn cung.
Mã Liên Nhi giật cương thúc ngựa phóng lên mấy bước, đoạn thả cương xuống, tay trái cầm cung, tay phải cầm ngược bốn mũi tên ở phần lông đuôi, chỉ đặt một mũi lên dây cung. Sau đó nàng hít sâu một hơi, kéo căng cây cung như trăng rằm rồi buông dây, một mũi tên lao vụt đi.
Mọi người còn chưa kịp quay đầu xem mũi tên đó đã trúng hay chưa, Mã Liên Nhi đã như làm xiếc, tay phải phất khẽ, lại một mũi tên nữa được đặt lên dây, thủ pháp nhanh nhẹn vô cùng. Chỉ nghe tiếng dây cung "tạch, tạch " liên tiếp mấy tiếng, năm mũi tên lướt đi cực nhanh, tên này nối tiếp tên kia bay đi vun vút. Tên bắn ra liên tục liền trong một hơi, khiến mắt người không theo kịp.
Bắn năm mũi tên xong, Mã Liên Nhi lật tay khoác chéo chiếc cung lên vai như cũ, rồi nàng quay đầu ngựa lại, khẽ mỉm cười nói:
- Tiểu nữ đã sẩy tay rồi.
Mọi người đang há hốc mồm kinh ngạc, nghe thấy vậy bèn ngẩng đầu nhìn ra phía xa, chỉ thấy năm mũi tên tạo thành hình ngũ giác nhốt con hươu bào đang run lẩy bẩy vì sợ kia vào giữa. Khoảng cách giữa các mũi tên gần như toàn bộ giống hệt nhau, như thể đã được đo đạc đàng hoàng.
Sau một lúc lâu, một tay tướng lĩnh dưới trướng Tất đô ty kinh ngạc thốt lên:
- Liên châu tiễn pháp! Đồn rằng thần tiễn Triết Biệt (1) của giặc Thát nhanh nhất cũng chỉ có thể bắn một lần chín tên, Mã tiểu thư không ngờ lại bắn được năm mũi liền lúc, thật là lợi hại, thật là lợi hại!
Mọi người nghe xong, bất luận là hiểu hay không hiểu đều ca tụng không ngớt.
Tất đô ty vừa kinh ngạc vừa mừng rỡ, càng không tiếc lời ngợi khen. Đôi mắt to tròn đen láy của Mã Liên Nhi thoáng liếc về phía Giang Bân như để thị uy, trên mặt mang theo mấy phần đắc ý.
Đúng vào lúc này, đằng xa có một người cưỡi ngựa phóng vội đến. Mọi người đều quay đầu nhìn, chỉ thấy kẻ đó càng lúc càng gần. Khi kẻ đó chạy đến gần mọi người mới thấy rõ trên người hắn vận áo số (Áo được đánh số, dùng cho các binh sỹ và nha dịch thời xưa – ND.) của dịch trạm, cưỡi một thớt dịch mã. Khi đến trước mặt mọi người hắn ghìm cương lại, vẻ mặt nôn nóng nhìn khắp đám người như đang tìm kiếm ai đó.
Vừa thấy y Mã Liên Nhi liền nhận ra đó là đại ca Hàn Uy của Ấu Nương, bèn vội vàng thúc ngựa chạy lên mấy bước hỏi:
- Hàn đại ca! Sao huynh lại đến đây?
Hàn Uy mặt đầy mồ hôi, cũng không biết là vì đang nôn nóng hay vì mệt, y vừa đưa ống tay áo lên quệt mồ hồ trên mặt vừa nói:
- Mã tiểu thư, tôi tìm cô đến khổ. Kinh thành đột nhiên cử một vị công công đến, ông ta phụng thánh chỉ của hoàng đế đến truyền lệnh Dương Lăng lập tức vào
kinh. Em gái và em rể kêu ta báo với cô một tiếng, nhưng ta không biết các người đang săn bắn ở chỗ nào. Vừa rồi ta đã phải chạy khắp các nơi xung quanh một lượt đấy...
Y còn chưa nói xong, Mã Liên Nhi đã cả kinh la lên một tiếng, hai chân thúc vào bụng ngựa, không hề quay đầu mà giục ngựa phi thẳng về trạm Kê Minh. Các quan viên ngơ ngác nhìn nhau, bọn quan viên ở nha huyện còn to nhỏ thì thầm, sắc mặt kỳ dị. Mã Liên Nhi vừa nghe nói Dương Lăng đã đi rồi, lập tức tỏ ra vô cùng nôn nóng, thậm chí còn không thèm gởi lại một câu chào cho phải phép. Nàng và Dương Lăng một là không thân không thích, hai là chẳng phải bạn bè, nếu nói hai người bọn họ không có tư tình, ai mà tin chứ?
Tất đô ty mặt mày xám xịt, cặp mắt tam giác đỏ ngầu, cả người hơi run rẩy. Mã Ngang phi ngựa đến bên cạnh hắn, run rẩy gọi nhỏ:
- Tất... Tất đại nhân...
Tất đô ty cười gằn một tiếng, xoay người giương cung lắp tên. Sau tiếng kêu rền rĩ của dây cung, mũi tên sắc bén "chíu" một tiếng bay đi, bắn xuyên qua thân con hươu đang bị vây trong năm mũi tên không dám động đậy, khiến nó gục xuống đất.
(1) Triết Biệt hay còn gọi là Giả Biệt (không rõ năm sinh - mất 1225) là một trong những viên đại tướng của Thành Cát Tư Hãn. Ông nổi tiếng với tài bắn tên bách phát bách trúng. Người ta cho rằng Triết Biệt không phải là tên thật của ông mà là do Thành Cát Tư Hãn đặt cho (trong tiếng Mông Cổ, Triết Biệt có nghĩa là thần tiễn)
Khi Thành Cát Tư Hãn đem quân tấn công bộ lạc Tần Diệc Xích Ngột, Triết Biệt hăng hái chống cự. Trong lúc chiến đấu ông đã bắn bị thương Thành Cát Tư Hãn nhưng do quân địch quá đông, bộ lạc của ông thua. Triết Biết bị bắt, đầu hàng Thành Cát Tư Hãn và trở thành viên tướng dưới quyền.
Sau này Triết Biệt đi theo Thành Cát Tư Hãn chinh chiến, lập được rất nhiều công lao. Triết Biệt đã từng cầm quân tấn công Trung Quốc, Trung Á và Đông Âu.
Ông chưa bao giờ tỏ ra cậy công, luôn tỏ ra trung thành với Thành Cát Tư Hãn. Triết Biệt mất trên đường đánh Kievan Rus, một quốc gia có thủ đô là Kiev, lãnh thổ ngày nay trải dài trên Belarus, Ukraina và Liên Bang Nga. (theo wikipedia)
Tuấn mã cao lớn tuyền một màu trắng, yên ngựa hoa lệ, khôi giáp những gã võ sĩ trên ngựa mặc tinh mỹ hơn trang phục của quân biên phòng gấp không biết bao nhiêu lần. Sau khi vào thành, xe ngựa không hề dừng lại, đội nghi trượng (1) tiến thẳng về phía sở Dịch thừa.
Trong sở dịch, Dương Lăng đang uống trà tán gẫu cùng Liễu Bưu và Dương Nhất Thanh, nghĩ mọi cách hòng moi thêm tin tức về kinh thành và cẩm y vệ từ miệng bọn họ. Lúc này một gã dịch tốt vội vội vàng vàng chạy vào bẩm báo:
- Đại nhân, có quan viên đi qua đây đến đưa thư trú giá (thư yêu cầu được ngụ lại tại sở dịch đương địa – ND.), đội xe đã sắp đến nơi rồi.
Nghe xong, Dương Lăng cảm thấy rất đỗi kỳ lạ. Tuy rằng sở dịch chịu trách nhiệm tiếp đãi các quan viên qua lại, nhưng cách trạm Kê Minh này không xa chính là địa bàn của người Thát Đát, cho nên chưa từng có quan lớn ghé qua. Nếu như có quan viên đến đưa thư trú giá, vậy quy mô đội xe nhất định không nhỏ, là ai đến đây nhỉ?
Liễu Bưu và Dương Nhất Thanh vội vã theo y ra ngoài đón khách. Trên con đường truyền tin trước mặt một chiếc xe ngựa đang chầm chậm đi tới, ở hai bên chiếc xe, mỗi bên có tám thớt tuấn mã được cưỡi bởi những kỵ sĩ đầu đội mũ thân mặc giáp, thập phần uy vũ.
Vừa thấy lá hoàng kỳ cắm trên xe ngựa, Liễu Bưu mau chóng tiến lên một bước, ghé vào tai Dương Lăng nói nhỏ:
- Đại nhân, đây là người ở kinh sư đến đó.
Dương Lăng khẽ gật đầu, đứng trang nghiêm trước cửa. Chiếc xe ngựa tiến đến
trước mặt y rồi dừng lại, rèm cửa vén lên, từ trong một người khom lưng bước ra. Trông lão tuổi độ hơn năm mươi, khuôn mặt gầy gò, mặc trang phục thái giám trong cung.
Dương Lăng thất thanh kêu lên:
- Lưu công công?
Người đó đúng là giám quân Lưu công công. Lão bước xuống xe ngựa, toét miệng cười với Dương Lăng:
- Dương dịch thừa, ta và cậu thật có duyên đó! Mới hơn một tháng mà chúng ta đã lại gặp nhau rồi.
Dương Lăng mời Lưu công công vào trong đại sảnh, lòng vẫn chưa rõ mục đích đến đây của lão ta. Việc y được thăng chức làm một gã đồng tri ngũ phẩm trong cẩm y vệ đâu cần đến thái giám trong cung xuất hiện? Thông thường thái giám chỉ xuất cung khi phụng chỉ giám sát quân đội, thu thuế, hoặc mua sắm vật dụng cho hoàng cung; rất hiếm khi triệu kiến một gã quan viên dưới tam phẩm mà cần thái giám mang thánh chỉ đến tuyên chiếu.
Mười sáu tay võ sĩ bước vào đại sảnh đứng sang hai bên, tay dằn cán đao bên hông, mắt nhìn thẳng. Lưu công công đi đến chính giữa đại sảnh rồi quay người lại, đằng hắng một tiếng, cất cao giọng:
- Dịch thừa huyện Kê Minh Dương Lăng tiếp chỉ!
Dương Lăng vẻ mặt lơ ngơ luống cuống, không biết phải làm sao. Nghe nói hoàng đế hạ thánh chỉ cho mình, y vô cùng ngạc nhiên; còn về phần tiếp chỉ, có phải làm giống như trong phim hay không, y cũng không rõ lắm. May mà Lưu công công cũng đã thấy nhiều người như vậy, thánh chỉ không phải là tờ rơi, có bao nhiêu quan viên thật sự được tiếp thánh chỉ chứ? Thậm chí ngay cả đại thần làm quan trong triều, có không ít người trong lần đầu tiếp thánh chỉ cũng đã gây ra những chuyện nực cười. Lão khẽ mỉm cười, hai tay cầm thánh chỉ, nhẹ giọng bảo:
- Dương dịch thừa, quỳ xuống nghe tuyên chỉ là được!
Dương Lăng đưa mắt ánh mắt cảm kích nhìn lão rồi vội vàng quỳ hai gối xuống, nói:
- Thần Dương Lăng xin nghe.
Lần đầu quỳ trước kẻ khác, trong lòng Dương Lăng vẫn hơi có chút không thoải mái, chỉ đành coi như là nhập gia tuỳ tục vậy, dù sao y cũng không có gan kháng cự.
Lưu công công từ từ mở thánh chỉ ra, rồi cất cao giọng:
- Phụng thiên thừa vận, hoàng đế chiếu viết: Trẫm nghe: Tam Đại (*) sở dĩ được thiên hạ, ấy là bởi tại lòng dân. Thế nên, dân chính là gốc rễ của quốc gia. Bậc Tiên hiền có nói: khi mà đại đạo được thực thi, thiên hạ sẽ thuộc về mọi người.
((*): tên chung chỉ ba triều đại cổ ở Trung Quốc - nhà Hạ do Vũ sáng lập, nhà Thương do Thành Thang dựng lên, và nhà Chu do Chu Văn Vương khởi thủy.)
Lưu công công đọc du dương trầm bổng, đầu gật gù lắc lư. Dương Lăng nghe Lưu công công đọc mấy thứ cổ văn đó, mặc dù hiểu được ý nghĩa bên trong, nhưng cũng nghe đến trầy trật. Mãi một hồi lâu sau y mới thấy Lưu công công đi vào chủ đề chính:
- Vì lẽ đó, dân chính là chủ của quốc gia, Thiên tử nhờ dân mà có thiên hạ.
Đấng quân vương phải coi trọng chữ tín, giữ lấy thuận hoà, tuyển chọn hiền lương. Đương kim thái tử thông tuệ hiếu học, nghe có tú tài Tuyên phủ là Dương Lăng, có tài kiêm đức, rất tốt. Nay trẫm tuyên Dương Lăng vào kinh, nhậm chức thái tử thị độc (Chức quan chuyên hầu hạ thái tử đọc sách – ND.), sau khi nhận chiếu lập tức tiến kinh, không được chậm trễ. Khâm thử. Tháng hai năm Hoằng Trị thứ mười tám.
Dương Lăng nghe mà ù ù cạc cạc. Thái tử thị độc? Không phải là cẩm y vệ đồng tri sao? Trong lòng y chợt nhớ đến lời Mã Liên Nhi đã nói đêm hôm ấy:
"Thăng cấp trong quân đội nào phải trò đùa. Có câu nói 'quan lộ hiểm ác' huynh có biết không? Để muội suy nghĩ một chút, ừm... với 'công lao' mà huynh lập được, tuyệt không có lý nào thăng liền ba cấp, thẳng đến trung ương của Cẩm y vệ. Trong kinh lại càng không thể có ai tốt bụng mà vô duyên vô cớ thăng chức cho huynh như vậy. Chúng ta phải suy nghĩ thật kỹ xem sao, không thể để cho kẻ khác hãm hại được..."
Dương Lăng đột nhiên bừng hiểu. Chẳng trách Cẩm y vệ lại vội vàng chạy đến thăng quan cho y, hoá ra là vì nghe nói hoàng đế muốn y làm thái tử thị độc, cho nên đến để thêu hoa trên gấm (ý làm cho chuyện đã tốt đẹp sẵn rồi càng tốt đẹp hơn nữa – ND.). Tuy rằng thái tử thị độc chỉ là quan lục phẩm, nhưng nói trắng ra đó chính là bạn học của thái tử, một khi thái tử đăng cơ, những kẻ thân cận và hiểu rõ thái tử nhất ấy có lẽ nào lại không được trọng dụng?
Chức dịch thừa này của y vốn chỉ là một tiểu lại con con ở vòng ngoài của Cẩm y vệ, hôm nay một bước thăng quan liền đã trở thành nhân viên cộm cán ở trung ương. Ban cho một chức quan để lôi kéo tâm phúc của hoàng đế tương lai về bên phe mình, đương nhiên Cẩm y vệ chẳng thiệt thòi gì rồi.
Thấy y vẫn ngỡ ngàng quỳ tại chỗ, Lưu công công bèn thấp giọng bảo:
- Dương dịch thừa, sao còn chưa lĩnh chỉ tạ ân? Dương Lăng sực tỉnh, vội vàng hô to:
- Thần lĩnh chỉ tạ ân!
Hai tay y đón lấy thánh chỉ trong tay Lưu công công. Liếc thấy lão không có ý bắt mình thực hiện ba quỳ chín lạy, y bèn đứng lên.
Giao thánh chỉ xong, Lưu công công lập tức thu lại vẻ cao cao tại thượng, ôn hoà nói với Dương Lăng:
- Dương tướng công! Ta là Lưu Cẩn, nô tài bên cạnh thái tử gia, sau này Dương tướng công làm thái tử thị độc, chúng ta còn phải thân thiết với nhau nhiều mới
được.
Dương Lăng nghe xong giật mình đánh thót, thất thanh kêu lớn:
- Lưu Cẩn? Ông là Lưu Cẩn sao? (2)
Lưu công công chớp chớp mắt, lấy làm lạ hỏi:
- Sao? Dương tướng công đã từng nghe nói về ta à?
Dương Lăng gật gật, rồi lại lắc lắc đầu, cũng không biết nên nói gì cho phải. Lưu Cẩn, nguyên mẫu của vị xưởng công (3) trong "Tân Long Môn khách sạn",
đại thái giám giết người không chớp mắt trong truyền thuyết, vậy mà lại là lão thái giám tướng mạo tầm thường này ư?
Nhờ phước của tiểu thuyết và ti-vi nên cái đám Uông Trực, Vương Chấn, Lưu Cẩn, Ngụy Trung Hiền gì gì đó Dương Lăng đều rất quen thuộc. Trong đó những đại thái giám này kẻ nào kẻ nấy đều có một thân võ công quỷ dị tuyệt luân, tóc bạc phơ mặt hồng hào, tính cách quái gở. Bây giờ tận mắt nhìn thấy Lưu Cẩn thật sự lại có tướng mạo tầm thường, nhất thời Dương Lăng vẫn nghĩ là trùng họ trùng tên.
Lưu Cẩn vui vẻ nói:
- Ta hầu hạ bên cạnh thái tử gia, hiếm khi rời khỏi kinh thành, người biết được tên ta không có mấy, chẳng ngờ Dương tướng công lại đã nghe qua. Ha ha, quả nhiên là "tú tài không ra khỏi nhà mà vẫn rành chuyện thiên hạ".
Dương tướng công, giờ cậu đã nhận thánh chỉ, ta thấy chúng ta hãy lập tức khởi hành thôi. Đương kim thái tử đam mê võ thuật, thích nhất là múa gậy đánh thương, hành quân bố trận. Bức thư mà Dương tướng công trình lên cho Hà tham tướng ta đã mang về kinh, thái tử gia xem xong rất thích, muốn dùng phương pháp của cậu để thao luyện Thần Cơ doanh đấy, chớ để thái tử gia sốt ruột.
Lúc này Lưu Cẩn xử lý công vụ khá là cẩn thận và nghiêm túc. Hiện lão đang cai quản Chung cổ ty, là cơ quan có quyền hạn nhỏ nhất trong Nhị thập tứ nha môn
(4). Thái tử Chu Hậu Chiếu bướng bỉnh háo võ, tính tình sớm nắng chiều mưa, mà vạn tuế gia lại rất là cưng chiều đứa con bảo bối này, thế nên Lưu Cẩn nào dám chậm trễ.
Dương Lăng chỉ đành gọi Ấu Nương tới, bắt đầu thu thập hành trang. Hai người Liễu, Dương nói với người ngoài rằng mình là người hầu của nhà họ Dương. Mặc dù người của sở dịch bản địa cảm thấy kỳ lạ, song vì Lưu công công không biết gia cảnh nhà họ Dương cho nên lão cũng chẳng để tâm. Chuẩn bị hết thảy xong xuôi mà Mã Liên Nhi vẫn chưa trở về, Dương Lăng bèn nói với Ấu Nương nhờ đại ca nàng ra ngoài thành báo tin, tránh để nàng ấy nghĩ rằng mình đi mà không lời từ biệt.
Lúc này, ba cỗ xe ngựa đã đi vào khúc quanh trên sơn đạo. Đường núi chật hẹp, mười sáu tay vệ sĩ tám trước tám sau hộ tống, phía trước là cỗ xe ngựa sơn son của Lưu công công, hai cỗ xe ở phía sau được phái đi từ sở dịch, trước hai cỗ xe đều dựng thẳng một cây cột cao, trên viết một chữ "dịch". Xe đằng sau chở hành lý, Liễu Bưu và Dương Nhất Thanh ngồi trên xe đó.
Hàn Ấu Nương lặng lẽ nhìn ra ngoài cửa sổ. Từ nhỏ nàng chưa từng xa cách người thân, một mình đi đến địa phương xa xôi như vậy. Mấy ngày trước cứ nghĩ đến việc được đi đến kinh thành là nàng lại hào hứng như một đứa trẻ, bây giờ thật sự ra đi, lòng nàng lại cảm thấy trống trải. Chà, cha đã là dịch sứ, bôn ba khắp nơi, lần này ra đi lại không thể gặp người để từ biệt, cũng không biết phải mất bao lâu nữa mới có thể gặp lại người thân nhỉ?
Dương Lăng biết nàng không nỡ rời xa quê nhà, bèn nhẹ giọng an ủi:
- Yên tâm đi, đợi khi chúng ta thu xếp ổn thoả mọi việc xong, ta sẽ nghĩ biện pháp đón nhạc phụ và mọi người vào kinh.
Ấu Nương khẽ ưm một tiếng, nhẹ nhàng dựa trong lòng Dương Lăng, đôi mắt nhấp nháy, cũng không biết là đang nghĩ gì. Dương Lăng nhẹ nhàng vuốt ve lưng nàng, cũng chìm trong muôn vàn suy nghĩ.
"Thái tử thị độc, cái chức này nó như thế nào nhỉ? Mình không hề được lưu lại
ký ức của vị tú tài Tuyên phủ Dương Lăng đó, mấy cái thứ như là tứ thư ngũ kinh hay văn chương bát cổ, có thể nói là mình mù tịt chẳng biết gì. Mong rằng cái chức thị độc đó tên đúng như thật (Thị độc nghĩa là hầu đọc sách – ND.), chỉ cần cùng thái tử đọc sách là được rồi."
Lịch sử mà y còn nhớ được thật sự là quá ít. Ngoại trừ Chu Hồng Vũ, Thành Tổ và vị vua cuối cùng là Sùng Trinh, những hoàng đế triều Minh khác y thật sự biết rất ít. Lúc này đây chẳng hiểu sao y lại bị đẩy lên trung tâm vũ đài của lịch sử, bên cạnh toàn là những nhân vật quyền cao chức trọng của cái thời đại này, liệu y có thể ứng phó được không đây?
Trước giờ Dương Lăng cũng chẳng có ước muốn gì cao sang, chỉ mong vợ con đầm ấm bên giường, sống khoái lạc qua hai năm là được, thế mà giờ đây phải đi làm chuyện con chó đi cày. Thường có câu làm bạn với vua như chơi với hổ, vì an toàn của bản thân, y không thể không nghiêm túc nghĩ ngợi, chủ động nhận thức và tìm hiểu về thời đại này.
Dương Lăng sắp xếp các chuỗi suy nghĩ lại một chút, những tư liệu có liên quan đến thời đại này chầm chậm hiện lên trong đầu y.
Bây giờ là năm Hoằng Trị thứ mười tám, hoàng đế là Hoằng Trị, họ Chu. Còn về tên của ông ta, vì học thức có hạn nên từ niên hiệu kia y không thể liên tưởng ra nổi, thế nên không rõ tên; cuộc đời của ông ta y cũng mù tịt nốt. Thái tử là Chu Hậu Chiếu, phong lưu, háo sắc, ngu đần, diện mạo rất tuấn tú, sự tích có liên quan: du long hí phượng (6), nhớ mang máng hình như y chết rất sớm. Lưu Cẩn là đại gian thần, thời gian phất: không rõ, chết ra làm sao: không rõ, nhưng tóm lại là chẳng được chết tử tế.
"Ăn hại! Hoàn toàn là đồ ăn hại!" Dương Lăng chỉ có thể xấu hổ tự đánh giá bản thân như vậy. Chỉ dựa vào chút tư liệu ít ỏi này mà có thể thấu rõ tiên cơ, tìm lành lánh dữ, nắm bắt lịch sử được sao? Chán nản một hồi, Dương Lăng bỗng phấn chấn trở lại, ngồi thẳng lưng lên: "Để ý nhiều vậy làm gì? Hoàng đế Chính Đức cái gì chứ, gian thần Lưu Cẩn cái gì chứ?! Mạng mình ngắn ngủi chỉ như cỏ cây, mấy thứ đó không đến lượt mình bận tâm. Mục đích của mình chỉ là đi kinh sư, làm quan
lớn, lăn lộn ở Bắc Kinh!"
Điếc không sợ súng, Dương Lăng chuẩn bị nhắm mắt xông bừa lên kinh sư, trong lòng bắt đầu lạc quan một cách mù quáng.
***
Như một cơn lốc, Mã Liên Nhi quất ngựa phi đến sở dịch thừa, sau chớp mắt lại phóng ngựa chạy thẳng đến thành bắc. Tiếng những chiếc vó ngựa to bằng cái bát gõ xuống nền đá vang lên dồn dập như mưa rơi. Khoái mã phi ra khỏi thành, trong đồng cỏ bát ngát đã không thấy bóng dáng cỗ xe đâu. Mã Liên Nhi cầm cương nấn ná dưới cổng thành trong chốc lát, sau đó không dùng con đường cái quan vòng qua sườn núi mà nàng phi ngựa theo đường tắt, thẳng qua giữa những thửa ruộng chưa được canh tác, phóng về phía trước.
Chiếc áo choàng lụa màu xanh sẫm tung bay phần phật trong gió. Con tim nàng đập thình thịch. Dương đại ca thật nhẫn tâm, ngay cả thời gian gặp mặt mình một lần cũng không có sao? Tại sao lại đi vội vã đến vậy chứ? Cách biệt lần này, phải đến ba năm sau mới có thể gặp lại mà.
Ngựa phi như bay, dưới kỹ thuật cưỡi ngựa cao siêu của nàng, bốn vó của con ngựa tía lao vút đi như mũi tên vừa rời dây cung. Chạy đến cuối khu ruộng là một con sông nhỏ, con ngựa tía phóng thẳng qua, những giọt nước bắn lên tung toé đầy trời như ngọc vỡ. Xa xa, nàng nhìn thấy vài cỗ xe ngựa đang đi dọc theo con đường trên núi. Mã Liên Nhi vui mừng khôn xiết, nàng quay đầu ngựa, chạy dọc theo dòng sông nhỏ dưới chân núi, không ngừng đuổi theo những cỗ xe ngựa trên sườn núi.
Thế núi biến ảo, trước mắt là một khe núi hình bán nguyệt, đoàn xe ngựa rẽ vào được một nửa. Chếch ở phía bên này là vách núi giáp với vực sâu. Bọn giáp sĩ đi trên sườn núi và Liễu Bưu, Dương Nhất Thanh ngồi trên càng xe đang cảm thấy hết sức nhàm chán, bỗng thấy bóng một con ngựa tía đang đuổi nhanh dưới chân núi.
Liễu Bưu bèn đứng dậy nhìn xuống rồi la lớn:
- Dưới chân núi có một vị tiểu thư đang đuổi theo chúng ta!
Dương Lăng và Ấu Nương nghe thế vội vàng nhô người ra ngoài thùng xe, nhìn thấy dưới chân núi một áng mây xanh cưỡi một thớt ngựa tía đang từ từ phi đến.
Hàn Ấu Nương thất thanh la to:
- Là Liên Nhi tỷ tỷ! Tướng công, Liên Nhi tỷ tỷ đến rồi.
Dương Lăng vội vàng kêu xa phu dừng xe, rồi đứng trên càng xe nhìn xuống chân núi. Mã Liên Nhi cũng dừng ngựa, một người một ngựa đứng lặng im nơi đó. Ở giữa là một vách núi không thể trèo lên được, hai người chỉ có thể đứng nhìn nhau từ xa.
Mã Liên Nhi ngẩn ngơ ngóng nhìn một hồi lâu. Thấy Dương Lăng vẫy tay với mình, sau đó ra hiệu cho xe ngựa tiếp tục khởi hành, nhưng vẫn đứng ở trước xe nhìn mình, lòng Mã Liên Nhi chợt kích động. Nàng rút thanh loan đao nhỏ bên hông ra, cắt một lọn tóc rồi vội vàng buộc vào một mũi tên.
Xe ngựa từ từ di chuyển, chỉ cần rẽ khỏi con đường trên hẻm núi này thì sẽ biến mất khỏi tầm mắt của nàng. Mã Liên Nhi bất chợt giật cương, hai chân thúc vào bụng ngựa. Ngựa hí vang một tràng, vang vọng khắp vùng núi.
Dương Lăng và đám võ sĩ đều hướng mắt nhìn xuống chân núi. Con ngựa tía đứng thẳng lên bằng hai chân, rồi sau khoảnh khắc, bốn vó nó cùng lúc tung lên, phi cực nhanh về phía trước, ước chừng chỉ ba mươi trượng ở đằng trước chính là vách núi dựng đứng.
Ngựa phi nhanh như tên bắn, trong nháy mắt đã chỉ còn cách vách núi hai mươi trượng. Nếu cứ phi thẳng về phía trước với tốc độ như vậy, e rằng cả người lẫn ngựa đều sẽ va vào vách đá. Những người ở trên núi đều không khỏi kinh hãi la lên một tiếng. Chợt thấy khoái mã của Mã Liên Nhi bỗng nhiên quay ngoắt một góc gần chín mươi độ, nàng buông cương, lấy cung, xoay người, rút tên. Động tác của nàng liền mạch, gọn gàng đẹp mắt, khiến người ta nhìn thấy rồi không khỏi phải lắc đầu tán thưởng.
Liễu Bưu, Dương Nhất Thanh và mấy gã giáp sĩ hộ vệ đã không thể nhịn được mà lớn tiếng reo hò ca ngợi. Trong nhà của các vị đại thần hiển quý trên kinh thành
ít nhiều đều nuôi dưỡng vài gã Thát quan, đó là những dũng sĩ Mông Cổ được chiêu mộ về. Bọn họ từng chứng kiến những người này biễu diễn thứ công phu cưỡi ngựa bắn tên mà thiết kỵ nhà Nguyên năm xưa đã dùng để tung hoành thiên hạ.
Thuật cưỡi ngựa bắn tên của người Mông Cổ đứng đầu trong thiên hạ. Công phu cưỡi ngựa rút tên của Mã Liên Nhi giống hệt như những dũng sĩ vừa giỏi cưỡi ngựa vừa giỏi bắn tên trong đám Thát quan này, và vì được phô diễn bởi một thiếu nữ nên nó càng toát lên vẻ đẹp không nói nên lời.
Ngay trong khoảnh khắc cỗ xe ngựa của Dương Lăng sắp rẽ qua vách phía trước, rời khỏi tầm mắt của Mã Liên Nhi, thì nghe "tóc, tóc, tóc", ba mũi tên bay tới cắm ngay ngắn trên cột cờ cách Dương Lăng chỉ một sải tay, đuôi tên vẫn còn run lên bần bật. Xa phu đang an vị ở dưới cột cờ sợ run cầm cập, suýt nữa ngã lộn cổ xuống xe.
Xe ngựa chầm chậm di chuyển, trước vách núi là một bụi cỏ xanh, đã không thể nhìn thấy Liên Nhi ở dưới chân núi nữa. Ba mũi tên nhọn cắm ngay ngắn trên cột cờ tạo thành hình chữ nhất (Chữ nhất: 一 ), trên đuôi tên ở chính giữa buộc một lọn tóc đen, vẫn đang chầm chậm phất phơ trong gió.
Hàn Ấu Nương khẽ vuốt lọn tóc đen nhánh, giọng đau xót:
- Tướng công! Liên Nhi tỷ tỷ cắt tóc để tỏ rõ tâm ý đó.
Dương Lăng vuốt nhẹ mũi nàng, rồi quay đầu nhìn ba mũi tên nhọn và lọn tóc đen đang ghim chặt trên cột cờ, y không khỏi gượng cười, lòng thầm suy nghĩ: "Sợi tóc, sợi tình, ba mũi tên, ba năm chờ đợi. Nha đầu này sẽ không cố chấp như Ấu Nương đó chứ?"
(1) Vũ khí, quạt kiệu, cờ xí... mà đội hộ vệ mang theo khi vua, quan tuần hành.
(2) Lưu Cẩn: hoạn quan "nổi tiếng" dưới triều vua Minh Vũ Tông. Do hầu hạ Vũ Tông từ lúc còn chưa lên ngôi nên Lưu Cẩn rất được nhà vua quý chuộng, phong làm Tư lễ giám, chuyên phê duyệt sớ của các quan tấu trình. Với chức quan đó, Lưu Cẩn giả mệnh hoàng đế tự ý định đoạt mọi công việc trong nước. Dân gian
khi đó gọi Lưu Cẩn là "Hoàng đế đứng", ám chỉ quyền lực của y, để phân biệt với "Hoàng đế ngồi" là Vũ Tông. Lưu Cẩn nắm quyền trong hơn năm năm thì bị một số quan lại phối hợp lật đổ.
(3) Thủ lĩnh của Đông xưởng
(4) Nhị thập tứ nha môn là thể chế hoạn quan thời Minh, là cơ cấu hầu hạ hoàng đế và dòng dõi gia tộc của hoạn quan. Bên trong thiết lập mười hai giám, bốn ty, tám cục, gọi chung là Nhị thập tứ nha môn.
(5) Điển tích: năm Chính Đức, khi trị quốc, vì để nắm rõ tình hình đất nước, hoàng đế Vũ Tông Chu Hậu Chiếu hay thích vi hành trong dân gian. Hoàng đế Chính Đức cải trang đi chơi đến Mai Long trấn, ngủ lại tại quán trọ Lý Long. Lý Long ở bên ngoài gác đêm, phân phó cho Phượng Thư trông nom quán trọ. Chu Hậu Chiếu bị vẻ đẹp hoa nhường nguyệt thẹn của Phượng Thư khuynh đảo, cố ý gọi rượu và đồ ăn để chọc ghẹo. Lúc đầu Phượng Thư chỉ đối đãi sơ sài, mà Chu Hậu Chiếu thần hồn càng lúc càng thêm điên đảo. Cuối cùng Chu Hậu Chiếu lộ ra thân phận chân long thiên tử của bản thân cùng bày tỏ tình cảm khao khát với Phượng Thư, hai người nên duyên. Khi Phượng Thư đòi ban tước, Chu Hậu Chiếu bèn phong thị làm "Hi Sái cung phi" (cung phi nô đùa).
Lưu Cẩn vỗ tay cười lớn ra vẻ cực kỳ đắc ý. Dọc đường nhàn rỗi, Lưu Cẩn thường xuyên mời Dương Lăng lên xe lão chơi cờ giết thời gian. Kỳ nghệ của lão không quá cao minh, nhưng khi phát hiện kỳ nghệ của Dương Lăng còn tệ hơn mình, lão lại bỗng trở thành kẻ mê cờ, hằng ngày lấy sự chà đạp Dương Lăng làm niềm vui.
Dương Lăng hừm một tiếng, đáp:
- Ván này không tính. Tôi ăn quân của ông, ông bèn chơi xấu hoãn lại một nước, bằng không chỉ còn một pháo một mã, bất kể thế nào cũng không phải là đối thủ của tôi. Không được, không được, chơi lại!
Lưu Cẩn vội chặn tay y, đắc ý cười nói:
- Phong độ, phải có phong độ chứ Dương tướng công! Hà hà, hôm nay bốn ván ta đã thắng ba rồi.
Vị gian thần lộng quyền tương lai này khi chưa đắc thế lại giống hệt như một người bình thường, không ngừng gật gù đắc chí. Ở chung với lão lâu ngày, Dương Lăng đã vứt bỏ sự kiêng kỵ vốn có, hai người xem nhau như bạn chí thân.
Lưu Cẩn vừa nói vừa vén rèm xe nhìn ra ngoài, đoạn vui vẻ bảo:
- Đến rồi, sắp vào đến thành rồi!
Dương Lăng nghe vậy cũng ló đầu ra ngoài quan sát. Dưới ánh hoàng hôn chập choạng, cổng thành trang nghiêm to lớn ở phía trước đã đập ngay vào mắt.
Dương Lăng vén rèm trước bước ra ngoài, đứng trên càng xe quan sát. Có mười
sáu tay thị vệ cấm quân mở đường, quan thủ thành hoàn toàn không dám ngăn trở, đội xe nghênh ngang chạy vào thành. Lưu Cẩn cũng bước ra ngoài đứng cạnh y, hai tay bỏ vào trong ống tay áo, cười tít mắt:
- Dương tướng công, đây chính là kinh sư của Đại Minh chúng ta, cậu thấy thế nào?
Dương Lăng chăm chú quan sát thành Bắc Kinh thời này. Mặc dù trong thành nhà cửa san sát, người đi đường đông đúc náo nhiệt, song ngoại trừ một vài quán rượu lác đác gần xa cùng với phủ đệ của các công thần công tướng, hết thảy nhà cửa dường như đều không cao quá hai trượng. Đưa mắt nhìn ra xa, hiển nhiên quần thể kiến trúc nguy nga lộng lẫy nằm thấp thoáng nơi ánh tà dương ấy chính là hoàng thành.
Lưu Cẩn hỏi:
- Dương tướng công, có cần tìm một khách sạn để trọ trước không? Bây giờ trời đã tối, ngày mai giờ dần ba khắc ta sẽ ở ngoài ngọ môn dẫn Dương tướng công vào kiến giá.
Dương Lăng còn chưa trả lời, Liễu Bưu không biết tự lúc nào đã lặng lẽ đi tới trước mặt y dõng dạc báo:
- Công tử, Dương lão thái gia đã sai người đi gấp tới kinh thành mua một khu nhà ở phố Hộ Quốc Tự để công tử ở rồi. Chúng ta có về thẳng nhà hay không?
Dương Lăng và Lưu Cẩn đều hơi ngẩn người. Vẻ mặt Lưu Cẩn hơi khó coi, lão vốn cho rằng Dương Lăng là một gã dịch thừa nghèo nên lão không nghĩ đến việc vơ vét một ít từ y. Nhưng trông tình hình thế này, nhà họ Dương ở Kê Minh có vẻ còn là một tài chủ địa phương, thế mà Dương Lăng lại không có chút biểu hiện đối với mình, thật là không ra sao cả! Đi báo tin cho người đỗ đạt còn được chút tiền thưởng, mình đi báo tin cho Hoàng thượng, chẳng lẽ lại không đáng tiền hay sao?
Lúc này Liễu Bưu lại tháo một bao vải trên vai xuống, đặt lên xe. Bao vải vừa chạm vào xe liền vang lên những tiếng "lách cách", xem ra đồ vật bên trong cũng
không nhẹ. Liễu Bưu mỉm cười nói:
- Lưu công công, đây là chút đặc sản địa phương mà lúc đi lão thái gia đã căn dặn mang theo biếu ngài, mời công công mang về nếm thử cho tươi ạ! Gia đình nông thôn chỉ có chút lễ vật nhỏ, thật không đủ để bày tỏ lòng thành.
Lưu Cẩn nhìn cái bọc nặng trình trịch đó, ước chừng tối thiểu cũng phải hai trăm lạng bạc, liền lộ vẻ hớn hở, quay đầu sang cười nói với Dương Lăng:
- Dương tướng công khách khí quá rồi! Trong cung thứ gì cũng không thiếu, nhưng mà những thổ sản nông thôn này thì... thật sự là không có nhiều. Ha ha ha, tấm lòng này của cậu thật đáng quý!
Biết đây nhất định là do Cẩm Y vệ chuẩn bị sẵn, Dương Lăng vội cười, đở lời:
- Đâu có, đâu có! Chỉ là chút vật mọn không đáng bày lên bàn tiệc, Lưu công công thích là tốt rồi.
Lưu Cẩn cười tươi hơn hớn:
- Thích chứ, thích chứ! Ta rất thích ăn mấy thứ đặc sản địa phương thế này. Nếu như Dương tướng công đã có chỗ ở, vậy ta sẽ trở về đại nội phục mệnh, sáng mai ta chờ đón Dương tướng công ở ngoài ngọ môn.
Ngay sau đó, Lưu Cẩn hí hửng chỉ huy đội xe quay trở về hoàng thành, còn hai chiếc xe ngựa của Dương Lăng thì rẽ vào hướng phố Hộ Quốc Tự. Dương Lăng vừa trở về xe của mình, Ấu Nương đã nghe được loáng thoáng cuộc trò chuyện, bèn thích chí ôm lấy cánh tay y hỏi:
- Tướng công, chúng ta đã có nhà ở kinh sư rồi sao?
Dọc đường đi tiểu cô nương này cũng có tâm trạng riêng, nghĩ hiện giờ phu quân đã là quan ngũ phẩm của Cẩm Y vệ, lại là Thị độc bên cạnh thái tử gia, trong lúc ăn nói lẫn đi đứng mình không thể làm điều vượt quá khuôn phép khiến cho tướng công bị mất thể diện được. Vốn nghe nói các phu nhân hay tiểu thư con nhà danh gia vọng tộc ra khỏi nhà đều ngồi im trong xe, cho nên sau khi vào thành Bắc
Kinh, nàng vẫn luôn ngồi im trong xe, thậm chí không dám vén rèm cửa xe. Hiện giờ cỗ xe đang đi trên con phố lớn phồn hoa, vậy mà nàng vẫn không biết thành Bắc Kinh ra như thế nào.
Dương Lăng hôn phớt lên môi nàng rồi đáp:
- Ừm! Hẳn là do Cẩm Y vệ thu xếp. Kế đó y lại ghé vào tai Ấu Nương bảo:
- Hôm nay vừa mới vào thành, chúng ta không nấu cơm. Tối nay tướng công sẽ đưa nàng đi dạo phố.
Ấu Nương nghe xong lập tức lộ vẻ vui mừng, gật đầu lia lịa:
- Vâng vâng! Ấu Nương còn chưa được nhìn xem thành Bắc Kinh ra làm sao, thật muốn đi mở mang kiến thức một chút. Nếu không có tướng công đi cùng, Ấu Nương không dám ra ngoài đâu!
Dương Lăng bật cười hỏi:
- Ngay cả giặc Thát còn không sợ, thế mà Ấu Nương lại sợ đi dạo trên phố lớn ở kinh sư này à?
Ấu Nương hồn nhiên đáp:
- Tướng công! Chàng không dẫn thiếp đi, người ta là phụ nữ sao dám tự tiện la cà dạo phố chứ, sẽ khiến người ta chê cười đó.
Dương Lăng nói:
- Nàng thật! Nhà chúng ta không có mấy quy củ đó, thích ra ngoài thì cứ ra ngoài, dạo phố hay mua sắm gì cũng được.
Nói rồi Dương Lăng nhìn vẻ xinh xắn của Ấu Nương, trong lòng thầm nghĩ: "Giờ mà là thời hiện đại, để cô bé này mặc áo thun với quần bò, tóc cột lại một túm, nhất định sẽ là một nữ sinh xinh đẹp tươi mát. Mình sẽ cùng nàng đi xem phim,
uống cà phê, nếu nàng nhanh mồm nhanh miệng chút thì sẽ đi đến chỗ đám gian thương mà kỳ kèo trả giá, hề hề. Có điều nếu đặt vào thời đó thì mình làm gì tốt phúc có được nàng?!"
Thấy ánh mắt sáng rực của Dương Lăng lom lom nhìn mình, khuôn mặt Ấu Nương càng thêm ửng đỏ. Nàng mắc cỡ cúi đầu bẽn lẽn:
- Tướng công, chúng ta ở phố Hộ Quốc Tự, không biết chùa Hộ Quốc này có cao tăng có thể, có thể...
Nói đến đây mặt nàng lập tức đỏ bừng, không nói tiếp được nữa.
Dương Lăng lập tức chấn động, cả người cũng nóng lên. Đêm trước khi đi, Dương Lăng đã phải kỳ kèo rồi mềm mỏng khẩn cầu mãi cô bé này cuối cùng mới chịu học bài "thổi tiêu dưới trăng" trong tâm trạng vừa thấp thỏm lo sợ vừa xấu hổ. Cái mùi vị tiêu hồn lúc đó, dù có nói ra người ngoài cũng thật khó mà hiểu hết được.
Lần này phải đi đường xa vất vả, chung quanh lại có nhiều người, cho nên y cũng không dám có cử chỉ thân mật với Ấu Nương. Giờ nghe nàng nói vậy, Dương Lăng lập tức ngứa ngáy trong lòng, "bích ngọc phá qua thời, tương vi tình điên đảo. Cảm lang bất tu noản, hồi thân tựu lang bão. (2)" Ấu Nương quả thật là một "tiểu gia bích ngọc" (xem 2) chân chính, thật không biết khi thật sự cùng nàng điên loan đảo phượng, một hồi xuân sắc vô biên đó sẽ nóng bỏng đến như thế nào?
Dương Lăng cười gian manh nói:
- Đúng! đúng! Tối nay chúng ta hãy đi tìm một vị đại hoà thượng để khai quang, sau đó để nàng gặp gỡ "tiểu hoà thượng" của ta một chút mới được.
Ấu Nương vội nói:
- Không được, như vậy không được đâu tướng công! Chúng ta nhất định phải gặp đại hoà thượng, tiểu hoà thượng thì có mấy năm đạo hạnh chứ? Ấu Nương không dám đem tính mạng của chàng ra đùa đâu!
Khoé miệng Dương Lăng hơi nhếch lên, vẻ mặt cổ quái, y đáp:
- Nhất định phải gặp đại hoà thượng sao? Nhưng mà tiểu hoà thượng này của tướng công nếu chưa được nương tử mến yêu của ta khai quang gia trì (3), trải qua muôn vàn thử thách, làm sao có thể tu thành đại hoà thượng được?
Tuy Ấu Nương ngây thơ thuần khiết, nhưng nàng không hề kém thông minh, thấy lời nói của tướng công có phần kỳ lạ, nàng chớp chớp đôi mắt ngọc nghi hoặc nhìn y. Dương Lăng mỉm cười ôm lấy Ấu Nương, ghé vào tai nàng thì thầm mấy câu. Ấu Nương khẽ kêu lên một tiếng, vừa giận vừa thẹn đấm nhẹ người tướng công mấy cái, rồi đỏ mặt cắn môi lườm y, giận dỗi nói:
- Ngày mai tướng công phải gặp Hoàng đế rồi, cần phải nghỉ ngơi thật tốt! Tối nay Ấu Nương sẽ không gặp bất cứ hoà thượng nào hết.
Dương Lăng cười trêu:
- Như thế sao được? Để ta xem thử bên ngoài có chùa miếu nào hay không, tối nay nhất định phải để nương tử mở cửa đón khách, nghênh tiếp tiểu hoà thượng của ta vào nhà.
Nghe tướng công nói mấy lời đáng xấu hổ đó, Ấu Nương nhũn cả người ra, ngả vào lòng y thở gấp, không dám lên tiếng đáp lời. Dương Lăng vén rèm kiệu lên nhìn ra bên ngoài. Người đi đường tới lui tấp nập, trên đường hàng quán san sát, xem ra con đường này cũng khá phồn hoa.
Hàn Ấu Nương cũng tò mò ló đầu ra ngoài nhìn quanh. Nàng thấy Liễu Bưu, Dương Nhất Thanh đang cuốc bộ bên cạnh cỗ xe, bên góc đường ở đằng xa có một người đang đứng. Liễu Bưu nhìn về phía kẻ đó làm nhanh vài động tác tay, kẻ đó gật đầu, bỏ tay trái xuống bên người rồi cũng làm rất nhanh vài động tác đáp trả, sau đó xoay người bỏ đi.
Động tác của hai người vừa nhanh lại vừa tự nhiên, nếu không phải Hàn Ấu Nương tinh mắt, tâm tư lại cẩn thận, nhất định sẽ không chú ý tới. Hàn Ấu Nương lấy làm lạ quay đầu gọi:
- Tướng công!
Chợt lúc này Dương Nhất Thanh ở bên ngoài hô lớn:
- Đã đến nhà rồi, mời công tử và phu nhân xuống xe!
Bị tiếng gọi của Dương Nhất Thanh cắt ngang, Hàn Ấu Nương bèn nuốt lời muốn nói vào. Dương Lăng vén rèm xe, thấy trước mặt là một khu nhà xây theo lối tứ hợp viện (4), trước cửa có một khoảnh đất trống, trồng hai hàng hoè Long Trảo, cửa vào khu nhà đang mở, có thể nhìn thấy bên trong ngăn nắp sạch sẽ, xem ra vừa mới được sửa sang không lâu.
Hàn Ấu Nương cũng nhảy xuống xe, lòng đầy vui sướng quan sát ngôi nhà mới của mình. Trong sân, ngoại trừ một giếng nước, chính giữa còn có một vườn hoa, hai bên là chái nhà, ngay phía trước là ba gian nhà ngói xanh. Xem ra chủ cũ của khu nhà này khi trước cũng là một hộ giàu có neo người, không biết Cẩm Y vệ làm thế nào mà mua được?
Liễu Bưu và Dương Nhất Thanh mang tất cả hành lý vào nhà. Khu nhà này tuy mới mua không lâu, song hết thảy dụng cụ sinh hoạt đều đã đầy đủ, tiết kiệm cho bọn họ không ít thời giờ mua sắm bày biện. Nhác thấy trời hãy còn sớm, Hàn Ấu Nương hăng hái xắn tay thực hiện quyền lợi bà chủ nhà, bố trí lại căn nhà mới của mình, rộn ràng trong niềm hạnh phúc. Chuyện ra phố ăn cơm và đi chùa gặp đại hoà thượng đã bị nàng dẹp sang một bên mất hút.
Dương Nhất Thanh đến bên cạnh Dương Lăng, vẻ mặt bí hiểm bẩm:
- Đại nhân! Đề đốc chỉ huy sứ Trương đại nhân nghe tin đại nhân đã vào kinh, muốn được gặp ngài, chúng ta có đi ngay bây giờ không?
- Ồ!
Dương Lăng lập tức đứng dậy. Thủ lĩnh tối cao của Cẩm Y vệ muốn tiếp kiến y, y làm sao dám chậm trễ? Sau khi nói vội với Ấu Nương một tiếng xong, y lập tức cùng Liễu Bưu và Dương Nhất Thanh đi ra ngoài.
Dương Lăng đã nghe hai người Liễu Bưu và Nhất Thanh nói qua, nha môn của ty chỉ huy sứ Cẩm Y vệ không hề được đặt trong thành Bắc Kinh mà đặt tại Thiên Tân vệ (5), nhưng ty Bắc Trấn Phủ, bộ phận quan trọng nhất trong Cẩm Y vệ lại được đặt trong kinh thành. Thành thử một năm thì quá nửa thời gian đề đốc chỉ huy sứ Cẩm Y vệ không ở Thiên Tân vệ, mà công tác trong thành Bắc Kinh.
Ty Bắc Trấn Phủ được đặt ở phía bắc thành Đông An, ngay sát cổng chính của Đông xưởng. Cái thành Bắc Kinh to như vậy, ngoại trừ hoàng thành, cũng chỉ có nơi này là yên tĩnh nhất. Vừa rẽ vào con đường đó, trên đường lập tức vắng tanh, không có lấy một bóng người.
Lúc đi ngang qua "Đông Tập Sự xưởng" (tên đầy đủ của Đông Xưởng – ND.), Dương Lăng hiếu kỳ nhìn vào bên trong, không biết đám nha sai, đầu lĩnh, rồi còn cả xưởng công, đốc công trong đó có thân hoài tuyệt kỹ như trong phim hay không. Tiếc là mặt trời sắp lặn, ngoại trừ hai tên nha sai đứng ngoài canh gác ra, không thấy bất kỳ người nào. Đi tiếp về phía trước chính là nha môn của ty Bắc Trấn Phủ, cũng không có gì khác biệt với những nha môn bình thường khác, trước cổng đặt hai con sư tử đá lớn, còn có Đới Đao thị vệ của Cẩm Y vệ đứng canh gác bên ngoài.
Được hai người Liễu, Dương dẫn vào trong nha môn của ty Bắc Trấn Phủ, Dương Lăng bước vào một đại sảnh. Trên bức tường màu trắng trên sảnh vẽ một con mãnh hổ hạ sơn. Mãnh hổ sống động như thật, nhe nanh múa vuốt, như thể chực vồ xuống. Bên trong đại sảnh yên tĩnh uy nghiêm, Liễu Bưu và Dương Nhất Thanh bước đến cửa thì không dám đi vào tiếp, cho nên tất nhiên phải có quan quân Cẩm Y vệ khác mời y đi vào. Dương Lăng đang đứng trong sảnh, khoanh tay ngắm nhìn con mãnh hổ chợt sau lưng có người cười rộ bảo:
- Dương đồng tri đến rồi sao? Thật không may, Trấn phủ sứ đại nhân đã dẫn người đi Kim Lăng rồi. Hạ quan là Vu Vĩnh, thiên hộ Cẩm Y vệ, ở đây chờ đón Dương đại nhân.
Dương Lăng vội vàng quay người, luôn miệng nói:
- Không dám, không dám, chào đại nhân!
Rồi y tròn xoe mắt nhìn, thoáng ngẩn ra, người đứng trước mặt y đích thực đang mặc một bộ phi ngư phục (6) của Cẩm Y vệ, hông đeo Tú Xuân đao, nhìn trang phục thì đúng thật là một thiên hộ.
Vậy nhưng người này lại tóc vàng, mắt xanh, mũi lõ, da dẻ trắng một cách khác thường, không ngờ lại là người châu Âu. Gã thiên hộ tên Vu Vĩnh ấy thấy Dương Lăng ngẩn người ra thì mỉm cười, kế đó dùng khẩu âm Bắc Kinh nói:
- Hạ quan Vu Vĩnh! Đại nhân vừa mới đến kinh thành, để hôm khác hạ quan sẽ thiết tiệc mời đại nhân. Ha ha ha, sau này cùng làm quan triều đình, rất mong được đại nhân dìu dắt nhiều hơn. À phải rồi, Đề đốc đại nhân chờ ngài đã lâu, mời đi theo hạ quan ra mắt đề đốc đại nhân trước!
Dương Lăng chắp tay cảm tạ rồi đi theo vị Cẩm Y vệ người nước ngoài này vòng qua đại sảnh. Hai bên hành lang đều là những căn phòng nối tiếp nhau, Vu Vĩnh dẫn Dương Lăng đến trước cửa một căn phòng, mở cửa phòng rồi mỉm cười mời:
- Đại nhân, mời vào!
Dương Lăng gật đầu cảm tạ, đoạn sải chân bước vào. Chỉ thấy những cây nến to đặt trên đĩa treo cạnh bốn vách tường soi căn phòng sáng choang, một người đàn ông trung niên mặc y phục nho sĩ đang ngồi đằng sau chiếc bàn dài mỉm cười. Thấy y bước vào, người đó mới đặt quyển sách trong tay xuống.
Biết chắc người này chính là Trương Tú Trương đại nhân, thủ lĩnh tối cao của Cẩm Y vệ, Dương Lăng bèn vội bước tới, quỳ một gối xuống, thực hiện quân lễ:
- Hạ quan Dương Lăng tham kiến đề đốc đại nhân!
Trương Tú nheo mắt đánh giá y một lượt, rồi hài lòng cười nói:
- Tốt, quả nhiên là tuổi trẻ có triển vọng. Dương đồng tri ngồi đi, chớ nên khách
khí!
Dương Lăng cũng lén quan sát vị Trương đại nhân này, thấy ông ta tuổi trạc
ngũ tuần, vẻ mặt ôn hoà, hào hoa phong nhã, bộ dạng không hề có khí thế của kẻ nắm giữ binh quyền lẫn sinh tử của người khác trong tay.
Ở ngoài cửa, Vu Vĩnh vòng tay nói:
- Đề đốc đại nhân, Dương đại nhân! Hạ quan xin được cáo lui trước!
Nói đoạn hắn quay về phía Dương Lăng mỉm cười thân thiện, kế đó nhẹ nhàng khép cửa phòng.
Thấy vẻ mặt đăm chiêu của y, Trương Tú cười lớn nói:
- Vu Vĩnh là hậu duệ của người Sắc Mục (7), nghe nói quê quán ở xứ sông Ranh (8) gì đó, vốn dĩ còn là quý tộc vùng bản địa. Lúc đại quân triều Nguyên tây chinh đã bắt về hơn vạn nô lệ tóc vàng mắt xanh, trong đó có cả tổ tiên của y. Bây giờ trong kinh sư vẫn còn hơn một ngàn hộ gia đình như y đang cư trú.
Đến lúc này Dương Lăng mới hiểu ra. Tựa hồ rất hài lòng với Dương Lăng, Trương Tú mỉm cười nói:
- Dương đồng tri nhất biểu nhân tài, kiêm thêm học thức xuất chúng, vào Bách Hy Viên nhất định sẽ có thể được trọng dụng. Tốt lắm, tốt lắm!
Dương Lăng kinh ngạc:
- Bách Hy Viên? Đại nhân, đó là nơi nào vậy? Trương Tú thoáng sững người, rồi phá lên cười nói:
- Ha ha, là bổn quan lỡ lời. Khục khục! Đương kim Thái tử còn nhỏ, ham thích mấy trò mới lạ trong chốn đông cung, ha ha,... Vương công đại thần trong triều thường gọi đông cung là Bách Hy Viên (nơi có nhiều trò vui chơi đùa nghịch – ND.), cho nên bản quan nhất thời cũng thuận miệng.
Dương Lăng toát mồ hôi hột, vội khiêm tốn nói:
- Đại nhân quá khen rồi, hạ quan chỉ là một tên tú tài, có thể làm Thái tử thị độc
đã thấy được yêu quá mà sợ rồi, nào dám hy vọng xa vời!
Trương Tú mỉm cười nói:
- Anh hùng chẳng ngại xuất thân hèn, hơn nữa ngươi phải biết rằng Thái phó, Thị giảng của Thái tử hiện giờ đều có xuất thân đại học sỹ, học sỹ, nhưng khi thái tử đọc sách, trước giờ lại chưa từng có một Thị độc. Thế mà hôm nay Thái tử lại thích ngươi, cầu xin bệ hạ triệu ngươi vào kinh, đông cung ưu ái ngươi, bệ hạ lại ưu ái đông cung, tức là bệ hạ đã ưu ái ngươi rồi. Ngày mai yết kiến, bệ hạ sẽ ban cho ngươi xuất thân đồng tiến sỹ, sau này ngươi không thể coi mình là tú tài nữa.
Dương Lăng lắp bắp:
- Đại nhân! Hạ quan ngu muội, vẫn không hiểu vì lẽ gì mà một dịch thừa nho nhỏ ở Kê Minh như hạ quan lại có thể lọt vào mắt xanh của bệ hạ, được lên kinh làm Thị độc vậy?
Trương Tú nghe vậy thì phá ra cười lớn, hết sức vui vẻ vỗ bàn đáp:
- Lọt vào mắt xanh của bệ hạ? Nào chỉ là lọt vào mắt xanh của bệ hạ! Tuy ngươi ở nơi xa xôi hẻo lánh, thế nhưng ngươi có biết bây giờ bộ Binh, bộ Công, nha môn Tam Pháp ty (9), nha môn Nội Quan, giám sát viện, Ngũ Quân đô đốc phủ, tất cả đều đang quây lại đánh nhau, một nửa quan viên của thành Bắc Kinh bị cuốn vào, tất cả là do Dương đồng tri nhà ngươi mà ra đó!
Dương Lăng nghe xong cả kinh, thất thanh:
- Cái gì?
(1) Thuật ngữ Cờ Tướng chỉ một nước cờ sát cuộc.
(2) Hai câu thơ trên được trích trong tập thơ Nhạc Phủ (thơ ca trong dân gian và âm nhạc, soạn theo thể cách những khúc nhạc trong nội phủ) "Bích Ngọc Ca".
Bích Ngọc, nhân vật chính trong thành ngữ "tiểu gia bích ngọc" (con gái cưng), là thiếp của Nhữ Nam Vương Tư Mã Nghĩa đời Tấn. Bích Ngọc họ Lưu, nàng
không đẹp xuất sắc, nhưng qua sự sủng ái của Nhữ Nam Vương đối với nàng, đoán chừng nàng rất dễ nhìn, rất có ý vị, và còn hát rất hay. Đáp ứng lời thỉnh cầu của Tư Mã Nghĩa, Tôn Xước đã sáng tác hai bài "Bích Ngọc Ca".
Bài thứ nhất:
Bích ngọc tiểu gia nữ, bất cảm phàn quý đức. Cảm lang thiên kim ý, tàm vô khuynh thành sắc. Dịch thơ - Tiểu Phong:
Bích Ngọc khuê nữ tiểu gia
Biết lòng chẳng xứng người ta đức tài. Ngàn vàng một tấm tình ai
Thẹn mình nhan sắc nhạt phai kém người Bài hai:
Bích ngọc phá qua thời, tương vi tình điên đảo. Cảm lang bất tu noản, hồi thân tựu lang bão.
Dịch thơ - Tiểu Phong:
Bích Ngọc đôi tám vừa tròn,
Vì tình điên đảo chẳng còn biết chi. Mến chàng thiếp có ngại gì
Quay người nép dưới thân kia trong lòng.
(3) Phạn ngữ, ý tăng thêm phật lực để bảo hộ và phù trợ cho chúng sinh.
(4) Tứ Hợp Viện là một kiểu kiến trúc điển hình ở Bắc Kinh. Tòa nhà gồm bốn dãy phòng ở các phía đông tây nam bắc, ở giữa là sân trống, cửa vào thường đặt ở phía nam.
(5) Vệ sở là biên chế quân đội thời Minh, chia làm hai cấp: vệ và sở. Một phủ lập thành sở, nhiều phủ lập thành vệ. Vệ lập chỉ huy sứ, thống lĩnh năm nghìn sáu trăm binh sĩ. Dưới vệ có Thiên hộ sở (thống lĩnh một nghìn một trăm hai mươi người), dưới Thiên hộ sở lập Bách hộ sở (lĩnh một trăm mười hai quân). Vệ sở ở mỗi huyện phủ sẽ do đô chỉ huy sứ của các chỉ huy sứ ty quản lý, các đô chỉ huy sứ sẽ lại được quản lý bởi trung ương ngũ quân đô đốc phủ.
(6) Y phục cao quý của quan lại, có thêu hoa văn hình con cá chuồn.
(7) Sắc Mục là tên gọi của một địa vị xã hội dưới thời Nguyên. Trái ngược với sự tin tưởng của số đông, cụm từ Sắc Mục (hiểu nghĩa đen là "mắt màu") không ám chỉ bọn họ có "mắt màu" so với những người Nguyên-Mông mắt đen, mà thật ra, nó có nghĩa là "các sắc danh mục" (各 色 名 目 , nghĩa là "các loại tên gọi, danh mục"), ám chỉ sự đa dạng sắc tộc của người Sắc Mục.
(8) Sông Rhine (hay Rhein) dài 1.320 km, là một trong những con sông lớn và quan trọng nhất châu Âu.
(9) Tam Pháp Ty là sự kết hợp của Bộ Hình (Tư Pháp), Đô Sát viện (viện Giám sát) và Đại Lý tự (tòa Phá án) nhằm thẩm định các vụ án lớn (còn gọi là "Tam ty hội thẩm"). Triều Nguyễn cũng áp dụng cơ cấu tổ chức này để có những hoạt động cụ thể nhằm giải quyết thỏa đáng những điều khiếu nại của nhân dân.
- Tiểu vương tử Thát Đát tập kích biên giới nước ta, đại quân hai ngả Trác huyện, Xích huyện đều có chiến tích, chỉ riêng cánh quân ở Hoài Lai là hao binh tổn tướng, khiến cho một vị đô ty tử trận, Giám quân Ngự sử Diệp đại nhân cũng bị loạn quân giẫm chết. Tam Pháp Ty phụng thánh dụ xem xét, cân nhắc định tội Hà tham tướng, không ngờ sau khi bị giải vào kinh, Hà tham tướng lại đem hết thảy tội khinh địch, liều lĩnh tiến quân đổ lên người Giám quân Diệp đại nhân và Lưu công công.
Hà tham tướng là tướng lĩnh do bộ Binh tiến cử, nếu như Hà tham tướng bị trị tội, tự nhiên bọn họ sẽ khó tránh bị chỉ trích không biết dùng người. Cho nên bộ Binh ra sức bảo vệ Hà tham tướng, chỉ trích Giám quân đã không rõ việc dùng binh, lại can thiệp sai bậy. Lúc này đám Ngự sử ở Đốc Sát viện và nha môn Nội Quan đều không khỏi cùng mang lòng thù địch với bộ Binh, từ đó hai phe công kích nhau không ngừng.
Nha môn của ty Nội Quan chẳng qua chỉ toàn là một đám thái giám, vốn không có ý kiến gì về mặt quân sự, nhưng khi hồi kinh, Lưu công công lại mang về một phong thư.
Nói đến đây, Trương Tú quay sang Dương Lăng cười bảo:
- Đó chính là phong thư mà ngươi đã gửi cho Hà tham tướng. Dương Lăng nói:
- Vâng, hạ quan từng có chút ý kiến nông cạn dâng cho Hà tham tướng, nhưng không biết phong thư đó tại sao lại rơi vào trong tay Lưu công công vậy ạ?
Trương Tú lắc đầu:
Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Com