Phần Không Tên 4
- Tiểu vương tử Thát Đát tập kích biên giới nước ta, đại quân hai ngả Trác huyện, Xích huyện đều có chiến tích, chỉ riêng cánh quân ở Hoài Lai là hao binh tổn tướng, khiến cho một vị đô ty tử trận, Giám quân Ngự sử Diệp đại nhân cũng bị loạn quân giẫm chết. Tam Pháp Ty phụng thánh dụ xem xét, cân nhắc định tội Hà tham tướng, không ngờ sau khi bị giải vào kinh, Hà tham tướng lại đem hết thảy tội khi nh địch, liều lĩnh tiến quân đổ lên người Giám quân Diệp đại nhân và Lưu công công.
Hà tham tướng là tướng lĩnh do bộ Binh tiến cử, nếu như Hà tham tướng bị trị tội, tự nhiên bọn họ sẽ khó tránh bị chỉ trích không biết dùng người. Cho nên bộ Binh ra sức bảo vệ Hà tham tướng, chỉ trích Giám quân đã không rõ việc dùng binh, lại can thiệp sai bậy. Lúc này đám Ngự sử ở Đốc Sát viện và nha môn Nội Quan đều không khỏi cùng mang lòng thù địch với bộ Binh, từ đó hai phe công kích nhau không ngừng.
Nha môn của ty Nội Quan chẳng qua chỉ toàn là một đám thái giám, vốn không có ý kiến gì về mặt quân sự, nhưng khi hồi kinh, Lưu công công lại mang về một phong thư.
Nói đến đây, Trương Tú quay sang Dương Lăng cười bảo:
- Đó chính là phong thư mà ngươi đã gửi cho Hà tham tướng. Dương Lăng nói:
- Vâng, hạ quan từng có chút ý kiến nông cạn dâng cho Hà tham tướng, nhưng không biết phong thư đó tại sao lại rơi vào trong tay Lưu công công vậy ạ?
Trương Tú lắc đầu:
- Nội tình trong đó ta cũng không rõ. Lưu công công là người hầu hạ bên cạnh Thái tử, trong cung y có một người bạn tốt tên là Trương Vĩnh (1). Vị công công này cũng biết một chút về quân sự, xem xong phong thư của ngươi thì coi như vật chí bảo, lập tức xúi bẩy ty Nội Quan hạch tội bộ Binh, chỉ trích rằng: "Sức chiến đấu của binh sĩ trong quân không mạnh, năng lực trinh sát kém, bộ Binh không biết cách cầm quân, đó mới chính là nguyên nhân dẫn đến thất bại."
Ha ha, bộ Binh tuy phụ trách điều binh khiển tướng, thế nhưng thường ngày việc luyện binh và thống lĩnh quân đội thực chất lại do Ngũ Quân đô đốc phủ phụ trách. Thế là như trút được gánh nặng, bộ Binh liền lôi Ngũ Quân đô đốc phủ vốn không hề liên quan vào cuộc. Bốn nha môn bắt đầu đấu đá lòng vòng như đèn kéo quân.
Dương Lăng lắp bắp:
- Chuyện này... Chuyện này... Hạ quan thật không ngờ có thể xảy ra nhiều rắc rối như vậy. Chỉ là ban nãy đại nhân có nói bộ Công cũng xen vào cuộc tranh cãi này, không biết chuyện dùng binh thì có liên can gì tới bộ Công vậy?
Trương Tú đáp:
- Không liên can, thật ra không hề liên can. Có điều trong phong thư của ngươi lại đề cập đến cái hay khi vận dụng hỏa khí cùng với tác dụng quan trọng của nó đối với chiến sự sau này. Bộ Binh có một chủ sự tên là Vương Thủ Nhân (2), y xem xong thư thấy rất tâm đắc. Tính mọt sách nhất thời phát tác, y bèn dâng lên Hoàng thượng Vạn Ngôn Thư, lời lẽ lưu loát, bàn nhiều về đạo trị quân, lại đề cập tới súng hoả mai của bản triều, yêu cầu phải cải tiến ngay. Trong tờ điều trần y cũng tỏ ra không hài lòng về việc quân đội phương bắc được trang bị quá ít súng ống. Theo bản đốc thấy, nội dung mà y tấu lên cũng đánh trúng chỗ yếu đương thời, chỉ là chọn thời điểm có phần không thích hợp.
Nghe đến ba chữ Vương Thủ Nhân, Dương Lăng có cảm giác hơi quen quen, song nhất thời lại không nhớ ra được ông ta là ai. Có điều nếu y đã có ấn tượng, chắc hẳn lúc trước khi xem sách sử đã gặp qua. Mặc dù bây giờ Vương Thủ Nhân chỉ là một chủ sự nhỏ nhoi của bộ Binh, nhưng rất có thể sau này ông ta cũng sẽ trở
thành một vị quan đạt được nhiều thành tựu, cho nên y thầm ghi nhớ trong lòng.
Trương Tú lại kể tiếp:
- Trong tình hình ấy bộ Công đâm lo sẽ bị những nha môn đang đùn qua đẩy lại kia sẽ đẩy trách nhiệm bại trận lên người bọn họ, thế là bèn quay qua phía Hoàng thượng kể khổ, nào là ngân lượng trích cấp không đủ, tố chất quân đội kém, súng hoả mai chế tạo không dễ...
Trương Tú vuốt cằm ra điều nghĩ ngợi một hồi, rồi lấy làm rất thú vị nói tiếp:
- Ừ... Sổ sách của bộ Công mới vừa trình lên đại nội hôm qua. Bản đốc đoán chủ quản vấn đề tiền lương của bộ Hộ mà nhận được tin tức xong, chắc sẽ lại biện hộ cho sổ sách đây.
Dương Lăng nghe mà dở khóc dở cười, y thốt lên:
- Sao lại có thể như vậy chứ? Hạ quan thật không ngờ lại nổi lên hồi phong ba thế này, sớm biết như vậy... phong thư đó không viết thì hơn.
Trương Tú vươn vai, uể oải nói:
- Ngươi bắt cua bao giờ chưa? Bỏ một bầy cua vào trong sọt, không cần phải đậy nắp lại nhưng cua vẫn không thể bò ra. Bởi vì chỉ cần có một con muốn bò lên, những con cua khác liền sẽ nhao nhao bám lên người nó, kết quả là nó bị kéo xuống. Rốt cuộc không một con nào có thể bò ra. Ha ha, trên quan trường xưa nay đều là như vậy, chẳng có gì lạ cả.
Cho dù không có phong thư của ngươi, bọn họ cũng sẽ tự tìm những cái cớ khác đề đùn đẩy trách nhiệm cho nhau thôi. Chẳng qua lần này ngươi nhờ thế mà vớ bẫm. Giờ đây Lục bộ đều biết đến đại danh của ngươi, Thái tử nghe chuyện như thế liền đòi xem thư của ngươi, xem xong bèn đến chỗ bệ hạ xin người, muốn ngươi vào kinh làm Thị độc. Ha ha ha...
Cười đã, vẻ mặt nghiêm túc trở lại, Trương Tú nói tiếp:
- Cuộc đấu đá lòng vòng ấy không hề có can hệ gì với Cẩm Y vệ của ta. Ngươi có biết vì sao hôm nay bản đốc đặc biệt triệu kiến ngươi không?
Dương Lăng đáp:
- Xin đại nhân mách cho! Trương Tú trầm ngâm:
- Cẩm Y vệ của chúng ta chuyên điều tra xử phạt văn võ bá quan cùng dân chúng cả nước, nằm độc lập ngoài Tam Pháp ty, mà Đông xưởng thì phụ trách giám sát bá quan và cả Cẩm Y vệ. Mỗi khi ty Bắc Trấn Phủ của ta nhận chiếu xử trọng án, Đông xưởng đều sai người dự thẩm. Có thể nói, quyền hạn của Đông xưởng còn cao hơn cả Cẩm Y vệ của chúng ta.
Dương Lăng không biết lão ta nói mấy chuyện này để làm gì, trong lòng không khỏi có chút tò mò, lắng nghe lão nói tiếp:
- Nhưng trong Cẩm Y vệ có rất nhiều quan chức là hậu nhân của các vị công thần, hơn nữa có rất nhiều quan viên của Đông xưởng vốn là quan quân được chiêu nạp từ Cẩm Y vệ của chúng ta, cho nên có thể nói là Đông xưởng và Cẩm Y vệ có quan hệ rất mật thiết. Nếu thật sự phải xét về thực lực, Cẩm Y vệ chưa hẳn đã sợ gì Đông xưởng. Cũng may một xưởng một vệ chúng ta xưa nay vẫn luôn luôn thuận hòa, trước giờ chưa từng xảy ra khúc mắc.
Trương Tú liếc y rồi nói:
- Từ cuối năm ngoái đến nay, bệ hạ dần cảm thấy long thể bất an... Những ngày gần đây, bệ hạ có ý mở lại Tây xưởng để giám sát Đông xưởng và Cẩm Y vệ. Trước mắt ngài đang sai người bí mật gây quỹ, mà quan viên thì phần lớn là thu nạp từ trong quân đội, tự lập thành một hệ, hoàn toàn không liên can gì với Đông xưởng và Cẩm Y vệ.
Dương Lăng nghe lão nói vậy thì chợt giật mình, suy nghĩ cẩn thận mới hiểu được ẩn ý trong lời của lão ta. Hoàng đế cảm thấy thân thể không tốt, đã bắt đầu lo
tính cho người nối nghiệp. Tuy Đông xưởng và Cẩm Y vệ là hai tổ chức mà lão tin cậy nhất, nhưng quyền lực của họ lại quá lớn. Hơn nữa qua lời của Trương Tú, tuy xưởng có trách nhiệm giám sát vệ, song thật sự thì cả hai lại biểu hiện như người một nhà, cho nên Hoàng đế không yên tâm. Tây xưởng đang chuẩn bị được mở lại kia không điều một binh một tốt nào của Đông xưởng và Cẩm Y vệ, mục đích chính là nhằm hạn chế thế lực của hai tổ chức này, tránh cho tân đế đăng cơ sẽ bị mất quyền lực.
Trương Tú lại nói:
- Thái tử tuổi còn nhỏ, Cẩm Y vệ ta có trách nhiệm bảo vệ an toàn cho hoàng thất, sao có thể không để ý cẩn thận chứ? Nhưng bệ hạ đã có lòng nghi ngờ, giờ đây Đông xưởng và Cẩm Y vệ không thể không tránh được hiềm nghi, cho nên không tiện sắp đặt người bên cạnh Thái tử. Lúc này ngươi sắp được làm Thái tử Thị độc, tức là cận thần bên cạnh Thái tử, nên phải gánh lấy trách nhiệm này. Ngươi hiểu ý của bản đốc chứ?
Dương Lăng làm gì mà còn chưa rõ dụng ý của lão? Cẩm Y vệ và Đông xưởng vui buồn có nhau, chung tay nắm quyền thế, giờ đây Tây xưởng sắp được thành lập, lấy việc giám sát cả hai làm nhiệm vụ, dĩ nhiên bọn họ sẽ không yên lòng để quyền lực bị tước mất.
Hiện giờ những kẻ bên cạnh Thái tử chỉ là một đám thái giám, tuy rằng bọn chúng cũng là đối tượng có thể lôi kéo, nhưng những vị thái giám đang nắm quyền ở Đông xưởng đương nhiên không vui lòng bồi dưỡng ra một đám đồng loại mà sau này có thể sẽ tiếm đoạt quyền lực của mình. Dương Lăng lại chưa có gốc rễ trong triều, bồi dưỡng một người như y, cho dù sau này có lên như diều gặp gió thì y cũng sẽ không rời bỏ hai cây đại thụ Đông xưởng và Cẩm Y vệ. Hiển nhiên y là ứng viên thích hợp nhất.
Nghĩ đến đây, Dương Lăng không khỏi nhấp nhổm không yên. Đối với một kẻ có tham vọng, loại cơ duyên cùng chỗ dựa vững chắc như vậy đương nhiên là trăm năm khó gặp một lần. Có điều trong tình hình ấy, một Thị độc nhỏ nhoi như y khó tránh sẽ trở thành cái gai trong mắt, cái dằm trong chân của một số kẻ khác, muốn
an nhàn sống hết hai năm e chẳng dễ chút nào.
Nghĩ được điểm mấu chốt trong đó, Dương Lăng không khỏi lo sợ bẩm:
- Đa tạ đại nhân cất nhắc! Chỉ có điều, hạ quan... hạ quan tuổi còn trẻ, e rằng sẽ phụ sự tin cậy của đại nhân mất.
Ánh mắt Trương Tú chằm chằm ghim vào người y một hồi lâu, đến khi trong lòng Dương Lăng nổi lên từng cơn ớn lạnh thì Trương Tú mới mỉm cười, đảo mắt thờ ơ nói:
- Trên đời này, lớn nhất chính là Thiên tử, chỉ cần ở cạnh Thiên tử, không có chuyện gì là không thể.
Đoạn lão mỉm cười, tiếp:
- Nói đến Tây xưởng, ta lại nhớ đến một chuyện. Năm Thành Hoá thứ ba, Nam Man (3) nổi loạn, Bá tước Lý Cẩn và Thượng thư Trình Tín ở Tương Thành đốc quân thảo phạt, sau khi quét sạch loạn tặc đã bắt được vô số nam nữ. Bọn họ đưa đám nô lệ này về kinh thành chia tặng cho các vương hầu. Trong đám nô lệ này có một nam tử họ Uông và một bé gái họ Kỷ được đưa vào đại nội, nam tử bị thiến làm hoạn quan, bé gái được nạp làm cung nữ...
Nói đến đây, lão nhìn qua phía Dương Lăng rồi cười khà khà hỏi:
- Ngươi có biết hai người này về sau có tao ngộ như thế nào không? Rồi không đợi y trả lời, Trương Tú đã tự đáp luôn:
- Mười năm sau, triều đình thiết lập Tây xưởng lần đầu tiên. Chỉ trong chốc lát, quyền lực của Tây xưởng đã khuynh đảo thiên hạ, vượt lên trên Đông xưởng và Cẩm Y vệ, mà xưởng công của Tây xưởng đó... họ Uông, tên Trực, chính là tên hoạn quan bị bắt nhập cung mười năm trước đó.
Dương Lăng đã nghe nói về tên tuổi của Uông Trực, nghe vậy bèn "a" lên một tiếng. Trương Tú kể tiếp:
- Còn bé gái họ Kỷ ban đầu làm cung nữ, rồi được thăng lên nữ quan, sau đó được phong làm Thục phi, về sau lại còn được phong làm Hoàng hậu, chính là thân mẫu của đương kim hoàng thượng hiện giờ.
Lão vỗ tay, thở dài nói:
- Tao ngộ như thế cũng thật là hiếm thấy! Nghĩ lại những tù binh bị bắt ở Đại Đằng Hạp (4) khi xưa, cho dù trên đường áp giải bị binh sỹ tuỳ ý đánh chết cũng không tính là gì. Ai có thể ngờ rằng trong đó có hai người đã đến được bên cạnh Thiên tử, có thể tạo nên câu chuyện oanh liệt về sau chứ?
Lão mỉm cười rồi nói tiếp:
- Ngươi xuất thân là kẻ đọc sách, đám quan văn đó coi ngươi như người của mình. Ty Nội Quan, Đốc sát viện và bộ Binh lại đều khá có hảo cảm với ngươi, sau lưng ngươi còn có Cẩm Y vệ và Đông xưởng cùng giúp đỡ, có thể nói là vô số cơ duyên. Chỉ cần có thêm được sự yêu thích của Thái tử, một khi Thái tử lên ngôi cửu ngũ, chính là lúc ngươi sẽ như rồng gặp mây, danh vang khắp gần xa! Dương đồng tri, ngươi còn muốn tự coi nhẹ mình không?
Dương Lăng nhìn vào bộ mặt tươi cười "ân cần" đó của Trương Tú, dường như trông thấy cánh tay của Dương Bài Trường vung về phía trước, kêu lớn:
- A Mễ Nhĩ, tiến lên! (5)
****
"A Mễ Nhi" đã tiến lên, nhưng không phải tiến về phía tiền đồ xán lạn, mà là tiến về phía người vợ của y.
Vừa rời khỏi ty Bắc Trấn Phủ của Cẩm Y vệ, thấy đèn sáng khắp nơi, Dương Lăng liền sực nhớ Ấu Nương vẫn còn ở nhà chờ mình, bèn lập tức nóng lòng trở về ngay. Mấy cái câu kiểu như "kim lân khởi thị trì trung vật, nhất ngộ phong vân tiện hóa long (6)" gì gì đó lập tức bị y dẹp qua một bên. Chỉ còn có hai năm nữa, thời gian quý báu biết bao nhiêu, cứ nên tập trung chăm sóc cho tiểu nương tử dễ thương
của mình thì hơn.
Kinh sư có hai hội chùa lớn, gọi là hội chùa đông và hội chùa tây. Hội chùa đông tổ chức tại chùa Long Phúc gần lầu Tứ Bài trên phố Đại Thị, được mở vào mùng chín và mùng mười hằng tháng. Hội chùa tây tổ chức tại chùa Đại Long Thiện Hộ Quốc (7) ở phố Hộ Quốc Tự, được mở vào mùng bảy và mùng tám hằng tháng.
Hôm nay không phải là ngày hội chùa, nhưng hai con đường này bấy lâu đã hình thành nên khu thương nghiệp ổn định, quán trà, tiệm rượu, cửa hàng mọc lên san sát, vô cùng náo nhiệt. Sau khi ăn bữa cơm tối đầm ấm ở một quán ăn, Dương Lăng và Ấu Nương đi thẳng về phía chùa Hộ Quốc.
Dĩ nhiên y không dẫn theo hai gã người ngoài Liễu Bưu và Dương Nhất Thanh. Kết quả là sau khi ăn xong bữa tối, từ trong ngõ đi ra , hai người lại đi nhầm lối, thế là đành phải hỏi thăm người đi đường. Những người đi đường nghe nói đôi phu thê trẻ này muốn đến chùa Hộ Quốc để dâng hương thì đều lộ vẻ ngạc nhiên, song vẫn chỉ đường cho bọn họ.
Thì ra ngôi chùa mười gian rộng lớn rất có tiếng tăm này giờ đây đã biến thành một chùa Lạt-ma. Đối với những vị bồ tát hình dạng kỳ quái mà Lạt-ma thờ cúng, các vị nhân sĩ chốn kinh sư vốn vẫn luôn có suy nghĩ "kính quỷ thần nhi viễn chi"
(7) nên cũng không dám lĩnh giáo lễ nghi dâng cúng của các vị Lạt-ma. Chỉ những khi có hội chùa, du khách mới vui vẻ bước vào bên trong ngoạn cảnh còn ngày thường rất ít người ghé thăm. Vì vậy hương quả trong ngôi chùa này rất lèo tèo, hoàn toàn không giống với cảnh hương quả hưng thịnh ở những chùa miếu khác.
Nhưng người Hán không giống như những người phương Tây luôn vạch rõ giới hạn về tín ngưỡng tôn giáo. Đơn giản là anh có tín ngưỡng của anh, tôi có tín ngưỡng của tôi, tuyệt đối không vì anh thờ Nguyên Thủy Thiên Tôn, tôi thờ Phật Tổ Như Lai mà sẽ đánh nhau túi bụi, hay là cấm cản không cho con cái lấy nhau.
Cho nên tuy người đi đường cảm thấy kỳ lạ khi cặp vợ chồng trẻ này muốn đi đến chùa Lạt-ma, nhưng cũng không ai làm khó bọn họ.
Những năm gần đây, không ít nhà sư từ Thanh Khang Tạng (9), thậm chí từ
ngoài sa mạc, đến tấn kiến triều đình Đại Minh. Bởi vì vùng đất của bọn họ được cai trị theo chế độ chính giáo hợp nhất (*), những Lạt-ma này vào chầu cũng giống như quan viên từ nơi đó vào triều yết kiến, rất được triều đình xem trọng. Cho nên Hoàng đề đã ban vài ngôi chùa cho những tăng lữ có lòng muốn ở lại Trung Nguyên, chùa Hộ Quốc là một trong số đó.
(*): Chế độ cai trị mà nguyên thủ quốc gia và lãnh tụ tôn giáo cùng là một người, pháp luật được viết dựa theo giáo nghĩa của tôn giáo, dân chúng tôn thờ duy nhất một loại tôn giáo.
Tuy rằng hương hoả không vượng, nhưng may nhờ triều đình cấp dưỡng, nhu yếu phẩm được cung cấp đúng hạn, cho nên cuộc sống của những vị Lạt-ma ở đây cũng không hề kham khổ.
Bước vào cổng chính, Dương Lăng thấy trong chùa sáng choang. Mặc dù cũng có vài du khách, nhưng trông tuổi tác dường như phần lớn đều là những cụ già đi dạo mệt mỏi vào đây nghỉ chân, ngồi tán gẫu dưới hành lang. Còn ngay trước lối vào điện Kim Cương, tuy cửa điện rộng mở thế nhưng lại tĩnh mịch lạnh lẽo, không ai bước vào.
Dương Lăng ngoái đầu nhìn, thấy Hàn Ấu Nương đang cách mình hơn ba thước, bẽn lẽn theo sau, trong lòng bất giác cảm thấy buồn cười, không nhịn được bèn trêu:
- Nương tử, cùng đi trên phố mà cách xa như vậy để làm gì? Tướng công phải liên tục ngoái đầu nhìn nàng, sắp trẹo cổ rồi đây này.
Hàn Ấu Nương xấu hổ đi đến bên cạnh y, khẽ trách:
- Tướng công! Nói nhỏ chút đi mà, người ta nghe được sẽ cười cho đấy. Thiếp là nữ nhân, vốn không thể sóng vai bước ngang hàng với chàng mà.
Dương Lăng cười lớn nói:
- Được, vậy nàng cứ đi theo đằng sau đi. Phật dạy: "Kiếp trước ngoái đầu nhìn
năm trăm lần mới có thể đổi được một lần thoáng gặp gỡ ở kiếp này." Về sau nàng cứ đi theo tướng công mỗi ngày, tướng công không có gì làm sẽ ngoái đầu lại nhìn nàng một chút, nhìn đến năm ngàn, năm vạn lần, tranh thủ để kiếp sau vẫn làm phu thê.
Ấu Nương cười thẹn lườm y, chưa kịp đáp lời thì một giọng cười "hắc hắc" khó nghe đột nhiên vọng lại, kế đó là tiếng nói:
- Thuyết pháp này thật thú vị! Ta chỉ mới nghe nói rằng "trăm năm tu duyên, nghìn năm tu phận, vạn năm tu duyên phận" mà thôi.
Ngoái đầu lại nhìn, Dương Lăng trông thấy một thư sinh trẻ tuổi, mặt như thoa phấn, tay cầm một cây quạt thếp vàng đang nhìn y cười hì hì. Tiểu thư sinh này có vóc người cao hơn Ấu Nương một chút, mặt mày sáng láng, vận một bộ đạo bào (một loại trang phục áo dài chấm gót đời Minh - tác giả.), lưng buộc đai gấm, đầu đội mũ quả dưa (10), chóp mũ đính một viên thạch anh, trông thật khôi ngô tuấn tú.
Tiểu thư sinh vừa mở miệng, cái tiếng vịt đực khó nghe trong thời kỳ bị vỡ giọng lại ồ ồ vang lên:
- Có điều, không biết cái "ngoái đầu nhìn năm trăm lần" của vị huynh đài đây là điển cố trong bộ kinh văn nào vậy? Là Tam Quy Ngũ Giới Từ Tâm Yếm Ly Công Đức kinh, A Di Đà Phật Âm Vương Đà La Ni kinh? Hay là Tứ Thập Nhị Chương kinh vậy?
Nói đoạn y bung cây quạt thếp vàng dùng làm trang sức kia ra đánh xoạch, khẽ quạt quạt mấy lượt, dáng vẻ khá là tiêu sái. Kế đó y lại cảm thấy chán nên gấp quạt lại, rồi hỏi:
- Hôm nay tiểu đệ cùng huynh cũng xem như thoáng gặp gỡ, không biết vì sao kiếp trước huynh đài quay đầu nhìn ta nhiều lần như thế?
(1) Trương Vĩnh (1465 - 1529), Ngự dụng giám thái giám, tự là Đức Duyên, biệt hiệu "thủ am". Đầu những năm Hồng Vũ, ông cố nội của ông ta dời đến Tân Thành, Bảo Định (nay là huyện Tân Thành tỉnh Hà Bắc), trở thành người Tân
Thành. Năm Thành Hoá thứ mười một (1475), ông ta được chọn vào cung, vào cung Càn Thanh hầu hạ cho vua Hiến Tông, năm đó ông ta gần mười tuổi. Sau đó ông ta được thăng chức làm Nội quan giám hữu giám thừa. Năm Thành Hoá thứ mười ba (1487), Hiến Tông qua đời, Hiếu Tông điều ông ta đến Mậu Lăng ty. Năm Hoằng Trị thứ chín (1496), ông ta được điều vào đông cung hầu hạ cho Thái tử Chu Hậu Chiếu, tức Vũ Tông sau này. Năm Hoằng Trị thứ mười tám (1505), Vũ Tông kế vị, điều chuyển Trương Vĩnh làm Ngự mã giám tả giám thừa, không lâu sau thăng làm Ngự dụng giám thái giám. Trương Vĩnh tấu sớ xin cố thái giám Ngô Trung nhượng lại điền trang rộng đến bảy dặm. Bộ Hộ chỉ trích ông ta vi phạm cấm lệnh, cần phải điều tra trừng trị, song Vũ Tông lại chiếu lệnh cho Trương Vĩnh quản lý tài sản.
(2) Vương Thủ Nhân(1472-1529), người Dư Diêu, Chiết Giang, tự là Bá An, hiệu Dương Minh Tử, đời gọi là Dương Minh tiên sinh, học giả đồng liêu gọi là Vương Dương Minh. Ông là nhà tư tưởng, triết học, văn học và quân sự nổi tiếng nhất thời Minh, là người đã thu thập để viết nên tập Lục Vương Tâm Học. Chẳng những tinh thông Nho gia, Phật gia, Đạo gia, mà ông còn có thể lĩnh binh chinh chiến, là nhà thông thái toàn năng hiếm thấy trong lịch sử Trung Quốc. Ông được phong là "tiên Nho", pho tượng thờ thứ 58 trong miếu thờ Khổng Tử.
(3) Nam Man (nghĩa là "người man rợ phương nam") là từ miệt thị trong lịch sử Trung Quốc để chỉ các bộ lạc nổi loạn phía tây nam của Trung Quốc. Từ này xuất hiện sau khi có vương quốc Tam Miêu hùng mạnh vào thế kỷ thứ ba trước Công nguyên do người Miêu dẫn đầu. Trong thời kỳ Tam Quốc, người Miêu dưới sự lãnh đạo của Mạnh Hoạch đã nhiều lần nổi lên chống lại Thục Hán, sau khi Mạnh Hoạch bị Gia Cát Lượng bắt và thả bảy lần đã quy phục Thục Hán. Nam Chiếu thường xuyên cống nộp thông qua Kiếm Nam Tiết Độ Sứ. (theo wikipedia)
(4) Đại Đằng Hạp là hẻm núi (hạp cốc) rộng lớn và dài nhất trong phạm vi Quảng Tây, trở thành khu vực giao tranh của binh gia tự cổ chí kim. Cuộc khởi nghĩa nổi tiếng của dân tộc người Dao ở thời Minh đã bùng nổ ở nơi đây, kéo dài trên hai trăm năm. Từ đầu những năm Hồng Vũ (~1375) đến năm Thiên Khải (1621
- 1627), Vương triều nhà Minh lần lượt đưa trọng binh trấn thủ, trấn áp cuộc khởi nghĩa của người Dao.
(5) nguyên văn "A Mễ Nhĩ, xung!" đây là câu nói thịnh hành lấy từ trong bộ phim truyền hình nổi tiếng Trung Quốc "Người khách lên Băng Sơn". Trong phim, khi A Mễ Nhĩ cùng Cổ Lan Đan Mỗ trùng phùng, y đã không dám chạy tới ôm cô. Thấy tình hình như vậy, Dương Bài Trường đã ra lệnh: "A Mễ Nhĩ, tiến lên!" Thời nay, nó được dùng như một câu khích lệ. Khi một thanh niên nhìn trúng một cô gái nào đó nhưng lại không đủ can đảm theo đuổi, bạn bè cậu ta sẽ đồng thanh cổ vũ bằng câu: "A Mễ Nhĩ, tiến lên!"
(6) "Lân vàng há phải vật trong ao, nếu gặp phong vân sẽ hóa rồng" - trích câu nói nổi tiếng trong bộ phim Phong Vân. Nhưng thật ra câu "Kim lân khởi thị trì trung vật" lại bắt nguồn từ bài thơ trong tập "Tinh Học Đại Thành" của Vạn Dân Anh, thời Minh. Thơ rằng:
Nguyệt không chi nhân diệc hãn phùng, (月空之人亦罕逢) Na kham quan quý tại kì trung; (那堪官 在其中)
Kim lân khởi thị trì trung vật, (金 是池中物) Bất nhật thiên thư hạ cửu trùng (不日天 下九重)
(7) Chùa Hộ Quốc lấy tên đặt trong vùng vào thời Nguyên đặt cho. Năm Tuyên Đức thứ tư (1264-1295) đổi tên thành chùa Đại Long Thiện. Năm Thành Hóa thứ tám (1472) được ban tên chùa Đại Long Thiện Hộ Quốc. Vì chùa tọa lạc ở phía tây thành Bắc Kinh, cho nên người Bắc Kinh xưa còn gọi nó là "chùa Tây".
(8) Thành ngữ này có nguồn gốc từ một câu nói của Khổng Tử trong "Luận ngữ
- Ung dã" (論語•雍也):
Vụ dân chi nghĩa, kính quỷ thần nhi viễn chi, khả vị tri hĩ ( 務民之義,敬鬼神而遠之,可謂知矣� � )
Tạm dịch như sau:
Làm việc nghĩa, có ích cho dân, tuy phải kính trọng quỷ thần nhưng không cầu cạnh quỷ thần, mà nên tránh xa quỷ thần, đó là trí.
Có thể nói rằng, "Kính nhi viễn chi" chính là cách nói rút gọn từ câu "Kính quỷ thần nhi viễn chi"( 敬鬼神而遠之).
Ngày nay, trong tiếng Việt, thành ngữ "kính nhi viễn chi" thường được dùng trong các trường hợp: Bề ngoài tỏ ra kính nể, tôn trọng một đối tượng nào đó, nhưng trên thực tế không muốn tiếp cận, gần gũi với đối tượng đó; hoặc thường dùng trong các trường hợp mỉa mai, châm biếm khi mình không muốn tiếp cận với một đối tượng nào đó. (theo wikipedia)
(9) Thanh Khang Tạng chỉ cao nguyên Thanh Tạng, vùng cao nguyên cao nhất thế giới ở châu Á. Vắt qua khu tự trị Tây Tạng, toàn bộ tỉnh Thanh Hải và khu tự trị Duy Ngô Nhĩ, Tân Cương, tỉnh Cam Túc và một phần tỉnh Tứ Xuyên và Vân Nam.
(10) Tên thông dụng của "lục hơp nhất thống mạo", một loại mũ đội được người dân trong kinh thành dùng nhiều. Mũ hình bán nguyệt dùng sáu miếng vải lụa ghép thành.
- Chuyện này...
Dương Lăng có phần lúng túng. Thật tình thì y không hề biết câu nói đó có thật sự bắt nguồn từ kinh phật hay không, nhưng vừa nghe tiểu thư sinh kia một hơi kể ra mấy bộ kinh phật mà mình chưa hề nghe qua thì biết ngay người ta mới đúng là kẻ đọc sách, hơn nữa hiểu biết về phật học rất sâu. Y nào dám đối đáp bậy bạ, chỉ đành cười trừ nói:
- Ờ... Chuyện này, hà hà, tại hạ thích đọc sách nhưng lại không ham mê tìm tòi nghiên cứu, thật sự không nhớ ra được đó là điển cố trong bộ kinh thư nào.
Tiểu thư sinh nọ đảo cặp mắt đen tròn của mình, rồi đột nhiên cười ranh mãnh
nói:
- Ta hiểu rồi, vị huynh đài này vốn là thuận miệng nói bừa để chọc cho nương tử được vui, quả nhiên cơ trí! Bội phục! Bội phục!
Người trung niên đứng cạnh bên cười lớn nói:
- Con chớ có ăn nói lung tung!
Tuy là mở miệng trách móc, nhưng giọng ông ta lại rất nhẹ nhàng, cả khuôn mặt toát lên vẻ hiền hậu của người cha, hiển nhiên là rất cưng chiều con mình.
Tiểu thư sinh không phục nói:
- Vốn dĩ là vậy mà. Tỷ tỷ, tướng công nhà tỷ có phải là thường hay nói bậy nói bạ để tỷ được vui không?
Hàn Ấu Nương đỏ mặt, khẽ xì một tiếng, ánh mắt ngọt ngào liếc nhìn Dương Lăng, tình cảm dịu dàng muốn che giấu cũng không được. Người thiếu niên vỗ tay cười nói:
- Trăng hoa đón gió vui xuân mới, hàng liễu bên cầu đắm khói sương (1), đẹp thì đẹp đấy, nhưng làm sao có thể sánh được với vẻ đẹp 'mày tựa núi xuân, mắt như thu thuỷ' của nữ tử khi chìm trong bể tình? Lúc tỷ tỷ nhìn tướng công nhà mình, nụ cười thật xinh, thật ngọt! Có điều đệ thấy tướng công nhà tỷ tướng mạo anh tuấn, tài hoa hơn người, nhất định là rất giỏi cưng nựng người khác. Tỷ tỷ phải trông chừng cẩn thận, kẻo không huynh ấy lại đi trêu hoa ghẹo nguyệt đấy!
Hàn Ấu Nương hứ một tiếng, nhưng vừa định cất lời phản bác thì chợt nhớ đến Mã Liên Nhi. Người con gái xinh đẹp đó, mình là thiếu nữ mà nhìn còn thấy tim đập thình thịch, thế nhưng lại cam tâm tình nguyện đi theo Dương Lăng làm tiểu thiếp. Nói không chừng tướng công thật sự rất giỏi cưng nựng người khác, khiến cho con gái nhà người ta bị mê hoặc rồi trao tim cho chàng. Vừa nghĩ nàng vừa liếc nhìn Dương Lăng với vẻ ai oán.
Người văn sỹ trung niên kia cười lớn, xoa đầu con mình rồi trách:
- Nói xàm!
Dứt lời ông ta quay sang Dương Lăng chắp tay cười nói:
- Vị công tử này, con ta tính tình bướng bỉnh, mong công tử thứ lỗi cho! Dương Lăng vội đáp:
- Không dám, không dám. Lệnh công tử thông minh lanh lợi, học thức hơn người, như ngọc trong đá, tương lai nhất định sẽ có tài làm Trạng Nguyên.
Tiểu thư sinh nọ nghe xong, vẻ mặt như cười mà không phải cười, thần sắc hơi cổ quái. Dương Lăng thấy vị trung niên kia không xưng họ tên cũng không có ý trò chuyện với mình, bèn cáo từ:
- Tại hạ phải cùng nương tử vào miếu dâng hương, thứ lỗi không hầu chuyện
được!
Văn sỹ trung niên cười nói:
- Không sao cả, công tử xin cứ tự nhiên!
Dương Lăng vừa mới kéo Ấu Nương bước dọc theo hành lang mấy bước, tiểu công tử nọ đột nhiên lại gọi với theo:
- Này, huynh đài, huynh vẫn chưa nói vì sao kiếp trước lại quay đầu nhìn ta hơn năm trăm lần đó nhé.
Dương Lăng quay đầu cười nói:
- Chuyện này... Chỉ có hai loại người có thể khiến ta liên tục ngoái đầu lại nhìn: một là giai nhân tuyệt thế vô song, hai là loại vô lại nợ tiền không trả. Không biết tiểu huynh đệ ngươi là loại người nào?
Nói xong y cười lớn rồi kéo Ấu Nương rảo bước bỏ đi.
Tiểu thư sinh vỗ cây quạt nhỏ thếp vàng, nghiêm túc cân nhắc một hồi lâu:
- Gì thế nhỉ... Tuyệt thế giai nhân? Không ổn. Vô lại nợ tiền... Hình như cũng không ổn. Ai da, tiểu tử này chơi mình!
Ngẫm ra được ý xỏ xiên, tiểu thư sinh bèn hậm hực cất bước đuổi theo. Văn sỹ trung niên không kịp ngăn lại, chỉ đành lắc đầu cười, khẽ đưa tay vẫy một cái.
Trong hành lang, hơn mười hán tử trước đó vốn trông như những du khách đứng ở xung quanh lần lượt hiện thân, lặng lẽ đi theo ông ta.
Văn sỹ trung niên chậm rãi đi theo sau con trai. Một lão bộc ăn mặc như gia nhân bước đến bên cạnh dìu ông ta, nhỏ giọng nói:
- Lão gia, sắc trời không còn sớm nữa, chúng ta hãy quay về thôi! Văn sỹ trung niên mỉm cười bảo:
- Ha ha, đứa nhỏ này ngày thường ngay cả một người bạn chơi cùng cũng không có, hiếm khi có được người cãi vặt cùng thế này, cứ để nó chơi thêm một chút đi!
Lão bộc gật đầu, khom lưng dìu vị trung niên hơi mập mạp này vất vả bước vào điện Kim Cương. Bỗng nhiên từ phía điện Thiên Vương ở gian sau vang đến những âm thanh huyên náo. Vẻ mặt người văn sỹ trung niên chợt trở nên căng thẳng, chân bước nhanh hơn, giọng lo lắng:
- Mau đi xem, đã xảy ra chuyện gì vậy?
Băng qua sảnh điện, chỉ thấy trước điện Thiên Vương có vài nhà sư Tây Tạng mặc hồng bào, đội mũ cao đang đứng trên nguyệt đài (*), phía dưới có năm người mặc trường bào đang đứng, còn một người nằm dưới đất, hai bên đang cãi nhau ầm ỹ.
(*): bục có mặt chính nhô ra phía trước, ba mặt đều có bậc lên xuống.
Tiểu thư sinh, Dương Lăng và Ấu Nương đứng cùng một chỗ ngóng cổ xem náo nhiệt. Sáu, bảy hán tử tráng kiện đứng chung quanh bọn họ, có vẻ như cũng là du khách xem náo nhiệt, song lại ngầm vây bọn họ vào giữa để bảo vệ.
Trên đài, những nhà sư Tây Tạng bô lô ba la quát tháo. Dưới đài, những người mặc trường bào thân hình dong dỏng cao cũng vung tay múa chân, to tiếng biện hộ bằng một thứ ngôn ngữ kỳ lạ, bộ dạng trông cực kỳ giận dữ.
Lúc Dương Lăng nhìn thấy trên nguyệt đài là mấy nhà sư Tây Tạng thì đã biết hôm nay vào nhầm cửa chùa, tiếp đó khi thấy mấy người đàn ông mặc trường bào đứng cạnh đỉnh đồng bên dưới bục đài đều là người Tây Dương mũi cao, mắt xanh, thì lại càng cảm thấy kỳ quái hơn. Hai tốp người nước ngoài "ông nói gà bà nói vịt", cãi lộn nhặng xị một hồi lâu, một người Tây Dương dáng cao gầy trong đám người ở dưới bục đài đột nhiên bước ra, mặt đỏ gay, căng họng la lên:
- "Khắp dưới gầm trời, chẳng chỗ nào không phải đất của vua. Trong cả bốn bể, chẳng một ai không là bề tôi của vua." (2)
Các người đuổi bọn ta đi là không đúng lý!
Vị tiểu công tử kia cùng phụ thân đưa mắt nhìn nhau, không nhịn được bật cười. Nhà sư Tây Tạng trên bục cũng hầm hầm nói bằng tiếng Hán:
- Không phải là bọn ta... không thu nhận các người. Nhưng đám hòa thượng Tây Dương các người ý đồ không tốt, đem người mắc bệnh đến đây, sẽ lây nhiễm.
Người Tây Dương ở dưới bục đài lắc đầu lia lịa:
- Không, không, không. Bệnh mà y mắc không phải là ôn dịch, sẽ không lây nhiễm đâu.
Người hai bên đều dùng thứ tiếng Hán giả cầy của mình tranh cãi qua lại, mấy người Dương Lăng đứng ở cạnh bên lúc này mới lờ mờ đại khái hiểu ra được.
Thì ra mấy người Tây Dương này là nhà truyền giáo đến từ Phật Lăng Cơ (tên gọi Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha ngày xưa), đã lăn lộn ba năm ở Đại Minh, mấy ngày trước vừa mới thành công thu được một tín đồ đầu tiên của bọn họ ở đất này, đó là một tên ăn mày mắc phải bệnh nan y, toàn thân lở loét, phập phù thoi thóp, thế là liền như đoạt được chí bảo mang y về chùa Hộ Quốc mà mình đang ở nhờ, một mặt chăm sóc y, mặt khác đem giáo lý Thiên Chúa giáo truyền bá. Những nhà sư Tây Tạng lo bệnh tật của kẻ này sẽ lây nhiễm, thương lượng mấy lần vẫn không có kết quả, bèn đuổi bọn họ ra khỏi cửa.
Dương Lăng thấy người mà đám truyền giáo nước ngoài này cứu trợ là người Hán, tuy rằng có phần vì tư lợi, muốn phát triển giáo đồ, nhưng cũng tính là một việc thiện, liền bước lên giúp họ cãi lý. Nhưng mấy nhà sư Tây Tạng kia căn bản bất chấp lý lẽ, không hề có lòng từ bi của người cửa phật.
Tiểu thư sinh cùng phụ thân thì thầm mấy câu, kế đó ngoắc tay gọi một người hầu lại nhỏ giọng căn dặn. Người hầu đó chạy lên nguyệt đài, nói mấy câu với một Lạt ma chấp sự. Vị Lạt ma chấp sự đó nghe nói vị thiện nhân dưới đài muốn quyên góp ba nghìn lạng bạc tiền hương hoả thì mặt mày lập tức tươi roi rói, ngay lập tức đáp ứng yêu cầu thu nhận mấy nhà truyền giáo Tây Dương kia.
Ngôi chùa to lớn này có tới hơn mười gian, muốn an bài một khu phòng độc lập nho nhỏ cho mấy người kia đương nhiên không thành vấn đề. Hôm nay bọn họ chuyện bé xé ra to, muốn đuổi mấy người Tây Dương này đi, nguyên nhân thật sự là vì tuy trong con mắt người Hán thì đám sư sãi Lạt Ma cố nhiên là kỳ quái, nhưng trong mắt các nhà sư này thì những hòa thượng tóc vàng mắt xanh kia còn là những kẻ man di mọi rợ ăn thịt người chưa được khai hóa.
Có được chỗ nương thân, đám truyền giáo vui sướng không thôi, nhao nhao hướng về vị đại thiện nhân và Dương Lăng - người đã lên tiếng cất lời chính nghĩa - tỏ lòng cảm ơn rối rít, rồi sau đó họ tới chỗ ở cũ đem chăn đệm, rương hòm đưa vào hậu viện. Người Tây Dương vóc dáng cao nhất có vẻ như thủ lĩnh của tốp giáo sỹ nọ không ngừng dùng thứ tiếng Hán hết sức kém cỏi của mình để tỏ lòng cảm tạ với Dương Lăng và tiểu thư sinh.
Dương Lăng rất tò mò về những nhà truyền giáo này. Trong ấn tượng của y, các nhà truyền giáo Tây Dương đến Trung Quốc trong thời kỳ đầu vẫn khá văn minh và chính trực, thật sự xuất phát từ tín ngưỡng tôn giáo cuồng nhiệt nên mới không ngại gian khổ đến phương Đông xa xôi truyền đạo, cho nên khi trò chuyện với bọn họ y luôn rất khách sáo.
Những nhà truyền giáo này nhận mệnh lệnh của Tòa thánh đến phương Đông truyền giáo, đi đến đâu cũng gặp trắc trở, có rất ít người chịu để ý đến bọn họ. Lúc này thấy Dương Lăng chủ động bắt chuyện, nhà truyền giáo đó rất hưng phấn, lập tức lắp bắp tự giới thiệu hành trình đến đây của mình.
Thì ra nhà truyền giáo này tên là Sa Tư Các, y và mấy mươi vị giáo sỹ nhận chỉ lệnh của giáo hội Da-tô (Jesus) Phật Lăng Cơ tổ chức thành đoàn đến phương Đông truyền giáo. Ban đầu họ đến được Ấn Độ, nhưng ở đó truyền bá giáo lý lại rất khó khăn và nguy hiểm, một vài giáo sỹ còn vì bất đồng tôn giáo mà đã bị người dân bản xứ đánh chết.
Sau đó bọn họ nghe nói đi tiếp về phía đông có một quốc gia còn hùng mạnh và văn minh hơn, thế là bọn họ rời khỏi Ấn Độ, xuôi theo đường biển để đến Đại Minh, kết quả khi đội thuyền đến Malacca (3) thì bị quân đội nơi đó bắt giữ. Về sau
bọn họ mua chuộc lính canh, thông qua thương nhân bản xứ lén vượt biên đến Nhật Bản, sau khi lưu lại vài giáo sỹ ở đó, năm người còn lại đi thuyền tới vùng Giang Chiết, rốt cuộc đã đến được Đại Minh.
Nhưng muốn truyền bá giáo lý Phúc Âm của Thiên Chúa giáo tại vùng đất của người Hán này rõ ràng là có chút khó khăn. Đối với dân chúng thì một vị thần bẻ xương đàn ông để tạo ra đàn bà hiển nhiên là không thần thông quảng đại bằng Nữ Oa nương nương nặn đất thành người. Hơn nữa vị thần Tây Dương kia còn không dạy cho đôi nam nữ đáng thương biết thế nào là liêm sỉ lễ nghĩa, cả ngày để cho bọn họ trần truồng lang thang trong vườn cây ăn quả. Thứ thần chẳng đâu vào đâu này hiển nhiên không có sức hấp dẫn như Phật Tổ Như Lai từ bi hoà nhã và Thái Thượng Lão Quân có thể hàng yêu phục ma rồi.
Cho nên năm nhà truyền giáo này lăn lộn vất vưởng hơn hai năm ở vùng Giang Chiết mà không kiểm nổi một tín đồ, bất đắc dĩ đành phải đến kinh sư, hy vọng có thể được hoàng đế Đại Minh triệu kiến để có cơ hội truyền đạt giáo lý ở Đại Minh.
Để người Hán có thể tiếp nhận dễ dàng hơn, giờ đây bọn họ đổi sang mặc trường bào, học Tứ thư Ngũ kinh. Để phù hợp với quan niệm "Trời tròn Đất vuông"
(4) của người Trung Quốc, họ thậm chí đã vẽ lại một phần bản đồ thế giới mà mình mang theo, đặt vị trí của Trung Quốc ở chính giữa, có thể nói là đã dốc sạch vốn liếng ra rồi. Đáng tiếc quan viên bộ Lễ nghe nói bọn họ không phải là sứ giả đại diện cho tiểu bang dị quốc đến yết kiến thiên triều thì đã đuổi bọn họ đi ngay, đến giờ còn chưa gặp được Hoàng đế mà bọn họ đã sắp trở thành ăn mày rồi.
Tiểu thư sinh nọ nghe xong cảm thấy khá thú vị, không nhịn được bèn chen miệng vào:
- Quốc gia của các người ở đâu? Rộng chừng nào vậy? Sa Tư Các lắp bắp nói:
- Ở phương Tây, rất xa rất xa, phải ngồi thuyền rất rất lâu. Quốc gia của chúng tôi vốn cực kỳ nhỏ, còn không lớn bằng vùng Giang Chiết, nhưng hai mươi năm trước nữ vương Castilla thành hôn cùng quốc vương Aragón (5) của chúng tôi, hai
nước đã sát nhập lại. Đất nước của chúng tôi bây giờ đã lớn hơn rất nhiều, còn lớn hơn vùng Giang Chiết một chút.
(1) Nguyên văn: Thiên địa gian hoa nguyệt xuân phong, họa kiều yên liễu "Thiên địa gian" là giữa trời đất, "hoa nguyệt xuân phong" là trăng hoa và gió
xuân, "họa kiều" là một loại cầu được trang hoàng lộng lẫy, "yên liễu" là nhành liễu giữa làn sương sớm.
HieuSol phỏng dịch :
Gió xuân thắm đượm trăng hoa, Bên cầu tơ liễu sương nhòa mắt ai.
(2) Nguyên văn "Phổ thiên chi hạ, mạc phi vương thổ. Suất thổ chi tân, mạc phi vương thần" trích từ bài "Bắc sơn", phần Tiểu nhã trong Kinh Thi.
Kinh Thi gồm 311 thiên, chia làm ba phần lớn: Phong (Quốc phong), Nhã, và Tụng. Trong đó, Nhã, nghĩa là đính chính, gồm những bài hát nơi triều đình, được chia làm 2 phần: Tiểu nhã và Đại nhã. Tiểu nhã bao gồm những bài dùng trong trường hợp không quan trọng lắm như các buổi yến tiệc (74 thiên).
(3) Malacca hay còn gọi là Malaka (phiên âm Mã Lục Giáp), là một cựu quốc gia tại Đông Nam Á, chịu ảnh hưởng Hồi giáo, được thành lập năm 1402, đến năm 1511 thì bị người Bồ Đào Nha chiếm.
(4) Kỳ thực học thuyết cổ đại Trung Quốc "Trời tròn Đất vuông" tuyệt đối không phải là một khái niệm về mặt địa lý, mà nói về một loại Đạo, một loại quy luật, một loại văn hóa. Trời tròn biểu tượng cho "Đạo Trời viên dung", chính là sự hài hòa và quy luật tuần hoàn của vũ trụ. Đất vuông cũng giống như Đạo làm người, giảng rõ ra chính là đức tính ngay thẳng, trung dung, hành động có quy phạm, đây mới là giá trị chân chính mà câu nói: "Thiên viên Địa phương" hằng biểu hiện – "Thiên nhân hợp nhất".
(5) Aragón, Castilla, Leon và Navarre đã làm nên nền tảng của đất nước và đế
chế Tây Ban Nha hiện nay. Năm 1469, ngai vàng của hai vương quốc đạo Cơ đốc là Aragón và Castilla đã được hợp nhất bởi lễ cưới giữa vua Fernando II của Aragón và nữ hoàng Isabel I của Castilla. Năm 1492, vương quốc hợp nhất đã chiếm đóng Granada, chấm dứt 781 năm cai trị của người Hồi giáo tại bán đảo Iberia.
Vua Fernando và nữ hoàng Isabel đã củng cố vững chắc hệ thống quyền lực trung ương, đồng thời cái tên España (Tây Ban Nha) bắt đầu được dùng để chỉ vương quốc hợp nhất. Với những cải cách lớn về chính trị, pháp luật, tôn giáo và quân đội, Tây Ban Nha đã vươn lên trở thành một cường quốc trên thế giới. (theo wikipedia)
- Phí hơi cả ngày trời, vẫn chỉ là một vùng Giang Chiết thôi mà. Làm sao ở đó các ngươi có thể để cho phụ nữ làm quốc vương được nhỉ? Bà ta cưới người khác thì lấy cả quốc gia đem làm của hồi môn à?
Dương Lăng cười nói với y:
- Quốc gia phương tây đúng là có thể để cho phụ nữ làm vua. Ngươi chớ thấy quốc gia Phật Lăng Cơ bé nhỏ mà lầm, hải quân của bọn họ rất hùng mạnh, hiện tại có thể nói là tung hoành bốn biển, gần như không có đối thủ. Ở nơi đó, bọn họ có một loại hoạt động nổi tiếng nhất gọi là đấu bò tót, thú vị hơn nhiều so với mấy trò đá gà chọi dế của bọn trẻ con Đại Minh chúng ta. Đấu sỹ bò tót tài giỏi có thể một kiếm đâm xuyên tim một con bò đực khổng lồ nặng cả nghìn cân.
Sa Tư Các trở nên hưng phấn, vội nói:
- Thật khó tin! Ngài đã đến quốc gia của chúng tôi sao? Ở Đại Minh có rất ít người biết tới chuyện ở nước chúng tôi. Lạy Chúa, thậm chí có người nói ở đó chúng tôi ăn thịt người nữa cơ.
Y nhún nhún vai, vẻ mặt vô tội, nói tiếp:
- Thượng đế chứng giám, trên đường đến phương đông, chúng tôi cũng sợ nhất là gặp phải tộc mọi ăn thịt người.
Dương Lăng nghe thấy thế thì cười ầm lên. Vị văn sỹ trung niên nọ hứng thú quan sát y một chút, mỉm cười không nói gì. Tiểu thư sinh nghe Dương Lăng khen ngợi hải quân của Phật Lăng Cơ hùng mạnh thì lấy làm không phục, vốn định nhắc đến hạm đội khổng lồ dưới trướng Trịnh Hòa với bảy lần đến đại dương phía tây (1) của bản triều, bỗng nghe đến võ sỹ đấu bò gì đó, lập tức nảy sinh hứng thú, vội hỏi:
- Võ sỹ đấu bò gì thế? Ngươi hãy mau nói cho ta nghe, chơi hay lắm sao?
Đang định trả lời, Dương Lăng chợt nhìn thấy Ấu Nương đang đứng ở một bên hiếu kỳ nghe mình giảng giải, y không khỏi giật thót người. Y vốn là một tú tài nơi sơn thôn hẻo lánh, dựa vào cái gì mà biết tường tận những chuyện nơi đất khách quê người? Mặc dù không lo Ấu Nương sẽ vì vậy mà nghi ngờ gì, nhưng nếu để cho nàng hỏi tới thì sẽ không tránh khỏi phải tốn nhiều nước bọt giải thích một phen. Thế là y cười ha hả nói:
- Đấu bò thật sự không phải là trò cho con nít chơi, rất là nguy hiểm đó. Nếu ngươi có hứng thú, ngày thường rảnh rỗi hãy đến thăm mấy vị hoà thượng Tây Dương đây, hỏi bọn họ một chút không phải sẽ biết ngay sao? Ta và nương tử còn có việc, không thể để chậm trễ quá lâu, phải cáo từ chư vị rồi.
Tiểu thư sinh trợn mắt, miệng lẩm bẩm:
- Đấu bò rất hay sao? Chờ ta lớn thêm một chút ta sẽ đấu một trận, không những đấu bò mà ta sẽ đấu cả hổ nữa! Hừ, dám xem thường ta sao?
Sa Tư Các nghe Dương Lăng nói xong thì vội vàng cất tiếng:
- Khách nhân tôn quý, xin hãy chờ một chút, tôi có vài món lễ vật nhỏ tặng cho các vị.
Y vội vã cầm một chiếc rương nhỏ lên, lấy ra vài món đồ, cầm trên tay rồi nói:
- Hôm nay đa tạ các vị đã giúp đỡ, ở đây có mấy món đồ nhỏ, xin tặng cho các vị làm lễ vật.
Trong tay y cầm hai chiếc đồng hồ quả quýt và một cái lăng kính tam giác.
Trong hai chiếc đồng hồ quả quýt bằng bạc đó, một cái trên vỏ khắc bộ xương khô, cái còn lại khắc cây thánh giá. Tiểu thư sinh rất hiếu kỳ, không hề khách sáo cầm lấy ngắm nghía. Vị văn sỹ trung niên nọ hiển nhiên cũng chưa từng thấy qua thứ này, mặt đầy vẻ tò mò, song lại chỉ mỉm cười đứng bên cạnh con mình xem y cầm chơi.
Sa Tư Các miệng cười toe toét chỉ cho tiểu thư sinh đó cách sử dụng lăng kính tam giác và đồng hồ quả quýt. Tiểu thư sinh nghe xong liền cầm lăng kính tam giác chạy qua một bên soi lên ánh đèn quan sát, sau đó tíu tít nói với phụ thân về cảnh tượng mới lạ vừa nhìn thấy.
Nhìn những món đồ của Sa Tư Các, Dương Lăng thầm nghĩ: "Những nhà truyền giáo này phần lớn đều tinh thông triết học, vật lý, hoá học, nếu triều đình nhà Minh có thể xem trọng bọn họ, để những nhà truyền giáo này làm môi giới, tăng cường giao lưu văn hoá và khoa học kỹ thuật giữa phương Đông và phương Tây, có lẽ chúng ta sẽ không gặp phải tình trạng bế quan tỏa cảng, mọi phương diện dậm chân tại chỗ, khiến cho sau này Mãn Thanh nhập quan, hàng trăm nghìn người Hán phải chết, càng sẽ không xuất hiện cục diện bốn trăm triệu đồng bào bị người ta ức hiếp mổ xẻ ở thời cận đại. Nếu Hoàng đế đã yêu thương thái tử, mà vị Hoàng đế Chính Đức tương lai này lại khá ham chơi, vậy mình có thể lợi dụng một chút, có lẽ ngày mai tiến cung nên dâng chút lời 'sàm ngôn'".
Nghĩ đến đây, y bèn thấp giọng nói với Sa Tư Các:
- Sa Tư Các tiên sinh, tại hạ dày mặt muốn xin tiên sinh một cây thánh giá và một chiếc đồng hồ quả quýt. Đối với quý quốc và giáo lý của các vị, ta cũng có đôi chút hiểu biết, khi nào thuận tiện ta sẽ góp lời với triều đình, hy vọng có thể khơi dậy sự trọng thị của triều đình, cho phép các vị gây dựng giáo hội, tuyên truyền giáo lý.
Sa Tư Các nghe vậy thì vừa kinh ngạc vừa mừng rỡ, run giọng hỏi:
- Ngài là quan viên hay là quý tộc triều đình? Ngài có thể gặp được Hoàng đế bệ hạ sao?
Dương Lăng vội nói:
- Nhỏ tiếng chút đi! Hà hà, Sa Tư Các tiên sinh không cần hoài nghi, ngày mai ta sẽ vào cung gặp Hoàng đế.
Sa Tư Các mừng đến mặt mày rạng rỡ, vội vàng tháo cây thánh giá đeo trên cổ
xuống, xong lại chạy đến chỗ một chiếc rương khác lấy ra thêm một chiếc đồng hồ quả quýt. Xem ra bọn họ cũng biết "mật ngọt chết ruồi" thì sẽ dễ được người ta tiếp nhận hơn là "Thượng đế yêu thương nhân loại", cho nên lúc đến phương Đông đã mang theo không ít lễ vật.
Sa Tư Các trịnh trọng trao lễ vật vào tay Dương Lăng, nói:
- Ngài là quý nhân của chúng tôi, rất hy vọng có thể nhận được sự giúp đỡ của ngài.
Dương Lăng gật đầu mỉm cười, đoạn cất cao giọng nói với tiểu thư sinh:
- Tiểu huynh đệ, sau này gặp lại!
Tiểu thư sinh đó đang áp một chiếc đồng hồ quả quýt vào tai, tò mò lắng nghe tiếng tích tắc, tích tắc bên trong, nghe vậy bèn vẫy tay tiễn y. Xoay người đi được vài bước, Dương Lăng chợt quay đầu lại mỉm cười rồi nói với Sa Tư Các:
- Đúng rồi, nếu giáo sỹ tiên sinh muốn tuyên truyền giáo lý, có thể thử truyện trò với các cụ bà láng giềng trước xem sao, có lẽ sẽ dễ thành công hơn đấy.
Sa Tư Các lấy làm kỳ quái hỏi:
- Tại sao?
Dương Lăng bắt chước y nhún vai, cười nói:
- Tình hình các nước bất đồng, những thứ mê tín của chế độ phong kiến này, à, những chuyện này, ở nơi này của chúng ta phụ nữ lúc nào cũng là những người thích tin theo trước. Ha ha ha, cáo từ!
Dương Lăng và Ấu Nương rời khỏi chùa Hộ Quốc. Đi dọc theo con phố lớn được một lát, Hàn Ấu Nương đột nhiên kéo ống tay áo y, bẽn lẽn quay đầu nhìn về phía chùa Hộ Quốc, ấp úng nói:
- Tướng công, chúng... chúng ta không xin tượng phật sao?
Thấy nét mặt e thẹn của nàng lúc cố lấy can đảm nói ra những lời như vậy trông hết sức mê người, Dương Lăng nhịn không được bèn cố ý trêu:
- Thôi, trời đã tối rồi, hôm khác chúng ta hẵng đi.
Hàn Ấu Nương lại giật giật ống tay áo y, trề môi, cúi gằm mặt, chẳng nói chẳng rằng, tựa như cô bé đáng thương đang bị ức hiếp. Dương Lăng thấy vậy thì thầm ngứa ngáy trong lòng, không nhịn được bèn thấp giọng cười nói:
- Nương tử bé bỏng, mong sớm bị tướng công "hiếp đáp" đến thế cơ à? Ha ha, về nhà đi, tướng công đã xin được tượng phật rồi.
***
Hàn Ấu Nương đặt chậu nước rửa chân bên cạnh Dương Lăng, ngồi xổm tháo giày cho y, sau đó hỏi:
- Tướng công, mau nói cho thiếp đi, chàng xin được tượng phật lúc nào vậy?
Hàn Ấu Nương ngâm chân Dương Lăng vào trong nước, vừa nhẹ nhàng chà chân cho phu quân, vừa ngước mắt nhìn y. Dương Lăng lấy từ trong ngực ra cây thánh giá nọ, tay cầm sợi dây, y vừa cười hề hề vừa lắc lư nó ở trước mặt nàng. Cặp mắt Ấu Nương sáng lên, vội vàng chùi tay vào vạt áo rồi cầm cây thánh giá lên xem.
Chớp chớp hàng mi dài, nàng chăm chú nhìn một hồi lâu rồi nhíu mày tò mò
hỏi:
- Tướng công, đây là ông phật nào vậy? Thật là quái lạ, sao lại mặc ít đồ như thế chứ?
Ánh mắt Dương Lăng đảo như rang lạc, tiện miệng đáp:
- Thì cũng giống như mấy La Hán mà nàng thấy trong chùa đó, rất nhiều người đều để trần cánh tay. Ông Phật này thì để trần cả đùi.
- Ưm!
Ấu Nương lại nghiêng đầu xem xét một hồi, không yên tâm hỏi:
- Tướng công, ông phật râu xồm đùi trần này có linh không vậy? Đã khai quang chưa?
Dương Lăng đáp:
- Quang rồi, sao lại không quang, quang nữa thì sẽ thành ở trần đó (2). Vị thần này tên là Cơ Đốc, nàng có thấy quan cao nhất trong Cẩm Y vệ chúng ta được gọi là Đề đốc không? Đề đốc tức là trông coi, giám sát, cai quản và dẫn dắt Cẩm Y vệ đó, đủ lợi hại chưa? Cơ... Đốc này à, đương nhiên là giám sát và cai quản... - Nói đến đây y chợt cười hề hề, không dám đùa giỡn lung tung nữa. (Chữ "Cơ" trong tiếng Trung phát âm là "ji", mà "ji ji" là từ để chỉ dương vật của đàn ông, có lẽ Dương Lăng đang định nói tới cái này.)
Trước kia y không hề tin vào thần thánh, nhưng từ lúc đầu thai chuyển thế đến nay, có vài chuyện y thật sự không dám đem ra bông đùa.
Dương Lăng ngó xuống, thấy Hàn Ấu Nương đang cúi đầu chăm chú rửa chân cho mình, khuôn mặt xinh xắn toát lên vẻ hiền thục của người vợ đảm đang, cánh môi cong cong mỉm cười, mê người khôn tả.
Cô bé xinh đẹp trẻ tuổi này bất kể nghèo khó khổ sở thế nào vẫn luôn theo sát bên y, xem y như bầu trời, như tính mạng của chính mình, chưa từng cất một lời oán thán. Y thì lúc nào cũng ngây ngây ngô ngô, gặp sao hay vậy, may mắn lắm mới có được vị trí như ngày hôm nay. Nhưng nếu không có bờ lưng non nớt của Ấu Nương ở phía sau gánh đỡ mà không hề oán trách một lời ấy, y không biết liệu mình có phải đã sớm biến thành một đống xương mục rồi hay không. Vân vê sợi dây chuyền bạc trong tay, nhìn cây thánh giá bằng bạc ròng đó, Dương Lăng bỗng nhớ tới câu thề mà rất nhiều người đã trang trọng cất lên lúc thành hôn:
"Em bằng lòng làm vợ của anh. Suốt cuộc đời này, dù hạnh phúc hay đau buồn, dù giàu sang hay nghèo khổ, dù khỏe mạnh hay bệnh tật, em đều sẽ luôn hết lòng
với anh, không xa rời anh, mãi mãi ở bên anh!"
Trong những người từng nói câu nói này, không biết có bao nhiêu người đã thật sự thực hiện được nó? Nhưng Dương Lăng không chút nghi ngờ rằng mặc dù Ấu Nương không biết và cũng sẽ không nói câu thề đó, nhưng không những nàng đang thực hiện nó, mà sẽ còn mãi tiếp tục làm như vậy.
Dương Lăng cũng âm thầm cất lời thề: "Ấu Nương, chúng mình đã từng đùm bọc lẫn nhau, sau này cũng sẽ không bỏ rơi nhau. Ấu Nương, nàng chính là của cải quý giá nhất của ta."
Lòng y nóng ran, bất thình lình rút chân ra xỏ vào giày, khom người bế Ấu Nương lên. Ấu Nương kêu lên một tiếng, giọng hoảng hốt:
- Tướng công, chàng làm gì vậy?
Dương Lăng đặt nàng lên đầu giường, khẽ bảo:
- Ngồi ngay ngắn lên nào, nàng đã vì tướng công mà nếm biết bao cay đắng, chịu biết bao đau khổ, mãi cho đến hôm nay mới là đêm động phòng hoa chúc chân chính từ sau khi nàng được gả cho ta, nhưng tướng công lại không có rượu thơm nến đỏ, không có khách chúc đầy nhà. Lúc vừa mới đến nhà chồng, vì tướng công mà nàng đã phải uất ức tự mình kéo khăn đỏ trùm đầu(3). Đêm nay, hãy để tướng công rửa chân cho nàng, hầu hạ nàng để chuộc tội!
- Gì cơ?
Ấu Nương nghe xong, khuôn mặt tràn ngập sự hoảng sợ, giãy nãy nói:
- Không thể được! Tướng công, chàng vạn vạn lần không thể làm thế được. Phụ nữ hầu hạ đàn ông của mình là điều nên làm, là bổn phận, nhưng tướng công mà rửa chân cho thiếp thì sẽ bị giảm phúc đó!
Dương Lăng giữ chặt lấy hai chân nàng, ngâm chúng vào trong nước, giọng cương quyết bảo:
- Ngồi yên nào! Chỉ được cái nói mò, chân Ấu Nương đẹp như vậy, tướng công có thể rửa chân cho nàng, đó là phúc khí của tướng công. Đấy không phải là giảm phúc, phải là thêm phúc mới đúng.
Chân Ấu Nương co rúm, ngón chân khẽ gập lại, mặc cho y nhẹ nhàng xoa bóp.
Đôi chân ngọc nhỏ bé thanh tú ấy mỹ lệ vô ngần, đường cong bàn chân mềm mại đẹp đẽ, gầy mà không để lộ xương.
Trên đỉnh đầu khẽ vang lên tiếng nức nở, từng giọt từng giọt nước mắt nhỏ xuống chậu nước, Dương Lăng đành phải lên tiếng:
- Ấu Nương, nàng khóc gì chứ? Hôm nay là ngày vui của chúng ta, phải vui lên, nếu không sẽ xui xẻo lắm đấy!
- Ưm!
Ấu Nương vội lau nước mắt, rưng rưng nói:
- Tướng công, sớm mai canh mấy chàng lên triều vậy, để thiếp còn gọi chàng
dậy.
Dương Lăng nghĩ ngợi một chút rồi đáp:
- Là canh ba giờ dần. Ha ha, nha đầu ngốc, giờ là lúc đêm xuân nghìn vàng của chúng mình, thế mà nàng lại còn nghĩ ngợi đến mấy chuyện đó.
Ấu Nương cắn môi, cười thẹn thùng. Lòng bàn chân vừa bị Dương Lăng gãi nhẹ, nàng liền rụt chân về vì nhột, miệng khẽ rên rỉ một tiếng. Dương Lăng ngẩng đầu, chỉ thấy hàng mi nàng cong cong, bờ môi hơi vểnh, một vẻ tựa vui tựa hờn, quyến rũ đến thấu xương, khiến con tim y không kìm nổi phải xao động. Cuối cùng y đã biết được thế nào mới là điên đảo tâm hồn.
Đêm, đã bắt đầu.
(1) Trịnh Hoà (1371-1433), tên khai sinh là Mã Tam Bảo, là nhà hàng hải và nhà thám hiểm người Trung Quốc nổi tiếng nhất. Ông chính là người đã chỉ huy các
chuyến thám hiểm được gọi chung là các chuyến đi của "Thái giám Tam Bảo hạ Tây dương" (三保太監下西洋) hay "Trịnh Hòa đến đại dương phía tây" từ năm 1405 đến năm 1433. Tạp chí Life Magazine xếp Trịnh Hòa đứng thứ 14 trong số những người quan trọng nhất trong thiên niên kỷ vừa qua.
Số lượng chuyến đi của ông tới Tây dương tùy vào cách phân chia, nhưng ông và hạm đội đã "Tây dương" không dưới 7 lần. Ông đã đưa về Trung Quốc nhiều chiến lợi phẩm và các phái viên từ ít nhất 30 vương quốc - bao gồm cả vua Alagonakkara của Tích Lan (Ceylon) đến Trung Quốc để tạ lỗi các Hoàng đế Trung Hoa. (trích wikipedia)
(2) Ở đây Dương Lăng chơi chữ: "quang" trong "khai quang" nghĩa là "lễ mở vải phủ tượng phật", nhưng cũng có nghĩa là "trần trụi". Ý Dương Lăng nói là chúa Jesus đã để trần đủ rồi, lột bớt thêm nữa thì sẽ không còn gì mặc nữa.
(3) Đang nói đến tập tục chú rể kéo khăn trùm đầu màu đỏ của cô dâu trong đêm động phòng.
Trốn vào trong chăn thoát y? Không được!
Dưới sự cấm cản của đấng lang quân "bạo chúa", Hàn Ấu Nương đành phải nhắm mắt trút bỏ xiêm áo, để lộ một thân hình mịn màng mềm mại. Ngay trước mắt Dương Lăng bất chợt chói lòa, cái yếm đỏ tươi cùng chiếc quần lót màu hồng sen mỏng manh không cách nào che giấu được thân thể thanh cao thoát tục của nàng, tấm thân thiếu nữ gần như phơi trần trong ánh sáng lờ mờ càng khiến người ta phải hoa mắt.
Trông thấy ánh mắt si dại của Dương Lăng, Ấu Nương ngượng ngùng "ưm" một tiếng rồi vội vàng xoay người, đưa tấm lưng trắng mịn về phía y.
Dương Lăng nín thở sáp lại gần, nhẹ nhàng đẩy Ấu Nương xuống giường, rồi bất chợt đưa tay giật chiếc quần lót của nàng. Ấu Nương yêu kiều kêu lên "ối" một tiếng, bàn tay không kịp giữ lại, chiếc quần đã bị y kéo tuột xuống. Ấu Nương ngượng quá, vội ôm lấy gò má nóng hổi của mình, đôi chân liên tục đạp xuống chiếc đệm giường tỏ vẻ phản kháng, bờ mông tròn lẳn trắng phau lúc lên lúc xuống đập thẳng vào mắt Dương Lăng.
Trông Ấu Nương lúc này tựa như một trái đào mật chín mọng và thơm ngát, từ eo trở xuống, đường cong mê người dọc hai bên thân nàng lượn xuống tạo nên một vẻ thanh nhã và gợi cảm vô cùng, lại thêm sự uốn lượn lên xuống nhịp nhàng trên làn da mịn màng nõn nà ấy thật khiến người ta không kìm nổi những ý nghĩ ám muội. Làn da nàng mịn màng như trứng gà bóc dưới ánh sáng lại lộ ra vẻ óng ánh lung linh, thực khiến người ta phải nuốt nước miếng ừng ực.
Dương Lăng nuốt nước bọt, ngón tay vuốt nhẹ theo cặp chân thanh tú săn chắc của Ấu Nương mơn trớn lên trên. Đôi chân khả ái của Ấu Nương hơi co lại, hai mắt
cá chân yêu kiều dính sát vào nhau, cặp đùi khép chặt đến nỗi một ngón tay cũng không chen được vào.
Cảm giác được sự căng thẳng của nàng, Dương Lăng khẽ mỉm cười. Y từ tốn cởi bỏ áo quần rồi nhẹ nhàng trườn lên tấm thân non nớt láng mịn của Ấu Nương. Ấu Nương lập tức cảm nhận được thân thể trần trụi của tướng công, mặt nàng càng đỏ hơn, nhưng lại không dám giãy giụa nữa.
Dương Lăng nhẹ nhàng đưa tay lần mò khám phá, khẽ thò vào trong chiếc yếm xoa nắn bầu ngực xinh xắn của nàng. Dưới sự vân vê của y, nhũ hoa nho nhỏ đã nhanh chóng săn cứng. Dần dần, hoà cùng sự âu yếm nhẹ nhàng mà điêu luyện của Dương Lăng, hơi thở dồn dập của Ấu Nương đã chuyển thành những tiếng rên rỉ đầy khêu gợi. Dưới những cái vuốt ve mơn trớn của y, thân thể nàng khẽ run lên từng chập, bên dưới đã bắt đầu ẩm ướt.
Một cảm giác trước nay chưa từng đó lan tỏa khắp người Ấu Nương , vừa khiến nàng hoang mang, lại vừa đem đến cảm giác khoan khoái lạ kỳ khó mà diễn tả bằng lời. Nàng ngượng đến nỗi da thịt toàn thân đều ửng lên màu phấn hồng khêu gợi.
Giọng run rẩy ngọt ngào, nàng cầu khẩn:
- Tướng công, xin... xin chàng... tắt đèn đi!
- Không! - Dương Lăng hôn phớt trên lưng nàng một cái rồi si mê nói:
- Ta muốn nhìn nàng, nếu để cho vẻ mỹ lệ thế này lặng chìm trong bóng tối, ông trời sẽ không tha cho ta đâu. Ta muốn nhìn nàng, dù có qua một trăm, một nghìn năm nữa, ta cũng sẽ vẫn nhớ tới cái đêm mà Ấu Nương xinh đẹp đã dâng hiến tình yêu và thân thể của nàng ấy cho ta.
Hàn Ấu Nương lấy tay che lấy khuôn mặt đỏ bừng, lời tán tụng vừa dịu dàng vừa chứa chan tình cảm của phu quân khiến nàng như ngây ngất. Ngón tay của Dương Lăng nhẹ nhàng tháo nút thắt trên chiếc yếm duy nhất còn lại trên người nàng rồi giật nhẹ ra. Sống lưng Ấu Nương thẳng tắp, xuôi theo đó xuống dưới là một khe trũng bí ẩn mà vô cùng đẹp đẽ. Nút thắt chiếc yếm vừa bị cởi ra, khi tấm thân mềm mại của nàng được lật lại, phần khuôn mặt lộ ra sau hai bàn tay đều đã đỏ
bừng.
Dương Lăng hài lòng chống người dậy, hai mắt loé lên ngọn lửa của tình yêu. Khi y vừa tính sáp lại mơn trớn cặp môi anh đào của Hàn Ấu Nương, nàng bỗng nhiên "a" lên một tiếng, thình lình bỏ hai tay ra, mở mắt căng thẳng hỏi:
- Tướng công, chàng đã đeo tượng phật chưa?
Chỉ thấy ngay trước tấm ngực trần của Dương Lăng, cây thánh giá nọ đang đung đưa chậm rãi. Ấu Nương ngượng chín người, vội vã nhắm mắt lại. Động tác ngây thơ cùng thân thể trẻ trung của nàng toát ra sức hấp dẫn mạnh mẽ, khiến cho hơi thở Dương Lăng lập tức trở nên gấp gáp hơn.
Y không nhịn được nữa, lập tức cúi xuống hôn lên bầu ngực xinh xắn của Ấu Nương, một cánh tay mò xuống vuốt ve bờ eo thon thả của nàng, khiến cho vùng bụng phẳng lì kia căng cứng lại. Ngón tay y lướt qua nơi nào, da gà liền nổi lên nơi ấy.
Dương Lăng chăm chú nhìn hàng mày liễu của nàng, khẽ lấy chân tách hai chân nàng ra, ngực đè lên thân thể nhỏ nhắn của nàng. Trực giác của phụ nữ khiến Ấu Nương bất giác trở nên yên lặng, cặp mắt đen láy mở ra đầy hoảng sợ. Hai cánh tay thon thả của nàng bấu chặt vào cánh tay Dương Lăng, cơ thể run rẩy đợi chờ thời khắc căng thẳng đó.
Cặp mắt của Dương Lăng bỗng cũng trở nên đen tuyền, miệng nhẹ gọi tên Ấu Nương, lại hơi nâng người lên, rồi cuối cùng khẽ khàng cất tiếng:
- Ấu Nương, tướng công đến đây.
- Đừng! Khoan đã, tướng công! - Ấu Nương bỗng nhiên kêu lên. Dương Lăng vội vàng ghìm cương trước vực, giật mình hỏi:
- Sao thế Ấu Nương? Nàng... Nàng không muốn...? Ấu Nương đỏ mặt đáp:
- Không, không phải. Tướng công, chàng ngồi dậy đi, thiếp... thiếp quên khăn trắng...
Vừa nói nàng vừa thẹn thùng quay đầu qua phía bên, cố vươn tay sang chỗ chiếc chăn vẫn còn xếp bên cạnh. Tối nay lúc trở về nàng đã đi tìm chiếc khăn trắng nghiệm hồng mà mẹ tặng khi xuất giá, sau đó lặng lẽ nhét dưới đáy chăn của mình. Trong thời khắc chỉ mành treo chuông, rốt cuộc nàng kịp nhớ ra, may mà chưa làm lỡ đại sự.
Dương Lăng thấy nàng lôi tấm khăn trắng tinh ra, giống như là phất cờ trắng đầu hàng, thì không khỏi có cảm giác dở cười dở khóc. Nàng là người vợ mà y yêu thương nhất, trong lúc này đây y chỉ muốn nàng có thể ghi nhớ khoảnh khắc ngọt ngào và niềm hạnh phúc khi hai người thuộc về nhau trong lần đầu tiên này chứ không phải là nơm nớp lo sợ nằm lên chiếc khăn nhỏ xíu kia, mọi tâm tư đều tập trung chờ đợi y kiểm nghiệm sự trinh trắng của nàng. Y hy vọng Ấu Nương cũng có thể hưởng thụ khoái lạc cùng y chứ không phải chỉ một mực hiến dâng.
Ấu Nương đang mím môi lúng túng muốn lót khăn trắng dưới mông mình, Dương Lăng chợt giật lấy nó vứt sang một bên. Nàng tròn xoe mắt sửng sốt, lắp bắp nói:
- Tướng... tướng công, chàng... chàng làm gì vậy?
- Không cần cái đó, rườm rà quá đi. Nương tử à, phải có hứng... thú, hiểu không?
- Đi... Đi đâu? (Trong tiếng Trung chữ "thú"(qù) đọc giống chữ "đi"(qù), Ấu Nương nghe nhầm – ND.)
Dương Lăng đưa hai tay lần xuống dưới mông Ấu Nương, xoa bóp hai bờ mông tròn lẳn của nàng, khoé miệng mang theo một nụ cười mỉm đầy mê hoặc. Y kề bên tai nàng khẽ nói:
- Đi đến đây này. Tướng công không muốn cầm quân đối trận. Đêm nay tướng công muốn cướp trại công thành, để tiểu nương tử võ nghệ siêu quần của ta phải giơ
tay đầu hàng...
...
Toàn bộ thể xác và tâm hồn của hai người hoà quyện vào nhau, dư âm của cuộc mây mưa càng làm cho cả 2 cảm thấy tâm hồn dào dạt và vô cùng thỏa mãn. Trong lần đầu đón nhận "mưa móc" Ấu Nương đã "đầu hàng" tới ba lần, sau đó Dương Lăng mới được tận hứng trong cơn khoái cảm, rồi y ôm nàng chìm vào giấc ngủ say.
Đang ngủ say sưa không biết trời trăng mây nước, Dương Lăng đột nhiên choàng tỉnh. Y mở mắt ra, chỉ thấy Ấu Nương đã mặc xiêm y, khoác áo dài, đang ngồi bên cạnh đẩy khẽ y:
- Tướng công, nên thức dậy rồi. Tướng công, hôm nay phải lên triều đó.
Dương Lăng lờ đờ ngó ra ngoài cửa sổ. Bên ngoài trời vẫn tối như bưng, quay đầu nhìn lại, dưới ánh đèn hắt sáng, Ấu Nương sau khi đón nhận mưa móc lúc này vẫn còn mặt mày ngây ngất, tóc mai rối loạn, vẻ thiếu phụ thướt tha ấy đẹp đến nỗi khiến người phải nín thở.
Con tim Dương Lăng thoáng xao động, y đưa tay kéo nàng ôm vào lòng, hôn phớt lên môi nàng rồi cười nói:
- Trời còn tối mà, gọi tướng công dậy sớm như vậy, có phải là muốn tướng công trò chuyện cùng nàng không? Đêm qua tướng công mệt quá, cho nên... gần gũi nàng xong thì đã ngủ luôn.
Ấu Nương được y ôm vào lòng, con tim vui phơi phới, lại nghe y nhắc đến cái chuyện vừa xấu hổ vừa ngọt ngào kia, khuôn mặt càng đỏ ửng lên, nhất thời cả người mềm nhũn. Nàng vốn đang nũng nịu lay Dương Lăng dậy, nhưng giờ lại cảm thấy mình vừa bị tướng công ôm vào lòng thì ngay cả tay cũng đã mềm nhũn, không còn chút sức lực, thế là không kìm nổi vừa ngượng ngùng vừa quýnh quáng kêu lên:
- Tướng công, chàng mau dậy đi! Không còn sớm nữa đâu, sắp đến giờ Dần rồi.
Thiếp đã làm xong bữa sáng, hôm nay chàng phải đi diện kiến hoàng đế đó!
- Hả? - Dương Lăng giật nảy mình. Y vốn chẳng có bao nhiêu ấn tượng với giờ Dần, giờ Mão gì gì đó của thời đại này, nhất thời không nghĩ rằng bây giờ bên ngoài mới chỉ có vẻ như hơn bốn giờ sáng mà đã đến giờ rồi.
Lúc này thì Dương Lăng cũng quýnh quáng lên, vội vàng trở mình ngồi dậy. Vừa ngồi dậy, y bỗng phát hiện trên đệm có một miếng vá vuông vắn. Tấm đệm giường này là tấm đệm được hai người mang theo từ Dương Gia Bình, do họ tạm thời chưa có thời gian mua sắm vật dụng mới. Tuy rằng trên đệm có mấy vết vá, nhưng Dương Lăng nhớ là chỗ này không hề bị rách. Y lấy làm lạ hỏi:
- Ấu Nương, chỗ này bị rách lúc nào vậy? Đừng có vá tới vá lui nữa, chi bằng hôm nào đó chúng ta đi mua ít vải bông làm lại giường đi!
Ấu Nương cụp hàng mi xuống, mặt đỏ như vải điều. Nàng thẹn thùng lấy từ sau lưng ra một miếng vải đã được gấp lại ngay ngắn, bẽn lẽn nói:
- Còn không phải đều là do chàng..., đây là... chuyện trọng đại của nữ nhi, thiếp lại không thể để lại ở chỗ đó, ngượng chết đi được.
Dương Lăng dòm dòm, miếng vải đó rõ ràng là mới vừa được cắt từ tấm đệm ra, hơn nữa, tuy đã được gấp lại, nhưng bên trên vẫn thoáng lộ ra màu đỏ.
- Ớ?... Ý? Ồ...
***************************
Mặt trời đã lên cao được ba con sào, Dương Lăng đang đứng bên ngoài điện Trung Hoà, bụng đói lép kẹp. Cái lão Hoàng đế này cũng thật làm cao quá đi, nếu đã không muốn tiếp kiến sớm thì bắt người ta dậy sớm thế để làm cái quái gì cơ chứ?
Lần đầu lên triều, hơn nữa lại không quen thuộc kinh thành, cho nên cơm sáng còn chưa kịp ăn thì Dương Lăng đã phải lật đật ba chân bốn cẳng chạy đến Tử Cấm
Thành. Cũng phải nói là các quan viên trong triều đình này đều dậy rất sớm, lúc Dương Lăng đến nơi thì đã có rất đông đại thần đang chầu chực bên ngoài Ngọ môn.
Lúc được Lưu Cẩn dẫn vào hoàng cung thông qua lối nhỏ, Dương Lăng còn tưởng là mình được đãi ngộ đặc biệt, không ngờ rằng lại bị đưa thẳng đến điện Trung Hoà, sau đó được cho hay rằng Hoàng đế đã lên dự buổi tảo triều (1), khi về mới gặp y.
Chờ từ lúc trời còn tù mù cho đến tận hừng đông, rồi từ lúc hừng đông đến tận bây giờ, Dương Lăng uể oải nhìn cái bóng dưới chân mình, sau đó lại bắt đầu ngó nghiêng xung quanh. Lưu Cẩn dẫn y đến chỗ này xong thì không biết đã lặn đi đâu mất, để y đứng chờ một mình ở đây. Trước điện, thị vệ nghiêm mắt nhìn thẳng, không hề liếc y lấy một cái. Dương Lăng cũng không dám chủ động bắt chuyện.
Những cung nữ thi thoảng ra vào điện thì dường như lại rất có hứng thú với y, lần nào cũng đưa mắt liếc nhìn.
Dương Lăng cũng trộm ngắm bọn họ. Tuy có câu rằng "con gái mười tám không có ai là xấu", nhưng phần lớn những cung nữ này cũng chỉ là dung mạo đoan trang, vóc dáng cân đối, không được như trên ti vi, cung nữ người nào người nấy đều xinh đẹp mê người. Dương Lăng ngó một hồi rồi cũng bắt đầu "nghiêm mắt nhìn thẳng" luôn.
Đang khi cái bụng lại "ùng ục" kháng nghị một hồi, Dương Lăng chợt trông thấy trước điện có một đội ngũ đang đi tới, phía trước là một vị tướng quân cao lớn dẫn đầu đội nghi trượng. Phía sau, bên dưới tán lọng màu vàng là một chiếc long liễn (*) được khiêng bởi tám gã thái giám đang đi về phía y. Tinh thần Dương Lăng lập tức trở nên phấn chấn.
(*: nguyên văn là "bộ liễn", một loại kiệu tám người khiêng của vua)
Vừa trông thấy long liễn, bọn cung nữ, thị vệ, thái giám gần xa lần lượt đều quỳ xuống đất. Vừa mới ưỡn lưng xong, Dương Lăng cũng vội vàng bắt chước quỳ theo. Đội ngũ đông đảo cuồn cuộn đi qua bên người y, tiến thẳng vào trong điện Trung Hoà, căn bản chẳng ghé mắt nhìn tới những người bên cạnh.
Dương Lăng vừa quỳ dưới đất vừa thầm lắc đầu, hoàng đế bất quá làm việc ở ngay trong nhà, vậy thì kiếm nhiều kẻ rảnh rang như vậy để làm gì chứ? Nhưng mà quả thực y không biết, đội nghi trượng này vẫn còn là ít. Nếu như hôm nay là ngày cử hành hội triều lớn thì trong đội nghi trượng còn sẽ có hai con hổ, báo, bốn con voi, năm chiếc lễ xa, đội ngũ đó càng đông đảo và hoành tráng hơn thế này nhiều. Đế vương đương nhiên phải có phong phạm của đế vương, mà phong phạm chính là dựa vào sự hoành tráng
Thấy một con kiến đang từ bên gối bò nhanh qua, Dương Lăng co ngón tay búng nó sang một bên. Con kiến lăn mấy vòng trên mặt đất rồi cuộn người lại giả chết. Một lát sau, phát hiện không có nguy hiểm gì, nó lại lật đật bò dậy rồi vội vã trốn đi.
Khoé miệng Dương Lăng không khỏi hơi nhếch lên, thoáng lộ một nụ cười: trong mắt hoàng đế, mình chẳng phải cũng chỉ như là một con kiến thôi sao. Y hơi ngẩng đầu, đội nghi trượng vẫn đang đi về phía trước, những kẻ cầm cờ, cầm lọng, cầm kim qua (2), nườm nượp nối đuôi nhau không dứt. Thấp thoáng dưới những lá cờ, một góc trời xanh thẳm và cao vời vợi hiện ra.
Dương Lăng nhìn đến ngơ ngẩn, trong lòng thầm nghĩ: "Hôm nay, có thể đi đến nơi trung tâm quyền lực của thiên hạ, mình đã không còn là một con kiến cỏn con nữa. Nếu cho mình thời gian và cơ hội, dưới bầu trời của trang lịch sử này, liệu mình sẽ là một lá cờ ngạo nghễ tung bay rồi tan biến theo năm tháng, hay là một toà lầu sừng sững mãi mãi không đổ sụp?"
Đội nghi trượng chia ra đứng ở hai bên hành lang, im lìm bất động. Phỏng chừng hoàng đế lão gia cũng đã đói, thế nên phải uống chút trà, ăn chút điểm tâm. Mãi một hồi lâu rất lâu sau mới thấy một tên thái giám đi ra ngoài cửa điện Trung Hoà, vung phất trần lên, giọng the thé gọi:
- Tuyên thị độc Dương Lăng tiếp kiến!
Lúc đi Lưu Cẩn đã dạy y một số lễ nghi căn bản của cung đình, thế nên Dương Lăng nghe xong bèn vội vàng bước lên, cất cao giọng nói:
- Thần Dương Lăng xin vâng mệnh. Tiểu thái giám đó hơi mỉm cười nói:
- Dương thị độc, mời theo ta vào! - Nói đoạn hắn xoay người đi trước. Dương Lăng cúi đầu rảo bước vào theo.
Ở tiền thế, lúc đi thăm Cố Cung y cũng đã đến điện Trung Hoà này, nhưng bố cục và cách bài trí bên trong hiện giờ rõ ràng có chỗ không giống. Dương Lăng cũng không dám ngó nghiêng lung tung, chỉ cố theo chân tên tiểu thái giám đó đi vào trong. Đi đến cuối tấm thảm đỏ tươi, tiểu thái giám chợt lánh sang một bên, cao giọng nói:
- Thị độc Dương Lăng bái kiến hoàng thượng.
Dương Lăng biết người ngồi bên trên nhất định là đương kim thiên tử - hoàng thượng Hoằng Trị. Y quỳ xuống đất, hai bàn tay hướng về phía trước và áp xuống tấm thảm, dập trán lên đầu ngón tay, lấy đủ hơi rồi cất cao giọng nói:
- Vi thần Dương Lăng khấu kiến hoàng thượng.
Phía trên, một giọng nói khoan thai thanh nhã cất lên:
- Miễn lễ, bình thân!
- Tạ ơn bệ hạ! - Dương Lăng đứng dậy, cung kính lui qua một bên, đầu hơi cúi, mắt nhìn qua mũi tới thẳng chỗ tim. Tuy rằng trong lòng y cũng muốn tận mắt nhìn diện mạo vị hoàng đế Hoằng Trị này một chút, nhưng con mắt lại không dám ngó lung tung. Ánh mắt y chỉ khẽ động đậy, trông thấy phía trước có một đôi giày thuộc loại dành cho quan lại, dường như còn có một vị quan viên khác đang ở đây.
Giọng nói ung dung thanh nhã kia lại cất lên:
- Lưu khanh, cứ như vậy đi. Khanh hãy soạn chỉ nói với quốc vương Triều Tiên rằng thái tử tuổi còn nhỏ, vốn không cần dâng nữ tử tới làm gì. Có điều trẫm vẫn niệm tình hắn có lòng, mặc dù những nữ tử đó ai nấy đều da dẻ thô ráp, vừa béo vừa
lùn, không được tốt lắm, song trẫm đều đã phong làm nữ quan.
Dương Lăng nghe mà méo mồm, thiếu chút nữa thì không nhịn được mà bật cười thành tiếng. Có lẽ lúc soạn chỉ vị Lưu đại nhân này sẽ không đưa nguyên lời nói thẳng như vậy vào, nhưng được chính tai nghe hoàng đế ban xuống thánh dụ thú vị như thế, quả thực cũng rất hiếm có.
Chỉ nghe vị Lưu đại nhân đó cười ha hả nói:
- Thần nghĩ quốc vương Triều Tiên cũng biết là thái tử nhỏ tuổi, cho dù có dâng lên nữ tử xinh đẹp thì cũng khó có thể được yêu thích, vậy nên đã lựa vài ả mà có cho đi cũng không tiếc để tống đến chỗ bệ hạ đấy.
Hoàng đế Hoằng Trị nghe xong cũng không kìm nổi cười rộ, rồi lão hổn hển
nói:
- Vẫn là khanh mồm mép lanh lợi! Ha ha, hắn nhỏ mọn nhưng trẫm thì không thể hẹp hòi, lễ vật tặng lại không được làm mất khí phách của thiên triều ta. Đi đi, tự đi soạn chỉ là được.
- Vâng, thần tuân chỉ. - Vị Lưu đại nhân đó đáp lời, sau đó khom người lui ra.
Dương Lăng cũng nghe nói vị vua Hoằng Trị này chỉ yêu thương mỗi một mình đưong kim hoàng hậu, không lập thêm phi tần nào nữa. Hiện giờ thái tử lại nhỏ tuổi, nói không chừng quốc vương Triều Tiên lại thật sự có ý định này.
Vị Lưu đại nhân kia ở trước mặt hoàng đế mà vẫn dám bông đùa, chắc hẳn là cận thần được sủng ái bên cạnh Hoằng Trị, nhưng không biết là vị nào. Lão ta có quyền soạn chỉ... Nghĩ đến đây, trong lòng Dương Lăng máy động, chợt nhớ ra người đương thời khi bình luận về ba vị đại học sỹ trong triều có nói "Lý Công mưu trí, Lưu Công quyết đoán, Tạ Công ngay thẳng", chẳng lẽ vị Lưu đại nhân này chính là đại học sỹ Lưu Kiện (3)?
Lúc này chợt nghe Hoằng Trị nói:
- Ngươi chính là Dương Lăng ư? Ồ, tuổi so với thái tử cũng không lớn hơn bao
nhiêu, tốt lắm, tốt lắm... A, ngươi là..., Dương khanh, ngẩng đâu lên đi!
(1) thời Minh hoàng đế có hai lần ngự triều, một là vào buổi sáng, gọi là "tảo triều" (lên triều sớm), hai là vào buổi trưa (giờ ngọ), gọi là "ngọ triều" (lên triều trưa).
(2) những dụng cụ dùng trong đội nghi trượng: cờ, lọng, vũ khí
(3) Lưu Kiện (1433 - 1526), tự Hy Hiền, người Lạc Dương, Đại học sỹ trong triều thời kỳ Minh Vũ Tông. Cha là Lưu Lượng, chức Tam nguyên giáo dụ, có học hành. Thuở nhỏ lễ phép thận trọng, cùng giao du với đồng hương là Diêm Vũ Tích và Bạch Lương Phụ, được chân truyền của danh gia triết học duy tâm là Tiết Tuyên, người Hà Đông. Năm Thiên Thuận thứ tư đỗ tiến sỹ, được tuyển vào Hàn Lâm Viện làm biên tu. Đầu năm Thành Hoá, soạn ra "Anh Tông thật lục". Lưu Kiện giỏi về phán đoán, Tạ Thiên thiện về lập luận, Lí Đông Dương tính cách ôn hoà mà lại túc trí đa mưu. Thế nên đã có lời khen "Lý Công mưu trí, Lưu Công quyết đoán, Tạ Công ngay thẳng đĩnh đạc."
Vị Hoàng đế này dáng người hơi mập một chút, trông rất uy nghi. Đầu ông ta đội mũ Dực Thiện (*), người vận long bào cổ chật, ống tay áo rộng, mặt mũi trông hơi quen quen. Trông thấy tướng mạo của y, vua Hoằng Trị bỗng dưng đứng dậy, lông mày hơi nhướng lên, cười ha hả nói:
- Hoá ra là ngươi! (*) Xem :)
Dương Lăng "a" một tiếng, chợt nhớ tới cặp cha con mình đã gặp tối qua. Thì ra bọn họ là..., Dương Lăng vừa vui mừng vừa kinh ngạc thốt:
- Thì ra Hoàng thượng là...
Hoàng đế Hoằng Trị vội ho một tiếng, đưa mắt ra hiệu cho y. Dương Lăng lập tức tỉnh ngộ, vội vàng nuốt nửa câu còn lại vào bụng. Thời đó, Hoàng đế cải trang vi hành là một hành động đủ để khiến bá quan dâng sớ can ngăn. Tuy rằng hiện thời chung quanh đều là những kẻ hầu hạ cận kề Hoàng đế, chuyện Hoàng đế lén rời cung trong lòng bọn họ cũng biết rõ đến tám, chín phần, thế nhưng nói công khai trước đám đông thì lại là chuyện khác.
Thấy y khá cơ trí, ánh mắt Hoằng Trị không khỏi lộ ra vẻ hài lòng. Ông ta từ tốn ngồi xuống, mỉm cười bảo:
- Hoá ra là ngươi à, trẫm đọc đến tên của ngươi, mới sực nhớ ra thì ra ngươi chính là viên Dịch thừa ở Kê Minh đã chấp bút viết ra sự thật, chỉ rõ những thói xấu đương thời của bản triều đó. Ha ha ha, ngươi có biết chỉ vì một phong thư của ngươi mà giờ đây triều đình của trẫm đã cãi nhau ghê gớm lắm không?
Vừa nói ông ta vừa vê vê hàng lông mày, khuôn mặt tuy tươi cười, song lại thoáng lộ ra vẻ mệt mỏi khó che giấu. Không nằm ngoài dự đoán của Cẩm Y đề đốc Trương Tú, hôm nay tảo triều, bộ Hộ đã dâng sổ sách lên để biện giải cho mình, rũ bỏ trách nhiệm. Lúc đầu Hoằng Trị vốn chỉ ra lệnh cho Tam Pháp ty thương nghị xử phạt Hà tham tướng, thế nhưng giờ đây Hà tham tướng đã ở trong đại lao của bộ Hình hơn nửa tháng, bá quan trong triều thì lại dẹp y sang một bên mà bắt đầu quay sang cãi vã nhau, những chuyện dù có liên quan hay không đều được lôi ra tất tần tật, khiến Hoằng Trị nhức đầu không chịu nổi.
Thấy Hoàng thượng lộ vẻ mệt mỏi, một thái giám già chầu bên cạnh vội bước đến trước mặt, mở một chiếc hộp nhỏ. Dương Lăng ngửi thấy một mùi thơm nhàn nhạt, đưa mắt nhìn, chỉ thấy trên miếng gấm lót trong hộp có đặt một viên thuốc màu đỏ lớn bằng quả nhãn. Hoằng Trị nhón lấy viên thuốc đưa vào miệng rồi nhấp một hớp trà nuốt xuống.
Trong lòng Dương Lăng thầm máy động. Trong ấn tượng của y, các Hoàng đế triều Minh phần lớn đều đoản thọ, dường như không mấy người sống quá bốn mươi, nguyên nhân chính là vì bọn họ luôn lấy Đạo giáo làm quốc giáo, cá đời Hoàng đế đều thích uống đan dược do đạo sỹ luyện ra. Những đan dược này tuy có thể làm đầu óc tỉnh táo, nâng cao tinh thần, nhưng phần lớn đều mang độc tố mãn tính. Chẳng lẽ thứ Hoằng Trị uống cũng là loại đan dược kiểu này hay sao?
Thấy y ngẩn người, Hoằng Trị còn tưởng y bị lời mình vừa nói ban nãy làm cho hoảng sợ, bèn cười bảo:
- Ha ha! Ngươi ở nơi thấp hèn nhưng vẫn không quên lo lắng cho đất nước, trẫm rất lấy làm mừng, Dương khanh chớ nên lo sợ!
- Vâng!
Dương Lăng nhân cơ hội cố lấy can đảm tâu:
- Khải bẩm Hoàng Thượng, ở Kê Minh thần từng theo đại quân giao chiến cùng giặc Thát, cho nên đối với tình hình lúc bấy giờ cũng hiểu rõ được phần nào. Thần nghĩ, người Thát Đát tụ hợp hơn hai vạn quân xâm phạm Đại Minh ta, đại quân hai
ngả Trác huyện và Xích huyện đều lập được công lao, cánh quân ở Hoài Lai tuy có phần tổn thất, nhưng công tội cũng đủ bù trừ. Thần mạo muội... nghĩ... Hà tham tướng quả không đến mức phải bị định tội.
Trong lòng Dương Lăng thật ra cũng khá thông cảm với vị Hà tham tướng nọ.
Tuy rằng ông ta cũng có tư tâm, không điều động bộ đội chủ công chính quy đi chiến đấu với địch trước, nhưng khi đối mặt với giặc Thát, quả thật cũng đã vắt sức lo nghĩ, không dám buông lơi. Nếu như lúc đó không phải do hai vị Giám quân ba lần bảy lượt thúc giục, chưa hẳn ông ta đã nóng vội tiến công như vậy.
Giờ đây ông ta lại bị giam vào đại lao trở thành con dê thế tội, Dương Lăng cảm thấy có phần quá hà khắc. Cho nên y thừa dịp Hoàng đế đang cao hứng mà lấy can đảm tâu trình quan điểm của mình. Sau khi nói xong, tim y cũng đập thình thịch, trong lòng cực kỳ căng thẳng, chỉ lo vị Hoàng đế này cũng thuộc loại người buồn vui thất thường.
Uống viên thuốc màu đỏ kia xong, tinh thần Hoằng Trị đã tốt hơn rất nhiều, nghe được lời của Dương Lăng, ông bèn liếc nhìn y, hứng thú hỏi:
- Ngươi thử nói xem, vì lý do gì mà không nên trị tội hắn?
Sớm nay lên triều, bộ Binh, bộ Công, bộ Hộ, Ngũ Quân đô đốc phủ lại cãi nhau loạn cả lên, Hoằng Trị đau đầu chính là bởi chuyện này. Thế nhưng lúc này ông ta đã ở thế cưỡi lưng cọp, nếu như Dương Lăng có thể đưa ra một lý do giúp Hà tham tướng thoát tội, vậy thì những kẻ đòi trừng trị hắn cũng sẽ bỏ qua, quan viên các bộ tự nhiên sẽ không kỳ kèo chuyện này mãi nữa. Đây chính là kết cục mà Hoằng Trị đang cần vào lúc này.
Dương Lăng nghe Hoằng Trị nói bằng giọng ôn hoà, dũng khí vì thế cũng tăng lên, y sắp xếp lại dòng suy nghĩ một chút rồi tâu:
- Hoàng Thượng! Người Thát Đát dùng năm nghìn kỵ binh tinh nhuệ tấn công Kê Minh, lúc ấy quân phòng thủ trong thành không tới bốn trăm, may nhờ thành lũy kiên cố, hoả pháo lợi hại mới có thể tạm thời giữ vững. Nhưng ngay khi cổng thành bị đại pháo của giặc Thát bắn vỡ, sinh mạng hơn vạn dân chúng trong thành đã như
chỉ mành treo chuông. Nếu không nhờ có Hà tham tướng kịp thời dẫn quân kéo đến cứu, trăm họ toàn thành làm sao thoát được cảnh lầm than, thành Kê Minh cũng nhờ thế mà không rơi vào tay giặc. Đây là một công.
Lúc tuyết lớn phủ dày trên núi, Hà tham tướng nóng lòng giết địch nên trúng phải mai phục. Đây là một tội. Như vậy là công tội có thể bù trừ.
Sau khi quân ta sa vào mai phục của quân địch, Hà tham tướng có thể dứt khoát cho lui quân, khiến quân Thát không thể bày trận có sức sát thương lớn, giảm thương vong của quân ta đến mức thấp nhất, sau đó quả thật chiến trận diễn ra không khác mấy so với giao phong chính diện. Vì vậy tuy chuyện trúng kế là thật, nhưng tổn thất lại không hẳn đã đạt đến mức như bị trúng kế.
Dương Lăng không hề đề cập đến những tổn thất về ngựa, chiến xa và quân nhu mà lúc quân Minh tranh nhau bỏ chạy trối chết ra khỏi cốc đã vứt bỏ lại, càng không đề cập đến sự can thiệp ngu xuẩn của hai vị Giám quân không hiểu gì về việc quân. Lúc này y vẫn còn thấp cổ bé họng, nếu nói ra chỉ e hiệu quả không lớn, ngược lại sẽ còn tự lôi mình vào cái vòng xoáy to lớn này.
Kế đó y liền lái câu chuyện qua hướng khác:
- Khải bẩm Hoàng Thượng! Vì thế nên thần cho rằng, binh sỹ Hà tham tướng không đông bằng đối phương nhưng lại đạt được kết quả chiến đấu như vậy, vẫn có thể xem là một viên lương tướng. Nếu trách phạt quá nặng, e sẽ khiến tướng sỹ tiền phương e ngại, sau này giao chiến với địch sẽ không dám liều mạng, chỉ mong không sơ sẩy, chẳng cầu có công lao. Đến lúc đó ai nấy lâm địch đều e dè chùn bước, chẳng phải khiến quân Thát càng thêm kiêu ngạo ư?
- Ồ...!
Hoằng Trị khẽ gật gù, như có điều nghĩ ngợi. Thoạt tiên nhận tin báo từ khoái mã của Lưu Cẩn, biết tiền phương hao binh tổn tướng, ông nổi cơn giận dữ nên mới lập tức lệnh cho Cẩm Y vệ giải Hà tham tướng về kinh luận tội.
Từ xưa, chốn quan trường là nơi mà người ta chỉ quan tâm tới lợi ích của bản
thân, kẻ làm quan trong triều chỉ lấy việc "đoán mò ý vua" làm mục tiêu hàng đầu. Nếu Hoàng thượng muốn trừng trị một người nào đó, bọn họ sẽ vắt óc suy nghĩ gán tội danh cho kẻ ấy để Hoàng thượng có thể trừng trị hắn một cách "công bằng chính trực". Những người phẩm đức cao thượng một chút, chỉ cần không ném đá khi người ta rơi xuống giếng đã là tốt lắm rồi. Có mấy ai lại chịu vì kẻ đó mà nói ra sự thật?
Những điều mà Dương Lăng vừa nói ra, đây là lần đầu tiên Hoằng Trị được nghe thấy, cho nên trong lòng lập tức máy động. Ông luôn tiếc nuối là mình không có tài như Thái tổ, Thành tổ, có thể vung roi nơi Tái Ngoại, khiến cho giặc Thát vừa nghe gió đã phải chạy dài. Nhưng là Thiên tử của Đại Minh, ông vẫn hy vọng ít nhất mình có thể khiến giặc Thát không dám tuỳ tiện xâm phạm biên giới, để cho con dân Đại Minh không đến nỗi bị quân man di chà đạp.
Có trừng trị một Hà tham thướng hay không, đó không phải là vấn đề lớn, nhưng nếu hình phạt quá nghiêm khiến biên quân sau này cứ sợ bóng sợ gió trong chiến đấu, thật không phải là điều hoàng đế Hoằng Trị mong muốn.
Xem ra hồi phong ba "luận tội" khiến cho kinh sư chao đảo lần này có thể lắng lại tại đây rồi. Hoằng Trị âm thầm tính toán trong lòng, chủ định đã có, song vẻ mặt vẫn thản nhiên như không, ông cười rồi hỏi tiếp:
- Vương Thủ Nhân ở bộ Binh đã dâng lên một tấu chương, tỏ ra rất mực tôn sùng đạo luyện binh mà ngươi đề cập đến. Hôm nay ngươi cứ nói thoải mái, để trẫm xem thử nó có chỗ nào độc đáo nào!
Dương Lăng có phần sầu não, trong bụng nhủ thầm: "Rốt cuộc Thị độc là làm cái gì đây? Chẳng lẽ không phải là làm bạn học với con trai ông sao? Sao lại giống như đang mời thầy về dạy thế này? Bộ còn muốn kiểm tra trước hay sao?" Thế nhưng y lại không rõ, Hoàng đế phải lo nghĩ rất nhiều việc, nếu ông có lòng muốn kiểm tra bản lãnh của một người nào thì chính là có ý quý tài muốn trọng dụng. Nếu đổi lại là một vị quan thành thạo quy tắc quan trường, lúc này nhất định sẽ phấn chấn tinh thần, hận không thể trổ hết thập bát ban võ nghệ ra lập tức để chiếm cảm tình của Hoàng đế.
Dương Lăng suy nghĩ một lúc, thầm so sánh một số tình hình bản thân quan sát được và tình hình quân đội đời sau, rồi nói:
- Khải bẩm Hoàng Thượng! Thần thấy tướng lĩnh trong quân đội năng lực không đồng đều, tuy có tướng quân dũng mãnh, nhưng phần nhiều chỉ coi trọng sức mạnh cá nhân, không hề có sở trường về trị quân.
Hơn nữa, thiên hạ hiện giờ trọng đạo khinh khí (Đạo ở đây là đạo lý, lý luận, còn khí tức là những thứ kỹ thuật, dụng cụ - ND.), trọng văn khinh võ, quân công trăm trận không bằng một bài văn chương cẩm tú, khiến đa phần những người văn võ song toàn đều bỏ võ mà theo văn, thế nên lương tướng càng thêm khó cầu.
Vả lại trong quân đội hiệu lệnh thì không đồng nhất, vũ khí giáp trụ thì không giống nhau, lương thảo cung ứng cũng không đồng đều, thường ngày huấn luyện cực ít, cho dù có sức chiến đấu cũng khó mà phát huy. Ở Kê Minh thần thường được thấy quân đội thao diễn, lúc ấy cờ xí rợp trời, áo quần rực rỡ, đao thương sáng loáng, chiên trống rền vang, trông rất oai nghiêm hùng tráng. Thế nhưng vì phần lớn thời gian binh sỹ chỉ diễn tập trên những trận hình như thế này, xem trọng bề ngoài mà không quan tâm đến hiệu quả thật, cho nên thật sự không có bao nhiêu tác dụng.
Quân đội cần phải luyện tập hằng ngày, cho dù thế nào đi chăng nữa cũng phải bỏ ra một chút thời gian vào diễn tập dã chiến, như thế thì tân binh mới có thể trở thành binh sỹ lão luyện, binh sỹ lão luyện mới có thể trở thành tinh binh. Khi ấy quân đội Đại Minh ta với hoả khí được trang bị, nhất định sẽ là một mũi nhọn sắc bén. Nếu dùng tốt, giặc Thát sẽ không chịu nổi một đòn. Nhưng binh khí dù tốt thì cũng phải có người sử dụng, trong khi đó quân sỹ bây giờ kẻ biết dùng súng đạn đã là khó kiếm, đừng nói là thành thạo. Cho nên, thần nghĩ rằng luyện binh bằng thực chiến mới là cách hữu hiệu nhất để quân đội mạnh lên.
Sắc mặt Hoằng Trị hơi sầm xuống. Cái tệ nạn "tướng không biết quân, quân không biết tướng" không phải là ông không biết, nhưng chia tách binh lực, hạn chế binh quyền là thủ đoạn quan trọng để đế vương nắm vững quân quyền. Nếu cho phép tướng lĩnh hoàn toàn khống chế quân đội, thao luyện diễn tập thường xuyên,
vậy chẳng phải là trao quyền hành vào tay kẻ khác hay sao?
Thoáng thấy sắc mặt của Hoằng Trị, Dương Lăng biết là hỏng bét rồi. "Từ xưa đến nay, đế vương lo nhất chính là chuyện soán ngôi đoạt quyền, những gì mình nói chẳng phải là phạm vào điều kiêng kỵ của lão ta sao?" Nghĩ thế y bèn vội vàng nói tiếp:
- Cho nên thần nghĩ, có thể tuyển chọn lương tướng làm giáo đầu chuyên trách luyện binh, cứ nghìn người thì lập thành một đoàn, huấn luyện cho họ năng lực chủ động tác chiến và ứng biến khi lâm địch. Đến khi chiến sự nổ ra, người cầm quân chỉ cần đứng giữa điều khiển, cho dù chủ soái không có mặt, sự phối hợp giữa các đạo quân cùng lắm cũng chỉ bị sai lệch một chút, tuyệt đối sẽ không xuất hiện cục diện 'tướng soái vắng mặt thì toàn quân tan vỡ'.
Nói tóm lại, thần cho rằng từ xưa đến nay vua chúa các đời đều là trọng tướng không trọng binh, thường có câu rằng 'ba quân dễ kiếm một tướng khó cầu', nhưng dùng phép luyện binh này thì lại là trọng binh không trọng tướng. Hãy xem kỵ binh tinh nhuệ của Mông Cổ năm xưa, những tướng lĩnh cầm quân của họ có mấy ai đã từng đọc qua binh thư chiến sách, hiểu biết văn thao võ lược? Nếu toàn quân đều dũng mãnh thiện chiến, cho dù không có lương tướng thì cũng có ai có thể địch lại đây?
Y phải cố nghĩ cách chuyển đổi một số thuật ngữ hiện đại thành lời mà Hoằng Trị có thể hiểu được rồi nói cho ông ta nghe, cho nên có chỗ diễn đạt không được trọn ý. Thật ra, điều mà y muốn nói chính là tăng cường năng lực chủ động tác chiến của các đơn vị cấp độ từ đoàn trở xuống trong quân đội, tướng lĩnh cao cấp chỉ phụ trách đứng giữa điều khiển mà không phải tự làm hết mọi việc. Làm như vậy mặc dù là trao quyền nhiều hơn cho quân đội, nhưng quyền lực thực chất của các tướng lĩnh cao cấp lại không có gì thay đổi, cho nên thực tế thì quyền kiểm soát của Hoàng đế lại càng tăng thêm.
Hoằng Trị nghe đến phần sau, lờ mờ cảm thấy nội dung mà y nói dường như vừa có thể tránh xảy ra tình trạng thần tử nắm giữ binh quyền mà sinh lòng tạo phản, lại vừa có thể đề cao năng lực tác chiến của quân Minh, nhưng nhất thời lại
không hiểu thấu được hoàn toàn.
Ông đang định hỏi thêm, cụ thể hơn thì vị thái giám già bên cạnh khẽ bước lên thấp giọng nhắc:
- Bệ hạ, ngọ triều sắp bắt đầu rồi, người xem... Hoằng Trị khẽ ồ một tiếng rồi bảo Dương Lăng:
- Ừm, lời ái khanh rất có lý, trẫm sẽ cân nhắc. Người đâu, thưởng cho Dương Lăng ngự bài đi lại trong cung, ban cho xuất thân đồng tiến sỹ, bắt đầu nhậm chức Đông cung Thị độc ngay trong hôm nay. Hãy đưa Dương khanh đến Xuân Phường đi!
- Tạ ơn Hoàng Thượng!
Dương Lăng quỳ xuống tạ ơn, hai tay tiếp nhận một miếng ngọc bài cho phép ra vào cấm cung mà thái giám đưa cho, sau đó đi theo tên tiểu thái giám đã dẫn y đi vào lui ra ngoài.
Dương Lăng đi theo tên tiểu thái giám qua cổng Càn Thanh, thẳng đến Xuân Phường, nơi thái tử ở. Sau khi bước vào một tòa cung điện, Dương Lăng đứng chờ ở ngoài cửa, còn tên tiểu thái giám vào trong bẩm báo. Một lúc sau, cửa cung điện mở ra, một viên quan trạc ngũ tuần bước ra, phất ống tay áo, hầm hầm bỏ đi, không thèm liếc Dương Lăng lấy một cái.
Dương Lăng đang ngẩn người nhìn theo bóng lưng ông ta thì tên tiểu thái giám đưa tin cũng đã bước ra theo. Y nhìn về phía Dương Lăng nói:
- Dương thị độc, giờ ngài hãy chờ ở đây đi! Cốc công công đã biết rồi, chờ một lát Thái tử gia sẽ triệu kiến ngài. Ta về trước đây.
Dương Lăng đứng nguyên tại chỗ, chờ cho đến khi gót chân mỏi nhừ. Thấy trong cung này bốn bề tĩnh mịch, không hề có cung nữ, thậm chí thái giám cũng không thấy một ai, y nhân cơ hội khom lưng vận động thân thể đang mỏi nhừ một chút. Bỗng nhiên lưng y chợt trầm xuống, ngay sau đó vai như bị siết lại, tựa như có
vật gì đó đang bò lên vai y, Dương Lăng sợ hãi giật nảy mình.
Y vừa xoay đầu, một khuôn mặt Thiên Lôi lông lá vừa vặn đối diện với y. Trên khuôn mặt xấu xí đó, một cặp mắt nhỏ xíu xoay tròn đang trừng mắt nhìn y không chớp.
Dương Lăng kinh hoảng la to một tiếng. Không đợi y tóm lấy, khuôn mặt Thiên Lôi kia còn bị tiếng la của y làm cho hoảng sợ hơn, lập tức rụt đầu lại, thoắt một cái đã phóng tót lên đầu y. Lúc này, từ nơi cửa điện phụ vọng lại giọng đùng đục bể tiếng của một thiếu niên:
- Cốc Đại Dụng, Lý đại học sỹ đã đi chưa? Úi, ngươi là ai? Đừng có cử động lung tung kẻo tiểu hầu nhi của ta nổi nóng! Cẩn thận không nó cào khắp mặt ngươi đó!
- Là ngươi à? Ngươi là thị độc của ta sao? Cái gã... gã Dương Lăng, dịch thừa ở Kê Minh chính là ngươi hả?
Vừa rồi Dương Lăng được diện kiến Hoằng Trị nên đã sớm biết tiểu thư sinh mà mình gặp hôm qua chắc chắn là Chính Đức rồi, cho nên cũng không bị bất ngờ. Y cười gượng, cúi đầu trả lời:
- Thái tử điện hạ! Vi thần chính là Dương Lăng, xin thứ cho vi thần không thể làm lễ với Thái tử được, vì... vì...
Chu Hậu Chiếu cười hì hì, khoát tay nói:
- Không cần hành lễ, không cần hành lễ! Ngày nào cũng làm lễ, phiền chết đi được!
Lúc này, một gã thái giám béo ú đang dắt theo một con chó đen lớn cao bằng nửa thân người từ trong cung điện đi ra, hắn cười hì hì:
- Thái tử gia! Vừa rồi nô tài thật sự là sợ chết khiếp đó. Con chó này trốn trong tủ chẳng chịu ngoan ngoãn gì cả, lão nô đã vứt mấy cục xương thịt vào trong rồi mà nó vẫn ư ử suốt, suýt chút nữa thì bị Lý học sỹ phát hiện.
Dương Lăng cẩn thận quan sát Cốc Đại Dụng. Y thấy hắn vóc người mập lùn, mặt tròn, mày rắn, mắt lươn, khuôn mặt tươi tắn. Nếu không sớm biết sự tích về sau của kẻ này thì Dương Lăng thực sự cho rằng hắn rất hòa ái tốt bụng, khiến người khác cực kì yêu mến.
Chu Hậu Chiếu cười như một đứa trẻ đắc ý, hỏi gã:
- Đại Dụng! Lý thái phó đi rồi sao? Cốc Đại Dụng cười vuốt đuôi:
- Chỉ trong hai canh giờ mà Thái tử gia chui ra chui vào nhà xí tới tám lần, Lý đại nhân sớm đã khó chịu rồi. Mặc dù hôm nay ngài ấy không phải chầu triều sớm nhưng phải tới dự ngọ triều, vừa nãy không chờ được nữa nên đã xin cáo lui trước rồi.
Chu Hậu Chiếu cười ha hả, y nhón mũi chân bước đi, lắc lư người ba lần, vươn cổ thẳng đơ, giống như một con lật đật, nói chậm rì rì:
- Quân tử cầu học đạo - không cầu ăn uống, quân tử lo không học được đạo - không lo nghèo. Kẻ làm quân vương - phải biết nhân từ, kẻ làm bề tôi - phải biết cung kính, kẻ làm con - phải biết hiếu thuận, kẻ làm cha - phải biết nhân từ, giao thiệp với người khác - phải biết giữ chữ tín....
Chu Hậu Chiếu đọc xong liền cau mày than thở:
- Thánh nhân chỉ nói một câu về lễ, nghĩa, nhân, trí, tín, Lý đại học sĩ lại lôi ra một đống dẫn chứng, trích dẫn đủ thứ kinh thư điển tịch, đã giảng giải mất bảy ngày trời rồi. Ta thấy thật kỳ quặc, cái đầu của thánh nhân trông nó như thế nào nhỉ, lúc nói ra câu đó, ông ta có thực sự nghĩ nhiều và kỹ như vậy không? Muốn dạy ta trở thành quân vương thì phải giảng đạo trị quốc chứ, sao mà mỗi câu đều cứ phải lôi bằng được các bậc thánh nhân từ cả nghìn năm trước vào, như kiểu nếu không làm thế thì người khác sẽ không phục vậy. Thực sự là cực kỳ nhạt nhẽo, ta nghe mà chán muốn chết.
Y phất tay, giống như vừa trút được gánh nặng:
- Đi rồi thì tốt, đi rồi thì tốt! Ông ta đi rồi thì ta cũng trở vào trong thôi! Chu Hậu Chiếu đưa tay huýt gió gọi con khỉ đang ngồi chồm hỗm trên đầu
Dương lăng nhưng nó vẫn nghìn ngang nhìn ngửa, không buồn để ý tới y. Chu Hậu Chiếu nhếch miệng cười:
- Xem ra con khỉ của ta rất thích ngươi đó, đi thôi! Dương thị độc! Chúng ta vào trong nào!
Dương Lăng méo mặt bám theo sau Chu Hậu Chiếu bước vào thư phòng dành cho Thái tử đọc sách. Tuy gọi là thư phòng nhưng lại giống một cung điện lớn, rất vắng vẻ, chỉ có hai gã tiểu thái giám phục dịch đứng ngay sát cửa. Thấy con khỉ ngồi chồm hỗm trên đầu Dương Lăng, hai tên này không nhịn được phải che miệng cười trộm.
Chu Hậu Chiếu thoải mái ngồi xuống một cái ghế thấp được sơn sáng bóng, liếc nhìn Dương Lăng với vẻ vô cùng hứng thú, đoạn vui vẻ cười bảo:
- Tới đây nào! Dương thị độc ngồi đi! Để ta bảo Đại Dụng cho ngươi xem trò khỉ cưỡi chó, còn có phi qua vòng lửa, rất hay đó.
Dương Lăng cẩn thận ngồi xuống sau một cái bàn. Chu Hậu Chiếu lấy mấy trái cây trên đĩa ném xuống dưới đất, con khỉ đang trên đầu Dương Lăng liền lao xuống nhặt, ngồi xổm dưới đất gặm ăn.
Chu Hậu Chiếu bảo Cốc Đại Dụng:
- Ta đói rồi, mang tới đây cho ta chút đồ ăn đi!
Cốc Đại Dụng đang buộc con chó vào cây cột trong điện, nghe xong liền bảo mấy câu với tên thái giám trước mặt, tên thái giám đó phóng đi như bay.
Nơi Thái tử đọc sách chỉ có thái giám, không có cung nữ hầu hạ. Chỉ một lát sau, tám tên tiểu thái giám bưng mâm đi vào. Vốn Dương Lăng đang đói meo, ngửi thấy mùi thức ăn, bụng y liền sôi ùng ục.
Tiểu Thái tử thính tai nghe được, thế là bèn vừa cười vừa chỉ về phía trước Dương Lăng nói:
- Bày ở đó, bày ở đó! Nếu như trong cung của Thái tử ta mà có người chết đói thì đúng là chuyện khiến người ta cười đến rụng răng mất!
Chu Hậu Chiếu nói xong liền cười hì hì đứng lên, tùy tiện bước tới ngồi xuống bên cạnh Dương Lăng, đưa cho y đôi đũa bạc, nói:
- Ăn đi, nếm thử xem thức ăn trong cung của ta thế nào!
Dương Lăng thấy vị hoàng đế Chính Đức trong truyền thuyết này chẳng hề có vẻ kiêu căng phách lối chút nào, cảm giác gò bó liền biến mất. Có Dương Lăng ngồi cùng, dường như Chu Hậu Chiếu ăn cũng ngon miệng hơn, y vừa ăn vừa nói với Dương Lăng:
- Hôm nay ngươi không tới nghe Lý thái phó giảng bài cho nên buổi chiều cũng chẳng có gì để giảng giải cho ta cả nhỉ! Phải rồi, hôm qua ngươi có nói tới thứ gì đó gọi là đấu bò tót, mau kể cho ta nghe đi!
Dương Lăng vốn cho rằng thị độc chỉ cần nghe giảng cùng với thái tử, không để cho Thái tử quá buồn chán là được, giờ nghe ý tứ của Chu Hậu Chiếu, dường như thị độc còn phải phụ trách giải đáp thắc mắc khi Thái tử tự học. Nếu như quả thật vị Thái tử này chuyên cần hiếu học, tên thị độc dốt nát mình đây chắc sẽ lộ tẩy ngay tại chỗ mất?
Dương Lăng nghĩ tới đó không khỏi mừng thầm, y vừa nhấm nháp của ngon vật lạ do ngự trù nấu nướng vừa kể về môn thể thao đấu bò tót ở Tây Ban Nha cho Chu Hậu Chiếu nghe. Hiểu biết của Dương Lăng về môn thể thao này rất ít ỏi, thế nên y chỉ tập trung kể những chuyện cười về những đấu sĩ bò tót sẩy tay bị bò tót đuổi loạn khắp sân và bị húc văng khỏi đấu trường. Dương Lăng vốn giỏi mồm mép, lại cố ý thêm mắm thêm muối, không chỉ Chu Hậu Chiếu say mê mà ngay cả Cốc Đại Dụng và những tiểu thái giám dâng cơm đang đứng ở bên cạnh cũng nghe đến nhập thần.
Dương Lăng thấy Cốc Đại Dụng đang cười ngặt nghẽo mà trong lòng thầm cảm thấy xấu hổ, trước mặt mình là những ai chứ? Một kẻ là hôn quân tương lai nổi tiếng dâm đãng, còn kẻ kia là tên đại gian đại ác lừng danh. Còn mình thì sao?
Mang tiếng là thị độc nhưng lại đóng vai một tên lộng thần, một tên hề mua vui cho Thái tử.
Không sai, y chẳng có dã tâm gì cả, thế nhưng đã tới cái thế giới này rồi, y không thể biến mình thành một khán giả thờ ơ với sự đời được. Về mặt tình cảm y cũng chẳng khác gì những người Hán hiện nay, trang bi thảm nhất trong lịch sử Trung Quốc đối với y vốn chỉ là lịch sử, là quá khứ đã qua, y chẳng thể làm gì được, nhưng bây giờ, hết thảy còn chưa diễn ra. Đế quốc Đại Minh lúc này vẫn là quốc gia giàu có nhất thế giới, vận mệnh đã sắp đặt y tới trước mặt quân vương của Đại Minh, lẽ nào y lại không bỏ ra một phần sức lực?
Sự suy tàn của triều Minh chủ yếu là do tư duy của bọn họ quá bảo thủ. Kẻ thống trị, thậm chí cả giai cấp thống trị đều mù quáng tự cao tự đại, bế quan tỏa cảng. Bây giờ là thời điểm cả thế giới đang phát triển mạnh cùng chủ nghĩa tư bản đang chuyển mình, nếu như Trung Quốc có thể giữ mối liên hệ mật thiết với thế giới thì tư tưởng và nhận thức của cả giai cấp thống trị sẽ ngầm chịu ảnh hưởng, nhất định sẽ có thể phát triển theo hướng tích cực hơn.
Người trước mặt mình là ai chứ? Là Hoàng đế Đại Minh tương lai đó! Đại Minh lúc này đang thiếu thứ gì? Chính là thiếu chí tiến thủ! Nếu như có thể khiến vị Thái tử trước mặt này nhìn xa trông rộng hơn, ở thời kỳ quân quyền tối cao này, một suy nghĩ của y cũng có thể sinh ra tác dụng không để đoán trước được với sự phát triển của lịch sử. Lịch sử... thực sự là không thể thay đổi sao?
Dương Lăng nghĩ tới đó, trong lòng thầm thấy rộn ràng. Y cố giữ bình tĩnh, nói với Chu Hậu Chiếu:
- Thái tử, nếu người thích nghe, vi thần có thể kể mấy chuyện khác cho người.
Chu Hậu Chiếu vui mừng quá đỗi, bèn gật đầu liên tục. Mặc dù y là Thái tử nhưng đời sống tinh thần lại kém xa trẻ em thời hiện đại, dùng từ khô khan vô vị để hình dung cũng không quá đáng chút nào. Lúc này nghe Dương Lăng kể những chuyện mới lạ y mới biết trên thế giới này còn có rất nhiều thứ đặc sắc và hay ho như thế, cũng biết trời đất rộng lớn đến mức nào. Vốn đang nghe đến say mê nên Dương Lăng vừa đề nghị như vậy, cậu thiếu niên Chính Đức bèn vội vàng bảo với Cốc Đại Dụng:
- Đại Dụng! Kêu người báo với Trí Vân thiền sư hôm nay không học Phạn văn
nữa!
Dương Lăng nghe vậy thì rất ngạc nhiên, không ngờ Chu Hậu Chiếu còn học cả ngoại ngữ nữa. Mà qua cách y tùy ý bảo thái giám hủy giờ học, rất hiển nhiên là môn học đó không phải do hoàng đế sắp xếp cho y. Hình tượng Chính Đức này khác rất xa kẻ hoang dâm vô độ, vô công rồi nghề mà Dương Lăng biết.
Dương Lăng thong thả kể chuyện cướp biển Tây Ban Nha. Những nữ vương cướp biển tóc đỏ, thuyền trưởng cướp biển chột mắt được y gia công gộp lại thành một chuyện. Vẫn duy trì được sự thú vị cho câu chuyện, y còn kể thêm về việc tranh chấp bá quyền trên biển của các nước châu Âu đang diễn ra vào thời điểm hiện tại. Thậm chí y còn hư cấu thêm một nước tương tự với Đại Minh ở bờ kia đại dương, nằm cách Đại Minh còn xa hơn các nước Ả-Rập, y kể lại câu chuyện từ lúc nó hùng mạnh, giàu có, cho đến khi suy bại, chịu đủ sự lăng nhục.
Chuyện cướp biển đầy hấp dẫn khiến Chu Hậu Chiếu vốn thích phiêu lưu nghe đến mê mẩn. Dương Lăng bắt đầu kể đến đoạn các nước châu Âu vì tranh giành quyền bá chủ trên biển, bề ngoài thì tuyên bố không đội trời chung với cướp biển nhưng lại ngấm ngầm nuôi dưỡng và sai chúng tấn công thuyền buôn nước khác.
Cốc Đại Dụng ở bên hơi chau mày, tỏ ra khinh thường các nước nhỏ man di này không biết sĩ diện.
Tiểu Chính Đức thì lại xoa tay, giọng say mê:
- Hay quá, có triều đình chống lưng phía sau, lại không làm mất thể diện của triều đình, chuyện làm ăn lãi như vậy, cướp biển lại hay như vậy, ngay của ta cũng muốn thử một phen, há há há...
Dương Lăng mỉm cười. Trước mặt y là một cậu nhóc chưa hiểu mấy về phải trái đúng sai, là một tờ giấy trắng có thể tô cũng có thể xóa. Lý học sỹ dạy cho y lễ nghĩa liêm sỉ, dạy cho y lối tự mãn của thiên triều; Cốc Đại Dụng lại dạy y ăn chơi hưởng lạc, hoang dâm vô độ; vậy thì phải để cho Dương Lăng ta dạy y nhìn ra thế giới, hướng lòng tham lam và dã tâm ra bốn bể!
Giáo dục, phải bắt đầu từ bé...
Khi y nghe tới đoạn quốc gia hùng mạnh này dần dần tụt hậu so với các nước phương tây, trong khi các nước phương tây bước vào thời kỳ Phục hưng, khoa học kỹ thuật phát triển, Thiên văn, Vật lí, Hóa học đều tiến bộ cực nhanh, đã mài đao xoèn xoẹt với ý đồ xâu xé chiếc bánh ngọt Thiên Phương, mà đất nước Thiên Phương lại mù quáng tự cao tự đại, không ngừng suy bại, khiến cho y tức đỏ mặt, căm hận đập bàn chửi:
- Tên hoàng đế đó thực là cực kì ngu xuẩn, làm ta tức chết mất!
Nghe tới quân đội tám nước dựa vào thuyền chắc pháo mạnh, chỉ vài nghìn người ít ỏi mà tấn công được vào kinh sư của Thiên Phương quốc, thiêu rụi cả một công trình vĩ đại có một không hai được xây dựng bởi sức lực của cả nước, ngay cả Cốc Đại Dụng cũng tức giận đến mặt nổi gân xanh, the thé nói:
- Hoàng đế nước đó thật quá ngu xuẩn, mấy chục vạn đại quân mà lại không chặn nổi vài nghìn quân ít ỏi! Đáng thương! Đáng hận!
Dương Lăng than thở:
- Ban đầu những quốc gia đó so với nước Thiên Phương đều nghèo túng như ăn mày, nhưng bọn họ không hề tự đại, lại rất chú trọng giao lưu. Quốc gia này phát minh ra khoái thuyền, quốc gia khác liền lập tức học được. Quốc gia kia phát minh được đại pháo có tầm bắn xa và uy lực lớn hơn pháo Đại tướng quân, ngay lập tức có nuớc phái người tới học tập, sau đó phát minh ra đại pháo còn lợi hại hơn. Bọn họ phát triển không ngừng, còn nước lớn kia thì lại bế quan tỏa cảng, cho rằng mình đứng đầu thiên hạ, sao mà không bại cho được?
Chu Hậu Chiếu lại đập bàn nói:
- Cái loại thuyền cướp biển ba cột buồm với thuyền nhỏ có nhiều buồm đó thì lợi hại lắm hay sao? Ta thấy rằng chính nước Thiên Phương kia mới là kẻ vô dụng, nếu gặp phải đại chiến hạm của bổn triều thì... hừ hừ!
Y quay sang hỏi Cốc Đại Dụng:
- Đại Dụng, bản vẽ bảo thuyền đi Tây dương từ thời Vĩnh Lạc (1) để ở đâu rồi? Mang tới đây cho ta, để Dương thị độc xem xem, so với thuyền nhỏ của Tây phiên kia thì ai hơn ai?
Cốc Đại Dụng khom lưng, khuôn mặt béo tròn tươi cười kèm theo sự kính cẩn, trả lời:
- Bẩm thái tử gia, tất cả bản đồ biển, bản vẽ bảo thuyền của chuyến Trịnh công công tới Tây dương vốn giao cho bộ Công ở Nam Kinh, thời hoàng đế Anh Tông đã chuyển đến bộ Binh ở kinh sư, lúc ấy định dùng khi vượt biển đến phương Tây lần nữa. Nhưng thị lang Lưu Đại Hạ nghe được chuyện này, cảm thấy việc lưu thông với phương tây làm hao tài tốn của, chẳng có ích gì, bản đồ biển này quả là mầm họa quốc gia, cho nên y đã giấu nó đi. Nô tài phỏng đoán rằng, bây giờ nó vẫn còn bị quẳng trong đại khố của bộ Binh.
Dương Lăng nghe xong người run lên, buột miệng nói:
- Gì cơ? Tấm bản đồ kia vẫn chưa bị đốt đi sao?
Y nói xong mới nhận ra là đã lỡ lời, trong lòng hối hận không thôi. Mặc dù y nhớ trong sách sử có nói rằng hải đồ kia đã bị Lưu Đại Hạ, một kẻ chính trực nhưng thiển cận, đốt mất rồi, nhưng lại không nhớ chuyện xảy ra khi nào, nếu như hiện tại vẫn chưa xảy ra việc này, há không phải khiến người ta nghi ngờ sao?
Cốc Đại Dụng cười híp mắt lườm y, thầm nghĩ:
"Quả nhiên tên Dương Lăng này là người của Cẩm Y vệ, vòi của bọn họ vươn rộng thiệt, ngay cả chuyện cực kỳ bí mật này mà cũng biết, hé hé! Tiếc là y có biết nhưng lại không kĩ càng tỉ mỉ như mình."
Cốc Đại Dụng cố ý khoe khoang, đắc ý cười:
- Dương thị độc có chỗ không biết rồi, chuyện đó chỉ là truyền bậy mà thôi. Lúc đó Lưu Đại Hạ chỉ là một thị lang nho nhỏ, mặc dù y không muốn cho hoàng đế thấy tấm hải đồ đó nhưng cũng không có gan đốt nó đâu. Những thứ đó chất đầy cả năm hòm lớn đó, nếu như y muốn đốt đi, há có thể che mắt người khác? Chẳng lẽ y không cần mạng nữa hay sao? Ha ha, lúc đó y thuyết phục thượng thư bộ Binh là đại nhân Hạng Trung. Hạng đại nhân cho rằng lời hắn nói có lí mới ngầm ưng thuận cho y giấu thứ đó đi, chỉ tâu dối với hoàng đế Anh Tông là công văn từ Nam Kinh chuyển đến quá nhiều, không tìm thấy tung tích, dự tính nếu như hoàng đế Anh Tông đòi gấp quá thì lại mang trình lên. Thực ra lúc đó hoàng đế Anh Tông cũng có nhớ đến chuyện này nhưng khi biết công văn đã bị thất lạc thì cũng không để tâm cho lắm, chính vì thế mà chuyện này đã được giấu đi.
Dương Lăng bán tín bán nghi hỏi:
- Lời Cốc công công nói là thật sao? Bản hải đồ đó .... đến bây giờ mà vẫn còn sao?
Chu Hậu Chiếu cười ha hả:
- Cốc Đại Dụng nghe nhiều nhớ lâu, đây chính là sở trường của y. Đại Dụng đọc sách không nhiều nhưng trí nhớ lại rất tốt, y nói còn tất nhiên là còn rồi. Y vốn phục vụ tại Đông Xưởng. Mũi của bọn Đông Xưởng còn thính hơn Đại Hắc của ta đó.
Vốn tám năm trước, hoàng đế Hoằng Trị đã từng sủng tín đại thái giám Lý Quảng, một thời nịnh phật nịnh đạo, luyện đan luyện dược, khiến cho khắp triều đình tràn ngập khói đen khí độc. Lúc đó Cốc Đại Dụng được mấy tên gian hoạn Lý Quảng, Dương Bàng sủng ái nên được nghe không ít chuyện. Sau đó Lý Quảng thấy nhóm Lưu Đại Hạ dựa vào đám trung thần được Hoằng Trị tin tưởng mà liên tục dâng tấu phê bình, chỉ trích bọn chúng kéo bè kéo cánh che mắt chủ làm chuyện xấu, nên đã phái Cốc Đại Dụng điều động đội ngũ Đông Xưởng sưu tầm tư liệu của nhóm người này, muốn lật đổ bọn họ.
Cho nên trong lòng Cốc Đại Dụng biết rất rõ những chuyện to nhỏ mà Lưu Đại Hạ đã làm. Thế nhưng thời vận của y không tốt, cả bộ tài liệu vừa mới thu thập xong thì Lý Quảng đã bị bệnh chết rồi. Hoàng đế Hoằng Trị vẫn tiếp tục u mê không tỉnh ngộ đã phái người tới nhà y tìm kiếm thiên thư. Kết quả là thiên thư không tìm được mà lại tra ra một lượng lớn vàng bạc châu báu, lúc này mới tin chuyện đám thần tử nói Lý Quảng làm việc tất trách, chuyên nhận hối lộ. Đến lúc này cả phe cánh của Lý Quảng mới hoàn toàn sụp đổ, cả đám thân tín bọn chúng bị thất sủng. Cốc Đại Dụng bị Vương Nhạc Vương công công, thủ lĩnh mới của Đông Xưởng, đuổi ra khỏi đó, phải chịu đựng biết bao năm, hao tổn biết bao tâm sức mới được làm kẻ hầu bên người thái tử.
Nghe được lời khen của Chu Hậu Chiếu, Cốc Đại Dụng cười híp mắt, khom khom người, nói:
- Tạ ơn Thái tử gia đã khen ngợi! Tuy nhiên thoáng cái đã qua bao nhiêu năm rồi, lão nô lo rằng đống giấy tờ đó không được bảo quản tốt, nếu như bị ẩm mốc, chuột gặm rồi thì có lẽ chẳng thể dùng được nữa.
Dương Lăng vừa mừng vừa sợ, nói với Chu Hậu Chiếu:
- Thái tử! Năm xưa những bản vẽ sơ đồ chế tạo thuyền này, không biết đã hao tốn tâm trí của biết bao nhiêu người thợ giỏi, tuy rằng bây giờ chưa chắc đã tái tạo được chiến hạm khổng lồ như hồi đó, nhưng để chế tạo ra những chiếc thuyền nhỏ hoàn mỹ thì chúng rất có giá trị tham khảo. Những tấm hải đồ kia mới là những thứ hiếm có hơn. Biển khơi rộng lớn hơn lục địa rất nhiều, mỗi tấm bản đồ đường biển đều phải hao tốn luợng lớn tiền bạc mới vẽ nên đuợc đó.
Chu Hậu Chiếu không biết vì sao y lại xúc động như vậy, nhìn hắn một cách khó hiểu, trầm ngâm nói:
- Ừm.... Lưu Đại Hạ? Lão già này bây giờ là thượng thư bộ Binh, muốn lấy được thứ này từ tay lão, sợ rằng....
- Sao? Ngay cả thái tử cũng không thể lấy được thứ này từ trong tay lão ư?
Dương Lăng nghe xong liền vô cùng thất vọng.
Chu Hậu Chiếu bị y kích động, liền ưỡn ngực lên nói:
- Lưu Đại Hạ tuy là sủng thần bên cạnh phụ hoàng nhưng lão cũng không dám đắc tội với ta, chỉ là... dù sao lão cũng là quan nhất phẩm, người mà ta phái đi chỉ muốn làm lấy lệ thì không phải là tay trắng trở về sao?
Dương Lăng đảo mắt, nói:
- Nếu như vậy thì tự thân thái tử gia phải đi một chuyến hay sao? Chu Hậu Chiếu cười ha hả:
- Nếu ta tự thân đi lấy thứ đó thì tin rằng lão cũng không dám không đưa cho ta, nhưng mà...
Y nhăn nhó một hồi rồi nói tiếp:
- Ta muốn xuất cung một chuyến, còn khó hơn lên trời. Một năm, chỉ có phụ hoàng dắt ta ra ngoài dăm ba lần đó thôi. Mấy ngày nữa kỳ thi Đình sẽ bắt đầu, các vị sư phụ của ta đều lo việc tuyển người cho kỳ thi mùa xuân nên không ai tới dạy cả. Phụ hoàng sợ ta bỏ bê việc học hành nên đã sắp xếp mấy thứ khỉ gió cho ta viết, còn ra lệnh cho tả hữu thứ tử của Xuân Phường luân phiên giám sát, thực sự là một tấc khó rời đó.
Xuân Phường là nha môn trực thuộc thái tử cung, do hai quan Tả Xuân Phường tả thứ tử và Hữu Xuân Phường hữu thứ tử phụ trách quản lý việc học của thái tử.
Những viên quan đảm nhiệm chức thứ tử này đều cương trực thẳng thắn, thậm chí trong đó còn có vài người thuộc đám hàn lâm học sĩ ngu dốt cổ hủ, trước giờ lục thân bất nhận, chí công vô tư. Có bọn họ đốc thúc, chính ra còn khủng khiếp hơn tự thân đại học sĩ giảng bài, Chu Hậu Chiếu nghĩ tới liền đau đầu không ngớt.
Dương Lăng biết những bản thiết kế chiến hạm và tấm bản đồ hàng hải hiển thị phía Nam Hải và con đuờng sang phuơng Tây do rất nhiều thợ giỏi vẽ ra vẫn còn trong nhân gian, làm sao hắn có thể để yên cho nó bị tiêu hủy được, nhất thời trong
lòng lập tức ngứa ngáy vô cùng. Y thấy Thái tử khó xử, liền vội vàng hỏi:
- Thế trong tình huống thế nào thì quan viên Xuân phường mới không thể giám sát Thái tử đọc sách vậy?
Cốc Đại Dụng trả lời thay:
- Dương thị độc, nếu như thân thể Thái tử bất an thì mới có thể tạm dừng lớp học.
Dương Lăng vui mừng:
- Thế thì tốt rồi! Chỉ cần Thái tử giả vờ bệnh là xong, phải không? Chu Hậu Chiếu trợn mắt, gắt lên:
- Nói dễ vậy à? Nếu ta bảo thân thể bất an thì chẳng phải cả đám Thái y viện sẽ xông ngay tới cuốn lấy ta mà khám bệnh sao? Đến lúc sự việc bị bại lộ, nhất định phụ hoàng sẽ trách móc ta đó.
Xem ra, tình cảm của Chu Hậu Chiếu với phụ hoàng của y rất tốt. Hậu Chiếu vừa kính vừa sợ, không hề muốn chọc ông tức giận. Dương Lăng cười nói:
- Thế thì có gì là khó? Thái tử chỉ cần nói bị đau đầu, mặc cho y thuật của ngự y thần thông đến đâu cũng chỉ có thể dặn Thái tử cố gắng tính dưỡng, tuyệt không có ai dám nói Thái tử không có bệnh.
Chu Hậu Chiếu nửa tin nửa ngờ hỏi:
- Quả thực là như vậy sao? Trong Thái y viện có mấy vị quốc y thánh thủ đáng gờm lắm đó.
Dương Lăng tràn đầy tự tin, giả làm bộ dạng của một lão thần ung dung đáp:
- Thái tử cứ yên tâm! Chỉ cần dùng kế này là nhất định có thể bịt được tai mắt của ngự y.
Não bộ là bộ phận phức tạp nhất của con người, dù y học hiện đại phát triển đến đâu cũng không thể chẩn đoán hết bệnh tật của nó. Lúc y làm công tác bồi thường tại công ty bảo hiểm, nếu như gặp phải khách hàng là bạn học, thân thích của mình thì sẽ bày cho họ biện pháp này. Chỉ cần tới bệnh viện nói là bị đau đầu, kể cả là đang khỏe mạnh hoạt bát thì cũng không có máy móc nào có thể chứng minh y nói dối.
Y không tin rằng thần y cổ đại dùng cách bắt mạch cũng dám nói rằng một người không có bệnh, trừ phi người đó một tên lang băm chuyên bốc phét. Trước mặt vị đương kim thái tử này, dù cho là lang băm có lòng lừa đảo cũng không dám bảo đảm y không có bệnh, lỡ ra y thực sự có bệnh mà làm chậm trễ việc điều trị thì liền phạm tội mất đầu ngay.
Chu Hậu Chiếu nghe vậy vui mừng, nhảy lên cười nói:
- Há há há! Như thế rất hay, ngày mốt là kỳ thi mùa xuân, quá trưa ngày mai ta sẽ bắt đầu đau đầu!
Y uy phong lẫm lẫm chỉ Cốc Đại Dụng nói:
- Đại Dụng, gọi Lưu Cẩn, Mã Vĩnh Thành, Cao Phượng, La Tường, Ngụy Bân, Khâu Tụ, Trương Vĩnh ra đây cho ta. Đám người thối tha các ngươi tụ tập lại rồi tính toán kế hoạch làm sao để ta lẻn được ra khỏi cung, ha ha ha ha.....
Dương Lăng nghe Hậu Chiếu nhắc đến những cái tên quen thuộc trên, không khỏi cười khổ trong lòng. Xem ra hôm nay Kinh Sư Bát Hổ đều đã tề tựu tại Đông cung. Thế nhưng y đang muốn Chính Đức theo đường lối của mình vạch ra, tạm thời phải dựa vào tám kẻ này.
Bởi vì Dương Lăng muốn tạo nên tất nhiên không phải là một tên "hoàng đế phóng đãng", cũng không phải là một vị vua như "Nghiêu Thuấn" trong mắt đám tiên sinh phẩm hạnh, sĩ tử đại phu. Những người thống trị Trung Quốc bị những lời bịa đặt "Trung Quốc là trung tâm của thiên hạ" mê hoặc quá lâu rồi do đó bọn họ đã chùn chân mỏi gối, rất thiếu dã tâm. Đám sĩ tử đó già cỗi cổ hủ, chăm chăm theo gia pháp tổ tông, gương cũ không đổi, tầm nhìn hạn hẹp.
Đầm nước đọng này chỉ cần có một con suối mới chảy vào, hậu thế sẽ có một cục diện hoàn toàn khác. Thế nhưng hiện tại y cũng giống như đang chơi với lửa, nếu như dẫn đường không cẩn thận, Chính Đức khó thành ngọc báu; có dã tâm mà bất tài, hắn sẽ biến thành một tên bạo quân cực kỳ hiếu chiến, như vậy chi bằng cứ để cho hắn trở thành một thiên tử phong lưu chìm trong phụ nữ còn hơn.
"Ta sẽ thành hay bại đây? Nếu như bại rồi, trăm năm sau, người đời sau sẽ bình luận thế nào ?"
Khóe miệng Dương Lăng nhếch một nụ cười khổ quái dị, dường như y nghe thấy lời thuyết minh hùng hồn mở đầu một bộ phim kiếm hiệp:
"Thời Chính Đức, gian tặc Dương Lăng và Bát Hổ cấu kết với nhau hãm hại trung thần, làm cho triều cương đại loạn, dân chúng lầm than, nhân sĩ giang hồ hiệp nghĩa đồng loạt nổi lên phản kháng, tạo ra bao khúc ca tráng lệ "
(1) Nhắc tới việc Thái giám Tam Bảo hạ Tây Dương (三保太監下西洋) tức là những chuyến thám hiểm Đông Nam Á và Ấn độ dương của Trịnh Hòa
Mộc Trai tiên sinh đang giảng bài đến lúc hưng phấn, nước bọt bắn tứ tung. Lúc này Chu Hậu Chiếu đang ngồi nghiêm trang sau bàn, vai kề vai với Dương Lăng, vẻ mặt đờ đẫn, ánh mắt ngây ngốc, trạng thái hóa đá này đã kéo dài được gần một buổi sáng rồi.
Nhưng từ nửa canh giờ trước Dương Lăng đã bắt đầu ngáp ngắn ngáp dài. Kể từ cái ngáp đầu tiên của y, như có bệnh truyền nhiễm, hai gã học sinh bất lương bắt đầu ngáp liên tục không ngừng.
Sau khi ngáp xong, nước mắt trào ra khiến đôi mắt họ ươn ướt. Tạ Thiên nhìn thấy cảnh này thì lại cho rằng Thái tử và Dương thị độc bị nội dung đặc sắc và sinh động trong bài giảng của mình làm cho cảm động, nên lão càng giảng càng hăng.
Dương Lăng lại chán nản ngáp thêm cái nữa, sau đó lặng lẽ bĩu môi khinh thường. Chưa nói tới chuyện phải học từ sáng sớm, những bài giảng của lão thư sinh cổ hủ này quả thực là quá mức khô khan vô vị. Nghe nói trong ba vị sư phụ của Chu Hậu Chiếu thì ông này giảng bài chán nhất, quả đúng không sai. Có lẽ những nội dung đó là tài liệu giảng dạy tiêu chuẩn của các vị Thái phó từ cổ tới kim, chúng được giảng cả ngàn năm rồi, biển cả cũng biến thành nương dâu, vậy mà chúng nó vẫn chẳng có gì thay đổi, vừa không liên quan tới thực thế, lại chẳng nói gì tới tương lai. Còn về cục diện thế giới ư? Chuyện đùa! Trong mắt Tạ đại học sỹ, ngoại trừ Đại Minh ra thì còn có thế giới gì nữa chứ? Càng đáng ghét hơn nữa là tay đại học sỹ này còn ỷ vào công phu đủ để thi đỗ Trạng Nguyên của bản thân, toàn bới móc nội dung trong những cuốn sách lạ hoắc đi cùng với những chữ hiếm gặp, dường như không làm như thế thì không đủ thể hiện sự bác học của ông ta vậy.
Dương Lăng đưa tay lên bóp trán, giả bộ như đang cúi đầu trầm tư, rồi dựa vào sự yểm hộ của bàn tay y bắt đầu liếc mắt quan sát cái giá bày đồ cổ ở bên cạnh.
Trên chiếc giá được làm bằng gỗ lim này bày một loạt những vật kỳ trân hiếm có, ánh mắt Dương Lăng dừng lại trên một chiếc hồ lô sáng bóng được làm bằng bạch ngọc.
Chiếc hồ lô bạch ngọc này đẹp thật, vừa nhìn là biết giá tiền không thấp, đường cong mỹ lệ kia cứ tựa như... tựa như thân thể Ấu Nương vậy. Chất ngọc long lanh, đường cong mềm mại, hà hà, thường ngày ta cứ bị bờ vai thon gọn cùng với cái eo nhỏ như lưng ong của Ấu Nương lừa, tưởng rằng thân hình nàng chỗ nào cũng đều nhỏ nhắn lung linh như vậy. Khi nàng nằm sấp trên giường, mái tóc dài đen nhánh che đi một nửa khuôn mặt mỹ lệ đỏ bừng như lửa, cặp vai thon be bé và bờ eo nhỏ xinh xinh kia lại càng tôn lên cặp mông tròn xoe đẫy đà phía dưới cùng với đôi đào tiên vô cùng dụ người ở phía bên trên.
Theo những động tác điên cuồng của mình, cặp đùi trắng nõn vừa mềm mại vừa đầy chất đàn hồi kia cứ đưa qua đưa lại, thật khiến người ta phải hoa mắt đắm say.
Vào lúc mà Ấu Nương dường như không nhịn nổi nữa, nhưng lại vẫn nhẫn nhịn ngoan cường, tiếng rên rỉ kia mới thật hấp dẫn làm sao, đưa tay sờ vào chỗ nào cũng thấy mềm mại mịn màng như ngọc, sảng khoái vô cùng, thật khiến người ta phải tiêu hồn lạc phách. Sau khi điên đảo một trận xong, ôm thân thể mịn màng trần trụi của nàng trong lòng, để nàng ngồi lên gối, hai người cũng không nói năng gì, cứ để mặt kề sát mặt, lặng lẽ ngồi yên, nghe tiếng nàng thở, cảm nhận tim nàng đập, ôi chao, cảm giác đó mới thân thiết làm sao...
Thật là yêu nàng chết mất! Ngày mai nhất định phải tranh thủ thời gian đi mua cho nàng bộ bàn trang điểm, gương soi, màn lưới, chăn lụa,... Mình phải dốc hết sức để nàng có thể sống thật vui vẻ; một nương tử tốt như thế, không thể bạc đãi nàng được! Một cô gái mới có mười sáu tuổi đầu, ở thời hiện đại thì vẫn còn được ba mẹ nuôi nấng và chăm sóc, vậy mà ngày ngày nàng đều phải giặt giũ quần áo nấu nướng cơm nước cho mình, lại lo hết việc nhà, sáng sớm canh tư đã phải dậy làm cơm. Ôi, trong mắt nàng, nàng là cây tầm gửi sống dựa vào mình, nhưng trong lòng mình, nàng mới là cái cây cao để mình dựa dẫm.
Đang lúc Dương Lăng suy nghĩ vu vơ, chợt vạt áo y bị Chu Hậu Chiếu giật giật. Y sững người, bèn ngẩng đầu nhìn lên, trên chiếc bàn trước mặt đột nhiên nghe bộp
một tiếng, thì ra Tạ Thiên vừa dùng chiếc thước trong tay gõ mạnh một cái xuống bàn, sau đó chắp tay sau lưng đi ra chỗ khác, lạnh lùng hỏi:
- Dương thị độc thấy bài giảng của ta thế nào?
- Dạ? À, tuyệt lắm, tuyệt lắm! Thật là nghe xong như tỉnh cơn mê, đề hồ quán đỉnh (1)!
Dương Lăng giật nảy mình, lập tức rời khỏi cơn tưởng tượng.
Gã huynh đệ chung hoạn nạn Chu Hậu Chiếu của y ở bên cạnh che miệng cười thầm trước tai họa mà y gặp phải, đồng thời hai tay linh hoạt kết thành một cái đại thủ ấn ở dưới bàn. Thật không nhìn ra Chu Hậu Chiếu học cái này nhanh như thế, chỉ thấy mấy cái kim cương ấn, sư tử ấn, trí quyền ấn, nhật luân ấn, bảo bình ấn (3) được mười ngón tay của hắn bắt liên tục, động tác vừa nhanh vừa khéo, khiến người ta nhìn mà hoa hết cả mắt, đồng thời trong miệng hắn còn khẽ lẩm bẩm: "Ta quán, ta quán, ta quán quán quán, bảo bình quán đỉnh, nhị lợi năng thành kim cương vương quảng đại phật ngữ quán đỉnh, mật tam thậm thâm quán đỉnh, vô nhị vô biệt đại lạc quán đỉnh..." (3)
Đang khi Chu Hậu Chiếu quán đỉnh đến say mê, Tạ Thiên chợt hỏi:
- Thái tử mặt mày rạng rỡ, nhất định là đã lĩnh ngộ được nhiều điều, xin Thái tử hãy giải thích một chút được chăng?
- A! Dạ? Cái gì?
Chu Hậu Chiếu chậm rãi ngẩng đầu lên, khuôn mặt lập tức trở nên giống như một thằng đần, ngây người nhìn Tạ Thiên. Dương Lăng nhìn hắn với vẻ đồng cảm, trong lòng cũng sinh ra nhiều cảm xúc.
Đứa nhỏ này thực sự là học nhiều quá đến nỗi sắp trở thành thằng ngốc rồi.Thực ra, hắn cũng thật đáng thương. Học sinh thời hiện đại khi đi học còn có giờ thể dục, âm nhạc, mỹ thuật gì đó để tiêu khiển một chút, nhưng tiểu tử này thì cả ngày toàn phải nghe giảng bài về chính trị với văn học.
Dương Lăng khẽ ho một tiếng, đưa ngón tay lên day day trán. Chu Hậu Chiếu thấy thế liền lập tức hiểu ý, nhăn mặt nói với Tạ Thiên:
- Tạ đại học sỹ! Đầu ta hơi đau, ối chao, cứ hơi suy nghĩ một chút là lại đau. Dương Lăng lén giơ ngón tay cái lên bên dưới gầm bàn. Khóe miệng Chu Hậu
Chiếu hơi mấp máy đoạn hắn cũng đáp lại y bởi động tác Giống hệt. Cốc Đại Dụng đứng hầu một bên đã lâu, lúc này nghe thấy vậy bèn lao nhanh ra, bộ dạng như một tên hán gian đang cầm theo khẩu súng mauser. Gã kiễng chân nhìn trái ngó phải, đoạn thất thanh kêu to như có cướp tới nhà:
- Thái tử gia đau đầu sao? Người đâu, người đâu rồi, mau đi gọi thái y, chậm là ta lấy đầu ngươi đó!
Tên tiểu thái giám đang đứng ở cửa bèn lao đi như một làn khói. Tạ Thiên vừa thổi râu vừa trừng mắt một hồi lâu rồi cũng chỉ đành lắc đầu thở dài, thầm nghĩ: "Hôm qua Lý Đông Dương nói Thái tử một tiết học chạy đi nhà xí tới tám lần. Hôm nay mình lên lớp thấy y không đi nhà xí thì đã mừng thầm rồi, chẳng ngờ hôm nay đít y không sao thì cái đầu lại sinh bệnh. Chà, Thái tử lười học như thế, biết làm sao đây?"
Tạ Thiên lòng đầy phiền muộn rời khỏi cung Thái tử, trên đường còn gặp ba vị Thái y đang xắn quần chạy vội, đằng sau là một đám tiểu dược đồng lưng khoác hòm thuốc chạy theo.
Tạ đại học sỹ đứng trong cung suy nghĩ hồi lâu: "Thái tử là Hoàng đế tương lai, y ham chơi không chú ý học tập như vậy thực không phải là chuyện nhỏ! Mình được bệ hạ tin cậy giao cho dạy dỗ Thái tử, nhất định phải cúc cung tận tụy, gan óc lầy đất cũng không nề hà. Hiện giờ Thái tử ham chơi như thế, cho dù có đắc tội với Thái tử cũng nhất định phải bẩm với Hoàng thượng mới được."
Tạ Thiên suy nghĩ xong xuôi bèn xoay người đi thẳng đến cung Càn Thanh.
***
Tại Ngự Thư phòng trong cung Càn Thanh, lúc này Hoằng Trị đang nổi cơn lôi đình, lão ném mạnh phong thư cấp báo quân tình xuống bàn, tức giận nói:
- Bọn Bắc Nguyên Thát Đát này thực quá ngông cuồng. Tiểu vương tử vừa mới cướp bóc quay về xong, Hỏa Sư lại mang ba ngàn quân đi vòng qua biên quân ở Hoài Lai, tập kích Diên Khánh từ con đường nhỏ trong núi. Nếu không nhờ có Trác Du Kích nhanh chóng tiếp viện, bọn chúng chẳng phải là sẽ tiến dần từng bước, đánh thẳng đến kinh sư hay sao?
Gã thái giám Miêu Quỳ đứng hầu bên cạnh bèn khẽ cất tiếng:
- Hoàng thượng chớ giận! Hỏa Sư chỉ có vẻn vẹn ba ngàn nhân mã, hắn xâm nhập Đại Minh ta tựa như một con cá trê bơi vào biển lớn, có thể gây ra sóng gió gì chứ? Đại Minh ta binh cường mã tráng, chỉ có điều quốc thổ của chúng ta quá rộng lớn, cần chia binh ra trấn thủ, chỗ nào cũng phải đề phòng. Một bên phòng thủ, một bên tấn công, quyền chủ động nằm trong tay địch thủ, chúng ta khó mà giữ được vẹn toàn, đám người hoang dã kia chẳng hề kiêng kị gì, do đó mới có thể thừa lúc chúng ta sơ suất mà xâm nhập. Lão nô chỉ cần năm ngàn binh mã, nhất định sẽ có thể đuổi Hỏa Sư ra khỏi biên cương, đánh cho hắn tơi bời tan tác, từ nay không dám tùy tiện khai chiến nữa.
Lưu Kiện vừa mới phụng chiếu vào cung nghe thế bèn vội tâu:
- Bệ hạ! Hiện giờ Trác Chí Kỳ và Lưu Anh đã dẫn quân đánh đuổi Hỏa Sư rồi.
Người Mông Cổ thạo việc cưỡi ngựa cướp bóc, tới lui như gió, nếu tùy tiện xuất binh e rằng sẽ lao sư động chúng, hao tổn tiền tài, đồng thời cũng khó mà tìm được tung tích địch, xin bệ hạ suy nghĩ kỹ!
Hoằng Trị nghe thế thì không khỏi do dự. Miêu Quỳ nghe nói Hỏa Sư chỉ có ba ngàn người, nóng lòng muốn lập công, vừa nghe Lưu Kiện khuyên can bèn vội tâu:
- Bệ hạ! Hỏa Sư chỉ dẫn theo có ba ngàn quân mà dám xâm phạm Đại Minh, cướp bóc phá hoại như ở chỗ không người, nếu không trừng phạt thật nghiêm, chỉ e người Mông Cổ sẽ càng ngày càng ngông cuồng kiêu ngạo.
Lý Đông Dương vội vàng can gián:
- Bệ hạ, dẫn quân viễn chinh nào phải chuyện tầm thường, binh mã lương thảo đều phải chuẩn bị, khi chuẩn bị đủ xong thì Hỏa Sư đã ở xa ngoài ngàn dặm rồi.
Huống chi thần nghe nói tên Hỏa Sư này mặt đỏ như lửa, vóc người to lớn, kiêu dũng thiện chiến, sức mạnh tuyệt luân, cho dù có đuổi kịp thì cũng chưa chắc đã làm gì được hắn. Hơn nữa Hỏa Sư chính là con rể của Khả hãn Bắc Nguyên Mãn Đô Cổ Lặc, hắn chỉ dẫn theo một cánh quân đơn lẻ ba ngàn người xâm nhập nước ta, lại trang bị gọn nhẹ như thế, một khi ra khỏi cửa quan nhất định sẽ có đại quân tiếp ứng. Nếu chúng ta chủ động xuất binh, e là cần có binh lực đông gấp năm lần địch, nếu không sẽ khó mà làm nên chuyện gì.
- Chuyện này...
Vốn trong lòng Hoằng Trị rất ngưỡng mộ Thái tổ và Thành tổ với thành tích văn trị võ công, nghe nói người Mông Cổ ngông nghênh như vậy, rất muốn xuất binh đánh một trận. Nhưng ông ta trước giờ rất coi trọng ý kiến của triều thần, huống chi giờ lại là hai trọng thần Lưu Kiện và Lý Đông Dương cùng tỏ ý phản đối, Hoằng Trị không khỏi cảm thấy do dự, khát vọng muốn xuất binh cũng nguội đi nhiều.
Chính vào lúc này, một viên hoạn quan bước vào bẩm báo:
- Hoàng thượng! Tạ đại học sỹ cầu kiến. Hoằng Trị vô cùng mừng rỡ, vội bảo:
- Mau, mau triệu ông ta vào!
Tạ Thiên bước nhanh vào trong Ngự Thư phòng, vừa định báo chuyện Thái tử ham chơi chợt phát hiện Lưu Kiện và Lý Đông Dương đều ở đây, ông bất giác ngẩn người, lời đã lên đến miệng cũng đành nuốt xuống.
Ông và Lưu Kiện, Lý Đông Dương cùng làm quan trong triều, tuy giao tình không tệ nhưng cũng không muốn ở trước mặt bọn họ mà kể chuyện kia ra, như thế
chẳng phải chứng tỏ bản thân bất tài, không dạy được học trò hay sao?
Chú thích:
1. Đề hồ là chỉ phật pháp tối cao, quán đỉnh là nghi thức rưới nước xuống đầu trong Phật giáo. Câu này là để chỉ việc nghe được những lời cao minh và hiểu ra rất nhiều điều.
2. Mỗi một loại thủ ấn là một tư thế riêng của hai bàn tay. Theo phật giáo, việc kết ấn có thể đem đến những sức mạnh đặc thù cho ý niệm và thể xác.
3. Quán đỉnh có hai loại là ngoại thập lợi quán đỉnh và nội ngũ lực quán đỉnh. Ngoại thập lợi quán đỉnh cần có những pháp khí sau: Ngũ tinh hoa, quán miện, bảo bình, miện lưu, châu man, binh khí, tràng, tản cái, thủ ấn, ẩm thực. Nội ngũ lực quán đỉnh cần có các điều kiện sau: Thính văn quán đỉnh, tu tập quán đỉnh, thuyết pháp quán đỉnh, sự nghiệp quán đỉnh, nhị lợi năng thành kim cương vương quảng đại phật ngữ quán đỉnh. Chu Hậu Chiếu nói những lời trên nhằm trêu chọc Dương Lăng.
- Ái khanh đến thật đúng lúc, trẫm đang định sai người đến Đông cung tìm khanh đây.
Trông thấy hai vị đại học sỹ Lưu Kiện và Lý Đông Dương đều có mặt, Tạ Thiên ngạc nhiên hỏi:
- Bệ hạ, đã xảy ra chuyện lớn gì sao?
Đứng ở một bên, Lưu Kiện thuật lại cho Tạ Thiên biết tin tiểu vương tử Bá Nhan Khả Hãn của Bắc Nguyên vừa rút quân thì Hỏa Sư lại đi đường vòng đánh sâu vào trong biên giới để cướp bóc, sau đó lại nhắc lại những ý kiến bất đồng vừa rồi một lượt. Tạ Thiên nghe xong liền lắc đầu quầy quậy, sau đó tâu với hoàng đế Hoằng Trị:
- Bệ hạ, việc binh đao là thứ hung khí của thiên hạ, cái dũng cũng là thứ hung đức trong thiên hạ, ấy đều không phải thứ mà người quân tử nên dùng!
Dân Mông Cổ dã man, coi giết chóc như cầy cấy. Nếu thượng quốc thiên triều ta cũng bắt chước bọn chúng, lấy đạo người đối đãi người, khó tránh khỏi sẽ gây ra chiến tranh dồn dập, trăm họ lầm than, ruộng đồng bỏ hoang, cỏ gai mọc rậm, như thế há chẳng phải đã trái với đạo nhân nghĩa sao?
Đại Minh ta là nước văn minh lễ nghĩa, vừa không cần cướp đoạt của cải của người khác, lại chẳng mong nô dịch bọn người hoang dã man di, cớ gì phải xuất binh viễn chinh chứ? Giờ đây thiên hạ thái bình, chính trị trong sạch, mưa thuận gió hòa, quốc thái dân an, duy chỉ phải lo việc thiên tai nhân họa. Theo thần thấy, chúng ta chỉ cần phái tướng thủ cửu biên (*), canh phòng nghiêm ngặt, ngăn bọn man di ngoài biên cương là được rồi.
Hỏa Sư đã có thể theo đường mòn tập kích Diên Khánh, rõ ràng là phòng tuyến biên thuỳ của ta đã có sơ hở. Thần cho rằng nên đắp thêm Trường Thành đoạn Bát Đạt Lĩnh ở Diên Khánh, xây dựng biên thành, đóng binh trấn giữ, đại sự tất sẽ ổn định.
(*): Cửu biên bao gồm Liêu Đông, Tuyên Phủ, Đại Đồng, Duyên Tuy, Ninh Hạ, Cam Túc, Kế Châu, Thái Nguyên, Cố Nguyên.
Nghe lý luận của lão, Hoằng Trị hơi cảm thấy không vui. Việc binh là thứ hung khí của thiên hạ ư? Không có thứ hung khí này, Đại Minh từ đâu mà có? Cái dũng là thứ hung đức trong thiên hạ ư? Thế nhưng mỗi một vị hoàng đế khai quốc, kể cả Thái Tổ, Thành Tổ, có ai mà không dùng binh đao để bình thiên hạ chứ? Chẳng lẽ phải đợi hoàng đế triều trước thoái vị hay sao?
Nhưng những lời Tạ Thiên nói đều là câu chữ của các bậc Tiên hiền, tuy Hoằng Trị là đế vương nhưng cũng không thể phản bác thẳng thừng. Trong mắt của những kẻ có học trong thiên hạ, văn chương đạo đức của các bậc Tiên hiền chính là khuôn vàng thước ngọc, mãi mãi bất khả xâm phạm. Hết cách, Hoằng Trị đành buồn bực nói bằng giọng không vui:
- Thôi, trẫm đã truyền Thượng thư bộ Binh Lưu Đại Hạ vào cung rồi, cứ chờ nghe ý kiến của ông ta rồi hãy quyết định chuyện này vậy.
Một lát sau, bên ngoài ngự thư phòng vang tới một giọng nói sang sảng tựa chuông đồng:
- Thần, Thượng thư bộ Binh Lưu Đại Hạ, phụng chiếu tấn kiến!
Hoằng Trị nghe vậy bèn tức tốc triệu vào. Lưu Đại Hạ là một ông già đã bảy mươi, râu tóc bạc phơ nhưng tinh thần vẫn quắc thước, vóc người cao lớn, lời nói và cử chỉ đều toát ra vẻ dũng mãnh, rất có uy phong của một người cầm quân. Triều đại của Hoằng Trị có hai vị thượng tướng quân già như Hoàng Trung(*): một là Lưu Đại Hạ, vị kia là Vương Việt (1), đều là "gừng càng già càng cay".
(*): Lão tướng nhà Thục trong Tam Quốc Chí
Phẩm hàm và công trạng của Vương Việt thậm chí còn trên Lưu Đại Hạ. Năm xưa ông ta từng là Thượng thư bộ Binh, sau cai quản toàn bộ tam biên (*), năm bảy mươi tuổi còn đích thân cầm quân viễn chinh, ruổi ngựa đến dưới núi Hạ Lan, tập kích phá tan doanh trại dài mười dặm của tiểu vương tử, thu được được vô số lạc đà, ngựa, bò, dê và vũ khí. Ông ta lắm mưu nhiều kế, đánh cho tiểu vương tử vừa nghe thấy tiếng là bỏ chạy, được luận công tấn thăng hàm Thiếu bảo. Cai quản tam biên, nắm quyền đại tướng, cả triều đại nhà Minh cũng chỉ có một mình ông ta mà thôi.
(*): Chỉ ba vùng Diên Tuy, Cam Túc, Ninh Hạ.
Đáng tiếc khi ấy chính là giai đoạn mà đại gian thần thái giám Lý Quảng – kẻ cổ xuý cho phong trào trường sinh bất lão, thành tiên, thành đạo - nắm quyền.
Vương Việt biết rõ mình làm tướng ở biên cương, phải viễn chinh Thát Đát xa mấy nghìn dặm, sợ nhất chính là có người trong triều cản trở ở sau lưng, bởi một khi lương thảo ngắt quãng, hậu cần gián đoạn, thì sẽ bị rơi vào tình trạng cô lập.
Để được sự ủng hộ của Lý Quảng, không đến nỗi phải chịu đủ khó khăn trên đường viễn chinh, Vương Việt sai người kết giao mua lòng hắn ta, thậm chí còn chia cho hắn một phần chiến công. Được lợi ích, lại có cả chiến công, lúc ấy Lý Quảng mới tận tâm tận lực kiến nghị với hoàng đế khiến cho triều đình dốc sức ủng hộ Vương Việt.
Nhưng sau khi Lý Quảng bị bệnh mất, trong nhà lục được vô số vàng bạc châu báu, bị định tội đại gian đại ác, không chỉ bè đảng bọn Lý Quảng bị sụp đổ, mà Vương Việt vì có quan hệ mật thiết với hắn nên cũng bị đám ngự sử ngôn quan dâng tấu hạch tội đủ điều, trách mắng là bè đảng gian thần.
Trong mắt của những kẻ thư sinh đó, một khi gian thần lộng quyền, cho dù chỉ lo giữ thân mình thì cũng không được làm trái với lời dạy của các bậc Tiên hiền thuở xưa, dù cho có là "vờ thuận a dua để đạt mục đích" cũng tuyệt đối không được. Huống chi bất luận bây giờ ông nói lời vàng ngọc như thế nào, ai biết được lúc trước ông nghĩ gì chứ? Chẳng phải lúc nào ông cũng xoen xoét "ta không vào địa ngục thì còn ai vào địa ngục" ư? Vậy ông hãy xuống địa ngục đi!
Vương Việt dẫn quân rong ruổi nghìn dặm, phá địch như chẻ tre, ở tuổi thất thập cổ lai hi mà còn đánh cho thiết kỵ Mông Cổ không còn manh giáp, rốt cuộc không những không được vùi thây nơi sa trường mà còn bị bọn ngôn quan của Đốc Sát Viện hết kẻ này đến kẻ khác dâng tấu mắng chửi, uất ức mà chết.
Lưu Đại Hạ là trọng thần trong triều, lần lượt phò tá ba vị hoàng đế Anh Tông, Hiến Tông, Hiếu Tông, là nguyên lão tam triều đức cao vọng trọng. Lão là người làm việc quả quyết, giỏi việc binh đao, lại vô tư chính trực, cho nên dù bọn Lưu Kiện vẫn luôn xem thường võ tướng, nhưng lại khá kính trọng vị Lưu thượng thư này.
Lưu Đại Hạ xem xong tấu báo quân tình liền trầm ngâm một hồi lâu, rồi sau đó khẽ lắc đầu nói:
- Bệ hạ, thần cũng cho rằng... nên canh phòng nghiêm ngặt chứ không nên đưa quân ra biên ải!
Lưu Kiện, Tạ Thiên, Lý Đông Dương nghe vậy đều thở phào nhẹ nhõm.
Miêu Quỳ lại đưa mắt nhìn trời, vô cùng tức giận. Lão biết, tuy Lưu Đại Hạ nói vậy phần lớn là do việc công, nhưng trong đó chưa hẳn đã không có chút tư tâm nào. Lưu Đại Hạ cùng nội quan (thái giám) trong triều tranh đấu đã nhiều năm, coi hoạn quan như rắn rết, chỉ cần là kiến nghị mà do nội quan đưa ra, bất luận đúng sai trong lòng lão cũng đều phát sinh vài phần cảnh giác.
Thuở Trịnh công công bảy lần đến đại dương phía Tây, thế lực hoạn quan đang hùng mạnh. Lưu Đại Hạ cho rằng viễn dương đến nước khác là sai lầm về mặt chính trị, là điều động binh lực một cách vô bổ, lại sợ thế lực hoạn quan mượn chuyện này để phát triển quyền lực, trở thành đại họa cho triều đình, do đó khi Anh Tông muốn tiếp tục viễn hành, lão liền bất chấp lý lẽ mà can ngăn. Nghe nói bản đồ hàng hải của Trịnh công công đã bị hủy trong tay lão.
Năm Thành Hóa thứ mười bảy, An Nam (Việt Nam) xâm lấn Lào, thất bại. Khi ấy Uông công công Uông Trực muốn thừa cơ chiếm lại An Nam đã không còn ngoan ngoãn vâng lời Đại Minh, bèn nhờ bộ Binh tìm lại bản đồ của An Nam trước
kia.
Lưu Đại Hạ cho rằng một khi chiến sự nổ ra, thua thì tử thương thảm trọng, thắng thì thế lực hoạn quan mạnh lên, vì vậy lại đem bản đồ An Nam giấu mất, không chịu giao. Chính sách bế quan tỏa cảng, tự bảo vệ mình rất được bọn sỹ phu tán đồng, cho nên ngay cả kẻ quyền khuynh triều chính như Uông Trực cũng không có cách nào gây khó dễ cho lão.
Giờ đây lão nói như vậy, chẳng lẽ là sợ hoạn quan sẽ lại đắc thế một lần nữa? Miêu Quỳ vừa nghĩ vừa lạnh lùng liếc nhìn lão, ánh mắt đầy vẻ oán hận. Nhưng Lưu Đại Hạ là thần tử được Hoằng Trị sủng ái nhất hiện nay, lão ta cai quản vùng Hoàng Hà, quét sạch phản tặc, đốc quản quân lương, làm quan thanh liêm, có thể nói là trên dưới triều đình ai nấy đều ca ngợi. Tuy rằng Miêu Quỳ cũng được sủng ái, nhưng cũng không dám khinh suất dây vào.
Hoằng Trị nghe vị dũng tướng này cũng nói như vậy, trong lòng cảm thấy thất vọng vô cùng. Ông nói với giọng không phục:
- Thái Tổ, Thành Tổ từng mấy lần xuất quân ra ngoài biên ải, đánh cho người Mông thất bại thảm hại, khiến người Mông về sau thấy cờ xí của Đại Minh ta liền phóng ngựa tránh xa, quân ta muốn đánh một trận mà cũng không được. Khi xưa đã oai phong như thế, cớ gì bây giờ lại không thể?
Lưu Đại Hạ chắp tay thưa:
- Bệ hạ thần vũ chẳng kém gì Thái Tổ, Thành Tổ, nhưng ngày nay binh mã kém xa khi trước, vả lại thuở ấy triều đình thường xuyên điều cả chục vạn đại quân ra sa mạc. Hiện nay quân binh Đại Minh ta chỉ giỏi thủ không giỏi công, việc chiến tranh không thể tùy tiện phát động. Trong tình thế hiện giờ, thủ là thượng sách, chiến là hạ sách.
Ba vị đại học sỹ vuốt râu mỉm cười, tỏ ý tán thành. Hoằng Trị thở dài bảo:
- Ái khanh hiểu rõ việc quân, khanh đã nói như vậy, tất là hữu lý. Nếu không có lời hay của mấy vị ái khanh, trẫm nhất thời giận dữ kích động, suýt nữa đã làm
hỏng đại sự rồi.
Lưu Kiện cúi đầu tán dương:
- Bệ hạ lắng nghe lẽ phải, quả thật là minh quân trên đời. Hoằng Trị cười gượng khoát tay, kế đó lại hỏi Lưu Đại Hạ:
- Theo ái khanh, trẫm nên xử trí chuyện này như thế nào đây? Lưu Đại Hạ thoáng ngẫm nghĩ một chút rồi đáp:
- Lời của ba vị đại học sỹ rất có lý. Thần cũng nghĩ rằng nên hạ lệnh cho tướng lĩnh biên cương nghe ngóng địch tình, phòng thủ nghiêm ngặt, đề phòng quân địch xâm phạm. Ngoài ra nên xây đắp thêm một đoạn trường thành ở Bát Đạt Lĩnh, lập cửa ải để chống địch, đồng thời cho trọng binh đồn trú ở lân cận, xây dựng trạm canh và phong hỏa đài tại những con đường núi và đường giao thông quan trọng từ Quan Thành lên phía bắc. Nếu thi hành song song những kế sách này, kinh sư nhất định sẽ vững như bàn thạch.
Hoằng Trị ung dung ngồi trên long ỷ, gật gù nói:
- Cứ theo lời khanh vậy, Lưu đại học sỹ hãy soạn chỉ đi!
- Vâng, thần xin cáo lui!
Hoằng Trị khoát tay, nhìn mấy vị trọng thần bên người lần lượt cất bước lui ra, trong lòng thất vọng: "Tiểu vương tử tập kích biên giới trong đêm giao thừa, ba cánh đại quân ta đã dễ dàng giành lại đất đai bị mất trong nháy mắt. Chẳng lẽ vừa rời khỏi biên ải, mãnh hổ này thật sự sẽ biến thành con mèo hay sao? Ôi, có lẽ bọn họ đã đúng, chính trị và quân sự nửa do sức người, nửa do sức trời, gây dựng cơ nghiệp đã gian nan, bảo vệ cũng không phải dễ..."
***
Thái y quả nhiên không dám phán bừa là Thái tử không bị bệnh, càng không
dám tuỳ tiện bốc thuốc, chỉ dám kê đại mấy toa thuốc an thần, căn dặn Thái tử nghỉ ngơi nhiều một chút rồi lui ra. Dương Lăng mỉm cười nói với Thái tử:
- Điện hạ, sáng ngày mai chúng ta cứ y kế mà làm, vi thần tạm xin cáo lui đây.
- Được, sáng ngày mai ngươi hãy ở ngoài cửa hậu cung chờ ta!
Chu Hậu Chiếu khoát tay, trong lòng thì đang nghĩ về chuyện khác. Tối hôm qua hắn được xem bọn La Tường, Cao Phượng biểu diễn kịch đèn chiếu (2) đến nửa đêm, giờ lại thấy thèm được xem tiếp. Tạ đại học sỹ đã đi, gã đang muốn gọi bọn họ đến diễn tiếp.
Nhìn vẻ mặt hắn, Dương Lăng tỉnh bơ vái sâu một vái, xong quay sang gật đầu chào Cốc Đại Dụng ở cạnh, rồi chậm rãi lui ra. Qua hai ngày tiếp xúc, y cũng thấy được cái đám Bát hổ(*) hiện hoàn toàn chưa có dã tâm chính trị gì. Nhưng vì bọn chúng lựa ý hùa theo Thái tử, giúp cho hắn vui, cho nên các hành động và việc làm hiện tại lại khiến cho chúng khó tránh khỏi sẽ bước đi trên con đường ấy.
(*): "Bát hổ" gồm: Lưu Cẩn, Mã Vĩnh Thành, Cao Phượng, La Tường, Nguỵ Bân, Khâu Tụ, Cốc Đại Dụng, Trương Vĩnh.
Hiện giờ y mới vừa kết bạn với Thái tử, còn Bát hổ lại chăm sóc Chu Hậu Chiếu từ nhỏ cho đến lớn, luận cảm tình tuyệt đối y không thể bằng bọn chúng được. Nếu để Bát hổ nảy lòng nghi kỵ y, tuỳ tiện nói xấu mấy câu trước mặt Thái tử, đến lúc ấy cái chức thị độc này của y cũng khỏi cần làm tiếp nữa. Hơn nữa Thái tử đang ở trong thời kỳ tâm lý nổi loạn của tuổi teen, nếu y học theo các vị trung thần hết mực khuyên ngăn, e rằng chỉ tạo ra hiệu ứng ngược.
Cho nên Dương Lăng không dám để lộ chút vẻ phản cảm nào trên mặt. Y chỉ hy vọng rằng với nỗ lực của bản thân sẽ có thể khiến cho vị hoàng đế mà theo quỹ đạo lịch sử ban đầu sẽ là một gã hôn quân này sẽ khác đi đôi chút so với lịch sử. Có điều... tuy nói tuổi thiếu niên là lúc dễ uốn nắn nhất, nhưng mà... vỏn vẹn chỉ có hai năm, ài, thời gian không chờ mình, đành cố hết sức thôi.
***
Đường Hộ Quốc Tự, một kẻ áo vải đầu bù tóc rối cưỡi một thớt ngựa gầy. Hà tham tướng dò hỏi mãi mới tìm đến được cửa nhà Dương Lăng.
Từ khi bị áp giải vào kinh nhốt vào đại lao bộ Hình đến nay đã được hơn nửa tháng, mãi đến hôm nay gã mới được phóng thích ra khỏi ngục, giáng làm Phó thiên tổng, phải đi đến vùng Quảng Tây xa xôi để nhậm chức.
Hơn nửa tháng nay, rốt cuộc gã đã được biết thế nào gọi là thế sự vô thường, thế nào gọi là thói đời nóng lạnh. Đám bè bạn năm xưa cũng có vài kẻ đang làm quan trong kinh, nhưng không một kẻ nào dám ra mặt nói giúp gã một câu công đạo.
Người nhà gã hay tin xấu, bèn bảo tam đệ gã mang rất nhiều vàng bạc vào kinh vận động, lo lót. Nhưng đây là vụ án do Thiên tử yêu cầu xét xử, lại cuốn bộ Binh, bộ Công, bộ Hộ, Ngũ Quân đô đốc phủ vào vòng tranh cãi, lúc này người ta tránh còn không kịp, ai dám đưa chân bước vào trung tâm cơn bão chứ? Vì vậy chỉ muốn tìm người nói giúp vài câu thôi mà cũng không được.
Lúc đó gã lại nghe tin mẹ già tuổi gần bảy mươi vì hay tin gã phạm tội bị giam vào đại lao, có thể sẽ nguy tới tính mạng mà lòng lo lắng khiến bệnh ngày một nặng thêm, hiện giờ bệnh tình nghiêm trọng, thậm chí trong nhà đã chuẩn bị sẵn quan tài, áo liệm đầy đủ cả. Thế là lòng gã càng như có lửa đốt, bi phẫn khôn cùng.
Chánh giám quân Diệp ngự sử là một gã quan văn, lại đã chết trên chiến trường.
Không ai muốn bất chấp liêm sỉ, có thể khiến cho thân bại danh liệt mà đi tố cáo một thư sinh đã "chết trận" chốn sa trường, huống chi còn có gần trăm ngòi bút của Đốc Sát viện ra sức ủng hộ gã ta.
Còn vị Lưu công công đó lại là hoạn quan trong đại nội, là tâm phúc bên cạnh Thái tử, tuy rằng hiện giờ không quyền không thế, nhưng rất được Thái tử coi trọng. Hơn nữa lão là giám quân do đích thân thánh thượng cắt cử, chỉ trích lão sẽ khó tránh có ý ngầm nói thánh thượng dùng người không sáng suốt, cho nên càng không có kẻ nào dám vạch lỗi của lão ta.
Thế là người phải gánh chịu hết thảy mọi tội danh và trách nhiệm này không còn ai khác ngoài gã.
Thoạt đầu Hà tham tướng nghĩ rằng cùng lắm mình sẽ chỉ bị phán tội tham công rơi vào bẫy địch, nặng nhất cũng chỉ là tước quan giáng chức mà thôi. Sau đó khi thấy quan cai ngục vốn lúc đầu còn có chút ý tốt với mình ngày càng trở nên lạnh nhạt, về sau thậm chí còn không cho phép gia quyến vào thăm, đến lúc đó gã mới cảm thấy không ổn. Đến khi tam đệ dùng tiền hối lộ cai ngục, lén vào thăm gã, gã mới hay non nửa quan viên kinh sư đều đang bị cuốn vào trong vụ luận tội này.
Hà tham tướng lập tức ngã lòng nản chí. Gã ở trong quan trường lâu năm, sao lại không biết quy củ của quan trường chứ? Chuyện đã ầm ĩ lên đến mức này, kết quả của vụ luận tội tất nhiên sẽ đi vào ngõ cụt. Muốn tháo gỡ những mối rắc rối ấy, mười phần thì có tám, chín là sẽ bắt gã chết thay, phủi tay cho xong hết mọi chuyện.
Hà tham tướng ngậm ngùi căn dặn tam đệ không cần lãng phí tiền bạc ở trong kinh thành vận động nữa, hãy tức tốc trở về quê chăm sóc mẹ già. Sau đó gã lại đau khổ nhờ em trai chuẩn bị thêm một cỗ áo quan, rồi buồn bã nói:
- Mẹ già đau ốm liệt giường, ta thân là con trưởng lại không thể ở bên cạnh báo hiếu, chỉ đành xuống suối vàng tiếp tục phụng dưỡng mẹ mà thôi.
Tam đệ của gã trào lệ mà đi, từ lúc đó Hà tham tướng chỉ ôm lòng chờ chết.
Mấy ngày nay, tóc đen trên đầu gã đều đã biến thành hoa râm. Hôm nay khi Cẩm Y Vệ cầm thánh dụ đến đại lao bộ Hình, Hà tham tướng vẫn ngỡ rằng giờ chết đã tới, không ngờ nghe được lại là tin mình được thả ra khỏi ngục.
Hà tham tướng vừa ngạc nhiên vừa mừng rỡ. Gã dò hỏi thị vệ Cẩm Y Vệ mới hay dịch thừa Kê Minh là Dương Lăng đã vào kinh làm thái tử thị độc. Không ngờ cái tên dịch thừa nhỏ nhoi mà vốn chưa từng được gã để vào mắt khi đó lại trượng nghĩa trực ngôn, liều chết khuyên can, bù công đắp tội cho gã ở trước mặt bệ hạ, nên giờ gã mới được sống sót rời khỏi đại lao.
Tuy bộ Binh giáng gã xuống làm Phó thiên tổng, đày tới tận Quảng Tây xa xôi, nhưng so với tâm lý trông chờ cái chết, đây đã là kết cục không thể tốt hơn rồi.
Đường dài mới biết ngựa hay, ở lâu mới thấu được thay lòng người. Hiện giờ trong lòng Hà tham tướng, Dương Lăng không khác gì cha mẹ tái sinh ra gã. Tuy loại võ tướng truyền thống như gã có rất nhiều tật xấu và khuyết điểm, nhưng tấm lòng trung nghĩa chính trực cùng với tâm lý có ơn tất mong được báo cũng là tiêu chuẩn đạo đức đã được gieo sâu vào lòng từ bé.
Hà tham tướng cũng không cần phải đi Quảng Tây nhậm chức ngay, nhưng trong nhà mẹ già bệnh nặng khó qua, nếu trước khi mẹ chết không thể gặp mặt một lần thì gã thật sẽ hối hận vô cùng, cho nên nóng lòng muốn về quê. Vừa nhận văn thư bổ nhiệm của bộ Binh xong, gã lập tức chạy đến Dương phủ, định bụng bái tạ ân nhân cứu mạng xong là sẽ lập tức lên đường.
Vừa đến trước cửa nhà Dương Lăng, thấy trên cửa treo chiếc khoá đồng, Hà tham tướng không khỏi ngẩn người. Theo lời người của Cẩm Y Vệ kể thì khi Dương thị độc vào kinh, phu nhân của y cũng đi theo cùng, sao trong nhà lại không có ai như thế này chứ?
Một lão già bày sạp bán đế lót giầy, khăn thêu lẫn hạt dưa, táo tầu trong ngõ trông thấy gã bèn cất cao giọng hỏi:
- Này, ngươi là ai thế? Là khách nhà Dương thị độc Dương đại nhân à? Hà tham tướng dắt ngựa bước qua, ôm quyền hỏi:
- Vâng, lão ca quen người nhà họ Dương sao? Thế có biết người Dương phủ đi đâu rồi không?
Lão già dương dương tự đắc đáp:
- Biết chứ, sao không biết cho được!? Nhà ta ở sát bên nhà họ Dương đấy!
Dương đại nhân là thị độc bên cạnh thái tử, là cận thần bên cạnh thiên tử, mỗi ngày đại nhân đều vào hoàng cung, ta sao lại không biết chứ?
Ta đã cố ý dậy thật sớm mới thấy được hình dáng của Dương đại nhân khi đi chầu đấy! Chậc, chậc, ta thì chưa gặp thiên tử bao giờ, nhưng người bên cạnh thái
tử đã là một nhân vật như vậy, có thể tưởng tượng được tướng mạo của vạn tuế gia sẽ như thế nào rồi đấy. Nếu không sao người ta lại nói hoàng đế là chân long, là Tử Vi Tinh Quân (*) trên trời xuống cõi phàm chứ...
(*): Mỗi ngôi sao được đặt một tên riêng. Theo thần thoại Trung Quốc thì mỗi ngôi sao có một vị Tinh quân trông coi, mỗi vị Tinh quân đó lại có một tên riêng, sao Tử Vi đại diện cho bậc đế vương.
Hà tham tướng nhíu mày nghĩ bụng: "Sao người ở nơi này lại nói lắm thế nhỉ? Vừa mở lời là đã là một tràng bất tận, đợi thêm lát nữa ai mà biết được lão ta sẽ nói đến tận đâu ."
Gã vội ngắt lời lão già:
- Vậy xin hỏi lão ca có biết người nhà Dương đại nhân đi đâu không? Bị ngắt ngang lời, lão già hơi cảm thấy khó chịu. Lão khoát tay nói:
- Dương đại nhân đương nhiên là đang ở trong cung cùng với thái tử gia rồi, thế mà cũng phải hỏi? Còn Dương phu nhân thì đã ra ngoài mua đồ ăn rồi. Dương đại nhân đó là người bên cạnh thái tử gia cơ đấy, hê hê, vậy mà thanh liêm lắm đó, cả kiệu phu cũng không thuê, đến giờ mỗi ngày vẫn đi bộ đến Tử Cấm Thành, trong nhà thì một mình Dương phu nhân giải quyết mọi việc. Dương phu nhân này quả thật là người vợ xinh đẹp hiền thục, dáng người như hoa như ngọc, thật xứng với một nhân vật tuấn tú như Dương đại nhân...
Hà tham tướng vái sâu, cảm tạ:
- Đa tạ lão ca!
Đoạn gã xoay người quay lại đi tới trước cửa nhà Dương Lăng, đứng lặng im hồi lâu, rồi đột nhiên buông cương ngựa, quỳ sụp gối dập đầu xuống đất.
Lão già bán tạp hoá trợn mắt nhìn gã đàn ông đầu bù, tóc hoa râm, dáng người gầy gò đen đúa, râu ria xồm xoàm đang quỳ gối dập đầu trước cửa nhà Dương Lăng. Sau khi cung kính dập đầu ba cái, gã đàn ông nhảy phóc lên ngựa, ra roi
phóng vút đi.
Một lúc lâu sao lão già mới sực tỉnh, nhếch cái miệng đã rụng hết răng lên.
Trăm nghìn câu chuyện bắt đầu được ấp ủ trong trí tưởng tượng phong phú của lão.
*************** Chú thích:
(1) Vương Việt, tự Thế Xương, người Tuấn huyện, tướng lĩnh vào giai đoạn giữa đời Minh. Theo sử sách, ông có vóc người cao lớn, khoẻ mạnh, thiện bắn cung, rất có mưu lược. Năm Cảnh Thái thứ hai đỗ tiến sỹ.
(2) Loại kịch trong đó nhân vật biểu diễn được cắt hình từ da thú hoặc giấy các- tông.
Con mèo nhỏ Ấu Nương đang rúc vào ngực y ngủ ngon lành. Mái tóc đen nhánh mềm mại che khuất nửa khuôn mặt thanh tú của nàng. Trên gương mặt xinh đẹp, hàng mi dài khép ngủ cong vút mê người đang khẽ rung rinh.
Khuôn mặt trắng nõn thanh tú của nàng thật hấp dẫn, dù khóe mi vẫn toát ra vẻ ngây thơ và trong sáng, nhưng đã điểm xuyết hương vị của phụ nữ. Dương Lăng yêu mến nhìn cô gái nhỏ đang nằm trong lòng, nhẹ nhàng co tay gối đầu, không dám cử động mạnh sợ làm nàng tỉnh giấc.
Mấy bữa qua phải vào cung sớm nên y cảm thấy khổ khôn tả. Hôm qua đã nói với nàng hôm nay không cần phải vào cung sớm, lúc này thấy nàng ngủ thoải mái, Dương Lăng mới giật mình nhận ra mỗi ngày nàng đều phải gọi mình dậy, mỗi lần tỉnh giấc thức ăn đã luôn được bày sẵn. Không những phải dậy sớm, trong lòng nàng lúc nào cũng phải lo tới những việc này nên lúc ngủ cũng không được ngon giấc, nhất định thân thể nàng càng thêm mệt mỏi.
Dù mệt mỏi rã rời nhưng chỉ một chốc sau Ấu Nương đã tỉnh dậy. Mở mắt thấy phu quân đã tỉnh, nàng vội le chiếc lưỡi nhỏ xinh, xấu hổ hỏi:
- Ơ kìa, tướng công đã tỉnh rồi à? Thật là... thiếp lại ngủ quên mất.
Dương Lăng thấy nàng hốt hoảng định bò dậy, liền vươn tay giữ vai nàng lại, mỉm cười bảo:
- Hai ngày nay nàng dậy sớm quá, tối... còn dọn dẹp tắm rửa, lại ngủ quá muộn.
Dù sao hôm nay ta cũng không cần phải đi sớm, nghỉ ngơi thêm một lát nữa đi.
Ấu Nương nghe y nói những lời yêu thương, mặt nàng hồng phơn phớt, vừa thẹn vừa vui, liếc mắt nhìn lại, vâng một tiếng rồi ngoan ngoãn rúc vào lòng y, thỏ
thẻ làm nũng:
- Ừm! Hai ngày nay, thiếp cũng không biết sao nữa. Nhất là hôm nay, thiếp cảm thấy các khớp xương đều ê ẩm, người mềm nhũn cả ra, lại chẳng muốn nhúc nhích gì nữa. Lúc còn ở nhà với bố mẹ, ngày nào thiếp cũng phải dậy sớm luyện võ, bây giờ thì càng ngày càng lười rồi.
Dương Lăng thấy nàng kêu thân thể ê ẩm, chẳng muốn cử động thì vội hỏi:
- Sao lại thế? Có phải là bị trúng gió rồi không?
Vừa hỏi y vừa rờ trán nàng, chỉ thấy hơi ươn ướt nhưng lại mát, không nóng chút nào.
Trước giờ thân thể Ấu Nương vẫn khỏe mạnh, từ bé chưa từng bị bệnh vặt, cho nên nàng cũng không để tâm lắm, còn tưởng là do hai ngày qua mới bị phá thân, tướng công đòi hỏi quá độ, việc xấu hổ này đâu thể nói ra được, vì thế nàng khẽ cười:
- Không sao đâu, thiếp luyện võ từ nhỏ, thân thể khỏe mạnh lắm, nếu thực sự bị cảm mạo phong hàn thật, thiếp đi tìm thầy lang bốc vài thang thuốc là được.
Dương Lăng sờ trán nàng không thấy bị sốt, nên cũng bớt lo, lại thấy bộ dáng yêu kiều nhõng nhẽo đáng yêu của nàng chan chứa phong tình của gái mới lấy chồng, sự quyến rũ này khác hẳn nét ngây thơ xinh tươi ngày trước, lửa lòng bỗng bùng lên. Ôm nàng sát hơn, y cười ranh mãnh:
- Nào, để tướng công giúp Ấu Nương xoa bóp cho đỡ mệt.
Trong chăn, bàn tay xấu xa đang "do thám" áo lót của Ấu Nương, lén lút lần mò tới bộ ngực mịn màng mềm mại của nàng, sờ nắn nhẹ nhàng. Ấu Nương khẽ lườm y, mặt nàng đỏ ửng lên thật mê người.
Ấu Nương lặng im, ngây ngất, mặc cho Dương Lăng nghịch ngợm bộ ngực của mình. Bị y vuốt ve một lúc, thân thể bắt đầu không được tự nhiên, chỉ cảm thấy đê mê, thế nhưng cái cảm giác uể oải khó tả khiến nàng không muốn cục cựa. Nàng
hổn hển mắng khẽ:
- Tướng công đừng nghịch nữa! Chẳng phải chàng nói còn phải vào cung một chuyến sao? Chàng hãy mau dậy súc miệng thay đồ đi, thiếp chuẩn bị bữa sáng cho chàng.
Dương Lăng thấy nàng e lệ rụt rè cũng không nỡ ép buộc, bèn thơm nhẹ lên má nàng, rồi cười hì hì nói:
- Nếu nàng mệt thì cứ nghỉ ngơi đi! Tướng công ăn tạm thứ gì đó trên đường cũng được rồi.
Nào chịu như vậy, Ấu Nương vừa gượng dậy mặc quần áo vừa hỏi:
- Tướng công, hôm qua chàng vừa về Liễu Bưu lại mời chàng tới Bắc trấn phủ ty để làm gì thế? Chẳng phải bây giờ chàng đang làm việc ở chỗ Thái tử rồi sao?
Nhân lúc nàng đứng dậy, Dương Lăng vỗ một phát vào cặp mông đẫy đà vênh vểnh của nàng, cười trả lời:
- Dù sao đã khoác chức quan của Cẩm Y vệ thì cũng phải được cắt cử đi làm việc cho họ chứ. Trương đề đốc sợ ta chưa thể xử lý công vụ nên tạm thời phái ta làm mấy việc nhàn hạ, chuyên phụ trách công văn của Nam trấn phủ ty trình lên kinh sư.
Ấu Nương nhanh nhẹn vấn tóc, khẽ ồ một tiếng, nghiêng đầu hỏi:
- Tướng công, Nam trấn phủ ti quản lý những gì vậy? Dương Lăng đáp:
- Nam trấn phủ ty quản lý hình danh trong vệ và những sự vụ của quân tượng.
Hình danh chính là phụ trách việc xét xử, còn quân tượng thì là các thợ chế tạo khôi giáp, quân giới, hỏa tiễn, súng hoả mai, thậm chí cả chiến thuyền, chiến xa, tất cả đều do Nam trấn phủ ty quản lý.
Hình danh trong vệ mà Dương Lăng nói chỉ phụ trách xét xử những người phạm tội bên trong Cẩm Y vệ. Còn bình thường quan lại và tướng lĩnh phạm tội đều giao cho Tam Pháp ty cai quản. Cho nên phạm vi phụ trách hình danh của Nam trấn phủ ty hơi giống một tòa án binh cỡ nhỏ. Còn như việc quản lý quân tượng, nếu như ở thời hiện đại tất nhiên là một ngành khá quan trọng, nhưng tại thời đại này thì việc trông nom công nhân kỹ thuật không được tính là một thứ gì to tát lắm.
Ấu Nương đương nhiên không biết những điều này. Dương Lăng ăn xong bữa sáng, dặn dò Ấu Nương nếu thấy khó chịu thì cứ lên giường nghỉ, còn mình thì khoác bọc áo quần đã chuẩn bị từ trước, ung dung đi thẳng đến cổng sau của kinh thành.
Lúc này trời còn sớm nhưng những cửa hàng lân cận kinh thành đã mở cửa kinh doanh rồi. Bấy giờ địa vị của thương nhân trong xã hội rất thấp, nhưng lợi nhuận cực lớn của buôn bán khiến nhiều người thèm thuồng. Do đó một số nhà dòng dõi công thần huân khanh bèn cử quản gia tới vùng phụ cận hoàng thành, lấy danh nghĩa cá nhân quản gia mở cửa hàng,kỳ thực việc đầu tư, kinh doanh, lợi nhuận đều nằm trong tay bọn họ. Dần dần tự phát hình thành nên một khu chợ bán hàng cao cấp tại nơi này.
Dương Lăng tới một tiệm trà ở sát cửa hậu cung, gọi một bình trà và chút hạt dưa, vừa uống vừa chờ. Chờ được nửa canh giờ, y thấy cửa cung mở ra, hai mươi mấy tên thái giám đẩy mấy xe chở nước ra khỏi cửa cung.
Nội cung thường thường cử người tới Ngọc Tuyền sơn múc nước suối hảo hạng dâng đế vương và đám phi tần uống. Tuy rằng thông thường lúc trời còn chưa sáng đã xuất phát rồi, nhưng rời cung vào lúc này cũng là chuyện bình thường, cho nên đám du khách và thương nhân đang nhốn nháo rộn ràng chung quanh cũng không chú ý lắm.
Dương Lăng quan sát cẩn thận, thấy trong đám người đó có vài thái giám hơi cúi đầu liếc ngang liếc dọc. Trong đó có một tiểu thái giám nhỏ tuổi đi cạnh cái bánh xe to tướng của chiếc xe chở nước, nhìn ngó láo liên tứ phía. Dương Lăng vừa nhìn qua đã nhận ra người đó chính là Chu Hậu Chiếu, vội vàng chạy tới đón.
Chu Hậu Chiếu mặc y phục của tiểu thái giám đang nhìn đông nhìn tây, Dương Lăng sáp đến níu lấy tay áo hắn, thấp giọng gọi:
- Thái tử!
Chu Hậu Chiếu giật mình, ngẩng đầu trông thấy y, nét mặt không khỏi lộ vẻ mừng rỡ. Dương Lăng vội vàng khoát tay ra hiệu đừng lên tiếng. Lưu Cẩn cũng đang đi bên cạnh Chu Hậu Chiếu, trông thấy Dương Lăng, lão liền mỉm cười chào.
Dương Lăng vác gói đồ đi theo bọn họ một hồi tới một tiệm gỗ. Các loại gỗ thượng hạng trên khắp cả nước được chuyển tới tiệm này, họ còn mời rất nhiều thợ cả đến làm mộc, có thể chế tác tại chỗ các loại đồ dùng trong nhà với đủ kiểu dáng khác nhau thoả mãn yêu cầu của đám quan to quý tộc. Do đó bên cạnh cửa hàng có một lối nhỏ dẫn đến xưởng mộc riêng của tiệm.
Dương Lăng kéo Chu Hậu Chiếu một cái, Chu Hậu Chiếu cũng hiểu ý, nhân lúc mọi người không chú ý, theo Dương Lăng rẽ vào ngõ nhỏ. Dương Lăng bước vội mấy bước, thấy xung quanh không có ai, quay người lại vừa định lên tiếng, liền thấy một đám người đi theo sau Chu Hậu Chiếu. Y mắt tròn mắt dẹt, hoảng hốt hỏi:
- Sao.... sao mà... các vị công công đều tới vậy?
Hôm qua bọn họ đã thỏa thuận Lưu Cẩn và Trương Vĩnh sẽ theo Chu Hậu Chiếu nhân cơ hội xe chở nước rời cung mà lẻn ra. Cốc Đại Dụng và Mã Vĩnh Thành thì ở lại Đông cung để che mắt; còn bọn Cao Phương, La Tường, Ngụy Bân, Khâu Tụ thì không được giao việc gì.
Bởi vì đám Bát hổ không phải toàn là người trưởng thành, còn có những thái giám trẻ mới hai mươi tuổi, nếu như đều theo ra ngoài thì quá lộ liễu, hơn nữa y còn sợ bọn họ xúi giục Chu Hậu Chiếu gây chuyện. Còn Trương Vĩnh, Lưu Cẩn, một kẻ trưởng thành lão luyện, một kẻ cơ mưu thâm sâu, có bọn họ đi theo phối hợp là tương đối ổn thỏa. Dè đâu lúc này y nhìn lại thấy đủ cả tám người chẳng thiếu một ai đều theo ra khỏi cung.
Ngụy Bân thấy Dương Lăng hoảng hốt, cười hề hề:
- Dương tướng công không cần phải lo lắng! Tối qua hoàng thượng vừa mới tới thăm Thái tử, vả lại hôm nay bên quân đội có tin cấp báo, hoàng thượng và ba vị đại học sĩ cùng các vị thượng thư của bộ Binh, bộ Công đang nghị sự! Còn người của bộ Lễ, bộ Hộ đều đang phải tuần tra trường thi kỳ thi Xuân. Không có chuyện gì đâu!
Dương Lăng cười khổ một tiếng, y biết rõ mấy kẻ này đời nào bỏ qua cơ hội lấy lòng thái tử. Dương Lăng đành phải nói:
- Các vị công công nói cũng phải, chỉ là.... trước đó hạ quan không hiểu tình hình, cho nên chỉ chuẩn bị ba bộ quần áo...
Khâu Tụ vội đáp:
- Không sao cả, chúng ta đều đã tự chuẩn bị y phục rồi.
Gã ngó quanh bốn phía, thấy ở giao lộ chỉ thỉnh thoảng có mấy người đi qua, cũng không quá để ý đến trong ngõ, liền vội vàng cởi áo bào thái giám, tháo nón xuống, trên người đã mặc sẵn một bộ quần áo sĩ tử bình thường, trên đầu đội một chiếc khăn thư sinh, cải trang rất nhanh chóng. Gã vốn là một hoạn quan, thiếu khí chất mạnh mẽ của đàn ông nên mặc bộ y phục này, tuy da hơi đen nhưng lại thật giống kẻ đọc sách yếu đuối.
Chu Hậu Chiếu, Lưu Cẩn, Trương Vĩnh được Dương Lăng chuẩn bị đủ áo quần rồi nên không phải ăn mặc rườm rà như vậy. Mấy người kia đổi y phục xong liền đứng chắn phía trước, ba người còn lại cũng vội vã thay đổi áo quần, cả mười người đều ăn mặc kiểu văn nhân. May mắn là đúng dịp kỳ thi Xuân, sĩ tử văn nhân khắp nơi tụ tập tới kinh sư, khắp thành Bắc Kinh đều là người đọc sách, nên bọn họ cũng không khiến người khác nghi ngờ.
Dương Lăng hỏi:
- Thái tử, bây giờ chúng ta tới bộ Binh chứ?
Chu Hậu Chiếu vừa rời khỏi hoàng cung, như chim xổ lồng, như cá gặp nước.
Ngày trước hắn rời khỏi cung toàn do phụ hoàng đưa đi, có rất nhiều thị vệ ngầm bảo vệ nghiêm ngặt, chỉ đi tới những chốn ít người lai vãng; chưa bao giờ hắn được như hôm nay tự mình ra ngoài. Hắn như nhà quê lên phố, thấy cái gì cũng mới lạ.
Nếu như bây giờ tới bộ Binh náo loạn một trận, rồi tới nơi khác dạo chơi thì chắc chắn không vui nữa, làm sao hắn chịu đi luôn bây giờ. Thế là Chu Hậu Chiếu vội vàng khoát tay đáp:
- Đừng gấp, đừng gấp! Chúng ta đi dạo khắp nơi trước đã.
Dương Lăng không biết làm sao, đành phải theo hắn đi lang thang trong chợ. Chu Hậu Chiếu thấy trong chợ bán rất nhiều thứ không có trong cung nên rất thích thú. Ngộ tính của tên nhóc này rất tốt, thấy người khác mặc cả, trả giá quyết liệt đến không biết đường nào mà lần bèn ngứa ngáy trong lòng, thấy thích thứ nào cũng tới hỏi giá, sau đó học theo người ta mặc cả.
Mặc dù hắn không biết giá cả nhưng Bát hổ lại khá rành rẽ. Có bọn họ ở bên giúp đỡ, dù Chu Hậu Chiếu không đến nỗi tiêu tiền như nước, nhưng hễ đã mặc cả xong thứ gì thì phải mua luôn. Bấy giờ đa số bọn Bát hổ đều cười khổ vì chẳng có xu nào, duy có Mã Vĩnh Thành chuyên phụ trách mua sắm thường nhật trong cung, mặc dù không phải là thái giám chủ sự nhưng tiền bạc trong tay cũng đủ để dùng.
Để lấy lòng thái tử, chỉ cần Chu Hậu Chiếu mặc cả xong thứ gì, gã liền lập tức rút tiền ra mua.
Mấy người dạo quanh vùng ven hoàng thành chưa tới một canh giờ mà tám tên thái giám và cả Dương Lăng đều đã tay xách nách mang, khuân vác đủ thứ. Ngay bản thân Chu Hậu Chiếu cũng nghiêng vai cắp một quyển lụa, tay phải xách hai bao trà, trên cổ treo mấy hộp trân châu, tay trái cầm một chiếc đĩa lớn có tạo hình hoa sen cá vàng ở bên trong rất đẹp, trông rất buồn cười.
Mặc dù thân phận của đám thương nhân đó thấp kém, nhưng đều là nhân viên quản gia được các thế gia vọng tộc phái ra nên cũng khá hiểu các mặt của xã hội. Nhìn tính cách của đám người này giống như bọn nhà giàu mới nổi, còn tưởng là tài chủ dưới nông thôn lên, nên cho dù ăn bạc của bọn họ xong mà trên mặt đám thương nhân vẫn không tránh khỏi vẻ khinh bỉ.
Chu Hậu Chiếu chơi đùa rất vui vẻ, mặc kệ vẻ mặt của đám thương nhân đó. Đi dạo trong chợ đến chán chê rồi, hắn mới cảm thấy mấy thứ trong tay quá vướng víu. Quay đầu nhìn lại, thấy bộ dạng của đám người Lưu Cẩn và Dương Lăng còn nhếch nhác hơn mình nhiều, Chu Hậu Chiếu chợt cười ầm lên.
Hắn nghĩ tám người kia đều ở trong cung hầu hạ mình, trong kinh cũng không có người thân nào nên bèn nói với Dương Lăng:
- Hôm nay đi chơi thật là vui! Vốn ta muốn đi dạo phố thêm, nhưng mấy thứ này quá phiền phức. Không phải là ngươi mới tới kinh thành sao? Mấy thứ này tạm coi như quà chúng ta tặng ngươi. Chúng ta tới đầu phố thuê xe đi! Mang mấy thứ này tới nhà ngươi, sau đó tiếp tục dạo phố.
Nghe xong, Dương Lăng trong lòng rất vui vẻ, không ngờ đi theo Thái tử dạo phố còn được cho quà. Chu Hậu Chiếu mua sắm toàn dựa vào ý thích của bản thân, cũng không màng giá cả ra sao, cho nên những món đồ này rất đa dạng, có những thứ chỉ hai chục văn tiền, có những thứ đắt tới vài ba trăm lạng. Đống đồ mấy người đang xách tính ra cũng phải hơn ngàn lạng bạc, trong đó còn có gương son các thứ, mình mang về sẽ giúp Ấu Nương tiết kiệm được thời gian đi mua sắm.
Trong lòng phấn chấn, ngoài miệng y vẫn còn khách sáo một hồi, vội vã khiêm nhường:
- Thái tử gia,việc này không ổn đâu, đây đều là những thứ người thích! Nếu như muốn ban thưởng cho thần, tám vị công công cũng phải có phần mới phải.
Chu Hậu Chiếu nghe xong cười mắng:
- Giả bộ vừa thôi, bọn họ ăn trong cung, dùng đồ trong cung, ngay cả nhà cũng không có, cho họ mấy thứ này về làm gì? Mau đi kiếm xe đi!
Trương Vĩnh cũng nhăn nhó phụ họa:
- Dương tướng công, cậu đừng từ chối nữa! Cái thân già của ta sắp không chịu nổi nữa rồi. Ui da, cái vò này khi nãy không cảm thấy nặng chút nào mà bây giờ sắp
tuột xuống đất rồi đây này!
Mấy người La Tường, Ngụy Bân, Khâu Tụ liên tục gật đầu hưởng ứng. Mặc dù cả bọn đều là nô tài để sai bảo nhưng chưa từng làm những việc lao lực. Vác đồ cả nửa ngày trời, vừa đừ vừa mệt, lại không dám tùy tiện bỏ mấy thứ Thái tử mua xuống, bây giờ bọn họ chỉ mong mấy thứ này mau mau rời khỏi tay, còn việc cho ai thì cũng chẳng quan trọng.
Thế là Dương Lăng và Chu Hậu Chiếu sánh vai chen chúc khỏi đám đông đi ra đường cái. Do đông người, đám thái giám sợ Chính Đức bị lạc mất nên theo thói quen bốn trước bốn sau bảo hộ, lưng cũng hơi khom xuống, nhìn qua giống như đang hầu hạ một quý công tử xuất hành. Nhưng bọn họ đều mặc đồ thư sinh nên người qua đường thấy cũng hơi lạ. Đoàn người vẫn không phát hiện, cứ xếp thành hai "cánh quân" vác đống đồ lỉnh kỉnh kéo tới nhà Dương Lăng.
Mặc dù Chu Hậu Chiếu gan to làm liều, nhưng y cũng lo chuyện Thái tử tự mình rời cung sẽ lan khắp mọi người, cho nên dọc đường căn dặn Dương Lăng và Bát hổ cùng nói bọn họ đều là thị độc của Thái tử, hôm nay đến nhà họ Dương là để chào đón đồng liêu tiến kinh, có lòng mua lễ vật biếu tặng. Mấy tên thái giám đều vâng vâng dạ dạ đáp lời, dù sao thì dân gian trăm họ cũng không biết bên cạnh thái tử gia có bao nhiêu văn nhân làm Thị độc.
Sau khi Dương Lăng rời khỏi nhà, Ấu Nương cảm thấy trong người khó chịu, mới ăn qua loa một chút thì đã không thể nuốt thêm. Nàng bèn vào giường nằm nghỉ một chút, rồi lại ngồi dậy luyện hít thở một hồi, cảm thấy trong lòng thoải mái hơn nhiều. Vừa mới hồi phục tinh thần, nàng chợt nghe tiếng đập của vòng khoá bằng đồng trước cổng rồi có tiếng tướng công gọi:
- Ấu Nương! Mau ra đón khách...
Hàn Ấu Nương vừa ngạc nhiên vừa mừng rỡ: "sao hôm nay tướng công về sớm vậy?" Nàng vội xuống giường, bước ra cửa đón. Có tám, chín người diện đồ tú tài màu xanh đang đứng ngoài cửa, người nào người nấy tay xách nách mang không ít đồ lỉnh kỉnh. Dương Lăng bước lên, cười nói:
- Ấu Nương, mấy vị này đều là Thị độc của Thái tử điện hạ trong Đông cung, là đồng liêu của ta. Nghe nói ta vừa mới đến kinh sư, các vị có lòng mua lễ vật đến đây thăm hỏi.
Mấy người Lưu Cẩn, Cốc Đại Dụng nghe xong đều cố nặn ra một bộ mặt vui vẻ hoà nhã, lần lượt gật đầu, tươi cười đồng thanh nói:
- Đúng vậy! Đúng vậy! Chúng tôi đều là đồng liêu của Dương tướng công.
Hôm nay muốn đến quý phủ để thăm viếng.
Trình độ văn hoá tám người này có cao, có thấp, tên thì gọi nàng là "Dương phu nhân", kẻ thì gọi nàng là "tiểu nương tử". Khâu Tụ, Nguỵ Bân trẻ tuổi, lại ở trong cung từ bé nên càng không biết phải xưng hô với Ấu Nương như thế nào, thế là cũng bất kể mình lớn hay nhỏ tuổi hơn Dương Lăng cứ gọi nàng là "chị nhà Dương" luôn (Dương gia tẩu).
Nghe nói là đồng liêu cùng làm việc chung với tướng công, Ấu Nương không dám chậm trễ, vội vàng mời bọn họ vào nhà. Mấy tên này vừa bước vào nhà liền vội tranh thủ chất hết các thứ mà Chu Hậu Chiếu đã mua xuống khắp nhà rồi tìm chỗ ngồi đấm tay bóp chân. Lễ vật mà những tên này xách rất đa dạng, thậm chí còn có riềm giấy đính thạch anh, hũ dưa muối, hồ lô Bát Tiên, đủ cả. Sau khi chất cả vào nhà, trên giường dưới đất khắp nơi đều là lễ vật.
Chính Đức đi sau lưng mọi người, bước vào nhà sau cùng. Y cũng ăn mặc như một tiểu thư sinh, người mặc áo xanh, đầu đội khăn vải, tay cầm "bánh Hồ lô đường" gặm được một nửa. Y nhảy mấy bước đến bên cạnh Ấu Nương, thảy ba xâu trân châu và một bao giấy Tuyên Thành thượng hạng lên giường rồi cười hề hề với Ấu Nương:
- Ấu Nương tỷ tỷ, đệ cũng đến nè.
Ấu Nương hơi ngẩn người. Thấy y còn nhỏ tuổi, nàng không khỏi vừa cảm thấy ngạc nhiên vừa cảm thấy kỳ lạ: "Thư sinh nhỏ tuổi thế này mà cũng là người bên cạnh thái tử à?" Nàng thấy thư sinh này hơi quen, nhưng lại không nhớ nổi đã từng gặp mặt lúc nào. Dương Lăng vội bước tới giới thiệu:
- Vị này... a hèm, cũng là đồng liêu của ta. Nương tử còn nhớ tiểu công tử mà chúng ta đã gặp ở Hộ Quốc tự ngày đó không?
Hàn Ấu Nương "a" lên một tiếng, vừa ngạc nhiên vừa mừng rỡ đáp:
- Nhớ rồi, thiếp nhớ rồi! Thì ra tiểu công tử cũng là "bạn độc" (bạn đọc sách, khác với thái giám) bên cạnh thái tử gia. Mời vào, mời vào!
Ấu Nương thấy tuổi tác của vị tiểu thư sinh này xấp xỉ với tam đệ Mãn Thương của mình, cảm thấy rất đỗi thân thiết. Nàng cười nói với y:
- Mau vào nhà ngồi đi! Đệ là đồng liêu của tướng công, phải gọi tỷ là tẩu(*) mới đúng.
(*) Tỷ dùng chung để xưng chị, còn tẩu là tiếng kính xưng đối với vợ của của anh, vợ của người lớn tuổi hơn hoặc đối với phụ nữ có chồng nói chung.
Chính Đức chỉ có một đệ đệ đã chết yểu lúc nhỏ, con cháu họ Chu tuy nhiều, song tất cả đều bị đuổi ra khỏi kinh hết, nên ngày thường y thật sự chưa từng gọi người khác là tẩu. Nghiêng đầu nghĩ ngợi một lát, cảm thấy có người chị như Ấu Nương cũng không tệ, thế là y bèn vui vẻ sửa đổi cách gọi.
Ấu Nương cười đáp lại một tiếng, đang chuẩn bị đun nước pha trà, Trương Vĩnh vội ngăn lại, cười ha hả nói:
- Phu nhân không cần khách sáo đâu. Chốc nữa Dương thị độc sẽ mời các vị đồng liêu đến tửu lâu uống rượu, chúng tôi đến nhà ngồi một chút rồi sẽ đi thôi.
Những kẻ này đang thật sự rất mệt, nhưng Chính Đức thì vẫn dồi dào sức lực, chạy loạn khắp trong nhà ngoài sân, hễ thấy thứ gì mà chưa gặp bao giờ thì y liền tò mò căng cái họng vịt đực ra gọi "tẩu" tới. Từ khi đến kinh thành, Ấu Nương cũng hơi nhớ đến người thân ở quê nhà. Chính Đức mày đen mắt đẹp, nghịch ngợm khoẻ khoắn rất giống với đệ đệ Hàn Mãn Thương của nàng, vì vậy Ấu Nương cũng rất thích y, cho nên hết lần này đến lần khác kiên nhẫn giải thích một phen.
Một hồi sau, Chu Hậu Chiếu lại nhìn thấy cái giếng trong sân. Thấy buộc dây thừng vào bánh xe gỗ, kéo thùng gỗ lên thì có thể múc được nước giếng ngon ngọt và mát rượi, thế là tính ham chơi của y lập tức phát tác. Sau khi nghe Ấu Nương giải thích cách dùng, thấy nước trong lu chỉ còn non nửa, y lập tức nổi hứng hăm hở kéo từng thùng nước đổ vào trong lu.
Bọn Lưu Cẩn, Trương Vĩnh thấy Thái tử làm công việc nặng nhọc như vậy, cũng bất chấp thân thể còn đang rã rời, ồ ạt tranh nhau chạy ra đòi giúp. Chu Hậu
Chiếu đang chơi hăng đâu chịu buông tay, đổ đầy cả lu nước rồi mới tiếc nuối dừng tay.
Vừa rồi đứng ở bên giếng, mấy tên thái giám cứ thon thót lo Thái tử sẽ gặp bất trắc, rốt cuộc thấy y đã dừng tay, sợ y lại nghĩ ra thêm trò chơi mới mẻ gì nữa, liền vội thừa dịp cáo từ Ấu Nương. Hàng người rời khỏi sân nhà, Dương Lăng cố ý tụt lại ở phía sau, chờ bọn họ đi xa một chút rồi quay đầu nói với Ấu Nương:
- Ấu Nương, sắc mặt nàng tệ lắm, má đỏ bừng rồi. Có phải cảm thấy không được khoẻ không? Nếu không thì... Khi nào về ta dẫn nàng đi gặp lang trung nhé?
Hàn Ấu Nương phấn chấn tinh thần cười nói:
- Thân thể thiếp nào quý giá như vậy? Tướng công yên tâm đi, có lẽ là do lạnh bụng cho nên hơi khó chịu, thiếp nghỉ ngơi một chút thì sẽ đỡ thôi. Chàng hãy đi tiếp khách đi, chớ để thất lễ.
Nàng vừa phủi bụi bặm bám trên vai Dương Lăng do khiêng đồ khi nãy, vừa mỉm cười nói:
- Thái tử gia thật là một người kỳ lạ. Thị độc có người sắp làm ông người ta, có người thì lại là trẻ con chưa lớn, chắc bọn họ cũng là những nhân vật lớn trong triều nhỉ? Có điều thiếp cảm thấy bọn họ không oai phong bằng tướng công đâu.
- Dĩ nhiên!
Dương Lăng ưỡn ngực đáp. Y ngoái đầu nhìn: tám tên đại thái giám, một thằng nhóc con. Phẩm chất của "cửu đại ác nhân" trong lịch sử này hãy tạm chưa nhắc đến mình, cho nên nếu chỉ nhìn vào tướng mạo thì trông thế nào mình cũng đúng là người oai phong nhất.
Y cười với ái thê một cách rất uy nghi rồi nói:
- Nàng trở về đi, không khỏe thì nghỉ ngơi, đừng dọn dẹp đồ đạc trước. Chờ thêm mấy ngày nữa tướng công mua nha hoàn về hầu hạ nàng. Ấu Nương của ta cũng nên được hưởng phúc một tý rồi.
*****************
Kỳ thi Hội thường được cử hành vào tháng Hai năm kế tiếp của kỳ thi Hương, xưa gọi là "kỳ thi Xuân"*. Đến lúc đó sỹ tử toàn quốc tụ tập về kinh thành quyết trận sống mái. Tính bi tráng của nó còn khốc liệt hơn cả những kỳ thi đại học một chọi trăm, một chọi nghìn ngày nay. Do năm ngoái vua Hoằng Trị bị một cơn bệnh nặng, qua năm lại gặp phải chuyện Thát Đát tập kích biên giới, cho nên kỳ thi Xuân năm nay trì hoãn lại đến giờ mới khai mạc, trễ trọn một tháng.
(*): Vì kỳ thi Hội diễn ra vào mùa xuân kế tiếp của kỳ thi Hương, trong các năm Sửu, Thìn, Mùi, Tuất, do bộ Lễ tiến hành, nên còn gọi là "lễ vi", hay "xuân vi"
Hôm nay là ngày thi đầu tiên. Bộ Lễ phải xin thánh dụ, cúng trời xanh, bái Khổng Tử, thực hiện rất nhiều lễ nghi hết sức rườm rà, cho nên lúc bắt đầu thi trời đã không còn sớm nữa. Bây giờ trên đường vẫn còn từng đám sỹ tử hối ha hối hả chạy đến Văn Miếu để thi.
Chu Hậu Chiếu nhìn những thí sinh lưng đeo vải bọc, tay ôm bút nghiêng, nảy lòng tò mò, cũng chạy tới miếu Khổng Tử để xem náo nhiệt. Dương Lăng biết y mà chưa chơi thỏa thì nhất định không có lòng dạ nào đi làm đại sự, thế là đành phải cùng với bọn Lưu Cẩn cuống quýt đuổi theo đến Văn Miếu.
Những thành thị có chút quy mô ở Đại Minh đều xây dựng "học cung" (nhà học). Học cung chính là nơi khổ học của sỹ tử đồng thời cũng là chốn thờ Khổng tử. Miếu Khổng tử của kinh sư đương nhiên là học cung lớn nhất toàn quốc. Đám người Chu Hậu Chiếu đến trước học cung, thấy bức hoành treo cao cao trên cạnh cửa viết bốn chữ vàng "Vạn Thế Sư Biểu"(1). Dựng ngay trước cây cầu bên ngoài ao miếu là một tấm bia cấm cao hai mét: "Quan viên văn võ đến đây phải xuống ngựa".
Không cần biết quan lớn cỡ nào, đã đến học cung đều phải hạ kiệu, xuống ngựa mà bước bộ vào. Những văn nhân được phong làm đại quan đều trở về cúng bái Khổng lão phu tử, xem như là đã "áo gấm về làng", khoe khoang với những kẻ tầm thường. Còn võ tướng, cho dù là quan đến nhất phẩm, quyền khuynh triều chính, từ rất xa mà nhìn thấy hai chữ Học Cung thì cũng phải đi vòng. Đành thế thôi, đám hủ
nho già một mực tin rằng "bán bộ Luận Ngữ trị thiên hạ, Đạo Đức văn chương thế vô song"(2), người học võ bước vào là muốn nhận lấy sự kỳ thị rồi.
Học cung tuy lớn, nhưng vẫn không đủ chứa thí sinh của cả nước nên đã dựng thêm ba dãy chòi gỗ sát tường cung để bổ sung thêm điểm thi. Chung quanh màn vải giăng kín, binh sỹ canh gác nghiêm ngặt.
Lúc Chu Hậu Chiếu rì rì chạy đến nơi thì "chuông vang trống dội", kỳ thi đã bắt đầu. Trước cửa, ngoài người nhà, gia bộc của đám sỹ tử và một vài tiểu thương bán nước trà, điểm tâm ra, thì chẳng còn sỹ tử nào nữa. Chu Hậu Chiếu bỗng cảm thấy vô vị. Thấy dưới gốc cây hoè to có sạp trà, y liền qua đó ngồi. Lưu Cẩn vội kêu tiểu nhị lại, gọi trà, điểm tâm, hạt dưa rồi cùng Chu Hậu Chiếu tán gẫu dưới gốc cây.
Dương Lăng nhìn trời, ước chừng khoảng hơn mười giờ sáng, vẫn còn dư thời gian để đến bộ Binh, lúc này mới yên tâm. Y báo với Chu Hậu Chiếu một tiếng, rồi men theo ao nước trước học cung chậm rãi đi về hướng Tây, định ngó bộ dáng của những sỹ tử dự thi mớ văn Bát Cổ này. Có điều màn vải giăng thật quá kín, cách vài bước lại có một quan binh canh gác, đến gần một chút là bị bọn họ lớn tiếng quát nạt ngay. Đi dạo một hồi, cảm thấy chán, Dương Lăng đang định quay người trở về thì đột nhiên một sỹ tử tay kẹp bao vải hối hả chạy lướt qua người y, thẳng tới cửa trường thi do màn vải giăng. Sỹ tử ấy đầu mướt mồ hôi, giơ thẻ thi lên sốt sắng báo:
- Binh đại ca, học sinh vì đến muộn, lại đến nhầm trường thi, chậm trễ chút thời gian. Xin quan binh đại ca hãy châm chước một chút, cho ta vào đi.
Dương Lăng dừng bước lại, quay người tò mò nhìn. Đứng gác ở cửa có bốn tên lính, một tên tiểu kỳ (lính đeo cờ) xua tay bảo:
- Chuyện lớn như thi Hội này mà cũng nhầm lẫn được à? Đã muộn thì đợi thêm ba năm đi. Chúng ta cũng không dám tự quyết định cho ngươi vào đâu.
Vị sỹ tử đó nôn nóng đến toát mồ hôi đầm đìa, vừa quỵ luỵ khẩn cầu, vừa chắp tay vái lia lịa:
- Các vị quan binh đại ca, học sinh cực khổ đọc sách học hành mười năm không
nghỉ, chính là vì một khắc này đây. Không dám giấu các vị quan binh đại ca, đêm qua học sinh còn cố thức học đến tận canh ba. Chỉ hận trên đường đụng phải một tên vô lại, bị hắn quấn lấy quấy rầy mãi, cho nên lỡ mất thời giờ. Xin các vị hãy giúp đỡ một chút!
Dương Lăng quan sát tên sỹ tử này, thấy gã tuổi trạc hai mươi lăm, hai mươi sáu, mày rậm mắt to, nước da ngăm ngăm, vóc người vừa cao vừa gầy, người mặc một bộ thanh sam, trông như cây sậy.
Gã vừa van vỉ vừa đưa tay vào ngực lấy tất cả ngân lượng cất trong người nhét vào tay của tên lính nọ, kèm theo một nụ cười nói:
- Các vị binh đại ca hãy châm chước giúp một chút, đại ân đại đức học sinh suốt đời sẽ không quên.
Tên lính thấy y nhét chừng hơn chục lượng bạc ròng, ánh mắt tức thời lộ ra vẻ tham lam. Có điều bên trong trường thi này là trọng địa, cửa ải trùng trùng, qua được ải này của hắn cũng không vào được đến trường thi. Tuy hắn là một quan binh lớn nhưng cũng không có quyền đưa người vào, đành phải ngậm ngùi đẩy số bạc lại vào trong ngực sỹ tử nọ, lắc đầu, không nói gì thêm.
Thấy tình cảnh đến nước này, sỹ tử đó quýnh quáng đến độ mồ hôi trên trán chảy xuống ròng ròng. Bản thân gã lại như không cảm nhận được, thậm chí không lau chúng đi, mà vẫn níu kéo tên tiểu kỳ nọ khẩn nài không ngớt. Mấy tên lính khác thấy gã cứ đứng lỳ không chịu đi thì cùng bắt đầu lớn tiếng nạt nộ. Một quan viên bộ Lễ bên trong nghe tiếng ồn bước ra, phất ống tay áo, lạnh lùng gắt:
- Kẻ nào làm ồn ở ngoài cửa đó?
Quan viên Bộ Lễ đó chỉ là viên ngoại lang(3) bộ Lễ, nhưng dưới tình thế quẫn bách sỹ tử này đã hết cách đành sụp gối xuống đất đánh "cộp" một tiếng, cất cao giọng khẩn khoản:
- Xin đại nhân hãy cứu ta! Xin đại nhân hãy cứu ta! Học sinh vì trễ một khắc, không kịp vào trường thi, xin đại nhân nghìn vạn lần khai ân, hãy để cho ta vào.
Năn nỉ dứt lời, sỹ tử đó dập đầu như giã tỏi. Dương Lăng vốn chẳng để ý gì mấy, đến khi nghe tiếng đầu gã nện "bồm bộp" xuống đất, mới thót mình lo lắng, lập tức đồng cảm.
Viên ngoại lang bộ Lễ đảo mắt kinh bỉ, lạnh lùng nói:
- Triều đình mở khoa chọn sỹ là muốn tuyển lựa nhân tài, vì nước dốc sức. Thi Hội là chuyện lớn như vậy mà ngươi còn có thể đến trễ, loại người như ngươi cũng có thể vào triều làm quan ư? Trở về đọc sách Thánh Hiền thêm mấy năm nữa đi!
Tên sỹ tử nghe xong cảm thấy nghẹn ngào, càng không đứng dậy mà nằm phục tại chỗ dập đầu không ngừng, lời khẩn cầu thậm chí cũng không thể thốt ra. Dương Lăng thấy vậy không đành lòng, không nén được bèn xin hộ:
- Vị đại nhân này! Y đến trễ cùng lắm chỉ một khắc mà thôi, tuyệt đối sẽ không thể có chuyện lộ đề dối trá gì, chi bằng để cho y vào đi. Đại nhân cũng là kẻ đọc sách, hẳn phải biết khổ học không dễ mà.
Viên ngoại lang bộ Lễ cười khẩy, vừa liếc xéo y vừa khinh khỉnh hỏi:
- Ngươi là kẻ nào? Dương Lăng đáp:
- Tại hạ Dương Lăng, cũng là một kẻ đọc sách. Người đọc sách vất vả nửa đời, đường công danh chỉ có một đường khoa cử. Quan hệ đến tiền đồ cả đời của người ta, đại nhân hãy khai ân giúp y một chút đi!
Viên ngoại lang cười nhạt, đáp với giọng quái gở:
- Khoa trường là nơi nào chứ? Khoa cử là đại sự như thế nào chứ? Việc trang nghiêm thiêng liêng như vậy, há có thể cho phép người ta tự làm theo ý mình ư?
Dương Lăng thấy vẻ mặt khinh người của gã, chợt nhớ câu chuyện Nguỵ Trung Hiền của Đông xưởng sai người đưa Trương Hiếu Cổ (Hiếu Cổ nghĩa là ham thích đồ cổ - ND) vào trường thi trong tác phẩm "Liên Thăng Tam Cấp", trong lòng bèn
máy động. Ai cũng nói Xưởng - Vệ hoành hành, kẻ nào cũng nhìn người bằng nửa con mắt, không biết lệnh bài của mình có dùng được hay không. Thấy chung quanh không có người quen, y bèn thò tay vào ngực lấy ra tấm ngọc bài, giơ lên trước mặt viên ngoại lang bộ Lễ, mỉm cười nói:
- Đại nhân! Chính vì khoa cử là đại sự hàng đầu của đời người, vẫn mong đại nhân châm chước một chút, thật sẽ công đức vô lượng.
Viên ngoại lang nhìn thấy lệnh bài Phi Ngư trong tay Dương Lăng, lập tức giật thót mình. Cẩm Y Vệ ung dung tự tại trong kinh sư, mười người thì hết tám, chín kẻ là ma đầu uống máu của Bắc trấn phủ ty. Chỉ cần đưa một hiệu uý của nha môn này ra cũng đủ bóp chết viên ngoại lang cỏn con như hắn rồi, huống hồ nhìn vào ngọc bài trong tay người này thì y nhất định phải là quan quân cao cấp trong Cẩm Y vệ.
Từ khi nào Cẩm Y vệ quản luôn cả chuyện khoa cử vậy? Bọn họ cũng xem như là người thuộc hệ quân đội, bình thường ghét nhất là đến mấy chốn học cung này.
Chẳng lẽ... là hoàng thượng ra lệnh Cẩm Y vệ đến âm thầm giám sát? Không lẽ chậm trễ một chút thì không tính là chuyện to tát không thể châm chước hay sao? Nếu như kẻ này thêm mắm thêm muối gièm pha mình ở trước mặt hoàng thượng, nói mình cố ý làm khó sỹ tử, vậy thì...
Thế là trong chớp mắt, mồ hôi chảy ròng ròng khắp mặt viên ngoại lang. Gã lắp bắp đáp:
- Dương đại nhân! Vừa nãy hạ quan không biết thân phận Dương đại nhân nên đã thất lễ, thật sự đã thất lễ. Có một câu này của đại nhân, vậy có gì là không thể chứ! Hạ quan sẽ lập tức tự mình đưa sỹ tử này vào trường thi ngay. Xin đại nhân cứ yên tâm!
Gã sỹ tử cao gầy vẫn luôn quỳ ngước mặt ở cửa nghe hai người nói chuyện, vừa nghe xong liền lộ ngay vẻ mừng rỡ. Y vội vàng khấu đầu làm lễ, nói:
- Đa tạ Dương đại nhân, đa tạ khảo quan đại nhân!
Tuy y không biết ngọc bài Dương Lăng cầm là lệnh bài gì, nhưng thấy y tuổi
hãy còn trẻ, lại có thể khiến cho vị khảo quan đó phải biến sắc, nhất định là vị quan to chức lớn rồi.
Dương Lăng chắp tay nói với khảo quan:
- Nếu đã vậy, đa tạ!
Rồi quay sang sỹ tử nọ cười lớn bảo:
- Đưa huynh vào khó, đề danh Kim Bảng còn khó hơn. Có thể vượt long môn hay không, tất cả đều sẽ trông cậy vào bản lĩnh của huynh đó!
Làm xong được một chuyện tốt, lòng y cảm thấy rất vui vẻ. Bước chân lâng lâng, y nhắm thẳng về phía cổng chính của học cung mà tiến. Vị viên ngoại lang bộ Lễ thở phào nhẹ nhõm, vẫn còn chút khiếp vía, nói với gã sỹ tử:
- Mau đứng dậy đi, để ta đưa ngươi vào trường thi!
- Vâng! Vâng! Đa tạ khảo quan đại nhân!
Sỹ tử ấy đứng dậy, nước mắt giàn giụa, ngoái đầu thấy Dương Lăng sắp rẽ qua góc màn che, liền vội cất cao giọng nghẹn ngào nói to:
- Ơn giúp đỡ của Dương đại nhân, cả đời này học sinh Nghiêm Tung(*) sẽ không bao giờ quên!
(*): xem chú thích 8 ở chương 2 về nhân vật "nổi tiếng" này
Vừa mới rẽ qua màn che, nghe được lời gã Dương Lăng liền vấp chân, thiếu chút nữa thì ngã lộn cổ xuống sông.
*************** Chú thích:
(1) Vạn thế sư biểu: vị thầy mẫu mực của muôn đời.
Người đời sau tôn tặng Đức Khổng Tử là: Vạn thế sư biểu, là vị thầy đúng nghĩa nhất, không ai có thể so sánh được với Ngài, làm kiểu mẫu muôn đời về sau. (theo Cao Đài)
(2) Dịch nghĩa: nửa bộ Luận Ngữ đủ trị vì thiên hạ, bài Đạo Đức Kinh trên thế gian chỉ một không hai.
Đạo Đức Kinh tác phẩm kinh điển của Đạo giáo do Lão Tử soạn còn Luận Ngữ là sách sưu tập ghi chép lại những lời dạy của Khổng Tử và những lời nói của người đương thời.
Câu này cho thấy những nhà hủ nho trọng văn như thế nào.
(3) Chỉ chức quan lang nằm ngoài nhóm quan chính (chính viên) trong bộ Lễ.
- Những người không liên quan mau lánh đi mau! Đương kim thánh thượng sắp đến tuần thị trường thi đây.
Chu Hậu Chiếu nghe nói lão tử của y sắp đến, giật nảy cả người, vội vàng đứng dậy. Bọn bộ khoái vung chổi quét tứ tung, bụi đất mù mịt. Không cần bọn chúng đuổi, những người dân đứng chờ ở ngoài trường thi cũng phải vội vàng lánh vào trong rừng cây đối diện bên đường.
Người bán trà rong hô xui xẻo, cũng vội gọi bà vợ bê bàn ghế, những bộ trà nhanh chóng chuyển chỗ, cũng lúc này Dương Lăng mặt mày hầm hầm từ góc bên kia của mành vải quẹo ra. Chu Hậu Chiếu mừng rỡ, vội vàng nói:
- Ngươi về thật đúng lúc! Mã Vĩnh Thành! Ngươi thường xuất cung mua sắm, mau giới thiệu một quán rượu kha khá, chúng ta đi ăn một bữa no nê đi!
Thấy giọng của y tương đối lớn, Cốc Đại Dụng giật mình, vội thấp giọng bẩm:
- Thái tử gia cẩn thận, đừng để người khác nghe thấy.
Quen nhìn sắc mặt người khác, bọn Lưu Cẩn, Trương Vĩnh đều nhận ra vẻ không vui của Dương Lăng, có điều chúng nghĩ đến nát óc cũng không biết y gặp phải chuyện gì.
Dương Lăng không ngờ vì nhất thời hảo tâm mình đã giúp đỡ một tên đại gian thần có tiếng trong lịch sử, lúc này lại nghe Chu Hậu Chiếu đòi đi ăn uống, càng cảm thấy đau đầu. Y vội tiến sát đến bên cạnh Châu Hậu Chiếu, thấp giọng nói:
- Thái tử! Chúng ta rời cung đã lâu, kéo dài thời gian e rằng bệ hạ sẽ phát giác.
Theo vi thần thấy, chúng ta hãy đi ăn chút cơm rồi mau chóng đến bộ Binh thôi!
Chu Hậu Chiếu cũng thấp giọng cười nói:
- Dương thị độc không cần phải lo lắng! Một lát nữa phụ hoàng sẽ đi tuần thị trường thi, trong thời gian ngắn sẽ chưa về cung đâu. Chúng ta đi tìm chỗ ăn uống một chút, đợi ta ăn no bụng rồi sẽ thuê xe đến bộ Binh lấy đồ.
Chu Hậu Chiếu nghĩ đường đường thái tử ra mặt, Lưu Đại Hạ thế nào cũng phải nể mặt, đòi một ít đồ há không dễ như trở bàn tay ư?
Mã Vĩnh Thành nghe lệnh của Chu Hậu Chiếu, vội dẫn cả bọn quay lại đường lớn, mười người thuê hai cỗ xe ngựa. Biết phụ hoàng của y muốn đến học cung, Chu Hậu Chiếu sợ sẽ bị ông ta phát hiện nên dặn dò Mã Vĩnh Thành đi càng xa càng tốt. Xe ngựa đi khắp đường to lối nhỏ được một lúc, Chu Hậu Chiếu từ trong xe nhìn thấy một con hẻm nhỏ bên đường vô cùng phồn hoa, đầu hẻm có một quán rượu, cờ bay phất phới, thật là vô cùng náo nhiệt. Y gõ vào thành xe, gọi Mã Vĩnh Thành dừng lại.
Mã Vĩnh Trinh đưa mắt nhìn, thì ra hẻm nhỏ này chính là hẻm Bách Thuận, là một nơi phong nguyệt nổi tiếng của kinh thành, lòng không khỏi thầm kêu khổ.
Hoàng đế Hoằng Trì chỉ có một đứa con trai, có thể nói ông vô cùng sủng ái Chu Hậu Chiếu, thêm vào đó bản thân hoàng thượng cũng thường lén rời cung nên cho dù có biết Thái tử tự ý xuất cung, cùng lắm ông cũng sẽ cho đánh bọn gã vài gậy lấy lệ. Vì vậy đám thái giám này mới dám xúi Thái tử xuất cung, nhưng nếu hoàng thượng biết bọn hắn dẫn tiểu thái tử đến chốn trăng hoa, vậy tội không nhẹ rồi.
Nhưng gã lại không dám nói rõ với Chu Hậu Chiếu. Tính tò mò của vị Thái tử này quá lớn, càng là nơi không cho y đến, y càng muốn đến. May mà y chỉ vừa ý với tòa tửu lầu đầu hẻm kia, vậy đi vào mau chóng ăn uống một chút rồi nhanh chân rời khỏi là được.
Mã Vĩnh Thành dừng xe rồi trả tiền, tranh thủ dặn bọn người Lưu Cẩn, Trương Vĩnh vài câu. Mấy tên thái giám già gật đầu lia lịa, mau chóng bước lên bảo hộ Chu Hậu Chiếu vào tửu lầu, chỉ sợ "con ngựa hoang" này lại nhất thời nổi hứng đi dạo lung tung trong hẻm này.
Cả bọn bước lên lầu. Mã Vĩnh Thành chọn những món ngon nhất dọn lên đầy một bàn, mười người bắt đầu ăn uống trong gian phòng nhỏ yên tĩnh gần cửa sổ. Chu Hậu Chiếu còn nhỏ nhưng lại thích uống rượu, song vì y còn ít tuổi, tửu lượng còn thấp, uống được vài chén thì mặt đã đỏ bừng, bèn kêu Ngụy Bân mở cửa sổ cho thoáng khí.
Tiết tháng ba, ánh mặt trời rạng rỡ, không khí cũng vô cùng mát mẻ, gió xuân hây hây. Chu Hậu Chiếu bỗng cảm thấy phấn chấn tinh thần, y nổi hứng đứng dậy rót rượu cho bọn Dương Lăng, ép bọn họ cũng uống vài ly.
Chu Hậu Chiếu đang uống vui vẻ, bỗng nghe có tiếng đàn sáo từ ngoài cửa sổ loáng thoáng vẳng lại. Vốn yêu thích âm nhạc, y bất giác dừng chén tập trung lắng nghe.
Y hoàn toàn không hứng thú với âm nhạc truyền thống trong cung đình, nhưng lại rất thích những khúc ca dân gian, kỳ âm của dị vực, lúc này nghe khúc nhạc kỳ diệu êm tai từ phía xa vẳng lại, tuy nhạc khí sử dụng vẫn là đàn sáo, nhưng phong tình lại không giống với phong cách âm nhạc trong cung đình.Y bất giác đứng dậy dựa vào lan can nhìn ra xa, hứng thú chỉ xuống một dãy nhà tứ hợp viện hai tầng ở phía dưới hỏi:
- Đại Thành, đó là nơi nào?
Mã Vĩnh Thành và Lưu Cẩn đưa mắt nhìn nhau, lắp ba lắp bắp đáp:
- Ồ... lão nô cũng không biết, chắc là nhạc kỹ[2] do bọn lái thương mời đến đang ca hát.
Chu Hậu Chiếu vỗ tay nói:
- Có rượu mà không có nhạc sao được? Mau đi gọi một người lên đây, ta cũng muốn nghe đàn hát.
Mã Vĩnh Thành mặt mày khổ sở chần chừ không muốn động đậy. Vừa vặn lúc này ông chủ quán rượu thấy những người khách bàn này hào phóng nên đích thân
bưng thêm một con cá chép lớn vào phòng, Chu Hậu Chiếu quay lại gọi ông ta:
- Chủ quán, ta nghe có tiếng đàn sáo ở bên kia rất thú vị. Mau đi gọi cho ta một người đến, ta muốn nghe nhạc.
Thấy y ngồi ở vị trí chủ trì, chủ quán biết tiểu công tử này tuy nhỏ tuổi nhưng lại là người cầm đầu đám thư sinh này. Ông ta nhìn ra cửa sổ một cái, cười đáp:
- Khách quan, nhạc kỹ ở bên kia không biểu diễn ở bên ngoài, khách quan muốn nghe nhạc, thì phải đến tận nơi để nghe.
Chính Đức nghe vậy thì lấy làm tò mò, hỏi:
- Ơ, phải nhạc kỹ không vậy? Sao lại tự cao tự đại như vậy, đâu phải là không trả tiền, tại sao lại tự đại như vậy?
Chủ quán thấy y nhỏ tuổi, đoán rằng y vẫn còn chưa hiểu cho lắm, nhưng mấy tay thư sinh bên cạnh, ai ai cũng lộ vẻ quái dị, nói không chừng là khách thường xuyên trong chốn phong lưu. Ông ta cười đáp:
- Khách quan có điều không biết! Các cô nương trong hẻm này đều là người có thân phận, thường ngày chỉ tiếp quan lại quyền quý, phú gia công tử, bình thường không dễ gì xuất đầu lộ diện.
Nơi vọng lại tiếng nhã nhạc đàn sáo kia là Thì Hoa Quán, càng là nơi nổi danh trong hẻm Bách Thuận này của chúng tôi. Cô nương xinh đẹp trong quán cũng là nhiều nhất, các cô nương do tú bà Nhất Xứng Kim ở đó dạy dỗ ai ai cũng tinh thông cầm kỳ thi họa. Thường ngày ra vào nơi đó đại đa số đều là những danh sĩ phong lưu, quan lại quyền quý có danh phận, quán rượu này của tôi còn nhỏ, không mời được cô nương bọn họ.
Châu Hậu Chiếu phong lưu hoang đường được lưu truyền hậu thế lúc này vẫn chỉ là một thằng nhóc chưa biết gì, hoàn toàn không có hứng thú với nữ sắc, chỉ muốn kêu người đến ca hát mà thôi, nghe nói nhạc kỹ ở đó không diễn ở bên ngoài, lập tức không còn chút hứng thú.
Chủ quán lại nói:
- Tiểu công tử nếu muốn đi xem cho mở tầm mắt, Thì Hoa Quán cũng thât là một nơi tốt để đi. Nơi đó những cô nương đang nổi tiếng như Hương Bảo Nhi, Khả Liễu Nhi đều xinh đẹp vô cùng, tiểu công tử nhân phẩm tuấn tú như vậy, bọn họ nhất định sẽ rất thích đó. Trong Thì Hoa Quán còn có ba tiểu cô nương xinh đẹp hơn nữa, vẫn còn chưa tiếp khách, đều là những thanh quan nhân[3].
Ba cô nương này tuy còn ít tuổi, nhưng đều là những mỹ nữ có vẻ đẹp trời cho. Một người tên là Tuyết Lý Mai, giỏi thổi tiêu; một người tên là Đường Nhất Tiên, giỏi gảy đàn; còn một người nữa là Ngọc Tỷ Nhi, ca múa đều giỏi. Ba người này tài nghệ và tướng mạo đều thập phần xuất chúng, tuổi tác cũng tương đương với công tử đây.
Nghe mấy cái tên Tuyết Lý Mai, Đường Nhất Tiên, Dương Lăng lờ mờ cảm thấy quen tai, tựa như đã đừng nghe qua. Nhớ trong chín kiếp luân hồi của y, kiếp cuối cùng nhập vào xác một ca sĩ nổi tiếng, từng đóng một vai trong một bộ phim liên quan đến triều Minh, dường như lúc đó đã nghe qua mấy cái tên này.
Dương Lăng nghĩ thầm: "Những nhạc kỹ này có thể lưu danh đến hậu thế, chắc cũng là danh kỹ đương thời, lẽ nào bởi vì qua tay Chính Đức, cho nên mới nổi danh? Thế nhưng trong lịch sử trước đây Chính Đức không có lần xuất cung này, phải tranh thủ tên tiểu tử này còn chưa hiểu gì về nữ sắc, lái chuyện này đi, không để cho y sa vào con đường đó."
Dương Lăng bèn không thèm suy nghĩ đến mấy cái tên nghe quen tai này nữa, vội gắt chủ quán:
- Đi đi đi! Bớt huyên thuyên đi, mấy người chúng ta có gì mà chưa từng thấy! Vị tiểu công tử này của chúng ta tôn quý vô cùng, làm gì có việc hạ thấp thân phận đi gặp một ca kỹ chứ? Mau lui xuống!
Y vốn muốn thổi Chu Hậu Chiếu một tí để y tự thị thân phận bỏ ý muốn nghe nhạc đi, nhưng Chu Hậu Chiếu lại cười tít mắt, dễ dãi :
- Không sao, không sao! Ngươi nói một người giỏi thổi tiêu, một người giỏi gảy đàn, một người giỏi ca múa, vậy ba người này quả là tuyệt phối. Thế nhưng khúc nhạc ta nghe thử này nếu như là do bọn họ biểu diễn thì nhạc lý của họ cũng bình thường thôi.
Bọn người Lưu Cẩn lo lắng phập phồng sợ Chu Hậu Chiếu nhất thời hứng lên, đòi đến đó nghe ca hát. Nghe thấy y nói vậy mới yên tâm, nhao nhao phụ họa:
- Đúng vậy, đúng vậy! Công tử có gì mà chưa từng thấy chứ? Thôi đừng để ý, chúng ta uống rượu nào.
Chủ quán thấy Chu Hậu Chiếu hiền hòa, liền giả lả:
- Lúc này tấu nhạc chưa hẳn đã là các cô nương đó! Mấy vị khách quan không đi xem tài nghệ của bọn họ một lần, về sau muốn đi xem thì thiếu mất một vị rồi.
Chu Hậu Chiếu hiếu kỳ hỏi:
- Tại sao lại thiếu một người? Chủ quán đáp:
- Nghe nói vị thương nhân họ Nghiêm để ý đến Ngọc Tỷ Nhi cô nương, bỏ ra nhiều tiền mua nàng ta về làm thiếp. Mấy ngày nay Ngọc Tỷ Nhi cô nương đều lấy nước mắt để rửa mặt, rất là đau buồn.
Dương Lăng nghe vậy lấy làm lạ vô cùng, bất giác hỏi:
- Cái gì? Làm gì có chuyện đó? Gả cho người khác làm thiếp cũng tốt hơn cái nghề bán tiếng cười cho người không quen biết, nàng ta có gì mà không vui chứ?
Chủ quán đáp:
- Khách quan chắc rằng ít khi đi lại chốn phong nguyệt, cho nên không biết tập tục nơi đó. Nếu là một cô nương bình thường, có người chuộc thân thoát khỏi bể lửa cho nàng ta, tất nhiên là điều mong mà không được. Nhưng Ngọc Tỷ Nhi cô nương
còn trẻ, đã là thanh quan nhân có tiếng tại đây, về sau nhất định sẽ nổi danh. Danh kỹ đều lấy việc gả cho quan gia và văn nhân làm điều vinh dự, nếu ai bị thương nhân mua về làm thiếp thì đó là kết cục tồi tệ vô cùng, làm sao nàng ta cam tâm chứ?
Chu Hậu Chiếu nghe vậy cảm thấy thú vị, y hứng chí vỗ bàn đánh bộp, hạ lệnh:
- Đi! Chúng ta đi xem thử rốt cuộc ba nàng nhạc kỹ này có chỗ nào xuất chúng.
*************** Chú thích:
[1] Ngũ Thành Binh Mã ty: Năm Vĩnh Nhạc thứ hai (1404) nhà Minh thiết lập Bắc Kinh binh mã chỉ huy ty, sau khi định đô tại Bắc Kinh lập thành Ngũ thành binh mã ty, tức Trung, Đông, Tây, Nam, Bắc thành binh mã chỉ huy ty, là nha môn hàm Chánh lục phẩm. Mỗi ty lập ra một chỉ huy, bốn phó chỉ huy, một lại mục phụ trách trị an, phòng cháy và khai thông sửa chữa đường phố, vân vân, tương đương với Khu cảnh vệ Bắc Kinh và Cục công an ngày nay.
[2] Nhạc kỹ: Trung Quốc xưa gọi chung những nghệ nhân theo nghiệp âm nhạc, ca hát là Nhạc kỹ.
[3] Thanh quan nhân chỉ những phụ nữ chỉ bán nghề không bán thân, còn Hồng quan nhân chỉ những phụ nữ vừa bán nghề lại bán thân trong chốn hoan trường.
- Muộn...muộn lắm rồi, công tử! Hãy để hôm khác đi đi, đừng quên là lát nữa chúng ta còn có việc quan trọng cần làm đó.
Dương Lăng cũng vội tiếp lời:
- Đúng vậy, công tử! Những nơi đó tốt hơn hết là không nên đi, nếu để lệnh tôn biết được, chắc chắn sẽ bị trách phạt đó.
Trong những người này, suy cho cùng đám Lưu Cẩn và Cốc Đại Dụng cũng chỉ là nô tài, nhưng y lại là Thái tử thị độc, chịu trách nhiệm dạy dỗ thái tử, nay thành ra xúi giục Thái tử đi thanh lâu kĩ viện, tội ấy thực sẽ không nhẹ.
Cho dù Hoằng Trị lo cho sĩ diện của hoàng gia, không dám hé lộ chuyện Thái tử trốn ra ngoài, gán bừa cho y một tội danh nào đó cũng đều có thể khiến cho y chết dễ như trở bàn tay. Mặc dù từ những năm đầu lập nước Đại Minh đã lập ra một "Giáo Phường Ty" to lớn, quan lại không những tự mình mua bán phụ nữ, mở kĩ viện, mà còn đưa cả vợ và con gái của những quan viên phạm tội vào làm kĩ nữ miễn phí, có thể nói là đã làm đủ chuyện thất đức. Nhưng trong pháp điển lại công khai quy định một điều là: "nghiêm cấm quan lại quan hệ với kĩ nữ, ai trái lệnh sẽ bị phạt sáu mươi trượng".
Tuy rằng điều luật này vốn chưa từng được ai tuân thủ theo, trên dưới Đại Minh đều mắt nhắm mắt mở làm ngơ, nhưng không có nghĩa là điều luật này đã đi mất hiệu lực. Chỉ cần Hoàng đế lấy danh nghĩa này để trừng trị y, bọn tướng quân đại hán sẽ dốc toàn lực "giúp cho" mông của y được "tiếp xúc thân mật" với sáu mươi trượng, lúc đó y không chết cũng thành tàn tật.
Chu Hậu Chiếu thấy bọn họ hết người này đến người khác nhảy ra khuyên
ngăn, còn đưa cả phụ hoàng ra doạ mình, đành nói với vẻ không vui:
- Thôi, không đi thì thôi! Cái này không được, cái kia cũng không xong, thật là mất hứng.
Bọn người Dương Lăng sợ lát nữa Chu Hậu Chiếu sẽ lại đổi ý nên cũng không còn tâm trạng nhâm nhi thưởng thức mà vội vã ăn cho xong. Mã Vĩnh Thành nhanh chóng trả tiền rồi đưa Thái tử xuống lầu. Cả bọn đang đứng trước cửa quán định gọi xe thì thấy một người đàn ông mặt ngựa trạc tứ tuần dẫn theo vài tên đầy tớ to khỏe bước đến, vừa đi vừa đùng đùng quát mắng:
- Chẳng phải đã nói sau ba ngày sẽ đến đưa người đi sao? Sao tên Tô Hoài chó má đó lại đổi ý rồi?
Cạnh bên, một gã đàn ông nhỏ thó, dáng nhanh nhẹn đang chạy chậm theo hắn cười xiểm nịnh nói:
- Nghiêm đại gia! Nghe nói có tên lại mục ở Ngũ Thành Binh Mã Ty cũng để mắt tới Ngọc Tỷ Nhi, chi tiền nhiều hơn ngài. Hai vợ chồng Nhất Xứng Kim suy nghĩ lại rồi nổi lòng tham, nói rằng Nghiêm đại gia ngài vàng bạc châu báu đầy nhà, chắc không ngại bỏ ra thêm ít tiền. Nhưng mà công việc ngày thường của ngài là xây dựng, nếu như đắc tội với người của Ngũ Thành Binh Mã ty...
Ngừơi đàn ông mặt ngựa được gọi là Nghiêm đại gia bỗng nhiên dừng bước, lạnh lùng liếc mắt nhìn gã, giọng âm u:
- Tề Phương! Người nhận được bao nhiêu quà cáp của Tô Hòai mà nói giúp hắn trước mặt lão tử?
Tề Phương biến sắc, vội đáp:
- Đại gia! Xem ngài nói kìa, ai lạ ai thân chẳng lẽ tôi còn không biết sao? Sao tôi có thể nói giúp cho Tô Hoài được?
Nghiêm đại gia hừ một tiếng, mắng:
- Ai lạ ai thân? Tên chó má nhà ngươi chỉ thân với tiền bạc thôi, lão tử bỏ năm ngàn lạng bạc trắng ra chuộc thân cho Ngọc Tỷ Nhi, hắn còn muốn bao nhiêu nữa, hả? Đó là năm ngàn lạng bạc trắng bóng đó. Người của Ngọc Tỷ Nhi được khảm vàng hay nạm ngọc hay sao mà đáng giá đó? Ta khinh, hắn nằm mơ đi. Văn tự cũng đã viết rồi, hắn dám nuốt lời sao? Đi, hôm nay ta sẽ đến cửa đòi người, xem ai dám cản ta!
Chu Hậu Chiếu vừa nghe sắp có tiết mục cướp dâu để xem, tâm tư buồn bực khi nãy bỗng chốc trở nên phấn chấn, y hứng thú kéo Dương Lăng, gọi:
- Đi mau, đi theo xem náo nhiệt!
- Ơ kìa...!
Dương Lăng chưa kịp kéo lại, Chu Hậu Chiếu đã nhanh như chớp đi theo sau mấy người kia. Dương Lăng giậm chân, rồi cùng đám người Lưu Cẩn vội vã đuổi theo.
Khắp con phố này đều là tường thấp, hoa nở rực rỡ, trên cánh cửa trước một lạc viện trang nhã có treo tấm biển đen sơn vàng đề: "Thì Hoa Quán". Vị Nghiêm lão gia kia đã dẫn người xông vào. Chu Hậu Chiếu dẫn đầu cả bọn cũng hứng chí đi theo vào trong.
Vừa bước vào cửa chính là một giếng trời rộng lớn, dưới những cây cột dựa dọc hành lang là những chiếc bàn nhỏ nhắn vuông vức, khách làng chơi thường ngồi đây uống trà, tuyển chọn các cô nương. Vì trời vẫn còn sớm nên dưới hành lang không hề có khách.
Lầu hai phía trên giếng trời là một dãy những căn phòng nhỏ, trước cửa đều có treo biển. Đây là phòng của những kỹ nữ bình thường nhất của kĩ viện. Đi sâu vào gian lạc viện thứ hai mới là nơi ở của các hồng cô nương*, đẳng cấp rõ ràng chênh lệch nhau xa. (*: xem chú thích về Hồng quan nhân ở chương trước)
Bọn người Dương Lăng vội vàng đuổi theo vào cửa, chỉ thấy cánh cửa nhỏ trong lạc viện thông ra hậu viện đang mở, vị thương gia họ Nghiêm cùng người đi
theo đã vào gian thứ ba, Chu Hậu Chiếu khấp khởi theo sau bọn họ. Dương Lăng sợ y gặp bất trắc, vội dẫn tám tên thái giám đuổi theo.
Chu Hậu Chiếu muốn xem náo nhiệt, làm sao nỡ bỏ đi, thế là bèn vừa trừng mắt vừa cầu khẩn bọn người Dương Lăng và Lưu Cẩn đang bám riết không buông. Vừa nhìn thấy người kia dẫn bốn tên gia nhân khỏe mạnh xông vào hậu viện, y cũng vội vàng đuổi theo.
Đuổi tới gian lạc viện thứ ba, một người đàn ông yếu ớt nghe tiếng động chạy ra đón đã bị họ Nghiêm túm lấy cổ áo lớn tiếng chửi mắng. Bọn Dương Lăng vội kéo Chu Hậu Chiếu định rời khỏi, Chu Hậu Chiếu đang xem náo nhiệt, làm sao chịu đi. Y lại trơ mặt ra vừa cầu khẩn vừa trừng mắt, vừa đánh vừa xoa chứ nhất quyết không chịu bỏ đi.
Người đàn ông yếu ớt đó chính là tú ông Tô Hoài, hắn vừa cười nịnh bợ Nghiêm Khoan vừa nói:
- Nghiêm lão gia, cần gì phải tức giận như vậy chứ? Tôi đã nhận tiền của ngài, đương nhiên là sẽ không nuốt lời. Chỉ là Ngọc Tỷ Nhi đã theo vợ chồng tôi từ lúc năm tuổi,nhất thời không nỡ rời xa, vì đau lòng mà cơ thể cũng đã mang chút bệnh. Nghiêm gia hãy nương cho một khoảng thời gian nữa được không? Cùng lắm chỉ phải đợi thêm mấy ngày nữa thôi.
Nốt ruồi đen có lông trên má của Nghiêm Khoan rung lên, hắn nhe răng cười gằn đáp: - Khốn kiếp, kỹ nữ vô tình, con hát vô nghĩa, người như cô ta sao có thể không nỡ rời bỏ Tú ông,Tú bà như các ngươi chứ? Nghe nói các ngươi đang tìm một người mua khác, còn là một tên quan bé như hạt mè nữa, hê hê, phô trương thanh thế để dọa lão tử đây sao? Nhưng mà ta đã trả tiền rồi, có văn tự trên tay, có gặp quan ta cũng không sợ.
Một người phụ nữ trung niên mặc đồ tím nhạt từ sương phòng bên trái vội vàng đi ra, từ xa đã cười hì hì, nói:
- Ồ,Nghiêm đại gia, xem lời ngài nói kìa! Ngọc Tỷ Nhi là con nuôi của tôi, sau này nó theo ngài rồi thì ngài sẽ là con rể của tôi mà, sao có thể tổn hại hòa khí
được?
Thân phận kĩ nữ so với người thường thấp hơn một bậc, thuộc về tầng lớp hạ lưu, nhưng thương nhân cũng là tiện dân, chẳng tốt hơn nàng ta bao nhiêu. Hơn nữa, vị Nghiêm lão gia này lại là khách quen của Thì Hoa Quán, đều quen nhau cả, cho nên Nhất Xứng Kim mới dám trêu hắn mấy câu thô tục.
Nhất Xứng Kim tuổi ngoài tứ tuần, nước da trắng mịn, tuy trên mặt có vài nếp nhăn nhưng làn thu ba dập dờn xinh đẹp và sắc sảo, dáng vẻ thướt tha vẫn rung động lòng người.
Nghe lời nói chêm chọc cười này của bà ta, ông chủ Nghiêm không xụ mặt nữa, hắn buông Tô Hoài ra cười nhạt:
- Năm ngàn lạng bạc, làm đứa con rể này không rẻ đâu à! Nhất Xứng Kim! Bớt giở trò trêu chọc ta đi, ngươi nói không nuốt lời? Được, coi như ta nghe nhầm, dù sao bây giờ nàng ấy là thiếp của ta, ba ngày sau vẫn là của ta. Vậy chọn ngày không bằng ngẫu nhiên, hôm nay ta muốn thành thân cùng nàng, ngươi thấy thế nào?
Nhất Xứng Kim biến sắc, gượng cười nói:
- Nghiêm đại gia! Tuy hứa gả Ngọc Tỷ Nhi cho ngài, nhưng suy cho cùng vợ chồng tôi đã nuôi nấng nó đến chừng này, sao có thể không có chút tình cảm nào chứ? Nay đứa con này không khỏe, yếu ớt sợ hãi, vợ chồng chúng tôi cũng rất đau lòng, sau này nó sẽ là người chung chăn gối với ngài rồi, chẳng lẽ ngài không đau lòng sao?
Nhất Xứng Kim vừa nói vừa liếc nhìn tướng công của mình, Tô Hoài nhún nhún vai, không nói tiếng nào. Thì ra vị Nghiêm lão gia này tên là Nghiêm Khoan, là khách quen của Thì Hoa Quán. Hôm đó ngủ thân mật với một hồng cô nương tại gian lạc viện thứ hai, nên đã qua đêm ở đây. Sáng dậy mở cửa sổ, đúng lúc nhìn thấy Ngọc Tỷ Nhi từ hậu viện đi ngang qua, thế là lập tức hồn siêu phách lạc
Nghiêm Khoan là một thương gia ham tiền, vốn không ưa trò ngắm trăng vịnh cảnh, nghe nhạc làm thơ, chỉ vì học đòi nho nhã để lấy lòng thanh quan nhân này
nên cũng đứt ruột tốn một đống bạc giả làm người nho nhã vài ngày. Nhưng cả mấy lần ngay đến bàn tay nhỏ bé của người ta cũng chưa được đụng đến.
Hắn nghĩ thay vì lấy dao cùn cắt thịt, chi bằng tốn một đống bạc lớn đưa tiểu mỹ nhân đẹp mê hồn này về nhà thưởng thức cho đã. Hôm đó đúng lúc Nhất Xứng Kim đang bệnh, tướng công của bà ta lo việc làm ăn, tuy thanh lâu là mỏ vàng, năm ngàn lượng đối với ông ta mà nói cũng không phải là một con số tầm thường. Hắn tính từ lúc mua Ngọc Tỷ Nhi ở Đại Đồng Sơn Tây về chỉ tốn tám trăm văn tiền, nay nuôi được tám năm thì đã có thể đổi lấy năm nghìn lạng bạc, nên đã lập tức nhận lời ngay, còn lăn cả dấu vân tay lên văn tự nữa.
Khi Nhất Xứng Kim nghe được việc chồng mình tự ý quyết định, liền mắng hắn té tát. Mụ ta lăn lộn bao nhiêu năm trong chốn phong nguyệt nên Ngọc Tỷ Nhi sau này kiếm được bao nhiêu tiền trong lòng mụ ta rất rõ. Hơn nữa sau khi cô nàng nghe nói mình bị Tô Hoài bán cho một thương nhân thì đau đớn thương tâm, khóc lóc om sòm mấy trận, khiến Tô Hoài cũng có chút hối hận.
Nhưng văn tự đã ký làm sao nuốt lời được? Hai người bọn họ tính đi tính lại,cố gắng tạo ra tin đồn rằng tên lại mục ở Ngũ Thành Tư Mã ty cũng để ý Ngọc Tỷ Nhi, định dùng chức quan để chèn ép hắn.
Kì thực Ngũ Thành Binh Mã ty không phải là nha môn to tát gì, chỉ là một nơi quản lí trị an bình thường ở kinh thành (không kể Hoàng thành và Tử Cấm Thành). Lại mục lại càng không được xem như một chức quan, chỉ là cầm đầu của một nhóm tiểu lại, bình thường theo phía sau tuần thành ngự sử đi dạo phố phường, đợi nghe sai khiến, phất cờ hò reo, là một tên sai vặt không hơn không kém.
Kì thực tiểu lại của Ngũ Thành Tư Mã ty rất tội nghiệp, ngoài việc bắt mấy tên trộm, sai dân chúng quét dọn đường phố, dọn dẹp cống ngầm, kiểm tra cân đong của thương buôn có chính xác không và đánh đập những tên dân ngu xuẩn phóng uế bừa bãi, thì vốn không có quyền quản lí hoặc chấp pháp. Khắp kinh thành đều là người quyền quý, bọn họ còn có thể quản lí ai?
Nhưng một tiểu lại như vậy muốn áp chế thương nhân cũng rất dễ dàng.
Nghiêm Khoan ở kinh thành làm ăn chẳng phải thường sợ nha môn quản lí trị an,
thành quản, vệ sinh phòng dịch ở đây nắm thóp sao? Không ngờ lời này thông qua Tề Phương đến tai hắn, Nghiêm Khoan này lại không để tâm, vẫn tìm đến tận cửa. Hai vợ chồng bọn họ nhất thời không biết hắn có bối cảnh lớn cỡ nào.
Nghiêm Khoan nghe xong lời Nhất Xứng Kim vừa nói liền cười ha hả, đáp bằng giọng quái gỡ:
- Đau lòng? Để những cô nương yểu điệu xinh đẹp ở trong kĩ viện này của ngươi bị người này người kia chọc vào, ta mới đau lòng đó. Sao? Một kĩ nữ như ả mà dám chê thân phận ta thấp hèn sao? Đừng vuốt mặt mà không biết nể mũi, chỉ có người ta chọn ả thôi, làm gì tới lượt ả chọn khác. Ta có tiền, ta chính là đại gia!
Cửa phòng đối diện đang đóng chặt bỗng mở toang, một tiểu cô nương với khuôn mặt trang điểm nhẹ, khoác áo lụa thêu hoa mẫu đơn, mặc váy xếp nếp màu xanh lá mạ từ trong bước ra rất nhanh. Nàng đứng ở cửa, nhướng mày, vẻ mặt lạnh lùng nói:
- Nghiêm đại gia, mong ông nói chuyện khách sáo cho! Tuy ông có tiền nhưng chẳng là gì đối với tỉ muội chúng tôi cả. Ông muốn mua mèo mua chó gì tùy ông, nhưng tỷ tỷ tôi không trông mong được vào nhà ông đâu. Huỷ ước chẳng phải là đền gấp đôi sao? Tiền này chúng tôi sẽ trả.
Cô nương mặc váy xanh này tư thế yểu điệu, nước da trắng ngần, phía dưới hàng chân mày nhạt là một đôi mắt xinh đẹp và vô cùng sắc sảo, âm thanh khi nói chuyện vừa giòn vừa gấp, giống như rang đậu vậy.
Chu Hậu Chiếu không nhịn được, tấm tắc cười khen:
- Cô nương này lợi hại thật, hơn kẻ bất lực kia nhiều.
Dương Lăng và Cốc Đại Dụng nghe xong nhìn nhau cười một cách khổ sở. Nghiêm Khoan chau mày nói:
- Tuyết Lý Mai cô nương, cô nói thật dễ, muốn hủy ước cũng phải được sự đồng ý của ta mới được. Tiền? Ta đây không thiếu, chỉ thiếu mỗi con mèo con chó
làm ấm giường. Ngọc Tỷ Nhi này, lão tử quyết lấy rồi!
Hắn rút từ trong ngực áo ra một tờ văn tự, lạnh lùng đưa trước mặt Tô Hoài nói:
- Trên văn tự này của ta còn có dấu vân tay của ngươi đó. Sao, chúng ta có cần lên nha môn gặp nhau không?
Lại thêm một vị tiểu cô nương từ bên trong tú lâu đó bước ra, đi thẳng đến trước mặt Nghiêm Khoan rồi nói với giọng cầu khẩn nhẹ nhàng:
- Nghiêm đại gia! Thường có câu cố hái dưa dưa sẽ không ngon, những chuyện như vậy đôi bên phải tình nguyện mới được. Ngài hãy rủ lòng khai ân, buông tha Ngọc Tỷ Nhi đi.
Nghiêm Khoan cười ha hả, híp mắt nói:
- Vẫn là Nhất Tiên cô nương ăn nói ngọt ngào, làm cho người khác thích thú, đâu như thứ đàn bà miệng mồm đanh đá kia, ha ha ha.
Dương Lăng nghe giọng nói nàng ngọt ngào, cũng không khỏi liếc nhìn một cái. Vị cô nương Đường Nhất Tiên này cũng chỉ khỏang mười ba mười bốn tuổi, dáng người nhỏ nhắn, khuôn mặt xinh đẹp rực rỡ, trên khóe môi có một nốt ruồi son, toát lên vài phần hoạt bát. Nàng liếc Nghiêm Khoan cười thẹn thùng, nũng nịu nói:
- Vậy là Nghiêm đại gia đã đáp ứng?
Nghiêm Khoan thấy thế xương cốt liền nhũn ra, hắn híp mắt nói:
- Đáp ứng ư? Ta đáp ứng gì chứ? Vàng bạc mua nụ cười, người đẹp đón niềm vui, mua bán công bằng mà. Hề hề, cô bé có dáng vẻ động lòng người, vài năm nữa cũng sẽ thành tiểu yêu tinh. Đừng vội, đừng vội! Cuối năm nay ta sẽ kiếm thêm được một món tiền kha khá nữa, đến lúc đó ta cũng sẽ mua cô về bầu bạn với Ngọc Tỷ Nhi. Chúng ta một giường ba người, cô thấy thế nào?
Hiện nay Đường Nhất Tiên, Ngọc Tỷ Nhi và Tuyết Lý Mai đều có thân phận
thanh cao, khách nhân bọn họ tiếp đãi thường ngày đều tương đối nho nhã, nào ăn nói thô tục như hắn. Nàng nghe xong vừa giận vừa thẹn, nhưng nhất thời lại không dám phát tác.
Nghiêm Khoan phe phẩy văn tự trên tay,đang dương dương tự đắc, bỗng tay chợt hẫng đi, một giọng vịt đực ồm ồm cất lên bên tai:
- Cầm lông gà mà tưởng là thẻ lệnh, thô bỉ hết chỗ nói, tục tằn không chịu nổi!
Để ta xem là cái giống gì.
Nghiêm Khoan thất kinh, ngoái đầu lại nhìn, thì thấy một tiểu thư sinh đang cầm văn tự trên tay, mở hết cở cổ họng vịt đực đọc to:
- Bản ty lạc hộ(1) Tô Hoài, hiện có con gái nuôi Ngọc Đường Xuân, tên thật là Tô Tam, vốn mong tiếp khách dưỡng lão. Nay có thương nhân Nghiêm Khoan phải lòng tiểu nữ, Tô Hoài đã nhận năm nghìn lạng bạc làm lễ vật chuộc thân. Từ nay về sau...
*************** Chú thích:
(1) Lạc hộ là kỹ viện, nhà chứa
Chu Hậu Chiếu thấy hắn đưa tay ra cướp thì bèn vội tránh sang bên cạnh, bàn tay Nghiêm Khoan liền vỗ trúng vào cánh tay y. Tay Chu Hậu Chiếu chợt trầm xuống, roạt một tiếng vang lên, lập tức tờ văn tự chuộc thân rách thành hai nửa.
Chu Hậu Chiếu cả mừng, bèn dùng cái giọng vịt đực của mình cười nói:
- Mọi người đều thấy rồi đó nhé! Chính hắn ta tự xé tờ giấy này, không liên quan gì tới ta hết.
Nghiêm Khoan cuống lên, lập tức bước tới tung ra một quyền, miệng mắng:
- Đồ tiểu súc sinh, cút con mẹ mày đi!
Quyền của hắn đánh trúng ngay vào sống mũi của Chu Hậu Chiếu. Ngay lập tức Chu Hậu Chiếu choáng váng đầu óc, máu mũi chảy dài, không kìm được kêu ầm lên. Chu Hậu Chiếu vốn luyện võ từ nhỏ, khi ở trong cung cũng theo mấy thị vệ đại nội vốn là cao thủ được mời tới từ phái Võ Đang để luyện tập một số môn võ nghệ cao minh. Tuy nhiên một là y hoàn toàn không có kinh nghiệm thực chiến, hai là trước nay chưa bị người khác đánh bao giờ, do đó khi thấy mũi mình vừa đau vừa tê dại, đưa tay lên sờ thì thấy toàn là máu, trong lòng lập tức hoảng hốt, chẳng hề nghĩ tới chuyện đánh trả.
Nghiêm Khoan giật lấy hai mảnh giấy từ trong tay y rồi ghép lại, cũng may, ghép lại vẫn liền lạc, không có vấn đề gì cả.
Trông thấy Thái tử bị đánh, tám con "chim cun cút" liền như bị đào mất mộ tổ, lập tức đều lo lắng vô cùng, kẻ nào kẻ nấy mặt mũi đỏ bừng xông lên.
Tuy rằng thường thì thể lực của thái giám vẫn yếu hơn của người bình thường
một chút, thế nhưng trước khi vào cung Trương Vĩnh đã từng đọc qua binh thư, luyện qua võ nghệ, nên quyền hắn đấm ra cũng khá có uy lực. Nghiêm Khoan vừa mới nhét tờ văn tự vào trong ngực thì Trương Vĩnh đã vung quyền đấm trúng hắn, hắn loạng choạng lùi về sau mấy bước, tiếp đất bằng mông.
Nghiêm Khoan cả giận, lập tức quát tháo bốn tên thủ hạ khỏe mạnh của mình:
- Đánh cho ta!
Bốn tên tráng hán lập tức xông lên đánh nhau lộn tùng phèo với tám gã thái giám. Tuy rằng bốn tên tráng hán thấy đối phương đều là người đọc sách nên không dám nặng tay, thế nhưng tám kẻ yếu xìu như bún thiu kia làm sao là đối thủ của người ta cho được? Tuy là tám người đánh bốn, thế nhưng ngoại trừ Trương Vĩnh còn có công có thủ một chút ra, đám người còn lại đều chỉ có thể vừa lùi về phía sau vừa ăn đòn.
Nhìn cuộc đánh đấm "thê thảm đến không nỡ nhìn" ngay trước mắt, Dương Lăng thầm tính cho dù mình có tham gia thì cũng chỉ là thêm cái bia thịt cho người ta đánh mà thôi. Y bèn dứt khoát đi tới đỡ Thái tử dậy, đồng thời cất giọng thân thiết hỏi:
- Công tử, cậu thế nào rồi? Có sao không?
Chu Hậu Chiếu đang dùng tay che mũi, máu tươi không ngừng chảy ra qua kẽ ngón tay, miệng ú ớ không nói được câu nào. Bỗng có một bàn tay be bé xinh xinh từ bên cạnh đưa tới cho y một chiếc khăn tay tràn đầy hương thơm mê người kèm giọng nói ngọt ngào:
- Tiểu công tử, cậu hãy lau đi!
Chu Hậu Chiếu không khỏi ngẩn người, bất giác đưa tay nhận chiếc khăn.
Ngón tay y chạm vào tay người ấy, chỉ cảm thấy nó vừa mềm mại vừa láng mịn vô cùng, trong lòng chợt trào lên một cảm giác khác lạ trước nay chưa từng có. Ngay trước mắt y xuất hiện một đôi mắt như biết nói, bên trong ẩn chứa sự dịu dàng khó có thể miêu tả bằng lời, còn có cả sự quan tâm và thông cảm trong nụ cười nhè nhẹ
kia nữa, thật khiến lòng người phải rung động.
Chu Hậu Chiếu đưa chiếc khăn của Đường Nhất Tiên lên bịt mũi, lập tức ngửi thấy một mùi hương thoang thoảng ngập tràn. Y nhất thời như ngây ngốc, ngay cả lời Dương Lăng vừa nói cũng không nghe thấy.
Tô Hoài, Nhất Xứng Kim cùng với một vài tên quy công nghe ồn ào chạy đến nhìn thấy trước mắt có hơn chục người đang đánh nhau lộn tùng bậy, cũng chẳng biết là nên khuyên can hay nên giúp bên nào, nhất thời lúng ta lúng túng chẳng biết nên làm sao mới phải. Chợt nghe một tiếng hô yêu kiều trong trẻo vang lên:
- Đừng đánh nữa!
Giọng nói của thiếu nữ này cực kỳ dễ nghe. Bất giác mười hai người đang đánh nhau đều dừng tay lại, nhất tề nhìn về hướng phát ra âm thanh. Trong lầu có một thiếu nữ vận bộ áo trắng như tuyết đang đứng, mái tóc dài buông xõa sau lưng, thân hình thon thả tuyệt vời.
Thiếu nữ đó lạnh nhạt nói:
- Nghiêm đại gia, việc gì phải làm tổn thương người vô tội chứ? Xin ngài trở về đi, ba ngày sau Tô Tam sẽ đi theo ngài là được rồi!
Tuyết Lý Mai - thiếu nữ vận bộ áo xanh biếc đứng bên cạnh vội can:
- Chị Ngọc Tỷ Nhi, người như thế mà chị cũng muốn đi theo hay sao chứ? Tới gặp quan thì sao nào, muội quen người ở bộ Lễ...
Thiếu nữ áo trắng ngắt lời nàng, cất giọng buồn bã:
- Muội muội ngốc nghếch, nói những chuyện đó làm gì? Những lão gia đó ngâm thơ, vẽ tranh, bàn chuyện trăng gió với chúng ta chẳng qua chỉ là để tiêu khiển mà thôi. Người ta đã phải bỏ tiền ra, lại không nợ gì chúng ta cả, nếu thật sự phải đến chỗ quan phủ, chỉ sợ người ta còn không dám nhận đã từng quen biết chúng ta nữa kìa!
Nàng thở dài một hơi buồn bã, sau đó lại tiếp:
- Đừng nói gì thêm nữa, những người như chúng ta đều không nhà không cửa, tựa như là bông liễu bay trong gió, nhánh bèo trôi trong nước. Gió thổi bay tới đâu thì chúng ta bay tới đó, sóng cuốn tới đất nào thì chúng ta cũng chỉ có thể tới đất đó mà thôi.
Nghiêm Khoan phá lên cười ha hả, mắt liếc nhìn khắp xung quanh. Nhận thấy lúc này mấy tên thư sinh kia đã bị thủ hạ của mình đánh cho mặt mũi tím bầm, đang hậm hực nhìn về phía mình, có vẻ cũng không muốn gây sự thêm nữa, thế là hắn bèn dương dương đắc ý bảo:
- Được rồi! Sớm biết điều như thế này có phải là thoải mái hơn không, lúc ấy ông đây sao lại nổi giận chứ? Ha ha, chúng ta đi thôi! Nhất Xứng Kim, ba ngày sau ta sẽ tới mang người đi đó, nếu ngươi còn dám lằng nhằng đùn đẩy, hừ!
Hắn khẽ khoát tay, dẫn theo bốn tên tráng hán to khỏe nghênh ngang bỏ đi.
Dương Lăng đưa mắt nhìn về phía trong lầu, thấy một thiếu nữ đẹp như người trong tranh. Nàng ta vận bộ váy áo trắng như tuyết, trang điểm giản đơn, tuy bị vướng bởi bóng râm của tòa lầu nên không thể nhìn rõ dung mạo, thế nhưng chỉ nhìn thân hình cùng với cử chỉ lễ độ kia thôi cũng đủ thấy không hề thua kém vầng trăng rạng rỡ trên trời cao rồi. Lúc này nàng lại đứng ngay cạnh Tuyết Lý Mai đẹp tựa nhành mai trong tuyết, mỗi một động tác của các nàng đều nhã nhặn nhẹ nhàng, vẻ đẹp của cả hai càng tăng lên gấp bội.
Mỹ nữ này quả nhiên không thẹn với lời đồn, chỉ riêng cử chỉ cùng với khí chất kia thôi đã là không tầm thường rồi.
Bát hổ tuy từng là đàn ông nhưng lại đã tu luyện đến cảnh giới tối cao "bản lai vô nhất vật, hà xứ lạc trần ai" (Vốn là hư vô chẳng có vật gì, cớ nào lại nhiễm bụi trần cho được, hai câu trong bài kệ của Lục Tổ Huệ Năng - ND.), đẹp cũng được, xấu cũng đành, chẳng liên quan gì tới bọn họ hết, lúc này cả tám khuôn mặt chỗ xanh chỗ tím đều ghé đến chỗ Chu Hậu Chiếu để khoe công.
Chu Hậu Chiếu cũng chẳng để ý tới đám "xú bát quái" hàng thực giá thực kia
(Xú bát quái là từ để chỉ người xấu xí, trong đó xú nghĩa là xấu xí, bát là tám, quái là quái dị. Trong đoạn này xú bát quái là chỉ tám tên thái giám lúc này đã bị đánh cho mặt mũi sưng vù - ND.). Y vội lau dòng máu tươi chảy xuống tới bên miệng, sau đó lại chùi chùi mũi, thấy không còn máu chảy nữa. Y bớt lo hẳn, lập tức bỏ tay xuống, nói với Đường Nhất Tiên:
- Đa tạ cô nương, ta không sao rồi!
Đường Nhất Tiên nở nụ cười ngọt ngào nói:
- Vậy thì tốt! Những kẻ đó đều là người thô tục, ỷ mình có chút tiền thối tha mà đi ức hiếp người khác. Cậu là một thư sinh yếu đuối, cứ đọc sách thánh hiền của cậu là được rồi, sao lại đi đối đầu với đám vô lại ấy chứ? Sau này phải tự biết mình, đừng có cố quá mà rước họa vào thân!
Chu Hậu Chiếu thường ngày ở trong cung cũng không thiếu gì những cung nữ trẻ tuổi hầu hạ. Thế nhưng những nàng đó cho dù tướng mạo không tồi thì khi đứng trước mặt y cũng luôn tỏ vẻ nghiêm túc e dè, ngay cả thở mạnh một hơi cũng không dám, nào bình dị dễ gần như cô gái này. Đã thế nàng ta lại còn dám dạy bảo y, có điều lời dạy bảo lại nghe rất ngọt ngào, khiến người ta không kìm được lòng yêu mến.
Một sợi tơ tình mông lung chợt sinh ra nơi đáy lòng Chu Hậu Chiếu, tiểu cô nương dáng người nhỏ nhắn xinh xắn có giọng nói làm say lòng người này đã lặng lẽ đặt một dấu ấn vào trong trái tim y. Cho dù thân là Thái tử cao quý, thế nhưng y cũng là đàn ông, những người vừa mới biết đến chuyện ái tình chắc cũng hiểu được điều này, mỗi một lời nói tiếng cười, mỗi một hành vi cử chỉ của đối phương đều được y quan tâm để ý.
Chu Hậu Chiếu nghe nàng bảo mình là một thư sinh yếu ớt vô dụng thì cảm thấy hơi khó chịu, không kìm được đỏ bừng mặt nói:
- Ai nói là ta không đánh lại được hắn chứ? Với công phu Thập Đoạn Cẩm (Một loại võ công – ND.) của ta, cho dù là năm ba tên đại hán cũng không tới gần được, muốn dạy dỗ mấy tên nhãi nhép ấy còn chẳng phải là dễ như trở bàn tay sao?
Có điều vừa rồi... vừa rồi ta mới lần đầu động thủ với người khác, nhất thời ngây ra mà thôi.
Đường Nhất Tiên nghe y bốc phét rằng năm ba người cũng không thể tới gần mình, thế nhưng sau lại nói là chưa từng động thủ với người khác, nào biết được y nói thực, còn cho rằng gã tiểu thư sinh này khoe mẽ, không kìm được khẽ cười khúc khích đáp:
- Được rồi, được rồi! Công tử công phu lợi hại, tôi tin là được rồi chứ gì? Mũi cậu ổn rồi chứ? Không có việc gì thì về nhà sớm một chút đi, nơi như thế này ít tới một chút là tốt nhất!
Chu Hậu Chiếu thấy nàng cho rằng mình bốc phét, lập tức giận dữ đến đỏ bừng cả mặt. Đứng trước mặt người con gái lần đầu khiến trái tim y rung động, lại bị người ta coi là trẻ con, y làm sao có thể chịu đựng cho nổi? Chu Hậu Chiếu giậm chân hậm hực nói:
- Nàng không tin sao? Ta muốn trừng trị tên vô lại đó thực dễ như trở bàn tay, còn cả tờ văn tự chuộc thân rắm chó gì đó nữa, trông hắn cầm cứ như cầm bảo bối vậy. Hừ hừ, ta muốn lấy lại nó chẳng qua cũng chỉ cần một câu nói mà thôi.
Hai mắt Đường Nhất Tiên lập tức sáng lên, nhưng ngay sau đó lại thở dài một hơi với vẻ thất vọng. Vị tiểu công tử này chắc hẳn là công tử của nhà giàu nào đó, vì không biết trời cao đất dày nên mới dám nói lời ngông cuồng như vậy. Năm ngàn lượng bạc chẳng phải là con số nhỏ, cho dù y xuất thân từ gia đình giàu có, nhưng trưởng bối trong nhà y đời nào lại chịu để cho y lấy bạc ra tiêu xài hoang phí thế được?
Chu Hậu Chiếu thấy nàng không tin thì không khỏi cuống lên, y đưa mắt nhìn bọn thuộc hạ. Lúc này bọn Lưu Cẩn đều tay áo rách toang, mũ rơi ra ngoài, tóc tai tán loạn, mặt mũi sưng vù, bất luận là lôi tên nào ra cũng đều không có sức thuyết phục, thế là đành chỉ tay vào Dương Lăng nói:
- Nàng không tin sao? Không tin hãy hỏi y xem ta làm có được không nào!
Đôi mắt long lanh của tiểu cô nương đó nhìn chăm chăm vào Dương Lăng, ngay cả hai vị cô nương Tô Tam và Tuyết Lý Mai ở đằng sau cánh cửa tuy tỏ vẻ không để ý nhưng thực ra đều đang dỏng tai lên nghe. Dương Lăng hết cách nên đành gật đầu đáp:
- Không sai, lời của vị công tử này không phải là giả. Đừng nói là chỉ dạy dỗ cho tên vô lại kia một trận, cho dù là chuộc lại tờ văn tự kia cũng chẳng phải chuyện gì khó khăn.
Dương Lăng tướng mạo tuấn tú, phong thái hiên ngang, hiện giờ ngoài sáng y là Thái tử thị độc, trong tối là quan cao trong Cẩm Ỷ vệ, sự từng trải về tâm lý cùng với kinh nghiệm sống còn vượt xa tuổi tác hiện giờ, những lời y nói toát ra một sự uy nghiêm khiến người ta khó mà không tin. Tô Tam vốn đứng đằng sau bậc cửa lặng lẽ nhìn y, giờ nghe thế lập tức thở phào một hơi, Đường Nhất Tiên thì dùng giọng hoài nghi hỏi:
- Lời của công tử... là thật sao?
Trong suy nghĩ của nàng, vị công tử này dù rất có thân phận, đủ sức bức ép được Nghiêm Khoan phải trả lại tờ giấy chuộc người, thế nhưng nếu không phải vì y cũng đã động lòng với Ngọc Tỷ Nhi, việc gì lại phải bỏ ra một số tiền như thế chứ? Nhìn dáng vẻ y như cây ngọc đón gió, quần áo chỉnh tề, lại là một người đọc sách có thân phận, nếu y cũng muốn chuộc thân cho Ngọc Tỷ Nhi, nói không chừng tỷ ấy còn vô cùng mừng rỡ ấy chứ. Lúc này trong lòng nàng vừa mừng cho Ngọc Tỷ Nhi, lại vừa có mấy phần ngưỡng mộ và tự thương cho số phận mình.
Chu Hậu Chiếu đắc ý:
- Đương nhiên là thật rồi!
Y nghênh ngang chỉ tay vào Dương Lăng nói:
- Dương... Dương đại ca, chuyện này giao cho huynh đó. Hãy dạy dỗ cho tên khốn nạn kia một trận, sau đó thì đòi tờ văn tự chuộc người về!
Trong suy nghĩ của y, y là vua, Dương Lăng là bầy tôi, chuyện mà y giao cho Dương Lăng đi làm thì cũng giống như là y đã làm chuyện đó cho người khác.
Nhưng trong suy nghĩ của Ngọc Đường Xuân, Tuyết Lý Mai, Đường Nhất Tiên và đám người bọn Nhất Xứng Kim thì lại hoàn toàn khác. Sau khi nghe xong, cả bọn đều như giật mình hiểu ra, thảo nào tiểu thư sinh này lại tỏ vẻ chắc chắn như vậy, e là người bạn lớn tuổi hơn y một chút kia mới là nhân vật có lai lịch và chỗ dựa.
Ngọc Đường Xuân ở sau bậc cửa nhìn Dương Lăng chăm chú một hồi, nhận thấy lúc này y có vẻ như hơi sửng sốt. Vốn là một cô gái cực kỳ nhanh trí, nàng lập tức dịu dàng khom người cảm tạ:
- Vậy Tô Tam xin tạ ơn Dương công tử!
Thế này tức là sắt đã được rèn khi còn nóng, ván đã đóng thuyền. Chu Hậu Chiếu nghi hoặc hỏi:
- Hả? Người giúp đỡ là ta cơ mà, tại sao nàng lại đi cảm ơn y vậy? Đường Nhất Tiên bật cười đáp:
- Ai nói là không cảm ơn cậu chứ? Nếu hai vị công tử chịu giúp đỡ, tiểu nữ sẽ bày tiệc cảm ơn cả hai.
- Được!
Chu Hậu Chiếu nghe nói nàng sẽ bày tiệc để cảm tạ, trong lòng không khỏi mừng rơn, lập tức nói ngay:
- Chúng ta đi đây, các nàng cứ đợi tin tốt của chúng ta nhé! Muộn nhất là ba ngày, chuyện này nhất định sẽ được giải quyết xong!
Lúc này trong lòng y, trong mắt y chỉ có một nàng Đường Nhất Tiên yêu kiều xinh đẹp, y chỉ hận không thể làm xong chuyện này ngay lập tức để lấy lòng nàng, bèn vội vàng chạy ngay ra ngoài cửa Thì Hoa Quán. Thấy Nghiêm Khoan đã dẫn người sắp ra đến ngoài đường lớn, Chu Hậu Chiếu lập tức ra lệnh:
- Cao Phượng, La Tường! Mau bám theo hắn, đừng để hắn chạy mất! Rồi y bảo Dương Lăng:
- Ngươi mau tới Ngũ Thành Binh Mã ty điều quân đến đây bắt người cho ta!
Tám gã thái giám và Dương Lăng nghe vậy đều giật nảy mình. Lần này thì lớn chuyện rồi, Thái tử đến thanh lâu đánh nhau với một tay khách làng chơi, sau đó điều động người của Ngũ Thành Binh Mã ty đến đàn áp đối phương, chuyện này mà loan truyền khắp nơi thì còn ra thể thống gì nữa?
Cả bọn đều vội bước tới cố sức khuyên can. Chu Hậu Chiếu cả giận nói:
- Hắn dám đánh ta, nay có giết hắn thì cũng chẳng phải chuyện ghê gớm gì!
Các ngươi dám chống lệnh sao?
Bình thường chuyện gì Chu Hậu Chiếu cũng tùy tiện, chẳng hề có chút uy nghiêm nào. Nhưng lúc này trong cơn giận dữ, cái khí thế được bồi dưỡng từ bé khi chuyên môn sai khiến người khác, muốn gì được nấy của y lập tức thể hiện ra, Bát hổ đều không khỏi run lên cầm cập, Dương Lăng cũng thầm chấn động toàn thân.
Cao Phượng, La Tường thấy mấy người thân cận nhất của Thái tử như Dương Lăng, Lưu Cẩn, Trương Vĩnh đều không dám nói gì thêm, cũng chỉ đành liều mình đuổi theo Nghiêm Khoan mà thôi. Cốc Đại Dụng biết rằng chuyện gì Chu Hậu Chiếu đã hạ quyết tâm thì khó mà khuyên nổi, nên cũng chỉ đành khẽ đẩy Dương Lăng, ý bảo y mau đi tìm người của Ngũ Thành Binh Mã ty tới.
Dương Lăng đành gượng cười rời đi. Vốn y cho rằng vị Thái tử nhỏ tuổi này dễ đối phó, mình chỉ cần dùng một chút kế sách nho nhỏ là có thể khiến Chu Hậu Chiếu cam tâm tình nguyện nghe lời ngay, kế đó mượn danh nghĩa Thái tử để đi lấy bức bản đồ đi biển của Trịnh Hòa về. Trong lòng y vốn đã có chút đắc ý, nào ngờ đến lúc này mới biết mình đã tính nhầm một chuyện, đó là cho dù Chu Hậu Chiếu có tính tình tùy tiện và hay suy nghĩ linh tinh, thế nhưng những thứ đó thì người khác tuyệt đối không thể dự đoán được và cũng không thể nào ngăn cản nổi.
Y không dám rời đi quá xa, chỉ đành đi tìm người của Ngũ Thành Binh Mã ty ở xung quanh khu vực đó. Vốn thì người của Ngũ Thành Binh Mã ty không ngừng tuần tra trên đường, nhưng lúc này chẳng biết có phải là vì đã bị kéo đến học cung để tham gia "hoạt động tổng vệ sinh vì tình yêu tổ quốc" hết cả rồi không mà chẳng thấy một ai cả. Vốn Dương Lăng định thừa cơ trở về báo cáo với Thái tử luôn để tránh lớn chuyện, nào ngờ từ tửu lầu trước mặt chợt có mấy gã Cẩm Y vệ bận bộ quần áo Phi Ngư bước ra ngoài.
Dương Lăng cả mừng, những người này có thể nói là chuyên gia dọa nạt bắt bí người ta, để bọn họ ra mặt là ổn thỏa nhất. Cẩm Y vệ bắt người còn cần phải có lý do hay sao chứ? Như vậy thì không phải lo thân phận của Thái tử bị bại lộ rồi.
Dương Lăng vội bước lên trước cản đường của bọn họ, rồi đưa thẻ bài ra yêu cầu bọn họ trợ giúp bắt người. Mấy tên Cẩm Y vệ lúc này đều đã hơi say, họ đưa bắt nhìn nhau, nhưng đều chẳng hề có vẻ muốn hành động gì cả. Dương Lăng nhìn phẩm hàm của họ, thấy phần lớn là Hiệu úy, Lực sỹ, trong đó cũng chỉ có hai viên Tiểu kỳ, quan chức không lớn, biết rằng mình có quyền điều động chúng, bèn không kìm nổi quát to:
- Còn ngây ra đó làm gì? Phạm nhân sắp chạy mất rồi, có chuyện gì ta sẽ hỏi tội các ngươi đó!
Phía sau đám người có một giọng nói uể oải vang lên:
- Chuyện gì vậy? Vị đại nhân nào đang công cán thế, muốn điều người của ta tới giúp đỡ sao?
Nghe thấy thế mấy tên Cẩm Y vệ bèn rẽ sang hai bên, dành lối đi cho một hán tử mặc thường phục áo gấm dẫn theo sáu bảy người từ trong tửu lầu bước ra.
Người đó tuổi hơn ba mươi, thân hình cao lớn khỏe mạnh, dáng vẻ dũng mãnh tựa như một con báo đang uể oải dạo chơi. Hắn đi tới bên cạnh Dương Lăng, hai người đưa mắt nhìn nhau dò xét, trong lòng thầm đoán thân phận của đối phương. Hồi lâu sau người đó chợt mở miệng cười, chắp tay chào:
- Ta là Chưởng hình thiên hộ (Thiên hộ chuyên quản việc hình phạt – ND.) Tiền Ninh của Bắc Trấn Phủ ty, huynh đệ là...
Dương Lăng lúc này mới giật mình hiểu chuyện. Thảo nào khi nãy bọn kia không hề có hành động gì, thì ra không những cấp trên của bọn họ có mặt ở đây, mà phẩm cấp của y cũng không thấp. Nghe Tiền Ninh xưng phẩm bậc, Dương Lăng vội đáp:
- Tại hạ Đồng tri Dương Lăng của Nam Trấn Phủ ty.
Tiền Ninh nghe nói là người của Nam Trấn Phủ ty, cũng có thể coi là một bộ phận quan trọng trong Cẩm Ỷ vệ, tuy rằng quyền thế không được mạnh bằng Bắc Trấn Phủ ty, thế nhưng phẩm hàm của người ta lại cao hơn hắn nửa bậc, thế nên bèn khách khí nói:
- Thì ra là Dương đại nhân! Không biết vì sao Dương đại nhân lại muốn nhờ các huynh đệ của ta giúp đỡ vậy? Tuy rằng Cẩm Y vệ chúng ta bắt người không cần phải có chiếu chỉ, thế nhưng dưới chân thiên tử dù gì cũng phải kiêng dè một chút mới được...
Dương Lăng kéo hắn qua một bên, thấp giọng nói:
- Tiền huynh! Không giấu gì huynh, ta và mấy người bạn vừa đi tới ngõ Bách Thuận đằng trước... Hà hà, kết quả là có gây gỗ với một gã thương nhân, quyền qua cước lại một hồi thì mấy người bạn của ta đã bị thương. Do đó ta muốn mời các vị huynh đệ tới giúp ta dạy dỗ cho bọn chúng một trận.
Vốn đang buồn vì cứ ngồi uống rượu trong kia mãi mà chẳng có việc gì để vận động tay chân, lúc này Tiền Ninh nghe nói chỉ là chuyện nhỏ, vả lại dù gì cũng không thể không nể mặt người ta được, bèn lập tức khoát tay ra lệnh với thủ hạ:
- Đi nào! Hăng hái lên một chút, có việc để làm rồi!
- Vị Dương thị độc này thật có bản lĩnh, không ngờ chỉ dựa vào thân phận thị độc mà có để điều động được cả một đội Cẩm Y vệ. Có điều không biết y đã tiết lộ thân phận của ta chưa nhỉ?
Vừa đuổi kịp, nhìn thấy Chu Hậu Chiếu thì Tiền Ninh cả kinh, tròng mắt như sắp rớt ra ngoài. Chu Hậu Chiếu không biết hắn nhưng hắn lại biết Chu Hậu Chiếu, đây là đương kim Thái tử cơ mà, vì sao Thái tử lại rời cung vậy? Tiền Ninh thầm kinh hãi trong lòng nhưng lại không dám để lộ ra ngoài mặt. Đôi mắt hắn liếc nhìn xung quanh, lập tức nhận ra mấy gã thư sinh ẻo lả bên cạnh Thái tử đều là thái giám giả trang, hắn càng thêm tin chắc.
Đã thường nghe kể chuyện Hoàng thượng hay dẫn Thái tử ra ngoài cung vui chơi, chẳng ngờ chính bản thân Thái tử cũng có lúc lén trốn ra ngoài thế này! Nhìn hình dáng bầm dập của những người bên cạnh Thái tử thì có vẻ như là không dám tiết lộ thân phận nên đã phải chịu thiệt thòi lớn gì đó. Hà hà, trèo được lên cái cây lớn như Thái tử đây, đó là một cơ hội cho dù muốn tìm cũng chẳng thể tìm được ấy chứ!
Hắn cũng không dám làm lộ thân phận của Chu Hậu Chiếu, chỉ tỏ vẻ vô cùng cung kính hỏi:
- Công tử chính là bạn của Dương huynh đệ sao? Mọi người yêu tâm, chuyện này cứ giao cho ta, ta nhất định sẽ thay mọi người dạy dỗ cho tên thương gia giàu có mà bất nhân ấy một trận.
Hắn liếm liếm môi, trong lòng thầm tiếc nuối: "Vốn định giúp vị Dương đồng tri này dạy cho mấy tên thương gia kia một trận, sau đó thì xin đẹp của bọn chúng một ít. Bây giờ thì không tiện ra tay ngay trước mặt Thái tử rồi."
Chu Hậu Chiếu đưa mắt nhìn hắn với vẻ tán thưởng, sau đó khen:
- Tốt, những người ta mang theo đều là kẻ nhát gan sợ chuyện... ừm... không nhát gan thì cũng không làm được việc. Chuyện này xin nhờ ngươi đó, hãy đuổi theo rồi dạy dỗ bọn chúng một trận cho ta đi!
Tiền Ninh cười hà hà đáp:
- Chuyện này thì dễ thôi! Tại hạ sẽ đưa chúng vào một con hẻm, sau đó thì công tử muốn làm thế nào cũng được.
Thế nhưng sau khi đuổi theo được một lát, Tiền Ninh dần chau mày lại, thần sắc bắt đầu có chút bất an. Hắn đưa mắt nhìn khắp xung quanh, chỉ thấy những bức tường cao được lát bằng gạch xanh càng lúc càng nhiều, bên trong còn toàn là đình đài lầu các. Tiền Ninh không kìm được thầm lẩm bẩm: "Kẻ dây vào Thái tử thật sự chỉ là một tên thương nhân sao? Xung quanh đây... Xung quanh đây đều là nơi ở của vương hầu quý tộc cơ mà!"
Tại một con hẻm rất hẹp và dài ở phía trước, Cao Phượng đang đứng dưới một cổng chào ở trước ngõ vào hẻm vẫy tay gọi bọn họ. Khi mấy người bọn họ tới gần, Cao Phượng báo:
- Công tử! Con hẻm này vừa dài vừa hẹp, La Tường đã bám theo vào trong đó rồi, chúng ta có đuổi theo không đây?
- Đuổi chứ! Tại sao lại không đuổi nào? Chu Hậu Chiếu trừng mắt giận dữ:
- Chẳng lẽ ta lại sợ bọn chúng chắc?
Vốn hơi e ngại trong lòng, nhưng ngay khi nghe Chu Hậu Chiếu nói vậy Tiền Ninh liền lập tức tỉnh ngộ. Người trước mặt là ai nào? Là đương kim Thái tử, là Hoàng đế tương lai đó, đắc tội với một vương hầu thì có là gì ghê gớm chứ? Chỉ cần được lòng Thái tử, muốn có vinh hoa phú quý thực dễ như trở bàn tay.
Thường có câu rằng "phú quý hiểm trung cầu" (muốn tìm vinh hoa phú quý thì phải xông vào chốn hiểm nguy), nay chỉ là mối nguy hiểm nho nhỏ mà cũng không dám thử, làm sao có thể thăng quan tiến chức được cơ chứ? Hơn nữa mình là người của ty Bắc Trấn Phủ trong Cẩm Y vệ, cho dù là công hầu quý tộc đi nữa thì cũng có mấy ai lại không chịu nể mặt đây?
Nghĩ vậy Tiền Ninh liền can đảm hơn nhiều, thậm chí còn hận không thật sự gặp phải một vị quyền thần nào đó, để bản thân phải nếm chút đau khổ, như thế ấn tượng của Chu Hậu Chiếu về hắn chắc chắn là sẽ càng sâu đậm hơn nhiều. Cả đám người bước nhanh vào trong con hẻm, khu vực này toàn là những tòa nhà cao vút của các vị đại thần quý tộc, nhưng cũng đã đến nơi giáp giới với khu nhà ở của bá tánh bình dân.
La Tường ngoảnh đầu nhìn lại thấy bọn họ đã tới gần, bèn chỉ tay vào một khu nhà cực lớn ở phía trước, lắp bắp nói:
- Công tử! Kẻ đó... kẻ đó đã vào trong cánh cửa này.
Mọi người nhìn về phía cánh cửa thì thấy một khu nhà lớn vô cùng, ngoài cùng là một cánh cửa lớn được sơn màu đỏ, chiếc vòng đập cửa được làm bằng đồng, hai bên cạnh của bậc thềm đá khá cao là một đôi sư tử rất đẹp, cao đến hai thân người.
Vừa thấy vậy, ngoại trừ Chu Hậu Chiếu và Dương Lăng ra, những người còn lại đều kinh hãi vô cùng. Tiền Ninh không kìm được buột miệng:
- Phủ của Thọ Ninh hầu sao?
Dương Lăng cũng nhìn thấy bốn chữ lớn mạ vàng "Thọ Ninh Hầu Phủ" trên bức biển treo trước cổng, có điều y cũng chẳng để tâm tới chuyện này cho lắm. Tên Nghiêm Khoan kia ăn nói thô tục, quyết chẳng phải là hầu gia gì cả, nhiều lắm cũng chỉ là một gã quản gia trong hầu phủ mà thôi. Trong những người ở đây có Thái tử, có Cẩm Y vệ, còn có cả tám đại gian thần tương lai, chẳng lẽ lại sợ gã hay sao chứ?
Nhưng vừa đưa mắt nhìn mấy người xung quanh, y bèn lập tức cảm thấy có điều không ổn. Mấy người Lưu Cẩn, Trương Vĩnh bên cạnh đều tỏ vẻ sợ hãi, ngay
cả khuôn mặt tươi tắn với nụ cười trời sinh của Cốc Đại Dụng cũng trở nên gượng gạo. Chẳng lẽ vị hầu gia này rất có quyền thế hay sao? Trong ấn tượng của y... dường như y chưa từng nghe nói triều Minh có vị hầu gia nào ghê gớm như vậy thì phải.
Đang lúc Dương Lăng cảm thấy lạ, Lưu Cẩn đã lên tiếng nói với Chu Hậu Chiếu:
- Công tử, đây là phủ đệ của quốc cữu gia, không nể tăng thì cũng nên nể phật.
Chúng ta... có nên thôi đi không?
Khi nhắc tới ba chữ "quốc cữu gia", hắn còn đặc biệt nhấn mạnh thêm.
Dương Lăng nghe vậy liền giật mình chợt hiểu. Đương kim hoàng thượng chỉ có một vị hoàng hậu, hậu cung rộng lớn như thế mà ngay cả một phi tử cũng không có, sự sủng ái của lão ta với hoàng hậu chắc chắn không phải tầm thường. Tòa hầu phủ này không ngờ lại là phủ đệ của một người anh em ruột của hoàng hậu, thảo nào bọn họ lại sợ sệt như thế.
Vị thái tử Chu Hậu Chiếu này vốn tính hiền lành dễ gần, tuy rằng y thân phận cao quý, thế nhưng sau khi bị một gã tiện dân đấm cho một cú trong lòng cũng chẳng suy nghĩ gì nhiều. Sở dĩ y nhất quyết không chịu bỏ qua chuyện này chủ yếu là vì muốn lấy lòng vị Đường Nhất Tiên cô nương kia mà thôi.
Thế nhưng lúc này khi nhìn thấy phủ đệ của Thọ Ninh hầu, biết rằng có khả năng gã Nghiêm Khoan đó là người làm trong phủ, y lại càng không chịu bỏ qua. Đó là nhà của cậu y, người làm trong nhà của cậu y lẽ nào không phải là tôi tớ của y hay sao chứ? Bị người làm nhà mình đấm cho một cú thì dù y hiền lành đến đâu đi nữa cũng không nhịn được.
Hơn nữa tuy y là con đẻ của hoàng hậu, thế nhưng lại chẳng có bao nhiêu tình cảm với Trương hoàng hậu. Trong cung ngoài cung trước giờ vốn có tin đồn rằng y là do một vị cung nữ sinh ra sau một lần được Hoằng Trị ban ơn mưa móc, sau đó thì bị Trương hoàng hậu vốn không có con đoạt lấy. Chuyện này y cũng chỉ loáng thoáng nghe qua, tuy rằng không tin tưởng lắm, thế nhưng chuyện Trương hoàng
hậu và y trước giờ không thân thiết với nhau lắm lại là sự thực, do đó quan hệ của y với hai người cậu Thọ Ninh hầu Trương Hạc Ninh và Kiến Xương hầu Trương Diên Ninh cũng chẳng tốt đẹp gì.
Chu Hậu Chiếu cười lạnh hai tiếng, trong bụng nhủ thầm: "Nếu đã là người trong phủ Thọ Ninh hầu, vậy ta cứ xông vào bắt người là xong. Tên Trương Hạc Linh đó chắc cũng chẳng dám nói câu nào đâu, ta mất mặt không phải cũng là hoàng hậu mất mặt hay sao chứ?" Y cắn chặt răng, định hạ lệnh cho bọn Lưu Cẩn xông vào phủ, chợt cánh cửa lớn màu đỏ lại được mở ra.
Mọi người vội tránh vào sâu trong hẻm, nhìn thấy tên Nghiêm Khoan vừa rồi dẫn theo một đám người ra ngoài, đi về hướng bên trái dọc theo dãy tường cao được xây bằng gạch xanh. Chu Hậu Chiếu mừng thầm, thấp giọng bảo:
- Bám theo nào! Đợi hắn đi vòng qua góc tường kia, các ngươi hãy nện cho hắn một trận, cướp tờ văn tự rồi chuồn luôn!
Lưu Cẩn thấy Thái tử đã quyết tâm phải trừng trị tên Nghiêm Khoan, đành nói:
- Vậy cũng được, có điều mấy người bạn mà Dương tướng công mời tới thực bắt mắt quá. Chi bằng để chúng tôi đổi quần áo với họ, như thế tên tiểu tử kia bị đánh một trận xong cũng chẳng biết do ai làm, tránh sinh chuyện thị phi.
Chu Hậu Chiếu bực mình đáp:
- Vậy thì nhanh lên một chút, đừng để hắn chạy mất đấy!
Tiền Ninh đang so sánh thực lực của Thái tử và quốc cữu, đồng thời suy tính đến chuyện được mất nếu đi nhầm nước cờ, ngay khi nghe được cách lưỡng toàn kỳ mỹ như vậy thì không khỏi mừng rỡ vô cùng. Hắn lập tức gọi bọn Lưu Cẩn mau cởi áo ngoài ra, sau đó lựa lấy mấy tên thủ hạ đắc lực, sai khoác mấy chiếc áo thư sinh ra bên ngoài bộ quần áo Phi Ngư, xong xuôi lặng lẽ bám theo mấy kẻ kia.
Chu Hậu Chiếu không muốn ở yên một chỗ, lập tức kéo Dương Lăng theo cùng. Cả bọn lặng lẽ đi vòng qua góc tường, nhận ra nơi đây cũng là một góc của
phủ Thọ Ninh hầu, có điều tường ngoài đều đã bị dỡ đi, dường như đang được mở rộng. Phía bên trái có một con đường, cạnh đường toàn là nhà của dân thường, phủ Thọ Ninh hầu sau khi dỡ bỏ tường ngoài thì mở rộng về hướng đó. Cây bên đường đã bị chặt hết, cả con đường đều bị quây vào trong phủ, mấy chiếc mái cong của những tòa lầu các mới được xây trong phủ đều thò cả vào phần sân của những nhà dân thấp bé xung quanh.
Hơn trăm thợ thủ công đang hí húi làm việc, trên bức tường thấp có mấy người mặc trang phục gia đinh của hầu phủ đang quát tháo mấy chục người có già có trẻ có nam có nữ ở bên đường:
- Hầu gia của chúng ta là người biết lý lẽ nhất đó, hãy nhìn cái móng nhà này xem, có chiếm tí đất nào của các ngươi không hả? Không chứ gì? Con đường này không đi được thì các ngươi cứ đi đường vòng là ổn thôi, sao nào? Lầu các của hầu gia chúng ta thò vào sân nhà các ngươi thì sao? Có giỏi thì các ngươi cứ đi kiện, bọn ta cũng chẳng chiếm tí đất nào của các ngươi, phần trên không trung thì vương pháp không hề ghi là thuộc về nhà các ngươi mà! Định vu cáo Hầu gia sao? Xem các ngươi có gan không nào?
Nghiêm Khoan dẫn người hùng hùng hổ hổ xông tới quát tháo:
- Chuyện gì vậy? Lũ đểu cáng các ngươi lại tới gây chuyện hay sao? Thọ Ninh hầu gia vốn tính từ bi, các ngươi đã được voi rồi lại còn đòi tiên hả? Mẹ kiếp, ta nói cho các ngươi biết, ông đây sắp tới phải đi Bát Đạt Lĩnh nhận một vụ làm ăn lớn, là Trường Thành đó! Biết không hả? Các ngươi mà cứ tới lằng nhằng làm lỡ thời gian hoàn thành công trình của ta, chỗ bạc đó các ngươi trả cho ta nhé!
Một ông lão chống gậy run rẩy trả lời:
- Nghiêm đại gia! Cây táo nhà chúng tôi đã bị người của ngài cưa mất rồi, mái hiên của các ngài cũng đè xuống bệ cửa sổ phía đông nhà chúng tôi, trong nhà lúc này tối đen như mực! Đại gia...
Một tên tay chân của Nghiêm Khoan vung roi da quật vút xuống vai ông lão, rồi như một con chó dựa oai chủ cao giọng quát:
- Trong kinh sư có vô số phủ đệ của các vương hầu quý tộc đều do lão gia nhà chúng ta xây đó, còn chưa thấy có người nào nói chúng ta chèn ép trăm họ đâu! Lão già kia, con mắt nào của ngươi nhìn thấy bọn ta cưa cây táo nhà ngươi hả? Sao ngươi không nói là mình khuyết đức nên bị sét đánh đổ cây táo đó đi?
Đám nô bộc của hầu phủ đứng cạnh đó nghe vậy đều phá lên cười ha hả, ông lão giận đến đỏ bừng cả mặt, toàn thân run lên. Chu Hậu Chiếu ghé đến gần nói với Tiền Ninh:
- Đánh! Đánh xong rồi rút! Hừm, nhất định phải cướp lấy tờ văn tự trong người hắn về đây!
Đánh xong rồi chạy rất hợp ý Tiền Ninh, hắn lập tức đưa mắt ra hiệu với thủ hạ, đoạn gằn giọng:
- Lên!
Mấy tên Cẩm Y vệ nghe mệnh lệnh liền lập tức hung hăng xông đến. Cả bọn đều sở trường về những môn chiến đấu tay không, đánh người thì chuyên chọn những chỗ yếu hại như khớp xương mạng sườn mà tẩn, trước giờ vẫn ra tay độc ác vô cùng, không hề kiêng dè gì cả.
Tiền Ninh biết những người này có quan hệ mật thiết với phủ Thọ Ninh hầu, vốn thầm kiêng kị trong lòng nên ra tay còn chừng mực một chút. Nhưng mấy tên Hiệu úy, Lực sỹ kia thì chỉ phụng lệnh hành sự, chẳng cần biết ba bảy hai mươi mốt gì cả, ra tay tàn độc vô cùng, chẳng khác gì giã gạo. Chỉ trong khoảnh khắc họ đã đánh gục bảy tám tên, khiến đối phương phải che vai ôm sườn lăn lộn khắp đất kêu gào thảm thiết.
Tiền Ninh giữ chặt lấy Nghiêm Khoan, trước tiên tặng cho vài cái tát khiến đầu óc gã choáng váng, sau đó thì xé tung vạt áo trước ngực của gã lục soát một hồi.
Chu Hậu Chiếu khoái trá chạy tới, đá hai cái thật mạnh vào mông Nghiêm Khoan, cười ha hả. Tiền Ninh mò mẫm trong ngực Nghiêm Khoan một lúc, sau đó ngẩng đầu lên nói với Chu Hậu Chiếu:
- Thái... Công tử, sao trong ngực hắn không có thứ gì hết vậy?
- Không có ư?
Chu Hậu Chiếu ngẩn người, lập tức nổi giận đùng đùng đá một nhát vào đùi Nghiêm Khoan, mắng lớn:
- Có phải là vừa rồi ngươi đã giấu vào trong hầu phủ rồi không hả? Nghiêm Khoan đưa tay ôm đùi kêu la đau đớn, rên rỉ:
- Tiểu... súc sinh, ngươi là ai? Đã biết ta là người của hầu phủ mà còn... còn dám đánh ta sao?
Chu Hậu Chiếu thấy hắn mắng mình là tiểu súc sinh thì giận dữ định co chân đá tiếp, Dương Lăng vội giữ y lại, ghé miệng đến sát tai y báo:
- Công tử! Trước tiên hãy rời khỏi đây đã, sau này tìm cơ hội đòi lại tờ giấy đó là được, bọn chúng đã trở về gọi người rồi.
Chu Hậu Chiếu đỏ bừng mặt đáp:
- Không được, lời ta nói ra như bát nước đã hắt đi! Sao có thể để cô nương nhà người ta chê cười được, nhất định phải đòi lại tờ văn tự đó về cho ta.
Dương Lăng hết cách chỉ đành vỗ ngực đảm bảo:
- Chuyện này cứ giao cho tại hạ, trong vòng ba ngày tại hạ nhất định sẽ lấy được tờ văn tự đó về! Tuyệt đối sẽ không để công tử phải thất hứa đâu!
Chu Hậu Chiếu nghe vậy bèn đá mạnh lên người Nghiêm Khoan một cái nữa, rồi mới chịu để cho Tiền Ninh và Dương Lăng kéo chạy trốn như bay. Người ta thường nói "quý nhân ra khỏi cửa thì lắm mưa nhiều gió", có điều mưa gió hôm nay hình như là nhiều quá thể! Dương Lăng vừa kéo Chu Hậu Chiếu chạy đi, trong lòng vừa nghĩ hôm nay bận rộn cả ngày trời mà vẫn chẳng nhìn thấy bức bản đồ đi biển của Trịnh Hòa đâu cả, thật là đau đầu mà!
Phủ của hầu gia thật đúng như câu "nhất nhập hầu môn thâm tự hải" (Vừa vào cửa nhà quan hầu tước liền thấy nó sâu như biển – ND.), đợi đến khi kẻ báo tin tập hợp đủ người theo quản gia thống lĩnh xông ra ngoài thì bọn Dương Lăng đã chạy mất hút từ lâu rồi.
Thọ Ninh hầu hay tin nổi giận đùng đùng. Tuy Nghiêm Khoan chỉ là một người làm trong phủ nhưng em gái hắn ta lại là thiếp yêu của Thọ Ninh hầu, nói cách khác, Nghiêm Khoan chính là anh vợ của anh vợ của đương kim hoàng thượng.
Đánh chó cũng phải ngó mặt chủ, huống hồ còn là đánh anh vợ của hắn. Hơn nữa người anh vợ này đã tự lập môn hộ ở bên ngoài, dùng nghề xây dựng đã kiếm về cho hắn rất nhiều bạc.
Hôm qua hắn vừa mới kiếm cho gã anh vợ này một công việc béo bở là xây dựng Trường Thành đoạn Bát Đạt Lĩnh, nếu gã ta bị thương nặng thì tổn thất to rồi. Trong cơn giận dữ Trương Hạc Linh phái người cầm thư tay của hắn tới thẳng Ngũ Thành Binh Mã ty. Ngũ Thành Binh Mã ty hay tin liền giật nảy mình, không ngờ lại có người dám chạy đến phủ của Thọ Ninh hầu gây chuyện, thế này thì gay thật rồi! Hoàng thượng còn đang tuần sát ở học cung, nếu đám người xấu này dám cả gan làm kinh động thánh giá nữa, vậy chẳng phải là bọn họ bị tội rơi đầu hay sao?
Ngự sử tuần thành tựa như gặp phải đại địch, lập tức đích thân lùng sục, đi đằng trước là hai tên lính cầm roi mở đường quất đen đét liên tục. Đám lưu manh kẻ cắp trên đường đều ôm đầu lủi như chuột, những người bày sạp bán hàng trên đường im bặt như ve sầu mua đông, cả thành Bắc Kinh trở nên hỗn loạn.
Đám bộ khoái, mã khoái tràn ra khắp nơi, ngay cả lính của doanh trại binh mã trong kinh sư cũng bị điều động. Bọn Chu Hậu Chiếu được Tiền Ninh kéo lên một tửu lầu quen của hắn. Cho dù nhìn thấy Cẩm Y vệ ở trên đó, đám binh mã không ngờ vẫn dám phái người lên lục soát. Chu Hậu Chiếu không khỏi chau mày cười lạnh:
- Ghê thật, chẳng qua chỉ là một tên người làm trong hầu phủ bị đánh mà hiện giờ thì quả đúng là gần đến mức phải phong tỏa toàn thành rồi. Lý thái phó kể chuyện sử sách với ta, thường nói ngoại thích chuyên quyền, thế lực vượt cả thiên
tử. Hà hà, ta thấy tên Thọ Ninh hầu này quả là còn oai phong hơn cả thiên tử ấy chứ!
- Xuống lầu hết cho ta! Canh chừng cửa, không cho ai lên quấy nhiễu!
Thủ hạ vừa ra khỏi nhã phòng, Tiền Ninh lập tức quỳ sụp xuống đất, cung kính thưa:
- Thần Tiền Ninh tham kiến Thái tử điện hạ!
Chu Hậu Chiếu "ý" kinh ngạc, ngước mắt nhìn Dương Lăng, Dương Lăng khẽ lắc đầu. Thấy vậy Tiền Ninh bèn cung kính bẩm rõ:
- Vi thần từng nhậm chức thống lĩnh thị vệ trong cung nên đã may mắn được gặp Thái tử điện hạ. Hôm nay điện hạ cải trang vi hành, thần vốn không dám làm lộ thân phận của ngài, nhưng hiện giờ binh lính lùng sục khắp kinh sư, vi thần chỉ còn cách dựa vào thân phận Cẩm Y vệ đích thân hộ tống điện hạ hồi cung. Vì thế vi thần mạo muội chào điện hạ, mong điện hạ thứ tội.
Chu Hậu Chiếu nghe xong bừng tỉnh, cười ha hả nói:
- Đứng dậy đi, không cần mấy quy củ thối đó. Ta cũng không ngờ đánh một tên vô lại lại kéo vô lại cả thành đến. Cái tên nhà ngươi cũng giảo hoạt lắm, bằng không, sao ngươi còn phải giả vờ không quen biết ta chứ?
Lúc này Dương Lăng cũng thở dài một hơi, thất vọng nhìn xuống dưới lầu, biết rằng hôm nay đừng hòng đi đến bộ Binh lấy tấm hải đồ của Trịnh Hoà. Lưu Cẩn ghé tai y thấp giọng bảo:
- Dương thị độc chớ nên sốt ruột! Tấm hải đồ đó để ở bộ Binh lâu năm như vậy, nếu muốn vứt thì đã sớm vứt từ lâu, nếu chưa vứt thì cũng sẽ không rời nơi đó một khắc. Ngày khác lại tìm cơ hội lấy về cũng được.
Dương Lăng sửng sốt nhìn lão. Lưu Cẩn mỉm cười nói:
- Tấm hải đồ đó là bảo vật Trịnh công công tốn bao tâm huyết lưu lại. Câu chuyện vô cùng ấn tượng, vạn nước truyền tụng đó là công lao do những người thuộc nội cung bọn ta tạo nên, bọn ta cũng không nỡ để nó bị huỷ bỏ đâu.
Dương Lăng rất đỗi kinh ngạc, nhìn nụ cười an ủi của "đồng chí" thái giám, cặp mắt của y không hẹn mà đã ươn ướt...
Được Tiền Ninh dẫn hơn chục tên Cẩm Y vệ "áp giải", dĩ nhiên đám quỷ sứ đầu trâu mặt ngựa đụng phải bọn họ trên đường đều không dám chặn hỏi. Chu Hậu Chiếu suông sẻ trở về Đông Cung từ cổng sau Tử Cấm Thành.
Vừa trở về Xuân Phường an toàn, y liền vỗ bàn cái bộp, nói với Dương Lăng:
- Hôm nay chuyện đã ầm ỹ lên cả rồi, nhưng ta đã nhận lời của cô nương người ta, không thể thất hứa. Chính ta đã bảo nội trong ba ngày dứt khoát sẽ trả lại văn tự mua thiếp cho nàng ấy, ngươi xem làm sao để cướp tờ giấy đó về?
Dương Lăng chau mày. Khi đó để gạt Chu Hậu Chiếu rời khỏi "chiến trường", y đã thuận miệng hứa bừa mấy câu. Nay xem ra gã Nghiêm Khoan chính là người của Thọ Ninh hầu. Ngay cả chuyện xây công sự Bát Đạt Lĩnh mà Trương Hạc Linh cũng có thể giao cho gã, chứng tỏ quan hệ bọn họ thật không tầm thường, căn bản chính là "quan thương một nhà".
Lấy tiền mua chuộc chỉ sợ không đưa được cái giá khiến gã động lòng, hơn nữa chuyện bấm bụng nhẫn nhịn như vậy nhất định Thái tử sẽ không chịu. Còn như muốn dùng quan uy bức bách thì đương kim thánh thượng sủng ái mỗi chính cung; chỉ cần nhìn khí thế các loại đội ngũ lùng sục kinh sư hôm nay là đủ rõ, vị quốc cữu gia này há dễ trêu vào sao? Trừ khi chính vua Hoằng Trị đích thân ra mặt, bằng không còn ai áp chế được hắn chứ.
Dương Lăng chau mày suy nghĩ một hồi, thật sự không nghĩ ra được biện pháp gì, y ngẩng đầu nhìn tám "thiên tài" chuyên trị người mà nghe nói là cả khi nằm mơ cũng có thể nghĩ ra biện pháp hại người, lại thấy tám cặp mắt cũng đang dòm y lom
lom. Dương Lăng khổ sở cười một tiếng, đành phải cân nhắc từng lời:
- Tên Nghiêm Khoan đó chỉ là người làm, vốn không đáng lo, có điều Thọ Ninh hầu lại làm chủ cho gã... Muốn đụng đến gã, thì phải khuất phục Thọ Ninh hầu trước mới được.
Chu Hậu Chiếu đáp ngay:
- Không cần úy kỵ! Tuy Trương Hạc Linh là quốc cữu, nhưng thái độ kiêu căng của ông ta thật khó ưa, nếu có thể dập bớt oai phong của ông ta cũng là điều tốt.
Ngươi có biện pháp gì cứ nói đi.
Dương Lăng trầm ngâm một hồi rồi nói:
- Người có thể khiến cho Thọ Ninh hầu bớt kiêu căng, chỉ còn có đương kim bệ hạ. Nhưng nếu muốn bệ hạ khiển trách ông ấy thì cần phải có chứng cớ tội trạng đủ nghiêm trọng khiến cho bệ hạ phải nổi giận...
Cốc Đại Dụng nghe vậy bèn xen vào:
- Việc này dễ thôi! Chỉ những việc xâm phạm quyền lợi của dân lành, lấn chiếm đường phố, tự ý giao công trình cho kẻ khác cũng đủ để dâng sớ hạch tội ông ta rồi, huống hồ e rằng Thọ Ninh hầu không chỉ... hà hà!
Lưu Cẩn nhíu mày nói:
- Có được chứng cớ còn phải có người đắc lực trình cho bệ hạ mới được. Nếu như chúng ta ra mặt, nhất định bệ hạ sẽ sinh nghi. Chuyện này...
Chu Hậu Chiếu mất kiên nhẫn:
- Sao mà phiền quá vậy! Nếu làm vậy không được thì nhân dịp mấy ngày này đang thi Hội, các Thái phó ít đến trông coi ta, ta tranh thủ rời cung một chuyến nữa đi thẳng đến tìm quốc cữu đòi vậy. Ta không tin ông ấy sẽ vì một tên người làm mà dám đắc tội với ta.
Nghe đến hai chữ "Thái phó", Dương Lăng không khỏi sáng rỡ hai mắt, hỏi ngay:
- Điện hạ! Mấy ngày nay các vị đại học sỹ đều không đến giảng bài cho người sao?
Chu Hậu Chiếu đưa mắt nhìn Cốc Đại Dụng, Cốc Đại Dụng đáp thay:
- Bắt đầu từ ngày mai, hằng ngày ba vị đại học sỹ sẽ luân phiên tham gia trông coi thi cử thi tại trường thi, hai vị còn lại sẽ ở trong cung xử lý chính vụ. Vì thế thay vì mỗi ngày do ba vị đại học sỹ luân phiên lên lớp, hiện đổi lại thành mỗi ngày một vị đại học sỹ đến dạy, vả lại thời gian cũng giảm xuống còn một canh giờ.
Dương Lăng vỗ đùi nói:
- Tốt! Thần đã có biện pháp rồi. Ngày mai sẽ do vị đại học sỹ nào phụ trách giảng dạy?
Cốc Đại Dụng quả nhiên là kẻ "thính tai", thuộc làu làu thời khoá biểu lẫn lão sư giảng dạy mà phủ Chiêm Sỹ thu xếp cho Thái tử, hắn đáp không chút suy nghĩ:
- Ngày mai hẳn sẽ do đại học sỹ Lý Đông Dương giảng dạy.
Dương Lăng cười khà khà, ghé vào tai Chu Hậu Chiếu thì thầm một hồi. Chu Hậu Chiếu nghe xong bán tín bán nghi hỏi lại:
- Biện... biện pháp này thật sự hiệu quả sao? Dương Lăng cười nói:
- Nếu làm khéo, Thọ Ninh hầu gia sẽ chỉ còn nước bỏ quân giữ soái. Đến lúc đó, thứ nhất điện hạ không phải thất tín với người. Thứ hai, tên Nghiêm Khoan đó vô lễ với Thái tử, ta có thể trị gã thân bại danh liệt khiến gã từ nay không thể cựa quậy gì được. Thứ ba, điện hạ còn có thể giành được sự tán thưởng của các vị thái phó.
- Ồ?
Chu Hậu Chiếu phấn chấn tinh thần:
- Sẵn lúc trời còn sớm, ngươi hãy mau đi thu xếp đi! Nhất thiết phải chuẩn bị đầy đủ trước khi Lý thái phó đến vào ngày mai cho ta.
- Dạ, vi thần tuân mệnh!
Dương Lăng mỉm cười vái chào, quay sang khẽ gật đầu với Bát Hổ rồi nghiêng mình lui ra.
*** *** *** *** *** *** *** *** *** ***
Rạng sáng hôm sau, khi ánh dương còn chưa nhô cao, một chiếc xe nhỏ chạy nhanh đến một góc bên ngoài Ngọ môn. Chờ sẵn đằng sau góc cổng, Dương Lăng lách mình lên xe. Tiền Ninh ngồi ngay ngắn ở trong xe, đưa cho y một bọc giấy dầu dầy cộm, cười nói:
- Hôm qua nhận lệnh của Dương đại nhân, Tiền mỗ đã phân phó tuỳ tùng bận rộn một đêm, cuối cùng đã có thu hoạch, may mắn không làm nhục mệnh. Ha ha, đây là những thứ mà đại nhân yêu cầu, đại nhân xem thử có dùng được hay không?
Dương Lăng khách khí vài ba câu, rồi ngồi xuống cạnh y, mở bao lấy ra một chồng giấy dầy cộm, vén rèm mượn ánh nắng ban mai vội vã xem. Sau một hồi y líu lưỡi hỏi:
- Tiền huynh! Ta chỉ nhờ huynh thu thập một số việc Thọ Ninh hầu cấu kết thương nhân tự ý giao công trình với lại xâm phạm lợi ích của dân. Nếu không đủ nghiêm trọng mới tuỳ tiện sắp đặt thêm một chút sai phạm để tăng thêm trọng lượng. Nhưng những tài liệu này của huynh thậm chí còn có cả án giết người nữa, nếu thật sự bệ hạ cho tra xét, há không phải là lấy đá tự đập vào chân mình à?
Tiền Ninh cười khì khì đáp:
- Thật ra Tiền mỗ cũng muốn bịa đặt thêm một chút thị phi, tiếc là đã bận rộn cả
đêm. Thật ra mấy vụ án không phải chỉ có bấy nhiêu, bọn ta cũng chẳng dư thời gian thêu dệt thêm lỗi cho Trương hầu gia. Những hồ sơ vụ án này có nhân chứng, có vật chứng, có cái còn là của khổ chủ gởi tới nha môn tố cáo nữa, có điều không ai dám xử lý nên vẫn còn xếp đống mà thôi. Đại nhân xem thử có thứ nào dùng được thì cứ việc cầm lấy. Yên tâm, toàn bộ những tư liệu này đều do Tiền mỗ sai thủ hạ chép lại, không phải là thư từ công văn của Cẩm Y vệ chúng ta, sẽ không dẫn lửa cháy đến chúng ta đâu.
Dương Lăng kinh ngạc hỏi lại:
- Những thứ này đều là thật ư? Tình Ninh gật đầu nói:
- Đều là thật!
Đoạn y cười nhạt, ngạo nghễ nói:
- Bất kể là ai, chỉ cần Cẩm Y vệ chúng ta muốn xử lý hắn, sẽ không có bí mật gì có thể che giấu chúng ta được. Có điều... Thọ Ninh hầu được mấy "gốc cây to" trong cung che bóng, những thứ này chưa hẳn đã lật đổ được hắn. Đại nhân nhất thiết phải cẩn thận, đừng để mình cũng rơi vào hố bẫy đó.
Dương Lăng gật đầu nói:
- Tiền huynh yên tâm, chuyện này tự có người xung phong xông trận. Ha ha, ta phải chạy gấp vào trong cung rồi. Lần này đã phiền Tiền huynh, tấm lòng của Tiền huynh ta sẽ bẩm cho điện hạ biết.
Tiền Ninh hớn hở ra mặt, liền vội chắp tay đáp:
- Đều là huynh đệ hà tất nói lời khách khí như vậy. Cổng Ngọ môn có nhiều triều thần, Tiền mỗ không tiện lộ diện, đành cung tiễn Dương đại nhân tại đây. Chúc đại nhân kỳ khai đắc thắng, mã đáo thành công!
*** ***
- Khổng Tử nói: "Quân quân, thần thần, phụ phụ, tử tử". Ý muốn nói bậc làm vua phải theo đúng đạo làm vua, kẻ bầy tôi phải theo đúng với đạo bề tôi, người làm cha phải theo đúng đạo làm cha, kẻ làm con phải theo đúng đạo làm con.
Lý Đông Dương vừa giảng vừa vui vẻ liếc nhìn Thái tử. Hôm nay Thái tử rất lanh lợi, ngồi nghiêm chỉnh sau bàn, dường như rất chăm chú nghe giảng, khiến trái tim già của lão rất yên lòng.
Lý Đông Dương mỉm cười giảng tiếp:
- Con người hay thưởng cho người mình thích, phạt kẻ mình ghét. Bậc minh quân thì lại không như vậy, thưởng tất thưởng cho người có công, phạt tất phán cho kẻ có tội. Bậc minh quân giỏi trị nước, trong phải củng cố quyền uy, ngoài phải tăng cường quyền bính. Như vậy mới có thể chinh phạt kẻ địch, không ai dám không nghe.
Lão đưa chén trà lên môi nhấp một ngụm thấm giọng, đang định giảng kỹ hơn, chợt nghe Thái tử hỏi:
- Thái phó à, làm bậc minh quân phải thưởng phạt phân minh. Nhưng nếu như kẻ có tội là cận thần của Thiên tử hoặc thậm chí là họ hàng thân thích, phải chăng có thể khoan hồng?
Lý Đông Dương nghiêm mặt đáp:
- Không được! Vương tử phạm pháp cũng chịu tội như thứ dân, vì sao? Bởi lẽ vua không phải là chủ một nhà, mà là chủ một nước. Đối với vua, khắp cả nước đều là con dân, cớ sao lại phân chia xa gần? Vua thánh tôi hiền, ấy là phước của thiên hạ; vua minh thần trung, ấy là phước của quốc gia. Nếu như dung túng bênh vực cận thần làm ác, đấy không phải là phước của đất nước.
Dương Lăng ho khan một tiếng, Chu Hậu Chiếu liền lôi dưới gầm bàn ra một bọc giấy, thở dài một hơi, thưa:
- Thái phó dạy rất phải! Hôm nay Dương thị độc vào cung, nhặt được một cái
bọc ở ngay cửa cung, bên trong không ngờ lại những tội chứng tố giác quốc cữu Trương Hạc Linh dung túng gia nhân gây hại dân lành. Mỗi việc, mỗi vụ đều khiến người ta nhìn thấy mà đau lòng. Chao ôi! Sau khi ta xem xong vốn nghĩ Trương Hạc Linh là cậu, hay là cứ gấp chuyện này lại không đề cập đến, nhưng nghe xong lời dạy dỗ của Thái phó, ta thật cảm thấy xấu hổ. Nếu như cứ che giấu không đưa, vậy thật đã phụ lời thánh nhân rồi.
Lý Đông Dương nghe xong rúng động hỏi:
- Là tội chứng gì? Thái tử có thể cho thần xem một chút hay không? Chu Hậu Chiếu thừa cơ vừa đưa bao giấy cho lão vừa lắc đầu hổ thẹn:
- Một bên là cậu ta, bên khác là bá tánh lê dân chịu đựng ức hiếp, không chốn khẩn cầu. Tuy ta không nỡ thưa bẩm phụ hoàng để tổn thương hoà khí trong nhà, nhưng sau khi nghe lời dạy dỗ của Thái phó lại thật sự không đành lòng ngoảnh mặt làm ngơ.
Lý Đông Dương vội vã lật xem đống đơn kiện tố cáo tội trạng Thọ Ninh hầu Trương Hạc Linh. Chỉ đưa mắt vài lượt, lão đã giận không kiềm chế được, vẻ mặt phẫn nộ:
- Vương hầu quý thích, không ngờ lại xâm hại lợi ích của dân một cách trắng trợn đến mức thế này. Điện hạ không cần phải hổ thẹn, người làm rất phải! Vua là thuyền, thứ dân là nước. Dân do trời sinh, không phải là vua; trời lập ra vua, cũng là vì dân. Điện hạ có thể kết nối lòng mình với lê dân, đó là phước của xã tắc.
Rồi ông lại liếc sang Dương Lăng, nói đầy thâm ý:
- Những hành vi này của Thọ Ninh hầu khiến cho bá tánh lê dân cất tiếng than oán dậy trời, mà lại không chốn cầu khẩn, cho nên mới có người bất đắc dĩ làm vậy. Điện hạ! Mời Dương thị độc hãy cùng điện hạ tự ôn lại bài học trước, lão thần phải ra ngoài thôi. Trước hết cần kiểm chứng một lượt, ví như là thật, nhất định lão thần sẽ bẩm báo với thánh thượng.
Dương Lăng nghe xong liền nhướng mày. Trong lời của lão già này có ẩn ý, rõ ràng không hẳn đã tin mình nhặt được gói giấy trên đường vào cung. Có điều người này ghét ác như thù, biết rõ bị người ta lợi dụng nhưng vẫn không chịu làm ngơ.
Hơn nữa, tất cả các vụ án Tiền Ninh đưa đến đều là thật cho nên y cũng không sợ lão kiểm chứng.
Lý Đông Dương cáo từ rời cung.
Trong ngày này, so với trước kia rõ ràng Chu Hậu Chiếu ngoan hơn rất nhiều. Thái tử chỉ ngoan ngoãn ở trong Xuân Phường cùng Dương Lăng bàn chuyện trên trời dưới đất, không dám chơi đùa gây rối nữa.
Lý Đông Dương vội vã chạy về điện Cẩn Thân, lập tức ra lệnh cho Hữu ty nha môn điều tra báo cáo. Những vụ án này phần lớn đều đang được khiếu kiện tại nha môn, chỉ là bị người đùn đẩy lần lữa mãi nên không thể xử lý mà thôi, cho nên vừa cho điều tra liền biết là đúng, chỉ hơn một canh giờ đã kiểm chứng được bảy tám phần. Lý Đông Dương nghe xong những tội ác khiến người phẫn nộ đó không khỏi giận tím tái mặt mày, lập tức cầm bút viết lưu loát bài sớ vạn ngôn, rồi phất ống tay áo đi dự Ngọ triều.
Trong Đông cung, Chu Hậu Chiếu đang nghe Dương Lăng kể về phong tình các nước, mở rộng tầm nhìn. Đang nghe đến hồi say sưa, chợt y nghe giọng the thé của Cốc Đại Dụng từ bên ngoài:
- Ối chao! Hai vị công chúa điện hạ, sao hai người đến Đông cung vậy? Một giọng thiếu nữ yêu kiều cất lên:
- Thái tử đâu? Mau dẫn ta đi gặp huynh ấy. Cốc Đại Dụng ấp úng:
- Công chúa điện hạ, Thái tử đang ôn bài, người xem...
Một giọng nói ngây thơ thuần khiết của một thiếu nữ khác cất lên:
- Hừ! Có phải là các người lại dùng mấy trò đá gà dạy chó lừa để Thái tử ca ca chơi đùa phải không? Tỷ tỷ, chúng ta tự vào đi.
Chu Hậu Chiếu "a" lên một tiếng, vội nói:
- Vĩnh Phúc và Vĩnh Thuần đến rồi. Ngươi trốn đằng sau bình phong một lúc đi. Trong cung có nhiều quy củ thối lắm, ngươi không thể tùy tiện thấy mặt bọn họ đâu!
Nghe vậy, Dương Lăng vội vàng đứng dậy trốn vào sau bức bình phong bằng gỗ tử đàn lâu năm. Y nghe Chu Hậu Chiếu cất cao giọng gọi:
- Đại Dụng! Mời hai vị công chúa vào đi!
Tiếp theo đó là tiếng một thiếu nữ cười khúc khích nói:
- Lạ quá, lạ quá! Không ngờ hôm nay hoàng huynh lại ngồi yên ở nơi này, không chơi mấy trò chó mèo nữa nhỉ, chẳng lẽ huynh đổi tính rồi?
- Vĩnh Thuần, chẳng có chút quy củ nào cả! Gặp ta mà cũng không biết làm lễ
à?
Thiếu nữ có giọng ngây thơ đáp:
- Thôi đi! Nếu hoàng huynh chịu nói quy củ thì mẫu hậu đã bớt lo lắng. Huynh suốt ngày cứ ta ta, có từng xưng "Cô gia", "Quả nhân" đâu, muội làm lễ cái gì chứ?
Dương Lăng đứng sau bình phong, nghe Chu Hậu Chiếu gọi nàng là Vĩnh Thuần, thầm nghĩ: "Hiện giờ hoàng đế Hoằng Trị có một trai hai gái, cô nương này chính là con gái nhỏ nhất của Hoằng Trị - công chúa Vĩnh Thuần. Nghe nói nàng ta mới mười một tuổi, chẳng trách nghịch ngợm như thế, người kia đương nhiên là công chúa Vĩnh Phúc rồi. Hai tiểu cô nương tới đây làm gì nhỉ?"
Công chúa Vĩnh Phúc năm nay mười ba tuổi, nhỏ hơn Chu Hậu Chiếu hai tuổi, nhưng lại đoan trang ôn nhu, hết sức biết lễ. Dù tiểu muội nghịch ngợm nhưng nàng cũng chỉ mỉm cười chứ không trách, vẫn sửa vạt áo ngay ngắn thi lễ theo đúng lễ tiết chính thức của cung đình:
- Hoàng muội Vĩnh Phúc ra mắt thái tử điện hạ. Điện hạ thiên tuế thiên thiên
tuế!
Trước nay Chu Hậu Chiếu vẫn không thích lễ nghi cung đình, mặc dù vừa rồi y giáo huấn tiểu muội, nhưng kỳ thật lại rất thích thái độ thoải mái như vậy của nàng. Lúc này thấy công chúa Vĩnh Phúc quả thật làm đại lễ, y đành phải ngồi nghiêm chỉnh nhận lễ, sau đó nhấc cánh tay phải lên như một con rối gỗ, cất giọng nhạt nhẽo:
- Hoàng muội miễn lễ, bình thân! Các muội xưa nay không đến Xuân Phường,
hôm nay tới đây...?
Công chúa Vĩnh Thuần cướp lời:
- Thái tử ca ca, hậu cung bây giờ nhốn nháo vô cùng, huynh mau đi... Công chúa Vĩnh Phúc đột nhiên ho khan một tiếng, cắt ngang:
- Các ngươi đều lui ra đi, ta có chuyện muốn nói với thái tử điện hạ.
- Dạ!
Cốc Đại Dụng vốn rất lanh lợi, vội vàng vâng lệnh rồi khoát tay, dắt hai tên tiểu thái giám rời khỏi, nhè nhẹ khép cửa cung.
Công chúa Vĩnh Phúc ngồi dựa vào sạp (giường hẹp) mềm, lộ vẻ lo lắng:
- Hoàng huynh, huynh mau đi hậu cung một chuyến đi! Phụ hoàng trước nay vẫn thương yêu huynh nhất, huynh ra mặt có lẽ có thể dập tắt cơn giận lôi đình của phụ hoàng.
Chu Hậu Chiếu nhất thời không hiểu, nghi hoặc hỏi:
- Phụ hoàng tức giận vì chuyện gì? Công chúa Vĩnh Phúc đáp:
- Lúc Ngọ triều khi nãy, Lý đại học sĩ hạch tội Thọ Ninh Hầu, nói ông ta lừa gạt, chiếm lấy tư điền, ngoài bốn ngàn mẫu (nguyên văn: công khoảnh, bằng một hecta. NB) ruộng tốt do hoàng gia ban tặng gần đây, còn bá chiếm gần một ngàn tám trăm khoảnh (mỗi khoảnh #6,667 hecta. NB); tranh giành lợi ích với dân lại càng khỏi nói, vừa dung túng gia nhân mua bán muối ở tám mươi vạn dặm ven bờ Lưỡng Hoài, lại vừa bức chiếm nhà dân, cưỡng bức kỹ nữ thanh lâu làm thiếp. Kết quả là cãi nhau to với Thọ Ninh Hầu ngay giữa triều, phụ hoàng nhất thời giận dữ giam cả hai người vào đại lao. Việc này... chà...!
- A?!
Chu Hậu Chiếu tròn mắt, sao lại tới nông nỗi này? Y ngây người một lát, đảo mắt hỏi:
- Hai người... Hai người đều bị giam à! Dường như trước kia cũng có người hạch tội Thọ Ninh Hầu, phụ hoàng đâu có tức giận như thế, lần này làm sao vậy?
Công chúa Vĩnh Thuần cười khì, rồi nhảy lên níu vào cánh tay hắn nói:
- Lý đại học sĩ khi chỉ trích Thọ Ninh Hầu là ngoại thích chuyên quyền nhất thời lỡ lời, nói đến họ Trương của mẫu hậu – một người vinh cả họ vinh, Thọ Ninh Hầu thừa cơ chỉ trích lão là hạ thần mà dám gọi hoàng hậu là "Trương thị", là đại bất kính, tội đáng xử trảm.
Lý đại học sĩ nổi giận đùng đùng, đoạt lấy cây ngọa qua trùy của Kim Qua võ sĩ trong cung đuổi đánh Thọ Ninh Hầu. Lão là một lão già gần sáu mươi, làm sao đánh nổi Thọ Ninh Hầu, trái lại còn bị Thọ Ninh Hầu đoạt kim qua đạp cho hai đạp. Phụ hoàng giận dữ, bảo bọn họ thất lễ trước mặt quân thượng nên tống cả hai vào ngục.
Chu Hậu Chiếu nghe vậy muốn bật cười, y nhếch miệng nói:
- Sao lại như thế? Ha ha, khục khục, việc này...
Y vừa nói, khóe mắt vừa hơi liếc về phía bình phong, nhưng bên ngoài có hai công chúa ngồi đó, Dương Lăng nào dám lên tiếng.
Công chúa Vĩnh Phúc lườm tiểu muội đang hả hê, rồi lo lắng:
- Hoàng huynh! Thân thể phụ hoàng không được khỏe, bây giờ Lý Đông Dương bị hạ ngục, cả đám Tạ Thiên, Lưu Kiện, Lưu Đại Hạ dẫn theo bá quan văn võ cả triều quỳ gối trước đại điện xin tha. Phụ hoàng giận dữ lánh vào hậu cung, nhưng mẫu hậu nghe nói Thọ Ninh Hầu bị bắt, lại khóc lóc không ngừng với phụ hoàng, muội cùng hoàng muội thấy tình thế không ổn, mới đến gặp huynh...
Mặc dù nghịch ngợm, nhưng Chu Hậu Chiếu lại rất kính trọng cha, nghe thế y lập tức đứng dậy nói:
- Ta nói mà, phụ hoàng không cho bất kỳ phụ nữ nào tự ý đến chỗ dạy học ở Đông Cung, chả trách các muội hôm nay lại đến đây. Ta sẽ đến hậu cung, các muội...
Y mới nói tới đây, từ xa xa đã có người hô to:
- Bệ hạ giá lâm đông cung, Thái tử mau đón!
Đây là thái giám chuyên môn phụ trách việc xướng lễ trong cung, giọng nói thanh cao vang xa. Công chúa Vĩnh Phúc nghe thế đứng bật dậy, hoảng hốt:
- Nguy rồi, phụ hoàng đang nổi nóng, nếu thấy chúng ta không tuân ý chỉ, e rằng càng tức giận hơn, việc này...
Vĩnh Thuần công chúa kéo hoàng tỷ, nói:
- Nhanh, lánh đi trước đã! Không biết chừng phụ hoàng tới kiểm tra hoàng huynh học hành, đợi phụ hoàng đi rồi chúng ta lại ra.
Nói rồi tiểu công chúa Vĩnh Thuần kéo hoàng tỷ trốn vào sau bình phong. Chu Hậu Chiếu chưa kịp cản thì hai người đã ẩn vào sau bình phong rồi. Một lát sau, không thấy phía sau bình phong vọng ra tiếng kêu kinh ngạc nào nên Chu Hậu Chiếu cũng cảm thấy hơi bồn chồn. Cửa cung mở ra, hoàng đế Hoằng Trị đã đến nơi, Chu Hậu Chiếu thấy vậy vội vàng khom người thưa:
- Nhi thần tham kiến phụ hoàng!
- Đứng lên đi!
Hoằng Trị phất tay áo, ra hiệu cho Miêu Quỳ. Miêu Quỳ dẫn người rón ra rón rén lui ra ngoài, nhè nhẹ đóng cửa cung lại.
Chu Hậu Chiếu đứng dậy, lẳng lặng nhìn sắc mặt phụ hoàng. Y thấy thần sắc phụ hoàng bình thản, trong mắt tựa hồ còn có nét cười, không giống dáng vẻ nổi giận đùng đùng, lúc này mới yên lòng, đồng thời lại hơi ngạc nhiên.
Cửa điện vừa đóng, Hoằng Trị cũng không còn làm ra vẻ hoàng đế nữa, mà tự nhiên ngồi cạnh án thư, vỗ vỗ sạp gấm bảo:
- Hoàng nhi, ngồi đi!
Chu Hậu Chiếu ngồi xuống cạnh phụ hoàng, y không tiện nhắc tới việc vừa mới phát sinh ở hậu cung, đành phải hỏi:
- Ngọ triều vừa xong, sao phụ hoàng không nghỉ ngơi một chút. Xem người kìa, lại đổ mồ hôi rồi!
Hoằng Trị hiền lành nhìn y, mỉm cười nói:
- Mẫu hậu con đang cằn nhằn phụ hoàng, phụ hoàng tới chỗ con trốn, ha ha!
Hai ngày nay mấy đại học sĩ đều bận rộn cho kỳ thi Hội, việc học của con có bị ảnh hưởng không?
Chu Hậu Chiếu làm vẻ kỳ lạ, ngạc nhiên hỏi:
- Mẫu hậu cằn nhằn cha ư? Tại sao lại thế chứ?
Hoằng Trị buồn cười liếc nhìn y, rồi đột nhiên nghiêm mặt hỏi:
- Hoàng nhi, con không biết thật sao?
Chu Hậu Chiếu rúng động trong lòng, nhìn thấy ánh mắt như rọi vào tận tim gan của phụ hoàng, trên trán bất giác tuôn đầy mồ hôi hột.
******************************
Dương Lăng phía sau bình phong nghe hoàng tử, công chúa thảo luận quốc sự như chuyện trong nhà. Thì ra nhà của đế vương, hoàng hậu mẫu nghi thiên hạ cũng giống như những đôi vợ chồng nhà bình thường. Y đang nghe rất thú vị, chợt nghe bên ngoài có tiếng báo Hoàng Thượng giá đáo. Ngay sau đó một làn hương phất tới, hai tiểu giai nhân mặc cung trang vội vàng vọt vào sau tấm bình phong, Dương Lăng không khỏi kinh ngạc đến ngây người.
Vội vàng nhìn thoáng qua, y thấy một thiếu nữ mặc áo quần màu vàng, dung mạo xinh đẹp tuyệt trần, thần khí cao quí, vào khoảng mười ba mười bốn tuổi, trên đầu búi một búi tóc cao vút đen huyền, dưới mái tóc mây là một gương mặt nhỏ nhắn trắng như tuyết rất kiều mỵ, mi như trăng non, mắt như thu thủy. Vừa thấy y, nàng lập tức cả kinh đến nỗi đôi môi anh đào há thành hình chữ O, suýt nữa kêu lên thành tiếng.
Tiểu cô nương kia vẫn là một cô bé, mặc một bộ quần áo trong cung màu đỏ tía, mặt trái xoan nhỏ xinh, tuổi tuy nhỏ nhưng đã có bộ dáng rất động lòng người, vóc người nhỏ nhắn xinh xắn như một cánh hoa nhỏ. Nàng vừa nhìn thấy Dương Lăng cũng không khỏi tròn mắt nhìn, nhưng thấy tỷ tỷ sắp kêu lên, vội vàng vươn tay bịt lấy đôi môi anh đào của tỷ, nhè nhẹ lắc đầu.
Công chúa Vĩnh Phúc bị muội muội bịt miệng, chỉ lộ ra đôi mắt to lúng liếng đen nhánh, nàng chớp chớp mắt, ra hiệu cho muội muội. Vĩnh Thuần lúc này mới buông tay ra, hai người quay đầu, hai đôi mắt đen lay láy trừng lên nhìn Dương Lăng. Dương Lăng mặt mày rầu rĩ, trước tiên cúi chào làm lễ, rồi chỉ chỉ ra phía ngoài, rồi chỉ vào mình, cuối cùng lại chắp tay, mặt mày rầu rĩ như đang diễn kịch câm.
Công chúa Vĩnh Thuần không khỏi phì cười, vội vàng bịt miệng, đôi mắt to cười cười liếc nhìn y. Nhìn thấy bộ dáng này của y, trong mắt công chúa Vĩnh Phúc cũng không khỏi lộ vẻ buồn cười. Lúc này Hoằng Trị hoàng đế đã vào phòng, hai người sợ bị phụ hoàng phát hiện, vội vàng lùi vào trong, như vậy càng gần Dương Lăng hơn.
Dương Lăng và Vĩnh Thuần đều không để ý gì, nhưng công chúa Vĩnh Phúc đã là cô nương mười ba tuổi rồi, lần đầu đứng sát một nam nhân đến thế nên trong lòng không khỏi hơi bồn chồn. Lúc này lễ giáo rất được xem trọng, là một thời kỳ đáng xấu hổ. Đối với việc nam nữ, một số nhà nho lớn không còn yêu cầu hà khắc như đời Tống trước đây nữa, nhưng một số khác lại muốn phục cổ, yêu cầu đối với lễ giáo càng lúc càng hà khắc. Ví như Hải Thụy, chỉ vì cô con gái năm tuổi nhận một cái bánh từ tay một người con trai khác, hắn cũng cho là đã vượt qua vòng lễ giáo, buộc con gái phải nhịn đói tới chết để bảo toàn danh tiết, thật đã tới mức tẩu hỏa
nhập ma rồi.
Công chúa Vĩnh Phúc là con cháu hoàng gia, tuy tính tình thoải mái phóng khoáng, nhưng lánh mình cùng một chỗ với một thanh niên trai tráng như vậy, nàng cũng không lấy làm tự nhiên cho lắm, huống hồ vì ở trong cung, số đàn ông con trai mà nàng gặp cũng ít vô cùng. Lúc này nhìn trộm lên, nhìn thấy người này ăn mặc giống như thị độc bên cạnh Thái tử, trông cao lớn khôi ngô, mũi thẳng miệng vuông, thập phần anh tuấn, khuôn mặt yêu kiều của nàng bất giác ửng hồng, rồi mơ mơ hồ hồ không nghe rõ bên ngoài đang nói gì.
Tuy bên cạnh Dương Lăng có hai tiểu mỹ nữ, nhưng với nhãn quang từng trãi qua mấy kiếp của mình, y không hề bị điên đảo thần hồn. Hơn nữa đến cả Hoàng đế và Thái tử cũng đã gặp qua, thân phận các nàng vị tất đã có thể làm chấn động được
y. Y ra hiệu đắc tội với hai công chúa, thấy các nàng cũng không dám lên tiếng, lúc này y mới yên lòng, vểnh tai nghe động tĩnh bên ngoài. Chỉ nghe bên ngoài thấp giọng nói chuyện một lát, sau đó Hoằng Trị đế ha ha cười lớn, còn Hoàng đế và Thái tử nói gì thì y không nghe được.
Thì ra Thái tử đang thẳng thắn nhận với Hoằng Trị rằng chính mình thu nhận chứng cớ, gợi ý cho Lý Đông Dương hạch tội quốc cữu với hoàng đế. Y vẫn còn có chút nghĩa khí, không khai Dương Lăng ra. Hoằng Trị nghe xong cười ha ha, rồi mỉm cười nói:
- Hoàng nhi! Lý Đông Dương là đại học sĩ đương triều, là người rất nhạy bén, mấy chiêu nho nhỏ của con há có thể giấu được hắn? Có một số việc dù cả hai bên đều biết thực hư như thế nào, nhưng làm như thế cũng không sai.
Hoàng đế ha ha cười nói tiếp:
- Có một số việc mình không tiện mở miệng thì cứ để thần tử ra mặt nói rõ.
Hoàng nhi này, quý thích vương tộc trong triều xâm phạm lợi ích dân chúng ngày càng nghiêm trọng, đâu chỉ có một nhà Thọ Ninh Hầu. Phụ hoàng và vài vị đại học sĩ đang chuẩn bị trừ bỏ một số chính sách có hại, tiến hành hạn chế một số hành vi như việc nhận đất đai do cống hiến, xâm phạm lợi ích nhân dân của hoàng thân quốc thích.
Hoằng Trị nhìn Thái tử vẻ khen ngợi, nói:
- Chỉ là trước đây phụ hoàng vẫn chưa tìm được thời điểm thích hợp để có thể ban hành chính sách mới, tránh việc bị cả hoàng tộc và công thần huân khanh phản đối; phụ hoàng cũng đang phiền lòng vì việc này. Ha ha, nếu không phải có phụ hoàng... Lý Đông Dương tuy là trung thần, cũng vị tất dám đoạt kim qua, thi triển quyền cước trên kim điện. Trẫm chỉ là mượn tay lão cho Thọ Ninh Hầu một bài học thôi.
Hoằng Trị nhíu mày than:
- Ta đối với hoàng thích luôn luôn hậu đãi rộng lượng. Nhưng đúng là gần đây hai anh em Thọ Ninh Hầu vô cùng hỗn xược, giam hắn vài ngày, mài bớt nhuệ khí của hắn cũng hay.
Chu Hậu Chiếu trố mắt:
- Thì ra phụ hoàng... Phụ hoàng đã sớm có ý trừng phạt hắn. Hài nhi nói mà, Lý Đông Dương sao lại trở nên to gan như vậy, thì ra là do ý của phụ hoàng. Chỉ là... chỉ là sao phụ hoàng lại bắt giam luôn cả Lý đại học sĩ thế?
Dương Lăng ở phía sau nghe thế cũng thầm giật mình. Bản thân mình quả thật đã coi thường Lý Đông Dương, càng coi thường vị hoàng đế hơi mập béo ụt ịt này. Bây giờ xem ra, còn không biết là ai bị ai điều khiển.
Hoằng Trị vỗ tay con, mỉm cười nói:
- Hài tử ngốc, nếu không như thế, mẫu hậu của con lại càng không chịu bỏ qua hay sao? Việc quốc gia dễ giải quyết, còn như mẫu hậu con cứ không tuân không chịu, trẫm cũng có chút đau đầu đây!
Hoằng Trì nói rồi lại cười khẽ:
- Nhưng hoàng nhi trước nay luôn ham chơi, chưa từng quan tâm tới quốc sự. Bọn Cốc Đại Dụng lại chỉ biết làm cho con vui lòng, gọi vài người diễn xiếc vào gây ồn trong đông cung, không phải là trẫm không biết. Lần này, con đột nhiên
quan tâm tới khó khăn của nhân dân, lao tâm khổ tứ bày trò nhờ người can gián, đó có phải là chủ ý của Dương thị độc kia không?
Công chúa Vĩnh Phúc cũng đang dán tai vào bình phong nghe lén phụ hoàng và Thái tử nói chuyện, nghe đến đây trong lòng khẽ động, nghiêng đầu nhìn Dương Lăng. Nào ngờ nàng vừa quay đầu thì trâm ngọc vạch vào tấm bình phong phát ra tiếng "két". Trong phòng chỉ có cha con Hoằng Trị nói chuyện, vô cùng yên tĩnh, vừa nghe thanh âm đó Hoằng Trị lập tức lạnh giọng quát:
- Ai? Dám nghe lén trẫm và Thái tử nói chuyện! Ra đây cho trẫm!
Dương Lăng nhìn hai công chúa. Chỉ thấy khuôn mặt nhỏ nhắn của công chúa Vĩnh Phúc đỏ rực lên nhìn hắn. Đôi mắt to tròn của công chúa Vĩnh Thuần đảo một vòng, thò ra một ngón tay nhỏ nhắn, chỉ chỉ vào Dương Lăng, lại chỉ chỉ ra bên ngoài. Dương Lăng rầu rĩ chỉ chỉ vào mũi mình, tiểu công chúa gật đầu vô cùng tao nhã, cười vô cùng đắc ý.
Dương Lăng chỉ còn biết nhìn công chúa Vĩnh Phúc, y thấy mặt nàng tỏ vẻ có lỗi, nhưng trong mắt cũng đầy vẻ cầu khẩn. Y đành cười khổ, thầm nghĩ: "Hai vị tiểu công chúa này cũng thiệt là... nghe lén cha nói chuyện đâu phải là việc lớn chứ! Nhiều lắm cũng chỉ bị trách mắng vài câu là cùng, hà tất bắt ta phải gánh tội thay?"
Hắn không biết Hoằng Trị đối với Thái tử vô cùng rộng lượng, nhưng quản thúc hai công chúa lại rất nghiêm khắc. Trong mắt một đứa trẻ sợ cha, bị cha la rầy đương nhiên là sự trừng phạt rất nặng. Dương Lăng bất đắc dĩ, đành phải lấy hết can đảm đi ra ngoài. Y không dám ngẩng đầu, bước vội lên vài bước, quỳ sụp xuống đất bẩm:
- Thần Dương Lăng ra mắt Hoàng Thượng! Hoàng Thượng giá đáo, vi thần tránh không kịp, đành phải vội vàng lánh vào sau bình phong, không nghĩ kinh động tới thánh giá, mong Hoàng Thượng thứ tội!
Kỳ thật ông rất tán thưởng Dương Lăng. Hoằng Trị đã từng bàn với Lưu Đại Hạ về những kiến giải quân sự của Dương Lăng mấy ngày trước đây, Lưu Đại Hạ tuy cảm thấy trong đó còn có rất nhiều chi tiết cần phải cân nhắc thương thảo, nhưng ông ta cũng khẳng định những ý kiến của Dương Lăng là cao kiến, đích xác rất độc đáo, nên cũng rất khen ngợi y.
Dương Lăng là thị độc của Thái tử nhưng không giảng về tứ thư ngũ kinh, chỉ giảng về non nước núi sông, phong tục tập quán, thậm chí cả những chuyện ở các nước xa xôi khác. Đương nhiên được tai mắt thông báo, Hoằng Trị cũng đã sớm biết những việc này rồi. Nhưng bản thân Hoằng Trị lại thích âm nhạc và hội họa, đám thần tử cũng vì chuyện này mà thường nhiều lần khuyên can, lo Hoàng đế sẽ chỉ ham mê những thú vui này mà bỏ bê việc nước. Mỗi lần nghe vậy Hoằng Trị cũng chỉ cười trừ, cho rằng đó là kiến giải của đám cùng nho, nên ông cũng không quan tâm đến việc ép Thái tử phải nghe nhiều, học lắm.
Theo Hoằng Trị suy đoán, Dương Lăng là đệ nhất tú tài Tuyên Phủ nên kiến thức tất nhiên là không kém, nhưng bây giờ y không giảng những lời của thánh nhân, lại bắt đầu giảng dạy từ bàng môn tà đạo, chắc là y cũng biết tính khí của Thái tử, cho nên mới bỏ phương pháp "đọc vạn quyển sách" mà dùng phương pháp "đi vạn dặm đường" để dạy Thái tử. Như vậy Dương Lăng đã khổ tâm suy tính để chọn phương án giảng dạy tốt nhất, nên ông rất tán thưởng y.
Nhưng hôm nay ông đang dạy cho Thái tử đạo làm vua, có một vài chiêu thức không muốn cho người ngoài biết lại bị Dương Lăng trốn ở gần đó nghe được. Cho dù Hoằng Trị luôn luôn cư xử rộng lượng, cũng bất giác thẹn quá hóa giận.
Ông nhìn Dương Lăng lạnh lẽo, cố nén giận hỏi:
- Dương thị độc, ngươi chỉ kinh động thánh giá sao? Dương Lăng lắp bắp:
- Hoàng Thượng! Thần... thần không rõ ý của bệ hạ. Hoằng Trị vỗ án thư, gằn từng tiếng:
- Dương Lăng! Hôm qua Thái tử đã xuất cung đi những đâu? Bản tấu hạch tội Trương Hạc Linh của Lý Đông Dương hôm nay có phải là chủ ý của ngươi?
Dương Lăng ớn lạnh trong lòng: "Việc này mình làm bí mật như vậy, Hoàng Thượng sao biết được? Chẳng lẽ trong Bát Hổ có tai mắt của Hoàng Thượng?
Không, không phải vậy! Nếu do Bát Hổ rò rỉ tin tức, Hoàng Thượng sớm đã ngăn cản Thái tử tự ý xuất cung rồi, không đợi mọi việc đã rồi mới hay biết. Vậy là ai đã tiết lộ tin tức chứ? Đông Xưởng? Cẩm Y Vệ? Bọn họ chắc không đến nỗi tự vả vào mặt mình, vậy là ai chứ?"
Dương Lăng nghĩ một lát rồi rùng mình. Y đột nhiên nhớ tới Tây Xưởng nghe nói đã bí mật được thành lập, chẳng lẽ là do mật thám có mặt ở khắp nơi của Tây xưởng dò biết được? Việc thành lập lại Tây Xưởng vô cùng bí mật, bây giờ vẫn chưa chính thức công khai, Đốc Chủ của Tây Xưởng là ai cũng chưa rõ, phần lớn thành viên của Tây Xưởng cũng có thân phận bí hiểm. Là người của Tây Xưởng sao?
Y quỳ ở dưới mà nghĩ ngợi lung tung, Hoằng Trị tức giận quát:
- Ngươi thật to gan lớn mật, dám xúi giục Thái tử xuất cung, ghé chốn trăng hoa, đánh nhau với người của hầu phủ. Điều này thôi thì bỏ qua cũng được, nhưng thân là thần tử, hạch tội người khác mà không dám quang minh chính đại bẩm thẳng cho quân thượng, lại âm thầm thi hành quỷ kế sai khiến đại thần, lợi dụng quân thượng, thực là đáng chém!
Hoàng Thượng càng nói càng giận, vỗ mạnh một cái lên án thư. Dương Lăng bất giác lạnh cả người. Kẻ làm vua kỵ nhất là bầy tôi ép chủ thượng, hận nhất là
dám bày mưu tính kế trước mặt vua. Tuy Hoằng Trị cũng hiểu mình thấy quyền thần xâm hại lợi ích của dân lành nên muốn giúp đỡ dân chúng, nhưng ông lại cho rằng mình xem thường Thái tử còn ít tuổi, sử dụng mưu kế để lợi dụng Thái tử, rõ ràng mình đã phạm vào điều kiêng kị của thiên tử.
Có câu "bạn quân như bạn hổ" (làm bạn với vua như làm bạn với hổ). Nếu như Hoằng Trị nổi giận, xử trảm một tên thị độc nho nhỏ như mình thì có đáng gì?
Dương Lăng càng nghĩ càng sợ, chỉ biết quì rạp dưới đất, chẳng biết phải giải thích như thế nào. Chu Hậu Chiếu có ý muốn xin xỏ cho y, nhưng thấy phụ hoàng giận dữ hầm hầm, nhất thời cũng không dám tùy tiện mở miệng.
Ngay lúc này, có giọng nói của Miêu Quỳ từ ngoài cửa vang lên:
- Kim phu nhân! Hoàng Thượng đang kiểm tra việc học hành của Thái tử, phu nhân hay đến hậu cung đợi đã. Đến khi Hoàng Thượng hồi cung, nhất định sẽ gặp mặt bà.
Sau đó lại nghe một giọng nữ cao ngạo vang lên:
- Cút ngay! Ta muốn gặp Hoàng Thượng bây giờ. Hoàng Thượng, thần thiếp oan uổng quá! Hoàng Thượng, nhờ ngài làm chủ cho thần thiếp!
Hoằng Trị cả giận quát:
- Chuyện gì?
Miêu Quỳ mở cửa điện, hết sức lo sợ tâu:
- Hoàng Thượng! Kim phu nhân...
Hắn còn chưa dứt lời đã bị đẩy ra, một quý phụ khoảng năm mươi tuổi xông vào. Vừa thấy Hoằng Trị, bà ta lập tức quì sụp xuống, khóc sướt mướt van vỉ:
- Hoàng Thượng! Thần thiếp oan uổng quá! Hạc Linh luôn luôn an phận thủ thường, không dám làm xằng làm bậy, sao lại có thể cưỡng chiếm nhà dân, tùy tiện mua bán muối của triều đình, cưỡng bức con gái thanh lâu chứ? Đều là do Lý Đông
Dương ghen ghét Hoàng Thượng sủng ái, tin tưởng Hạc Linh nên mới vu khống. Xin Hoàng Thượng làm chủ cho thần thiếp, hu hu... Đứa nhỏ đó từ bé tới lớn chưa bao giờ ở lao ngục cả, Hoàng Thượng...
Hoằng Trị khẽ nhíu mày, giọng hòa nhã:
- Kim phu nhân, mời đứng lên! Thọ Ninh Hầu thất lễ trên kim điện, trẫm chỉ trừng phạt hắn một chút. Lúc nãy trẫm đã nói với Hoàng hậu rồi, mấy ngày nữa sẽ tha hắn ra, chớ có kinh hoảng!
Dương Lăng nhìn người đàn bà quì bên cạnh mình, nghĩ thầm: "Đây là mẹ vợ của đương kim hoàng thượng sao? Thật may, chỉ mong bị bà này chen ngang, Hoàng Thượng quên béng việc trừng trị ta mới là hay."
Kim phu nhân vẫn không thôi, tiếp tục khóc lóc:
- Hoàng Thượng! Lý Đông Dương đuổi đánh Hạc Linh trên kim điện, Hạc Linh không nhịn được, mới đoạt chùy đánh người. Tính ra không thể trách được Hạc Linh, đứa trẻ đấy nào có lỗi gì? Hoàng Thượng muốn trừng trị, thì nên nghiêm trị Lý Đông Dương mới đúng, xin ngài tha cho Hạc Linh.
Hoằng Trị tái xanh mặt mày, thân thể mập mạp bị kích động đến thở dốc. Chu Hậu Chiếu thấy vậy vội đỡ lấy cha, lo lắng can:
- Phụ hoàng! Người thư dãn một chút, đừng kích động quá.
Thấy Kim phu nhân vẫn khóc lóc không ngừng, lòng Hoằng Trị càng thêm phẫn nộ. Đưa mắt qua thấy Dương Lăng quì ở đó, trước cửa Cốc Đại Dụng cũng thò đầu vào, ông không khỏi căm giận chỉa tay vào Cốc Đại Dụng, mắng to:
- Đồ khốn, lăn vào đây cho ta!
Kim phu nhân đang lải nhải khóc lóc, bị tiếng quát lớn nghiêm nghị của ông làm kinh sợ tới mức sững sờ, nín bặt. Cốc Đại Dụng vội bò vào trong, quì trên mặt đất. Hoằng Trị mặt nặng như chì, lạnh lùng buộc tội:
- Các ngươi thật to gan, dám xúi giục Thái tử xuất cung, để gia nhân của Thọ Ninh Hầu phủ đánh Thái tử bị thương, Trẫm đã có ý muốn lăng trì các ngươi. Nếu Thái tử có mệnh hệ gì, trẫm sẽ diệt chín họ các ngươi!.
Cốc Đại Dụng dập đầu như giã gạo, luôn mồm van xin:
- Hoàng Thượng tha mạng! Hoàng Thượng tha mạng! Thái tử xuất cung là để khảo sát dân tình, nào ngờ có tên gia nhân to gan như vậy... Lão nô đáng chết, lão nô vì bảo vệ Thái tử, liều chết xông lên cũng bị gia nhân của hầu phủ đánh mà, Hoàng Thượng!
Hắn ngẩng mặt lên cho Hoàng Thượng thấy vết thương tím bầm trên mặt. Kim phu nhân vừa nghe nói Thái tử bị gia đinh trong phủ con trai mình đánh, cũng sợ tới mức không dám lên tiếng, đờ người quỳ rạp một bên, sững sờ nhìn.
Thấy Kim phu nhân không còn ồn ào, Hoằng Trị thầm thở phào. Ông trừng mắt nhìn Cốc Đại Dụng bảo:
- Hừ! Nếu không do các ngươi xúi Thái tử cải trang rời cung, sao lại xảy ra chuyện như vậy? Nếu trẫm không trừng phạt các ngươi, không biết chừng sau này các người còn gây ra lắm chuyện lớn gì khác. Miêu Quỳ, tổng cộng có mấy người xúi giục Thái tử xuất cung?
Miêu Quỳ vội vàng bước lên một bước, khom người tâu:
- Khải bẩm Hoàng Thượng! Có thị độc Dương Lăng, nội giám Lưu Cẩn, Trương Vĩnh, Cốc Đại Dụng, Mã Vĩnh Thành, Ngụy Bân, La Tường, Cao Phượng, Khâu Tụ, tất cả chín người hôm qua cùng Thái tử rời cung, đến tối mới về!
Hoằng Trị quát:
- Đem chín tên này ra Ngọ môn...
Dương Lăng nghe thế giật mình, lại nghe Hoằng Trị nghỉ lấy hơi, phán tiếp:
- Đánh mỗi người ba mươi gậy để cảnh cáo!
Miêu Quỳ vội đáp:
- Tuân chỉ!
Hắn vẫy tay, vài tên tiểu thái giám đi vào lôi Dương Lăng, Cốc Đại Dụng ra ngoài. Cốc Đại Dụng gào khóc như mẹ chết:
- Hoàng Thượng tha mạng! Hoàng Thượng tha mạng! Nô tài không dám nữa, xin Hoàng Thượng tha mạng! Thái tử cứu nô tài với!
Dương Lăng hơi hoang mang. Đánh thì đánh chứ sao, cũng chỉ là ba mươi gậy chứ mấy? Cùng lắm là nghỉ ngơi hai ngày. Hoàng Thượng không chém đầu y, y đã thở phào rồi. Nhưng Cốc Đại Dụng từng làm trong Đông Xưởng nên biết rõ công phu dùng gậy của quan coi ngục Cẩm Y Vệ không giống như công phu dùng gậy của công sai ở nha môn. Đám người đó đều kinh qua huấn luyện nghiêm khắc, chỉ khi nào luyện đến độ đặt trên hòn đá một tờ giấy mỏng, đánh một gậy xuống mà gạch nát bấy nhưng giấy không rách mới có quyền thi hành án.
Do đó họ thi hành hình phạt đều dựa xem ý của Hoàng Thượng. Nếu như Hoàng Thượng không muốn người ta chết, vài chục gậy sẽ đánh đến mức máu thịt tung tóe, xem ra thì thê thảm vô cùng, nhưng kỳ thật chỉ cần bôi chút kim sang, nghỉ ngơi vài ngày là không việc gì. Còn nếu Hoàng Thượng không muốn cho kẻ thụ hình được sống, lúc hạ trượng thoạt nhìn rất nhẹ, da cũng không trầy, nhưng đánh rồi thì đau tới tim phổi, chỉ ba mươi trượng mà những mạch máu dưới da đã đứt từng khúc, bắp thịt nát bấy khó lành, không lâu sau chắc chắn phải chết, tuyệt nhiên không thuốc nào cứu được.
Cốc Đại Dụng không biết tâm ý Hoàng Thượng, hắn chỉ nhìn thấy mặt Hoằng Trị tái xanh, cho rằng lần này hẳn phải chết chắc nên khóc lóc van xin rất thảm thiết.
Chu Hậu Chiếu hơi bứt rứt, y vẫn cho rằng việc xuất cung hay không là chỉ theo ý của mình, đám Dương Lăng, Cốc Đại Dụng chỉ nghe lệnh làm theo thôi. Bây giờ mình thì vô sự, bọn họ lại bị đánh tơi bời, trong lòng y cũng hơi day dứt. Y ấp úng:
- Phụ hoàng, bọn họ...
Hoằng Trị phất ống tay áo, cắt ngang:
- Hoàng nhi là Thái tử của một nước, bọn chúng dám dắt hoàng nhi tự ý rời cung khiến cho hoàng nhi bị thương. Việc đại nghịch bất đạo như vậy mà không giết họ đã là thi ân rồi, hoàng nhi không cần nhiều lời!
Kim phu nhân nghe xong trong lòng run sợ, cũng không dám nhắc đến yêu cầu lập tức phóng thích Trương Hạc Linh, nghiêm trị Lý Đông Dương nữa. Nếu việc tự tiện đưa Thái tử rời cung đã bị xem là đại nghịch bất đạo, vậy gia đinh trong phủ con trai mình đánh Thái tử thì sẽ là tội gì? Việc này chưa từng nghe gia nhân nói tới, bọn chúng đánh Thái tử khi nào vậy?
Kim Phu nhân đang nghĩ ngợi miên man, Hoằng Trị lại nói:
- Kim phu nhân, xin đứng lên! Đừng quì nữa, ý trẫm đã quyết. Người đâu, truyền chỉ: Lý Đông Dương không giữ trật tự ở kim điện, phạt ba tháng lương bổng để khiển trách, tha khỏi tù; Thọ Ninh Hầu xâm phạm lợi ích của dân, chứng cớ vô cùng xác thực, giam giữ ba ngày, phạt nửa năm bổng lộc, sau này phải ước thúc gia nhân, trả lại tài sản phạm pháp. Khâm thử!
- Về chuyện Thái tử bị đánh...
Ông trừng trừng nhìn Kim phu nhân. Lúc này khí thế kiêu ngạo của Kim phu nhân đã bị dập tắt hoàn toàn, không dám cậy vào việc con gái mình được sủng ái mà lảm nhảm nữa. Bà thấp thỏm không yên nhìn Hoàng Thượng, chỉ nghe Hoằng Trị nói chầm chậm:
- Thọ Ninh Hầu trước đó cũng không biết chuyện, nếu không cũng sẽ không xẩy ra việc như vậy. Việc này cũng bỏ qua đi. Những việc xấu hổ của hoàng gia cũng không nên nói ra ngoài...
Kim phu nhân vội dạ dạ vâng vâng:
- Dạ, đúng! Hoàng Thượng thánh minh, Hoàng Thượng khai ân!
Hoằng Trị hừ khẽ, bảo:
- Nếu không có chuyện gì khác, Kim phu nhân có thể đến hậu cung gặp Hoàng hậu an ủi Hoàng hậu một chút. Trẫm phải kiểm tra việc học hành của Thái tử.
Kim phu nhân vội đáp:
- Dạ! Thần thiếp xin cáo lui, thần thiếp không quấy rầy Hoàng Thượng nữa. Vị phu nhân này vội vàng lau những vệt nước mắt trên mặt, rầu rĩ lui ra ngoài.
Bà thấy Hoằng Trị vốn tính tình luôn rất tốt mà lúc này lại nổi cơn lôi đình, trong lòng cũng hơi sợ hãi. Vốn định lập tức rời cung, nhưng bà lại sợ Hoàng hậu vẫn tiếp tục mè nheo khiến cho Hoàng Thượng tức giận nên vội vàng đi về phía hậu cung.
Chu Hậu Chiếu thấy mọi người đã lui ra, không kìm được kéo cánh tay Hoằng Trị, khẩn cầu:
- Phụ hoàng! Việc xuất cung hôm qua là chủ ý của nhi thần. Dương Lăng và Đại Dụng đều chỉ là người của hài nhi, phụ hoàng đánh tàn phế bọn họ, sau này ai còn dám theo hài nhi nữa?
Hoằng Trị nghe vậy cười hà hà, từ từ ngồi xuống, trừng mắt nhìn con trai hỏi:
- Cũng biết bảo vệ người rồi à? Hừ! Trẫm còn không biết con quậy phá cỡ nào sao? Nếu không có đám người này xúi giục, trẫm chắc con cũng không nghĩ ra được nhiều trò quậy phá như vậy. Đám Cốc Đại Dụng, Lưu Cẩn chỉ biết lấy lòng con, chỉ biết bày vài trò nhí nhố để chơi đùa, dạy dỗ bọn chúng một chút cũng đáng.
Chu Hậu Chiếu thấy giọng nói của phụ hoàng bình thản, biết mới rồi ông chỉ diễn kịch cho Kim phu nhân xem, nên không khỏi cười hì hì yên tâm. Y cũng ngồi xuống bên cạnh, bóp vai cho vua cha, hỏi:
- Vậy... Dương thị độc thì sao? Hắn ta là một thư sinh chân yếu tay mềm, cái mông trắng nõn không chịu được đòn đâu. Phụ hoàng đánh hắn tàn phế thì phải làm sao bây giờ?
Công chúa Vĩnh Phúc đứng sau bình phong nghe thấy hoàng huynh nói cái gì mà cái mông trắng nõn, không khỏi mặt ngọc đỏ bừng, nhè nhẹ thở "phì" một tiếng. Công chúa Vĩnh Thuần ít tuổi không biết gì nên không khỏi nhìn nàng kỳ dị. Công chúa Vĩnh Phúc thấy hoàng muội nhìn mình, không khỏi vừa thẹn vừa giận, bực tức trừng mắt nhìn lại hoàng muội. Công chúa Vĩnh Thuần lè lưỡi, không biết tại sao tỷ tỷ lại có dáng vẻ là lạ, hoàn toàn khác với mọi khi.
Dương Lăng nói đủ những chuyện trên trời dưới đất, quả có lực hấp dẫn Chu Hậu Chiếu không thua gì mớ ảo thuật, xiếc thú của bọn Lưu Cẩn. Đó là thế giới mà y chưa từng tiếp xúc, cho dù nằm mơ y cũng không nghĩ tới ngoại trừ Đại Minh, trên đời còn có nhiều nơi đẹp đẽ đến thế. Mặc dù quen biết không lâu, nhưng y cũng rất có cảm tình với Dương Lăng, không muốn Dương Lăng bị thương, bởi vậy nhân cơ hội này cũng cầu xin cho Dương Lăng.
Hoằng Trị giảng giải:
- Dương Lăng hả... Người này cũng là một nhân tài giỏi cả văn lẫn võ. Con đừng xem thường hắn chỉ là một thư sinh. Người thật sự có tài làm đại tướng, không cần phải đích thần cầm đao ra chiến trường. Những kiến giải về việc binh của hắn, đến cả lão tướng như Lưu Đại Hạ cũng rất tán thưởng.
Ông cười lớn:
- Người này chỉ là thị độc nho nhỏ lại dám đối nghịch với vương hầu, thật ra là một bề tôi trung thành. Hơn nữa, hắn biết mình thấp cổ bé họng, biết dựa vào Lý Đông Dương và Đông Cung Thái Tử ngươi để tấu lên trên, nên hắn không phải chỉ là một tên nhóc lỗ mãng. Trẫm rất thích hắn.
Hiện giờ thượng thư sáu bộ trong triều đều đã già rồi, các vị đại học sĩ lại càng cao tuổi hơn. Phụ hoàng cảm thấy nếu người này được rèn luyện tốt, trong tương lai tất sẽ là cánh tay đắc lực của con.
Thấy Thái tử còn có vẻ không hiểu, Hoằng Trị không khỏi bất đắc dĩ cười nói:
- Con lấy làm lạ là tại sao trẫm muốn trừng trị hắn ư? Ha ha, người này còn ít
tuổi lỗ mãng, còn quá trẻ nên quậy phá, làm việc bất kể hậu quả, nếu không trải qua một phen rèn luyện, tuổi trẻ tự đắc, khó tránh khỏi việc không coi ai ra gì. Lúc đó thay vì là một cột trụ của triều đình, hắn lại trở thành một quyền thần ngang ngược kiêu ngạo, con hiểu chưa?
Chu Hậu Chiếu "A" một tiếng, nửa hiểu nửa không nói:
- Thì ra... Phụ hoàng muốn rèn giũa hắn, cũng như... cũng như nhi thần sai người luyện ưng vậy, càng muốn dùng hắn, càng phải giày vò hắn. Ha ha ha, chỉ là... việc rèn luyện này lại trước tiên bắt đầu từ mông, nên nhi thần có chút ngạc nhiên.
Hoằng Trị nghe ví dụ của Thái tử rất lấy làm hài lòng, đến khi nghe câu sau của y lại không khỏi bật cười. Đứa con trai này vẫn còn chưa biết việc.
Do bản thân mình gây tiếng động khiến cho Dương Lăng đành phải ra ngoài chịu tội, trong lòng công chúa Vĩnh Phúc cũng rất áy náy. Nghe xong những lời giải thích của phụ hoàng, nàng mới thở phào một hơi. Công chúa Vĩnh Thuần giơ ngón cái với tỷ tỷ, nháy mắt. Hai chị em nhìn nhau mỉm cười.
(*): đình trượng là hình thức phạt đòn đối với quan lại trong triều.
Dương Lăng và Cốc Đại Dụng bị thái giám giao cho thị vệ trong cung trói lại đem ra ngoài ngọ môn. Ngoài ngọ môn sớm đã có một đám người đang đứng, viên thái giám nội quan giám hình (chấp pháp hình phạt) ngồi ngay ngắn trên ghế thủ vị. Phía sau hắn bên trái có ba mươi tiểu hoạn quan, bên phải có ba mươi Cẩm Y Vệ, phía trước là năm mươi tên ngục quan hành hình tay cầm gậy gỗ sơn son, nhìn tư thế cũng đủ cho người ta hoảng sợ, đến lúc này cả Dương Lăng cũng kinh hãi vạn phần.
Trông hình dạng viên quan thái giám giám hình ngồi xa xa, Cốc Đại Dụng không khỏi mặt mày tái nhợt, hắn nức nở nói:
- Không ổn rồi, là Ty Lễ Giám Phạm Đình Phạm công công giám hình, Dương đại nhân, chúng ta hôm nay e rằng khó mà toàn mạng.
Dương Lăng hỏi:
- Phạm Đình? Lão lợi hại lắm à? Cốc Đại Dụng run run nói:
- Phạm công công là Ty Lễ Giám, thủ hạ đắc lực của Vương Nhạc Vương công công, nắm giữ Đông Xưởng. Lão trước nay là kẻ lòng dạ ác độc bậc nhất, chúng ta lần này toi rồi, ngươi hãy chờ xem, quy củ trong cung, phàm mũi giầy của công công giám hình thu lại vào phía trong thì dụng ý là đánh cho đến chết, ba mươi côn đủ để phạm nhân mất mạng rồi.
Dương Lăng mới nghe thì nhíu mày, vừa nghe đến xưởng công Đông Xưởng
đốc hình, trong lòng đột nhiên có thêm vài phần hy vọng. Bản thân mình là người của Đông Xưởng và Cẩm Y Vệ phái đến bên cạnh Thái tử, chỉ mong vị quý nhân xưởng công này không quên việc đó, còn nhớ mình là ai, vậy lúc đánh có lẽ sẽ hạ thủ lưu tình.
Hai người bị áp giải tới trước mặt Phạm Đình, chỉ thấy trên đất sớm đã có một người đang quì dài trên đất, trên người bị vải bố quấn rất chặt, chỉ lộ ra cái đầu và bả vai, muốn động cũng không động được. Nhìn thấy hai người vừa tới, người nọ cười khổ nói:
- Dương đại nhân, Cốc công công, các ngươi cũng tới rồi à?
Cốc Đại Dụng nhìn thấy hắn, không khỏi vừa sợ vừa giận, cất giọng the thé hỏi:
- Tiền Ninh, là ngươi tố giác với Hoàng Thượng à?
Tiền Ninh cả người nằm thẳng đơ như xác ướp, hắn cố gắng rướn cổ lườm Cốc Đại Dụng, bất đắc dĩ cười gượng đáp:
- Nếu là ta tố giác, ta còn nằm ở đây à? Hắn khổ sở rên rỉ nói:
- Ở ngoài Thọ Ninh Hầu phủ, thủ hạ ta vô ý để rơi một tấm yêu bài (*), kết quả bị Tam Pháp Ti tra ra nguồn gốc, bắt ta tới đây.
(*) thẻ bài giắt ngang lưng)
Tên tiểu thái giám đứng bên cạnh cao giọng hét:
- Im lặng, phạm nhân không được huyên náo!
Chỉ trong khoảnh khắc, bọn Lưu Cẩn, Mã Vĩnh Thành cũng mặt xám mày tro bị áp ra ngoài ngọ môn. Phạm Đình từ từ đứng dậy, tên tiểu thái giám đứng cạnh vội đưa lên một cái khay sơn son trên đặt tấm lụa vàng, Phạm Đình từ trong khay lấy ra một chiếu thư, cao giọng tuyên đọc ý chỉ của hoàng đế:
- Phụng thiên thừa vận hoàng đế chiếu viết: Dương Lăng...
Lão đọc tới tên này thì ngừng lại một chút, mắt lướt nhanh tới Dương Lăng, thấy y cũng đang nhìn mình vẻ mong chờ tha thiết, khóe miệng lão không nhịn được liền nhếch lên một nụ cười không dễ bị phát hiện.
Phạm Đình tiếp tục đọc, nhất nhất đọc đủ tên mười người, tuyên đọc xong thánh chỉ, lão lại phất tay, đám người Dương Lăng đồng loạt bị đè nằm sấp xuống đất, mỗi người đều bị một tấm vải bố quấn chặt thân thể không thể động đậy, hai chân cũng bị người ta dùng dây thừng trói chặt. Dương Lăng thấy mình chỉ bị kéo vạt áo khoác, chứ không lột trần mông, cũng hơi yên lòng.
Tiền Ninh nằm bên cạnh y, nói nhỏ:
- Yên tâm, hiệu úy chấp pháp đều là thủ hạ của ta, họ sẽ không đánh thật đâu. Chỉ là cú cuối cùng sẽ không làm giả được, đến lúc đó ráng nhịn đừng có chửi bới là được rồi.
Dương Lăng hồi hộp nói:
- Đa tạ Tiền huynh chỉ điểm, nãy giờ ta thật sự cũng hơi lo lắng.
Y nằm dài ở đó cố ngẩng đầu nhìn Phạm Đình, muốn xem mũi chân hắn đang ở thế ngoại bát tự (chĩa ra ngoài) hay nội bát tự (chĩa vào trong)(chữ bát: 八). Không ngờ từ những kẽ chân của mấy tên đại hán hành hình, chỉ thấy Phạm Đình giơ chén trà ngửa mặt nhìn trời, đôi chân bắt chéo rung rung rất thoải mái, không khỏi ngẩn người ra.
Y đảo mắt nhìn mấy người Cốc Đại Dụng, chỉ thấy mấy người này cũng mở mắt to mắt nhỏ. Đám người này đều biết quy củ đánh người của nội giám trong cung, do đó hôm nay lại thấy Phạm Đình chẳng theo sách vở gì cả, ai nấy đều không hiểu ra làm sao.
Chỉ thấy một tên tiểu thái giám tới bên người Phạm Đình, cúi xuống lắng nghe lão dặn dò vài câu, rồi đứng lên cao giọng quát:
- Hành hình!
Mười tên tiểu kỳ quan Cẩm Y vệ tay cầm gậy gỗ đi đến sau đám người Dương Lăng, giơ gậy gỗ lên cao, hét lớn một tiếng, quất xuống vù vù.
Tiếng gió từ cây gậy lạnh thấu xương, nhìn lên thấy uy thế cũng đủ kinh hãi, nhưng khi gậy quất vào mông, Dương Lăng chỉ cảm thấy hơi nhồn nhột, chứ không thấy cảm giác đau đớn bao nhiêu. Y đang kỳ quái, bên cạnh bỗng nghe tiếng gào như núi lở đá nhào, thật sự khiến cho người người rơi lệ, kẻ kẻ thương tâm.
Dương Lăng giật bắn cả người, quay đầu lại nhìn Tiền Ninh, thấy hắn méo cả miệng, mặt nhăn nhó, tiếng gào thảm còn hơn cả tiếng giết heo, nhưng đôi mắt thì dường như đang trộm nhìn y nháy mắt, ánh mắt giảo hoạt vô cùng. Dương Lăng giật mình, vội vàng cũng lớn tiếng kêu gào thảm thiết theo.
Mười tên tiểu kỳ, mỗi người đánh xong ba gậy liền lui xuống. Tên tiểu thái giám ra lệnh kia lại quát lên rất uy phong:
- Luân hình!
Năm mươi tên lính nghe vậy, năm người một tổ cầm bổng thành hàng, luân phiên tiến lên chấp hành hình phạt. Họ hô theo nhịp, kêu một tiếng: "Đánh hết sức", rồi một gậy nện xuống, người tiếp theo lại hô: "Chú tâm đánh", rồi gậy tiếp theo đánh xuống. Tuy Dương Lăng thấy tên lính đó tựa hồ hạ thủ lưu tình, nhưng ngoại trừ tên tiểu kỳ lúc đầu đánh ba gậy mở màn thật là nhẹ, bây giờ mấy gậy này cũng hơi đau đớn, do đó y cất kêu gào thảm thiết nửa thật nửa giả, cũng không phải là hoàn toàn giả mạo.
Bên cạnh y chợt nghe đám Cốc Đại Dụng gào lên thật thê thảm, còn cho rằng những người này quả có công phu giả vờ, nhưng khi quay đầu lại nhìn, thấy bên trái mình La Tường đầu như dập xuống đất, một gậy đánh xuống là rú thảm một tiếng, bị vải quấn chặt nên thân thể không ngừng vặn vẹo co quắp, cong lên ưỡn xuống như một con giòi, đau đến mức nước mắt giàn giụa, không thể không khiếp đảm kinh ngạc: "Bọn họ có vẻ không được đối đãi như mình, xem ra là bị đánh thật".
Y ngẩng đầu nhìn Phạm Đình, chỉ thấy Phạm công công đang nâng chén nhấm nháp, vẻ thản nhiên tự đắc, cặp chân bắt chéo rung rung, chẳng thèm để ý tới mình. Dương Lăng thầm kêu may mắn. Xem ra Phạm Đình cũng nhớ mình là ai, nếu không phải lão hạ lệnh, mình mà chịu đủ ba mươi trượng, e rằng thật sự không chết cũng tàn phế.
Ba mươi trượng đánh xong, đám lính chống gậy gỗ, gỡ bốn góc của tấm vải bố đang trói trên người họ ra, giật xoạt một cái. Dương Lăng thấy Tiền Ninh hai mắt trợn tròn, mũi nín thở, lập tức không dám chậm trễ, cũng hít sâu vào một hơi, chỉ thấy bốn gã lính đồng loạt phát lực, quát to một tiếng, nâng cao người lên "Bịch" một tiếng thân thể đã sóng soài ra đất.
Trước mắt Dương Lăng chợt tối sầm, cơ hồ không thở được nữa. Y cố nén đau, nằm dài trên mặt đất hồi lâu thở hổn hển. Cả buổi sau y mới hồi tỉnh lại, chỉ nghe thấy hai bên vang đầy những tiếng rên rỉ, nhìn trộm qua, thấy đám Cao Phượng, La Tường ai nấy sắc mặt trắng bệch, chiếc quần trong trắng tinh thấm máu đỏ lòm, người đã ngất đi rồi.
Phạm Đình chầm chậm đứng lên, phất tay áo nói:
- Chấp hình xong, chúng ta phải trở lại cung báo cáo rồi, đi thôi!
Phạm Đình dẫn đám Cẩm Y vệ chấp hình ly khai, chỉ còn lại đám người Dương Lăng nằm ngoài ngọ môn không thể động đậy.
Cả buổi sau, mới có mấy tên tiểu thái giám của Đông Cung bước ra đỡ đám người Lưu Cẩn dậy. Tiền Ninh nãy giờ vẫn nằm dài trên đất liền thừa cơ xoay người ngồi lên. Bọn người Cốc Đại Dụng bị đánh cho bủn rủn tay chân, sớm không còn sức đâu mà chào hỏi họ nữa, được vài tiểu thái giám dìu trở về cung.
Tiền Ninh lấy từ trong lòng ra hai bình nhỏ, đưa cho Dương Lăng một bình,
nói:
- Uống hết cái này, đây là thuốc chữa thương tốt nhất, cam đoan sẽ không để lại di chứng.
Dương Lăng khó khăn ngồi xuống, tên thủ hạ Cẩm Y Vệ mặc dù cũng lưu tình, nhưng ba mươi gậy đánh xuống, đương nhiên là phải đau rát vô cùng, phỏng chừng mông đã sưng vù lên, hơn nữa còn rách tóet ra.
Thủ hạ của Tiền Ninh chạy tới nâng hắn và Dương Lăng dậy, dìu đi một đoạn cho khí huyết lưu thông. Đi tới khi hai người cảm thấy tê đi không biết đau nữa, lúc này mới đỡ hai người lên xe ngựa. Trước khi Tiền Ninh chịu phạt sớm đã có chuẩn bị, trên xe trải tấm nệm dày, còn có cả thầy lang của Cẩm Y vệ ở trong xe, lập tức lột quần hai người xuống bôi thuốc.
Hai người cứ thế để mông trần nằm cạnh nhau, Tiền Ninh nói:
- Dương đại nhân, ta trước hết đưa ngươi về nhà, sau đó trở về dưỡng thương.
Ối, bôi nhẹ một chút đi, mông ta đau quá.
Tiền Ninh phân phó tên lang trung một tiếng, lại hỏi:
- Dương đại nhân, thủ hạ của ta đánh mất yêu bài, bị người ta dò ra là Cẩm Y Vệ. Mẹ kiếp, Thọ Ninh Hầu quả nhiên ghê gớm. Ta đường đường là thiên hộ chưởng hình của Cẩm Y vệ đánh một tên gia đinh nho nhỏ của nhà hắn, không ngờ lại động đến thánh chỉ, bị phạt đình trượng. Nhưng việc Thái tử xuất cung thì ta chẳng nói ra lấy một chữ, các ngươi sao cũng bị giải tới đây thụ hình thế?
Dương Lăng biết Hoằng Trị nhất định có một ban nhân mã khác phụ trách việc nghe ngóng tất cả động tĩnh trong ngoài cung, mười phần thì hết tám chín là mật thám Tây Xưởng trong truyền thuyết đã bí mật được thành lập. Y không dám tùy ý nói toạc ra, chỉ bảo:
- Chúng ta hồi cung bị người ta thấy được, bẩm báo lại Hoàng Thượng, cho nên mới bắt chúng ta tới đây chịu đòn, chỉ là... liên luỵ tới Tiền đại nhân, tại hạ thật sự áy náy.
Tiền Ninh ra vẻ hào khí nói:
- Huynh đệ của mình, vốn phải là có rượu cùng uống, bị đánh cùng chịu. Một
chút đau đớn da thịt đã là gì? Vì thái tử gia, có chịu chút đau khổ nữa cũng đáng giá mà.
Hắn ghé tai gần Dương Lăng, thấp giọng cười nói:
- Nghe nói buổi triều hôm nay, Lý đại học sĩ và Trương Hạc Linh đã đánh nhau trên điện Kim Loan. Hoàng Thượng trong cơn giận dữ đã hạ ngục cả lũ, ha ha, có thể làm hắn ngồi tù, trong lòng ta cũng vô cùng khoan khoái, con mẹ nó, nợ nần phải tính cho đủ, quân tử báo thù mười năm không muộn, chúng ta cứ chờ xem, ha ha ha... ối chà!
Hắn cười làm động vết thương, nụ cười không kìm được thành ra méo xệch, thực là khó coi không thể tả.
Xe tới trước cửa Dương gia tại phố Hộ Quốc Tự, Dương Lăng ngại thương thế mình bị Ấu Nương trông thấy mà lo lắng, do đó cự tuyệt hảo ý của Tiền Ninh phái người hộ tống, một mình xuống xe, cố chịu đau đi vào trong viện. Lúc này trời chiều ngả về tây, ánh mặt trời lúc chiều tà rọi vào trong viện, đập vào mắt một mảng vàng óng.
Dương Lăng phỏng chừng Ấu Nương đang ở trong nhà làm cơm, do đó khi y đi đến cửa, liền vươn thẳng người, nhìn xem không có gì sơ hở, lúc này mới yên tâm đẩy cửa đi vào. Trên bếp ngọn lửa đã dịu đi, trên đó có một ấm đất màu đen đang sôi ầm ầm, một mùi thuốc bắc nồng nặc đập vào mũi, nhưng lại không thấy bóng dáng Ấu Nương đâu.
Dương Lăng thấy thế không khỏi cả kinh, y thất thanh gọi:
- Ấu Nương, Ấu Nương?
Gọi vài tiếng mà không thấy ai trả lời, Dương Lăng vội vàng nhịn đau nhào vào phòng. Trong phòng ánh sáng mù mờ, chỉ thấy Ấu Nương đang cuộn tròn trên giường, đắp chăn không nhúc nhích.
Dương Lăng hấp tấp lao tới, nắm lấy bờ vai gầy yếu của nàng gọi:
- Ấu Nương, Ấu Nương?
Y sờ trán Ấu Nương, thấy nóng bỏng cả tay, thân thể Hàn Ấu Nương run lên nhè nhẹ, nàng nghe thấy tiếng tướng công gọi, cố gắng mở to mắt muốn nói chuyện, nhưng răng chỉ va vào nhau lập cập, đến một chữ cũng nói không nên lời.
Dương Lăng cõi lòng đau thắt, y hoảng sợ ôm lấy Ấu Nương, trong lòng vừa đau vừa hối hận. Đã nhiều ngày nay y cũng thấy Ấu Nương ăn không ngon, thần sắc rất tệ, nhưng y lại cho rằng Ấu Nương là người luyện võ, thân thể luôn luôn cường tráng, hẳn là cảm mạo bình thường, do đó không quá để ý. Lúc này thấy nàng bộ dáng tiều tụy, trái tim Dương Lăng như bị cào xé, hoảng hốt nóng ruột vô cùng.
Ấu Nương hơi giãy dụa trong lòng y, rên rỉ nói:
- Lạnh quá, tướng... công, Ấu Nương lạnh quá, ta... Thiếp khát nước quá...
Thiếp muốn uống nước... Dương Lăng vội hỏi:
- Ta đi, ta đi, đợi nhé, ta đi lấy nước cho nàng.
Y vội vội vàng vàng chạy ra gian ngoài, lục lọi cả buổi mới tìm ra cái chén, lại ngó nghiêng một lát không thấy nước để ở đâu. Trước giờ y không cần quan tâm đến việc nhà, lúc y khát, nước trà ấm lập tức được đưa đến trước mặt, lúc y đói, thức ăn nóng bốc khói nghi ngút lập tức dọn lên bàn cho y, tất cả đều vô cùng tự nhiên. Bây giờ phải chiếu cố cho Ấu Nương, y lại không tìm thấy cái gì, nhớ tới Ấu Nương chăm sóc y tận tình, trong lòng y càng thêm khó chịu.
Ấu Nương bệnh nặng thế, chẳng lẽ cho nàng uống nước lạnh ư? Dương Lăng múc một gáo nước, lại đổ vào thùng, y chạy đến trước bếp nhấc ấm sắc thuốc qua một bên, tay cầm nóng bỏng làm y phải buông tay vứt ấm đi.
Dương Lăng vội vàng hứng nửa nồi nước, để lên bếp, cho vào lò bảy tám thanh củi, thấy lửa cháy bùng lên, y mới yên tâm chạy về phòng, châm đèn lên, đem tới
trước mặt Ấu Nương, sau đó ôm Ấu Nương ôm vào ngực, nhẹ giọng nói:
- Ấu Nương, ta đang nấu nước, trong chốc lát là xong, đợi một lát là có ngay.
Ngọn đèn trước mắt rập rờn. Ấu Nương khẽ nhắm mắt, nàng liếm liếm đôi môi nứt nẻ, mở mắt thất thần, ho khan một trận, mỉm cười e thẹn, nói:
- Tướng công, chàng về rồi, Ấu Nương quả là vô dụng, thiếp... đi... gặp thầy lang rồi. Ông ấy nói ta nhiễm lạnh, đem thuốc về rồi nhưng khi đang sắc thì không... không chịu được nữa.
Dương Lăng thấy nàng vừa nói tới đây, thân thể nàng lại không chịu được phải rùng mình, sắc mặt ửng đỏ, dưới ánh sáng ngọn đèn, thấy cổ nàng nổi lên những chấm đỏ lấm tấm, bộ dáng căn bản không giống cảm mạo, không khỏi kinh hoảng nói:
- Cái gì mà nhiễm lạnh. Tên lang trung chó má. Ta dẫn nàng đi gặp đại phu, tìm đại phu tốt nhất.
Y không nói gì thêm, bất chấp Ấu Nương giãy dụa yếu ớt, ôm lấy thân thể nàng lên rồi phóng ra ngoài. Cụ già gần nhà y đang chuẩn bị dọn hàng, kinh ngạc nhìn vị hàng xóm Dương đại nhân vọt tới trước mặt mình, hỏi vẻ vô cùng hoảng loạn:
- Cụ ông, xung quanh nơi này có y sĩ không? Không, không, không phải mà là có thầy lang, có đại phu không? Ta muốn tìm đại phu tốt nhất!
Cụ già lắm mồm này nghe y gọi mình là cụ ông, không khỏi được khen mà thấy sợ, nói:
- Đại nhân, thầy lang tốt nhất phố là Lưu tiên sinh ở Dã Cúc Trai, là Kim Châm Lưu nổi tiếng kinh thành. Nhưng phí chẩn trị của hắn cũng hơi ......
Nhìn thấy Dương Lăng mắt như muốn phun lửa, ông lão vội sửa lời nói
- - Đi hết phố, đến nhà thứ ba cuối đường là nó đó. Đại nhân... trong nhà lão có một chiếc xe đẩy, đại nhân muốn dùng nó đưa phu nhân đi không, đường đi cũng
không gần lắm đâu.
Dương Lăng gật đầu lia lịa, cụ già vội vàng chạy về nhà lấy chiếc xe đẩy hai bánh đem ra, Dương Lăng thấy chiếc xe đẩy xưa nay chỉ dùng để đẩy hàng, hơi dơ bẩn, vội về nhà lấy đệm chăn trải lên, xong mới đặt Ấu Nương lên trên, đắp cho nàng một tấm chăn. Sau một hồi lăng xăng, nhịp hô hấp của Ấu Nương càng thêm dồn dập, hai mắt đã nhắm chặt, cả người bất tỉnh rồi.
Dương Lăng lòng như lửa đốt, kéo chiếc xe đẩy chạy một mạch về phía Dã Cúc Trai. Chỉ là bây giờ bản thân y cũng đi đứng khó khăn, cất bước lảo đảo, nhưng lại liều mạng dùng sức chạy thật nhanh, nhìn bóng hình thê lương dưới ánh trời chiều ấy khiến cho người ta thương xót không nói nên lời.
***
- Phu nhân tuổi còn trẻ, lại luôn luôn tập luyện, vì vậy chống chọi đến giờ mới phát bệnh. Nói ra thì việc này cũng chẳng phải là một chuyện tốt, hàn tà trong cơ thể ứ đọng quá lâu, một khi phát tác, như nhà nghiêng sắp đổ ấy, lại muốn chữa trị, ài....
Kim Châm Lưu tay vuốt chòm râu khe khẽ lắc lắc đầu.
Vị Dương đại nhân này vừa rồi thế như hổ dữ, lôi xe đến xô cửa xông thẳng vào nhà lão, lại móc ra thẻ bài Cẩm Y Vệ cưỡng ép lão tống cổ tên phú ông đang yêu cầu chữa trị việc không có con của hắn và ả tiểu thiếp thứ mười hai, rồi kéo tay lão vội tới xem bệnh cho nương tử mình.
Thấy người vừa đến là người của Cẩm Y vệ, Lưu đại phu ban đầu còn hơi sờ sợ, nhưng sau khi xem bệnh và nói về bệnh lý, bệnh nghề nghiệp phát tác, lão bắt đầu rung đùi đắc ý.
Dương Lăng suốt ruột tới mức mồ hôi trên trán nhỏ xuống ròng ròng, y nuốt khan, lo lắng nhìn Ấu Nương đang hôn mê bất tỉnh, khẩn cầu nói:
- Tiên sinh! Cầu ngài xem lại biện pháp, nương tử ta phải trị liệu sao mới khỏi
được? Tiên sinh yên tâm, bất luận thuốc quí ra sao, mất bao nhiêu bạc, ta đều có thể tìm được, tiên sinh không cần phải lo.
Kim Châm Lưu cau đôi lông mày trắng nói:
- Phu nhân bị bệnh thời gian đã lâu, dương khí bảo vệ nhân thể đã hư tổn, rất dễ mắc phải hàn tà, bệnh phân chia thành ngoại hàn và nội hàn. Ta thấy tuy thân thể phu nhân cường tráng... Nhưng e rằng từng trải qua quá trình nghèo khổ lâu dài, ngoại hàn xâm nhập vào thân thể dai dẳng không tan, bây giờ nội hàn phát sinh, hàn tà là âm tà, âm thắng sẽ kết hàn. Cho nên khí huyết đông cứng, cản trở làm cho kinh lạc tắc nghẽn, không lưu thông được...
Dương Lăng nghe đến đó, nhớ tới ngày đó mình ở Dương Gia Bình, mùa đông khắc nghiệt, Ấu Nương mỗi khi đêm đến chỉ khoác chiếc áo mỏng, ngày ngày chịu lạnh chịu buốt, chẳng lẽ bệnh của nàng đã phát sinh từ lúc đó? Dương Lăng nghĩ đến những ngày tháng Ấu Nương chịu khổ sở, không khỏi lòng đau như cắt, lệ rơi lã chã, lúc này y thấy Kim Châm Lưu nói ra nguyên nhân phát bệnh, trong lòng hiện lên một chút hy vọng, vội vàng truy vấn:
- Tiên sinh, vậy xin hỏi phải làm sao mới trị liệu được? Kim Châm Lưu cau mày trầm ngâm nói:
- Hàn khí ở lâu trong cơ thể phu nhân, gây cản trở kinh lạc, khí huyết không lưu thông, vốn thân thể từ từ cũng quen dần. Nhưng gần đây phu nhân lại ở một nơi nóng bức, khí dương oi ả quá nhiều, làm cho âm dương xung khắc, đem khí hàn tà nhanh chóng đẩy vào tỳ thận, dẫn đến tỳ không thể vận chuyển, tiêu hóa chất dinh dưỡng tạo ra sức sống và máu huyết cho cơ thể. Thận không nạp được khí làm thông suốt niệu đạo để sinh ra tủy và hơi ấm nuôi dưỡng toàn thân. Dịch thể buộc phải hòa cùng máu huyết...
- ...
Dương Lăng nghe hắn còn kể lể về âm dương ngũ hành, không thể không rùng mình, y đứng bật dật, chụp lấy áo của Kim Châm Lưu, mặt mày dữ tợn, rốt cuộc
không còn chút lịch sự nào nữa, lớn tiếng gào to:
- Đừng có giảng bệnh lý với ta, ta chỉ hỏi ngươi, phải làm sao mới trị liệu được?
Phải dùng thuốc như thế nào?!
Kim Châm Lưu cũng không tức giận, lão nhìn Dương Lăng vẻ thông cảm, khẽ lắc đầu nói:
- Bệnh đã lan khắp nơi, khó có thể chữa trị.
Dương Lăng buông tay, ngồi phịch xuống ghế, ngây người hồi lâu, rồi y đột nhiên nhảy dựng lên hét lớn:
- Ta không tin, ta không tin! Không được, ta còn chưa chết, sao Ấu Nương có thể chết được?
Y ôm lấy Hàn Ấu Nương hôn mê bất tỉnh, rơi lệ nói:
- Thành Bắc Kinh to như vậy, ta không tin không tìm thấy một người có thể trị liệu cho Ấu Nương!
Y vô cùng cẩn thận đặt Ấu Nương lên xe rồi đẩy đi. Vì nãy giờ y chạy một mạch nên làm rách miệng vết thương, vết máu thấm ra ngoài áo sau của y. Dương Lăng vừa đẩy xe vừa thầm nói:
- Ông trời có mắt, quyết không cho Ấu Nương chết được, quyết không chết được!
Kim Châm Lưu khẽ lắc đầu, tuy biết người trước mắt là người của Cẩm Y vệ, không thể đắc tội với y được, nhưng ảnh hưởng tới tôn nghiêm của danh y, nên đợi y ra khỏi cửa, lão len lén mắng theo:
- Trong thành Bắc Kinh, y thuật Lưu mỗ ta không dám xưng đệ nhất, nhưng bệnh mà ta trị không được... e rằng cũng không ai khác trị được. Nếu ngươi tin ta, còn có thể dùng vài thứ thuốc hồi sức, để nàng tạm thời tỉnh lại mà trăn trối, còn bây giờ... Hà hà!
Lúc Ấu Nương còn khỏe, nàng luôn ôn hoà thuần hậu đứng sau lưng y, giống như một cơn mưa xuân ấm áp mềm mại âm thầm, chẳng những dần dà khiến người ta quên mất sự tồn tại của nàng mà ngay cả Dương Lăng cũng gần như quen với những hiến dâng lặng lẽ của nàng. Song bây giờ đột nhiên ý thức được nàng không thể vĩnh viễn như cái bóng đi theo mình, chiếu cố cho mình, làm bạn với mình, Ấu Nương cũng có ngày rời xa mình thì Dương Lăng mới giật mình phát giác sự đáng sợ của loại mất mát này.
Lúc này Dương Lăng vừa vội vừa sợ, mồ hôi thấm đẫm lớp áo dày, gió thổi ớn lạnh cả người. Máu tươi chảy đầm đìa từ mông nhưng y hoàn toàn không bận tâm. Những gì Lưu Thần Châm nói, y nghe cũng hiểu đại khái, vừa nghĩ tới lại đau lòng như cắt. Mình chỉ cảm thấy Ấu Nương tài giỏi kiên cường, sao không nghĩ tới nàng còn nhỏ tuổi, tấm vai non nớt có thể chống chọi được bao nhiêu áp lực chứ?
Một tiểu cô nương năm mười lăm tuổi gả vào nhà họ Dương, một mình khổ sở chống đỡ, không người trợ giúp, không niềm hy vọng. Áp lực tâm lý trầm trọng, cuộc sống gian khổ cơ cực, ngày tiếp ngày vất vả lo toan khiến thân thể nàng ngày càng sa sút, chỉ có thể dựa vào tinh thần cố gắng chống chọi mới giúp nàng chưa ngã gục.
Mùa đông rét lạnh mà mỗi đêm nàng chỉ đắp một cái chăn rất mỏng, không lâu sau lại tới ở trong tòa nhà của Sở Dịch, giường đất từ chỗ rất lạnh biến thành cực nóng. Hàn khí vốn đã xâm nhập tận phế phủ của nàng hoàn toàn không thích ứng được với loại biến hóa đột ngột này, lúc đó nàng đã mang mầm mống bệnh hoạn trong mình, chỉ do nàng có sức khỏe nên cố chống đỡ đến giờ mới phát bệnh.
Lúc này Dương Lăng khóc không ra nước mắt. Vừa rồi y dựa vào toàn bộ sức lực trong lúc kinh hãi đẩy Ấu Nương chạy lâu như vậy, bây giờ vừa mệt vừa đói,
thật sự không còn moi ra chút khí lực nào để đi nữa.
Vừa chật vật rẽ qua một ngã tư, một chiếc xe ngựa đang từ xa lướt nhanh đến vội vội vàng vàng khựng lại trước mặt y. Người trên xe ngựa gò cương chửi ầm lên:
- Mẹ, ngươi không muốn sống nữa à? Sao đi mà không nhìn đường, nếu kinh động lão gia nhà ta, ta đưa ngươi vào nha môn ăn đòn đó!
Dương Lăng lạnh lùng nhìn gã, gằn từng tiếng:
- Ta vừa mới ăn hèo đây, chính là hèo do đương kim hoàng đế ban tặng. Ngươi có bản lãnh thì tới đây thử xem!
Gã kia làm sao tin y được, gã cười khẩy một tiếng đang muốn nói gì, Dương Lăng đã lấy ngọc bài từ trong ngực ra xỉa trước mặt gã, trầm giọng:
- Bảo lão gia nhà ngươi xuống xe! Ta là Đồng Tri Cẩm Y vệ, bây giờ cần dùng xe của ngươi!
Tên đánh xe kinh hãi biến sắc. Gã nhìn nhìn một hồi vẫn không nhận biết được thẻ bài Cẩm Y Vệ, nhưng đã liên quan tới Xưởng Vệ thì thà tin còn hơn không. Gã chần chừ một lúc rồi quay đầu lại nói với người trong xe:
- Lão gia! Ngài xem...
Rèm kiệu vén lên, một người đàn ông trung niên áo xanh râu ngắn ló đầu ra.
Nhờ ánh đèn lồng treo trên khách sạn bên ngã tư quan sát rõ tấm yêu bài của Dương Lăng, hắn không khỏi thầm giật mình kinh hãi. Đã gặp qua không ít đại quan cùng quý nhân, đương nhiên hắn nhận biết yêu bài của Cẩm Y Vệ, đến cả tổ tông hắn cũng không dám trêu vào. Thầm kêu xui xẻo, hắn ngoan ngoãn bước ra khỏi xe, chắp tay chào:
- Ra mắt đại nhân! Không biết đại nhân xưng hô ra sao?
Dương Lăng ôm lấy thân thể mềm mại của Ấu Nương đặt lên xe ngựa, thở hào hển đáp:
- Ta không có thời gian nói chuyện với ngươi. Bây giờ ta cần xe của ngươi cùng với mã phu của ngươi, khi quay lại ta sẽ thả hắn về nhà.
Y nói xong tự mình trèo lên xe, đặt Ấu Nương cẩn thận trên ghế kiệu, nhè nhẹ hôn lên gương mặt nóng hổi của Ấu Nương, nghẹn ngào:
- Ấu Nương! Có tướng công ở đây, nàng sẽ không chết được đâu. Nếu nàng không sống nữa, tướng công sẽ cùng nàng đi đại náo âm tào địa phủ một trận, kiếp sau chúng ta lại làm vợ chồng.
Nói xong, quay đầu lại thấy tên đánh xe vẫn còn đờ đẫn, y không khỏi giận dữ hét lớn:
- Ngươi còn chưa đi?
Tên đánh xe giật bắn cả người, vội vàng đáp:
- Đi... Đi đâu chứ? Đại nhân ngài còn chưa bảo mà.
Dương Lăng yếu ớt xua tay, khuỵu gối bên cạnh Ấu Nương, ôm lấy thân thể nàng nói:
- Đi tìm lang trung! Ngươi là người đánh xe, hẳn biết trong kinh sư này ai là danh y, nhà cửa ở đâu. Nhanh!
Gã đánh xe ngần ngừ chỉ người đàn ông vừa bước xuống khỏi xe, nói:
- Lão gia nhà ta chính là danh y, hơn nữa lại là ngự y.
- Cái gì?
Dương Lăng vừa mừng vừa sợ, vội vàng nhảy xuống xe, gần như nằm rạp trước mặt người đàn ông trung niên kia, y kéo áo người nọ la lên:
- Tiên sinh họ gì? Xin tiên sinh chữa cho nương tử nhà ta, nàng... Nàng... Dương Lăng cảm thấy phấn khởi, vừa muốn khóc lại vừa muốn cười, nói không
ra lời.
Người nọ tuy là ngự y nhưng cũng không dám đắc tội với Cẩm Y vệ, mới vừa rồi phải nhẫn nhịn xuống xe, bây giờ thấy y từ hống hách trở nên nhún nhường, trong lòng bất giác có chút khoái chí. Hắn cười nói rất tự đắc:
- Tại hạ họ Điền, là y sĩ của thái y viện, chẳng biết tôn phu nhân khó ở thế nào? Nhưng nơi này không tiện bắt mạch, đại nhân nên theo ta về nhà, để ta có thể chẩn đoán rõ ràng hơn.
- Được được!
Dương Lăng rối rít đồng ý. Ngẫm lại mình vừa mới buộc người ta xuống xe, y chẳng biết có nên đi chiếc xe này tới nhà của người ta nữa hay không.
Vị Điền đại phu lại cười nói:
- Thôi đi! Tôn phu nhân đang bị bệnh, không cần phải xuống xe. Hàn xá ở ngay phía trước, chúng ta đi bộ về nhà cũng được.
Dương Lăng cũng chẳng cần khách sáo chi nữa, cùng cẩn thận theo vị Điền ngự y tới nhà hắn. Nhà của Điền ngự y nhìn qua có vẻ sang trọng, cạnh cửa treo cao một tấm biển vàng chóe "Hạnh Lâm Cư". Vừa tới nơi, Dương Lăng bế Ấu Nương theo hắn đi qua sân rồi vào thẳng trong đại sảnh. Thấy trong đó treo vô số những thẻ bài to nhỏ "Y Đạo Thánh Thủ", "Tái Hoa Đà", "Đương Thời Danh Y", Dương Lăng càng thấy an tâm hơn nhiều.
Điền ngự y rửa tay bằng nước ấm, một mặt dùng khăn tay trắng như tuyết lau sạch tay, một mặt đến gần quan sát kỹ Ấu Nương đang hôn mê trong lòng Dương Lăng. Hắn chau mày hỏi:
- Tôn phu nhân dường như bị nóng lạnh trong người, chân lông bí nghẽn, sốt cao không hạ thì phải!
Dương Lăng vội vàng gật đầu, run giọng đáp:
- Đúng, đúng, đúng! Thần y có biện pháp cứu nàng chứ?
Điền ngự y khe khẽ lắc đầu, bắt mạch Ấu Nương một lát, rồi mặt mày trầm trọng nói:
- Bệnh nóng lạnh không phải là sở trường của ta. Trong mười ba khoa của Thái Y viện thì tại hạ chuyên về bệnh trẻ em, không thạo về lãnh vực này, chỉ là... theo ta thấy... dù là thần y đúng chuyên khoa cũng khó lắm!
Dương Lăng không biết Thái Y viện Đại Minh chia làm mười ba khoa là Tim Mạch, Nhi Đồng, Phụ Khoa, Thương Hàn, Chấn Thương, Châm Cứu, Răng Miệng, Họng Hầu, Xoa Bóp, Nối Xương, Kim Thốc, Nhãn Khoa, Bùa ngãi, y còn tưởng rằng phàm là thái y đều là có thể chữa được bách bệnh. Tuy không hiểu bệnh trẻ em là cái gì, nhưng nghe lão nói không biết chữa, y không khỏi thất vọng:
- Thần châm họ Lưu cũng nói không có thuốc nào trị được, không ai có thể trị.
Chẳng lẽ... chẳng lẽ ta phải mất Ấu Nương thật sao?
Vốn vẻ mặt đang ngượng ngùng, nghe y nói thế, Điền ngự y không khỏi bật thốt:
- Ngươi đã gặp Kim Châm Lưu rồi à? Hắn nói không trị được là không trị được sao? Tuy ta không giỏi ngành này, nhưng cả thành Bắc Kinh người trị bệnh nóng lạnh giỏi nhất, ngoại trừ Ngô tiên sinh Ngô Thanh Viễn đã qua đời thì chỉ còn anh của ta thôi. Nếu anh của ta ở đây, chưa chắc không trị được!
Tinh thần Dương Lăng chấn động, y vội hỏi dồn:
- Lệnh huynh ở đâu? Mau mau mời lệnh huynh xem bệnh cho nàng, chỉ cần chữa được, Dương Lăng nguyện dốc toàn bộ sự sản để cảm tạ.
Điền ngự y nhậm chức trong cung nên không được tự mình mở phòng khám bệnh, nhưng ca ca hắn vì bị què một chân, mặt mũi lại xấu xí nên không thể vào triều nhậm chức ngự y, do đó mới mở Hạnh Lâm cư này. Phòng mạch này cách Dã Cúc Trai cũng không xa, hai nhà luôn là đối thủ cạnh tranh. Nghe thần châm họ Lưu
đoan chắc người bệnh không thể trị được, Điền ngự y tự nhiên không chịu phục. Lão họ Lưu đã không trị được, chỉ cần nhà mình chữa được thì việc này lan truyền ra, Thần Châm Lưu sau này đừng hòng mơ tưởng cạnh tranh với Điền gia nữa.
Vì lẽ đó, tinh thần Điền ngự y trở nên hăng hái, hắn nói với Dương Lăng:
- Đại nhân chớ sốt ruột! Anh của ta về quê ở Tam Hà thăm người thân rồi, cũng không xa đây lắm.
Hắn xoay người hạ lệnh cho gã đánh xe:
- Thiệu Đường! Ngươi lập tức đánh xe về quê Tam Hà, đón Đại lão gia nhanh nhanh trở về. Nói trong kinh có quý nhân mời người khám chữa bệnh.
- Dạ, lão gia!
Tên đánh xe vâng lệnh. Cũng may ngựa còn chưa tháo khỏi xe, gã vội vàng dắt ra khỏi cổng lớn, vung roi lên, ào ào phóng đi mất.
************************************
Hôm sau vào buổi triều sớm, Hoằng Trị tinh thần vui vẻ, thập phần vừa ý. Hôm qua dựa vào việc chỉnh lý bọn Dương Lăng, ông đã áp chế được sự kiêu ngạo của Kim phu nhân; cũng không biết bà ta nói với Hoàng hậu thế nào mà khi ông trở lại cung, tuy Hoàng hậu vẫn còn u sầu buồn bã, nhưng đã không dám khóc dầm khóc dề như trước nữa.
Ông có ý định phổ biến chính sách mới về hạn chế quyền lợi của hoàng thân quốc thích đã lâu, nhưng cản trở lớn nhất vẫn đến từ gia đình Hoàng hậu, hơn nữa đám quí tộc vì ích lợi có thể bị hao tổn, nhất định cũng dán mắt vào Trương gia.
Một khi Trương gia không tuân theo pháp lệnh, đương nhiên người ngoài cũng sẽ học theo. Bây giờ Thọ Ninh Hầu đã bị trừng trị, lực cản đối với việc thúc đẩy cải cách nhất định sẽ giảm mạnh.
Không ngoài dự đoán của Hoằng Trị, nhân thời cơ chín muồi, vào buổi triều sớm ông đề xuất lại việc cải cách, để cho đám người Lý Đông Dương vừa được
phóng thích khỏi ngục cùng Lưu Kiện và Tạ Thiên Kỷ bên xướng bên họa, thuận lợi ban bố luôn. Văn võ cả triều đều thức thời, không ai dám lên tiếng phản đối.
Hoằng Trị cảm thấy mừng rỡ, xem ra hôm nay không có việc gì quan trọng khác phải xử lý, đang muốn tuyên bố bãi triều thì lễ bộ thượng thư Vương Quỳnh bước khỏi hàng tấu:
- Thần khải bẩm Hoàng Thượng! Thần nghe nói mấy tên nội quan ở Đông cung chuyên phụng dưỡng Thái tử hay bày ra mấy trò chó ngựa mua vui, cản trở Chiêm Sĩ Phủ dạy thái tử đọc sách. Gần đây lại nghe thị độc của thái tử là Dương Lăng cũng hòa mình với bọn chúng, cấu kết nhau làm việc xấu.
Hoàng Thượng, Thái tử là người kế vị của quốc gia, bản thân quan hệ tới cả thiên hạ. Dương Lăng vốn xuất thân tú tài, được bệ hạ ân sủng, phá lệ ban danh hiệu Đồng tiến sĩ xuất thân, cho làm Đông cung thị độc. Hắn không nghĩ tới việc báo đáp hoàng ân, mà lại cùng nịnh thần cấu kết, gây náo loạn Đông cung. Thần xin bệ hạ bãi chức thị độc Đông cung, đuổi khỏi triều đình.
Hoằng Trị ngẩn người, nói vẻ không vui:
- Đó là do Ái khanh nghe nói Dương khanh hôm qua bị phạt trượng ở ngọ môn phải không? Hắn tuy cũng bị phạt trượng, trẫm cũng chỉ khiển trách nhẹ vì hắn chưa làm tròn trách nhiệm thị độc, không thể ngăn cản nội quan rủ rê Thái tử chơi bời trì hoãn việc đọc sách thôi. Hôm qua trẫm đến Đông cung khảo sát bài vở Thái tử, thấy tri thức cùng kiến thức của Thái tử đều tăng lên, việc này đương nhiên là công lao của ba vị thái phó, nhưng cũng không phải không có công phụ tá của thị độc.
Lão Vương Quỳnh không đồng ý, bẩm:
- Bệ hạ! Thị độc vốn có trách nhiệm giám sát Thái tử đọc sách, chưa tròn trách nhiệm, cũng khó xứng với chức vụ. Thần cho rằng nên tuyển một vị thị độc Đông cung có đức có tài khác. Sau khi dán thông báo vào kỳ thi mùa xuân, Hoàng Thượng tự mình tuyển một vị hiền tài tới Đông cung. Thần nắm giữ Lễ Bộ, đây là chức trách phạm vi của thần, việc này không dám không tấu.
Hoằng Trị mỉm cười nói:
- Trẫm biết sự trung trực của ái khanh, nhưng Dương Lăng làm việc ở Đông cung luôn luôn khá tận tâm, hôm qua trẫm cũng đã tiến hành khiển trách hắn rồi, cũng không cần phải...
Vương Quỳnh lập tức phục xuống đất khóc lớn:
- Hoàng Thượng nhân từ vô cùng, nhưng việc Thái tử là việc xã tắc, không thể sơ ý chút nào được. Thái giám nội cung chỉ hầu hạ thái tử sinh hoạt thường ngày, cho dù bọn chúng có hơi phi lý cũng còn có thể khoan dung. Nhưng đã là thị độc mà không thể hoàn thành chức trách thì vạn lần không thể tha thứ. Thần chưởng quản Lễ Bộ, sao có thể thấy mà không nói? Thấy mà không can? Thấy mà không gián được chứ?
Hoằng Trị chịu không nổi những tiếng gào khóc của Vương Quỳnh. Văn võ cả triều, lão là kẻ nhiều nước mắt nhất, hơi một tí là khóc lóc can gián, nhưng vị lão thần này luận về đạo đức văn chương đều thập phần xuất chúng, làm quan cũng luôn luôn thanh liêm. Hoằng Trị cũng không có biện pháp phạt lão. Thấy lão lại khóc lóc, Hoằng Trị bất lực nhìn Lưu Kiện.
Lưu đại học sĩ thông minh sắc sảo, ánh mắt Hoằng Trị đế vừa nhìn mình, lập tức bước ra nói:
- Hoàng Thượng! Thần tán thành đề nghị tuyển người làm thị độc Đông cung vào kỳ thi mùa xuân này của Vương Đại nhân. Dương thị độc thấp cổ bé miệng, tuy không phải không muốn ngăn cản nội quan bày trò, nhưng hắn cũng không thể làm được.
Về phần Dương Lăng, người này năm mười sáu tuổi đã là tú tài đầu bảng Tuyên Phủ, tài viết văn nhất định bất phàm. Mấy bữa trước hắn viết báo cáo về những thay đổi chế độ chính sách của quân đội cùng với việc cầm binh, luyện quân cũng rất là không tệ, đầy ý tưởng mới. Thần nghĩ rằng, có thể miễn chức thị độc của Dương Lăng, nhưng triều đình nên đề bạt bổ nhiệm nhân tài giỏi cả văn lẫn võ này. Không bằng Hoàng Thượng bảo hắn lên điện, tấu trình ngay trên cung đình, nếu hợp ý
Thánh Thượng, có thể cho hắn nhậm chức tại triều, hoặc ra ngoài làm quan. Một khi hắn có kinh nghiệm, không chừng sẽ trở thành bầy tôi trụ cột của triều đình.
Hoằng Trị nghe vậy rất mừng. Ông vốn có ý lưu Dương Lăng lại chờ hoàng nhi đăng cơ sẽ sử dụng. Nhưng từ năm trước ông bị bệnh nặng, thân thể ngày càng sa sút. Do đó hôm nay cũng phải suy nghĩ rất nhiều để chuẩn bị cho hoàng nhi.
Đám cựu thần trong triều tuy trung thành hết mực, nhưng bảo thủ cũng có thừa, thiếu chí tiến thủ, hơn nữa bọn họ đã già thế rồi cũng không biết gắng gượng được bao nhiêu năm nữa. Nếu không thể tìm được bầy tôi tốt phụ tá cho hoàng nhi, chỉ vài năm sau đám cựu thần sẽ tàn lụi, làm sao ông yên tâm được?
Do đó nghe thấy Vương Quỳnh luôn miệng thỉnh cầu thôi chức thị độc của Dương Lăng, ông liền động tâm. Được lắm, ngươi nói hắn không xứng giữ chức thị độc, không phải là không xứng làm quan trong triều. Ta cho hắn làm quan, cũng không xem như bộ Lễ các ngươi không làm tròn bổn phận phải không? May mà Lưu Kiện có thể quan sát được ý ta, nghĩ ra biện pháp vẹn cả đôi bề như vậy.
Hoằng Trị sợ Vương Quỳnh lại phản đối gì nữa nên lập tức vui vẻ trỏ tiểu thái giám trực giấy mực bên cạnh ngự thư án, hạ lệnh:
- Ngươi đi truyền khẩu dụ của trẫm, bảo Dương Lăng lập tức lên điện.
Tên tiểu thái giám giật bắn cả người. Xưa nay việc truyền dụ đều do nhân viên của Sở biên tập phụ trách việc chấp bút rồi sai người truyền chỉ, hắn chưa bao giờ ra khỏi cung. Bị phái đi như vậy, tên tiểu thái giám hoảng hốt vâng dạ, vội vàng bước xuống một bên ngự đài. Hắn chỉ cảm thấy lâng lâng, hưng phấn tới suýt nữa hụt chân ngã tòm.
Tên tiểu thái giám vừa mới bước xuống được mấy bậc bệ ngự, Hoằng Trị đột nhiên gọi:
- Chậm đã!
Tên tiểu thái giám vội vàng xoay người. Hoằng Trị trầm ngâm một chút, mỉm
cười nói:
- Lấy xe gấm trong cung mà đi. Ha ha! E rằng bây giờ hắn chẳng đi nổi nữa đâu.
Đám văn võ bá quan nhất thời ồ lên, xe gấm đón à? Đây là vinh dự như thế nào! Chỉ có mấy vị đại học sĩ và nguyên lão trong triều đôi khi tiến cung mới được đối đãi như vậy. Xem ra Vương thượng thư mờ mắt đã hớ to rồi, hoàng đế Hoằng Trị nói trắng ra mình muốn trọng dụng Dương Lăng mà.
******************************
Lúc này Dương Lăng đang mượn xe của ngự y, giục ngựa chạy như điên. Thần sắc Ấu Nương càng lúc càng kém, môi khô nứt nẻ, khí tức yếu ớt, sắc mặt xám xịt làm cho người ta vô cùng đau lòng, trái tim Dương Lăng cũng theo đó chìm xuống tận vực thẳm.
Nguyên y khổ sở đợi một đêm, tên đánh xe Điền phủ mới đem vị Hạnh Lâm cao thủ sắp mất vía trở về. Vị Điền thần y này quả nhiên cao minh hơn em mình nhiều, ông vừa tiến vào y đường, vọng (nhìn), văn (nghe), vấn (hỏi), thiết (thăm mạch) một hồi, lập tức cả quyết phán:
- Đúng là Tôn phu nhân bị bệnh thương hàn. Bệnh này đã tiềm ẩn lâu ngày đáng ra phải sớm phát tác rồi. Chỉ là tôn phu nhân khí lực cường tráng vượt xa người thường, nên luôn cố chống chọi đến giờ.
Mắt Dương Lăng đầy tơ máu, y trừng đôi mắt đỏ rực, hỏi vẻ lo sợ:
- Có thể... có thể... Có thể còn biện pháp chữa trị không?
Người này đã là hy vọng cuối cùng của y. Trong thời khắc sinh tử, khi y hỏi, khớp hàm cũng va vào nhau lập cập, thân hình cũng run lẩy bẩy.
Điền thần y khẽ cau mày nói:
- Vốn có biện pháp, "Thông Chân Cứu Khổ Đan" của ta chuyên trị thương hàn
trong ngoài, là phương pháp kỳ diệu có thể làm cho thoát ngược mồ hôi, chỉ là... chà!
Ông nhìn Dương Lăng với vẻ có lỗi, nói tiếp:
- Tôn phu nhân chạy chữa quá muộn. Thuốc men thì có thể lấy Đương Quy, Xích Thược Dược, mỗi loại một phần năm lạng; Cam Thảo, Ma Hoàng Thảo, mỗi thứ bốn lạng, thêm vào nửa lạng Quan Quế, nghiền nát, lấy rượu nóng đun lên, ba ngày sau lập tức phục hồi, phối với một vài phương thuốc khác là có thể trị dứt, nhưng bây giờ... Thứ cho Điền mỗ mạo muội nói thẳng, tôn phu nhân quyết không qua hỏi hôm nay.
Dương Lăng đầu váng mắt hoa, trời đất tối sầm, y ôm thân thể Ấu Nương mà lảo đảo như sắp ngã khỏi ghế. Điền thần y thấy vậy chấn động, vội ấy trong tay áo ra một thanh ngân châm, thoáng cái đâm vào đỉnh đầu Dương Lăng. Dương Lăng mở to hai mắt, thì thầm gì đó trong họng, hồi lâu mới hít thở được.
Y định thần, cười sầu thảm:
- Không... Không cứu được à?
Huynh đệ họ Điền thấy vợ chồng y tình thâm nghĩa trọng như thế, cũng bất giác thầm cảm động. Điền thần y lặng lẽ rút ngân châm về, đồng tình nói:
- Đại nhân! Về nhà chuẩn bị hậu sự cho phu nhân đi, Điền mỗ vô năng... Chà! Kinh thành to như vậy nhưng có lẽ chỉ có viện trưởng viện Thái Y mấy năm trước là Ngô Thanh Viễn tiên sinh mới có thể có biện pháp, đáng tiếc... bảy năm trước Ngô tiên sinh đã qua đời. Ta hiểu rõ danh y kinh sư như lòng bàn tay, trừ ông ta ra e rằng không ai... không ai khác có thể ra tay cải tử hoàn sinh, trị được bệnh bộc phát tới mức này đâu.
Dương Lăng ngẩn người như khúc gỗ thật lâu. Điền thần y thấy thế kinh ngạc vô cùng, chuẩn bị đâm cho y một châm nữa, con ngươi Dương Lăng mới động đậy, hỏi một câu si ngốc:
- Không cứu được nữa sao? Điền thần y đáp:
- Không...
Vừa thấy đôi tròng mắt đờ đẫn của y, Điền thần y bất giác chấn động mạnh, nín lặng không nói thêm gì.
Dương Lăng khẽ gật đầu, từ từ ôm Ấu Nương đứng lên, nói với Điền thần y:
- Xin thần y cho ta mượn xe ngựa! Ta phải đi khắp kinh thành tìm danh y, chỉ cần Ấu Nương còn một hơi thở, ta vẫn sẽ còn đi tìm danh y, tìm một phương thuốc cứu sống nàng!
Vốn thứ mà danh y kiêng kị nhất là bước khỏi cửa nhà hắn tìm đến thầy thuốc khác chữa trị. Nhưng huynh đệ Điền thần y lúc này không hề buồn lòng chút nào, họ vội vàng đổi tên đánh xe, giúp Dương Lăng đưa Ấu Nương lên xe. Dương Lăng mang Ấu Nương chạy loanh quanh vài vòng trên phố không mục tiêu, đầu óc rối loạn, rồi y đột nhiên nhớ đến đám hòa thượng Tây dương ở Hộ Quốc tự, cả người chợt run lên. Thần y, ngự y đều chẳng làm gì được, còn Tây y thì sao?
Trái tim Dương Lăng như muốn nhảy ra khỏi lồng ngực, y vội hạ lệnh:
- Nhanh! Mau tới Hộ Quốc tự, càng nhanh càng tốt!
- Ấu Nương! Cố kiên trì một chút, đừng bỏ tướng công, tướng công sẽ cùng nàng đi tìm thầy thuốc, nàng nhất định phải kiên trì chịu đựng! Ấu Nương! Nàng đã hứa theo ta cả đời mà...
Tuy là một hán tử hào sảng nhưng vừa nghe thế tên xa phu cũng cảm thấy đau xót, gần như rơi lệ. Hắn chớp mắt, quất mạnh roi lên lưng ngựa, quát to "Giá!", vội vàng thúc xe phóng như bay về Hộ Quốc tự.
Lúc này tên ngự tiền tiểu thái giám lần đầu phụng thánh chỉ xuất cung làm việc dẫn theo bốn Tiểu Hoàng Môn (*), tám tên Cẩm Y vệ, lại có hai đại hán kéo xe gấm trong cung chạy theo, cực kỳ cao hứng chạy tới nhà Dương Lăng. Vừa tới, cả bọn lại thấy cổng đang khoá, đó là lão hàng xóm giúp Dương Lăng khóa cửa.
(*): một chức quan của thái giám.
Tên tiểu thái giám ngẩn người, vậy thì phải làm sao bây giờ? Hồi cung nộp chỉ à? Tiểu thái giám chưa biết làm gì, đành gõ cửa nhè nhẹ lắng nghe. Khi xe ngựa Dương Lăng vội vàng chạy về ngang phố này, hai tên Cẩm Y Vệ thấy xe phóng ào ào bèn cao giọng quát mắng:
- Đứng lại! Nội quan đang phụng chỉ làm việc, người phương nào dám giục ngựa chạy ẩu như vậy?
Dương Lăng đang vô cùng lo lắng, đầu óc mụ mị, chỉ nghĩ tới việc chạy nhanh đi tìm thầy thuốc, vừa thấy có người cản đường, y buột miệng la lên:
- Ai cản xe ta?
Lúc này, tên tiểu thái giám đã dò biết được Dương Lăng mang người thân đi
cầu thầy thuốc không có ở nhà. Hắn vừa hậm hực bước ra khỏi cửa nhà lão hàng xóm nọ đã liếc mắt nhìn thấy Dương Lăng, lòng vô cùng mừng rỡ. Hôm qua hắn theo Hoàng Thượng đi đến Đông cung đã từng gặp Dương Thị Độc rồi nên đương nhiên biết mặt mũi y. Tên tiểu thái giám vội vàng hô to:
- Dương Thị Độc! Hoàng Thượng có chỉ, truyền ngài lập tức lên điện yết kiến. Dương Lăng quýnh tới mức đổ mồ hôi, chẳng suy nghĩ gì đáp luôn:
- Không không! Mau tránh ra. Ta muốn đưa Ấu Nương đi xem bệnh! Nói rồi y phất tay bảo xa phu:
- Đi mau, đi mau! Lập tức đi Hộ Quốc tự.
Tên xa phu líu cả lưỡi. Thánh chỉ mà cũng dám không tuân, tuy Cẩm Y vệ rất oai phong nhưng đâu có oai phong đến như vậy? Hắn không dám chậm trễ, vội vàng vung roi lên, xe ngựa xuyên qua đám thị vệ đại nội lao thẳng về phía Hộ Quốc tự.
Nhìn xe ngựa lướt đi, dân chúng đang vây quanh ngẩn cả người ra. Tám tên Cẩm Y vệ, bốn tên Tiểu Hoàng Môn đều trơ mắt nhìn tên thái giám truyền chỉ. Bây giờ hắn chính là khâm sai, đương nhiên cả bọn đều phải nghe lệnh hắn.
Tên tiểu thái giám mới mười bốn mười lăm tuổi, tuy niên kỉ còn nhỏ, nhưng hôm nay lại bất chợt bị Hoàng đế phái đi tuyên chỉ. Chuyện gì hắn cũng đã nghĩ qua, chỉ là không ngờ lại gặp phải tình huống này. Ý chỉ truyền tới nơi mà người ta không phụng chỉ, vậy phải làm gì? Việc này dường như... Dường như xưa nay chưa bao giờ nghe nói tới việc như thế này, ta nên hỏi ai đây?
Tên tiểu thái giám truyền chỉ luống cuống muốn khóc. Bây giờ Hoàng Thượng cùng bá quan cả triều đều đang ở kim điện chờ y, mình báo cáo kết quả công tác làm sao được?
Nếu là thái giám lâu năm gặp phải việc ngàn năm khó gặp như thế này thì hoặc vung phất trần lên, quay đầu hồi cung phúc chỉ để hoàng đế nổi trận lôi đình, kể cả
trong chốc lát ngài có trừng trị hay diệt cả nhà y cũng không liên quan tới mình. Nếu đụng phải tên nào lòng dạ độc ác, không biết chừng hắn còn ra lệnh một tiếng, lập tức đám Cẩm Y vệ sẽ giết ngay tên bầy tôi dám kháng chỉ tại chỗ.
Nhưng tên tiểu thái giám này hoàn toàn không có chủ định, hắn chỉ nghĩ tới việc bắt Dương Lăng mang về, bằng không hoàng đế nổi giận, chưa biết chừng cái mông của hắn còn bị đánh đòn. Hắn lượn hai vòng tại chỗ, vung tay lên nói vẻ nghẹn ngào bi phẫn, tiếng kêu the thé:
- Đi! Đuổi theo Dương thị độc!
- Dạ!
Nghe khâm sai lên tiếng, đám Tiểu Hoàng Môn, Cẩm Y Vệ cùng giật cương ngựa, hai đại hán kéo xe gấm chạy theo tên thái giám truyền chỉ đuổi theo Dương Lăng.
Khắp con đường lớn, người đi đường đang lui tới tấp nập. Đám sĩ tử vừa mới thi xong kỳ đầu chuẩn bị thi tiếp buổi chiều thấy cảnh lạ lùng này đều chạy theo hỏi han những người đang bám theo sau tên tiểu thái giám xem náo nhiệt. Hiểu chuyện, bọn họ không khỏi vừa sợ hãi vừa buồn cười, thấy việc kháng chỉ của Dương Lăng thật sự quá hoang đường, nhưng đáy lòng cũng thầm bội phục dũng khí của y.
Một vài đại cô nương, tiểu cô nương càng cảm động tới nước mắt lưng tròng.
Đàn ông si tình như vậy, dù trên sân khấu kịch cũng không tìm thấy được. Chỉ trong chốc lát, tin lạ về việc lục phẩm thị độc ôm vợ cầu thầy, ngay cả thiên tử hạ chiếu mà cũng dám kháng chỉ lan truyền khắp kinh thành với tốc độ kinh người.
Tên tiểu thái giám đuổi tới Hộ Quốc tự, vừa kịp nhìn thấy Dương Lăng bế người lảo đảo đá tung cửa bước ra, vài người nước ngoài mũi cao mắt lam thập thò ở phía sau, ngón tay đang múa loạn trước ngực và trên trán (BT: ý là làm dấu thánh).
Thì ra lúc đó y thuật Tây Dương chỉ khá là sở trường về ngoại khoa phẫu thuật.
Vì những thứ dụng cụ như kính hiển vi, ống nghe bệnh đều chưa được phát minh
nên y học về nội khoa thua xa so với ngoại khoa. Đám thầy thuốc này sở trường thuật mổ sọ, trích huyết, rửa ruột, chứ những thứ sốt cao đột ngột như Ấu Nương thì hoàn toàn bó tay.
Đám thầy tu này cũng đem theo vài dược vật trị cảm mạo của Tây Dương tới đây. Nhưng kỳ thật hiệu quả của thuốc cũng không tốt, hơn nữa vài năm qua cũng đã dùng hết rồi, do đó cũng lực bất tòng tâm với bệnh của Ấu Nương.
Tiểu thái giám đuổi kịp Dương Lăng, hưng phấn tới mức khuôn mặt đỏ rực lên, hắn vội vàng chạy tới vươn tay giữ chặt Dương Lăng cầu khẩn:
- Dương đại nhân! Hoàng Thượng đang ở kim điện chờ ngài. Ngài... ngài trước hết đưa quý nương tử đến lang trung để người ta chăm sóc còn chúng ta đi gặp Hoàng Thượng sớm đi.
Dương Lăng cười thê lương:
- Gặp Hoàng Thượng làm gì? Thăng quan phát tài à? Ngươi hồi cung phúc chỉ đi, ta phải đưa Ấu Nương về nhà.
Y chua xót nhìn Ấu Nương nói tiếp:
- Từ khi đến kinh thành tới nay, ta vẫn chưa hề chăm sóc nàng, hằng ngày vẫn để nàng thui thủi một mình ở nhà. Bây giờ ta phải về nhà chăm sóc nàng, trở về cùng nàng.
Bây giờ Dương Lăng đã không còn tiếc gì nữa. Đừng nói sinh mạng y căn bản không còn lâu nữa, cho dù có thể sống lâu trăm tuổi nhưng không có Ấu Nương bên người thì còn ý nghĩa gì nữa? Lúc này mặt trời đã lên cao, nhưng lòng y lại lạnh tới xương tủy.
Tiểu thái giám chỉ ngây người đứng đực ở cửa, ngẫm nghĩ một lát rồi lại muốn đuổi theo. Mấy tên Cẩm Y thị vệ trong cung thấy đám người vây xem quá nhiều, không kìm được vội tới bên cạnh tên tiểu thái giám thấp giọng khuyên:
- Công công, hồi cung phúc mệnh đi! Nếu cứ tiếp tục đuổi theo như vậy thì còn
gì thể diện hoàng gia chứ?
Tiểu thái giám hoang mang lo sợ, nhìn trời thấy đã gần trưa, sợ hoàng đế đợi lâu sốt ruột nên hắn bèn giậm chân, hổn hển:
- Đi, hồi cung! Lập tức hồi cung phúc mệnh!
Hắn để chiếc xe gấm trống không cho hai tên vạm vỡ từ từ kéo về, còn mình cùng những người khác quất ngựa như bay, lao nhanh về phía hoàng thành.
***************************************
Vua Hoằng Trị cùng bầy tôi lại tiếp tục bàn luận việc nước. Thấy thời gian triều sớm cũng sắp hết, ông cho văn võ bá quan trở về, chỉ lưu lại đại học sĩ Cẩn Thiên điện Lý Đông Dương, đại học sĩ Hoa Cái điện Tạ Thiên, đại học sĩ Vũ Anh điện Lưu Kiện, thượng thư bộ Lễ Vương Quỳnh và Kiến Xương hầu Trương Duyên Linh dùng bữa trong cung.
Hoằng Trị muốn mượn cơ hội ăn chung để làm dịu hiềm khích giữa đám hoàng thích và mấy vị đại học sĩ. Dù sao nếu để đám cựu thần rất được nể trọng này cứ tranh tranh đấu đấu mãi với đám hoàng thân thì quả là một việc khiến cho người ta đau đầu.
Ông đã thầm bày mưu đặt kế để lát nữa Lưu Kiện, Lý Đông Dương cầu tình cho Trương Hạc Linh trong bữa tiệc, sau đó trước mặt Trương Duyên Linh ông sẽ phóng thích Thọ Ninh Hầu, đồng thời mời họ cùng khảo sát học vấn của Dương Lăng. Có được mấy vị này đồng ý, ông sẽ ban một chức quan cho Dương Lăng, lúc đó sẽ không còn ai dám phản đối nữa. Vì là tiệc nhà, Hoằng Trị lưu tâm gọi cả hoàng hậu cùng em trai của nàng ra dùng bữa.
Hôm nay thượng triều, Trương Duyên Linh nơm nớp lo sợ trong lòng. Thấy thái độ Hoàng Thượng hiền hoà, còn mời cả hoàng hậu tỷ tỷ ra ăn cùng, lúc này hắn mới định thần. Hôm qua mẹ của hắn là Kim phu nhân về đến nhà lập tức kinh hoàng tìm hắn, nói cho hắn biết việc Thái tử bị đánh. Trương Duyên Linh nghe xong cũng giật bắn cả người. Không dám chậm trễ, hắn lập tức chạy tới phủ của ca
ca truy vấn xem nguyên do của vụ ẩu đả ngày ấy.
Lúc đó Nghiêm Khoan đang gục trên giường giả chết, nghe báo Nhị Hầu gia tới, tưởng là người cùng phe nên vội vàng khom lưng, nhảy tưng tưng như tôm tới trước mặt Hầu gia kêu khóc, kể lại toàn bộ sự tình diễn ra, cầu hắn phân xử cho mình.
Kiến Xương hầu nghe gã nói xong, liền biết tên tiểu thư sinh bị hắn đánh chính là Thái tử chẳng sai. Trương Duyên Linh không khỏi ngứa cả răng, ca ca vào tù hoàn toàn là vì tên tặc tử này sinh chuyện. Gã còn dám xúi giục mình ra mặt, nếu bởi vậy mà Trương gia mất thánh quyến thì chém đầu gã cũng chẳng oan.
Trương Nhị lão gia nghe Nghiêm Khoan khóc lóc kể lể xong, không nói hai lời tung một cú thỏ đá ưng. Nghiêm Khoan lập tức kêu thảm một tiếng, bò lăn ra đất giãy dụa. Người ta nói cháu ngoại trai giống cậu, hôm nay cậu cũng học theo cháu ngoại trai. Cú đá của Kiến Xương hầu chuẩn vô cùng, đá thẳng vào nơi mà lần trước Chu Hậu Chiếu đạp trúng. Gân đùi Nghiêm Khoan lại bị trúng thêm một cước, lập tức kêu thảm một tiếng, lăn lộn trên mặt đất, đau đến mức nghẹn thở, ngất đi.
Tiểu muội của gã thấy thế lao tới khóc sướt mướt như mưa, cũng không biết một cước này của Kiến Xương hầu đã cắt mất hương hỏa của Nghiêm gia hay chưa. Trương Duyên Linh xanh mặt, chỉ vào sủng thiếp của ca ca hắn lạnh lẽo nói:
- Khóc gì mà khóc? Nếu đồ khốn đó mà chết đi thì cuộn cho gã một chiếc chiếu rồi ném ra vùng hoang dã cho chó ăn! Nếu gã mạng lớn, bảo gã sau này nhún nhường lại một chút cho ta. Buộc cái đuôi vào mông cho chặt, đừng để gã ra ngoài gây chuyện nữa.
Còn nữa, tống tờ văn tự gây rắc rối đó về tay cô ả kia càng sớm càng tốt! Mẹ nó! Dám đoạt nữ nhân của Thái tử, cụ nội nó, ngươi hiềm mình sống quá lâu à!
Hắn trợn mắt, quay về đám gia nhân đang câm như hến đứng ở đầu sân lớn tiếng quát:
- Câm miệng hết cho ta, kẻ nào đem việc này hé ra ngoài nửa lời, ta cắt lưỡi kẻ
đó!
Trương Duyên Linh đánh Nghiêm Khoan xong, lại ra lệnh cho đám thợ suốt đêm gấp rút dỡ bỏ mấy căn nhà vừa mở rộng chiếm dụng đường đi và nhà dân, để miễn bị kẻ khác bưới móc. Phải làm xong ngay sáng sớm mới có hiệu quả.
Lúc này hắn thấy Hoằng Trị nói nói cười cười, cũng chưa dám đề cập tới việc huynh trưởng bị giam. Dần dần hắn yên tâm, cũng bắt đầu theo ý mà nói theo, nhất thời khách chủ vui vẻ, không khí dần dần ấm lên.
Đang lúc bọn họ trò chuyện, tên tiểu thái giám vội vàng chạy về, quỳ sụp xuống đất, khóc thút thít, bẩm:
- Hoàng Thượng! Nô tài có tội, nô tài làm việc không xong. Hoằng Trị nghi hoặc hỏi:
- Chuyện gì mà làm không xong? Ngươi nói lại xem nào! Tên tiểu thái giám không dám đứng dậy, vẫn quì tại chỗ bẩm:
- Nô tài đi truyền chỉ. Dương Thị Độc nghe xong ý chỉ, lại nói là phu nhân trúng phải bệnh nặng, phải đưa nàng đi khắp nơi cầu thầy, bảo nô tài về cung bẩm báo trước. Hắn... hắn kháng chỉ không tuân, nô tài không có biện pháp, đành phải trở lại một mình.
Đám thần tử trong bữa tiệc nghe vậy cùng biến sắc. Dương Lăng ăn tim gấu mật beo à? Đừng nói thê tử y bị bệnh nặng, cho dù lúc đó trời có sụp xuống, tiếp được thánh chỉ cũng phải lập tức đi yết kiến ngay. Việc hôm nay quả thực là chưa từng thấy, há Hoằng Trị có thể không nổi giận?
Cho dù rộng lượng vị tha, nhưng nghe xong những lời này sắc mặt Hoằng Trị cũng sa sầm xuống. Ông đặt mạnh đôi đũa ngà voi xuống bàn đánh cộp một tiếng, mấy vị đại thần thấy thế hấp tấp đứng dậy sụp lạy, quì dài trên mặt đất, không dám thở mạnh.
Hoằng Trị cả giận bảo:
- Giỏi cho Dương Lăng! Lá gan gã to lắm, dám can đảm kháng chiếu!
*********************************
Về đến nhà, Dương Lăng ôm Ấu Nương xuống xe. Vừa mới đi đến cửa, y chợt nghe một thanh âm trầm bổng:
- Dương thị độc! Quả là vừa khéo, tại hạ vừa mới tiến kinh, đang muốn đăng môn bái phỏng, không nghĩ tới... Ủa? Đây là... A! Tôn phu nhân làm sao vậy?
Dương Lăng quay đầu nhìn lại. Y thấy một lão nhân khuôn mặt quắc thước đi tới trước mặt, kinh ngạc nhìn Ấu Nương trong lòng mình. Dương Lăng ngơ ngác nhìn hắn hồi lâu, nhất thời thần trí vẫn chưa tỉnh lại. Lão nhân đó thấy y tinh thần hốt hoảng, vội nhắc:
- Tại hạ là thương gia mua bán thuốc Ngô Kiệt ở Kê Minh Dịch đây mà, đại nhân còn nhớ chứ?
Vì gần đó còn có một số dân chúng đang đi theo Dương Lăng xem náo nhiệt, nên Ngô Kiệt không dám nói tới thân phận chính thức của mình, chỉ dùng thân phận nhà buôn nhắc nhở y. Dương Lăng nghe xong, chợt cảm thấy rất quen thuộc, y bất giác gật đầu nói:
- Nhớ, ngươi là Ngô Kiệt.
Ngô Kiệt tần ngần nhìn Hàn Ấu Nương, hỏi:
- Dương đại nhân, tôn phu nhân bị... làm sao vậy? Dương Lăng cười buồn bã, đáp:
- Ấu Nương bị bệnh thương hàn, bệnh nặng không thể chữa được.
- A?
Thiên hộ Cẩm Y Vệ Ngô Kiệt giật mình nói:
- Bệnh thương hàn ư? Nhưng thật ra tại hạ có một phương thuốc, đại nhân có muốn thử...
Dương Lăng khanh khách cười, thần sắc kỳ dị hỏi lại:
- Ta đã chữa chạy khắp các danh y trong kinh thành. Ai cũng bó tay, ngươi trị được sao?
Ngô Kiệt đỏ mặt, đáp:
- Tại hạ chỉ biết sơ về dược lý, nói đến chữa bệnh... Thật sự là xấu hổ, nhưng phương thuốc là do bá phụ Ngô Thanh Viễn truyền xuống, nghe nói chữa bệnh thương hàn rất tốt...
Vừa nghe nói tới mấy chữ "Ngô-Thanh-Viễn", bảy hồn sáu phách của Dương Lăng đột nhiên trở về cơ thể. Y sải bước chặn ngay trước mặt Ngô Kiệt, trợn tròn mắt quát:
- Ngươi nói ai? Ngô Thanh Viễn sao? Viện trưởng Thái Y viện Ngô Thanh Viễn
à?
Ngô Kiệt giật bắn cả người, lui lại một bước, lập cập đáp:
- Chính... Chính là ông ấy! Đúng là bá phụ ta từng giữ chức viện trưởng Thái Y viện, chỉ là bảy năm trước đã qua đời. Đại nhân nghe nói về ông ta rồi à?
Dương Lăng hớn hở, y ngửa mặt lên trời hét to một tiếng, rồi vội vàng bảo Ngô Kiệt:
- Mau mau, mau vào phòng! Nói cho ta biết phương thuốc của ngươi!
...
Cửa sổ phòng Dương Lăng đóng chặt. Ngô Kiệt và huynh đệ họ Điền đều đang đứng trong gian nhà chính, thần sắc khẩn trương đợi chờ tin tức trong phòng.
Ngô Kiệt chép lại phương thuốc xong, lập tức gọi tên xa phu đi lấy thuốc, xa phu bèn chạy về Hạnh Lâm Cư. Anh em họ Điền nghe nói phương thuốc này do diệu thủ thần y Ngô Thanh Viễn ngày xưa lưu lại, có thể trị được bệnh thương hàn cấp tính bèn lập tức tự mình hốt dược liệu tốt nhất, rồi cùng đến xem kết quả ra sao.
Phương thuốc trị bệnh thương hàn của Ngô Kiệt gọi là "Hợp Chưởng Cao", chuyên trị bệnh thương hàn cấp tính dẫn tới bất tỉnh nhân sự. Thuốc này không được uống, chỉ dùng Xuyên Ô, Thảo Ô, Ban Mao, Ba Đậu, Tế Tân, Hồ Tiêu, Phèn Chua, Can Khương, Ma Hoàng theo phân lượng nhất định mà điều chế, nghiền thành bột. Dùng dấm quết thành viên, cặp vào nách, khoeo chân, đốt tay người bệnh. Mặt khác, cho một người nằm phủ lên trên, hai đôi bàn tay đặt áp vào nhau, tứ chi tương hợp, đắp chăn thật dày, cho đến lúc cả người đẫm mồ hôi, lại dùng nước nê hoàng tẩy sạch là khỏi.
Trên người Dương Lăng đắp ba tầng chăn bông dày, hai tay nắm lấy đôi bàn tay lạnh buốt của Ấu Nương. Nóng quá, y đổ mồ hôi dầm dề, vì đang áp vào má Ấu Nương nên những giọt mồ hôi to tướng từ trên đầu y lăn xuống, rơi lên trán Ấu Nương.
Cảm thụ nhịp hô hấp của nàng rất khẽ, trong lòng Dương Lăng không ngừng thầm gọi:
- Ấu Nương, tỉnh lại! Ấu Nương, nàng nghe được chứ? Nhất định phải sống lại, nàng hứa sẽ theo tướng công cả đời mà...
Bên dưới, dường như Ấu Nương nghe được tiếng thầm thì trong lòng hắn, rất lâu sau đó, nàng chợt phát ra một tiếng rên rỉ như có như không...
*********************************
Trong hoàng cung, Hoằng Trị đang chắp tay đi đi lại lại, hồi lâu vẫn chưa nói lời nào. Trương Duyên Linh không nhịn được, cả giận bẩm:
- Hoàng Thượng ân sủng với Dương Lăng đến thế, y lại càn quấy như vậy,
không xem vua ra gì, đại nghịch bất đạo, thật là trái đạo lý. Hoàng Thượng, phải lập tức chém đầu y, làm gương cho thiên hạ!
Thượng thư Vương Quỳnh cũng giận đến tóc bạc dựng cả lên, tâu:
- Thiên địa quân thân sư (trời - đất – vua - cha - thầy)! Uổng cho Dương Lăng đọc rất nhiều sách thánh nhân, đến cả loại đạo lý này cũng không hiểu. Không giết người này, uy nghiêm triều đình còn đâu nữa. Bệ hạ, xin hạ chỉ đi.
Bọn người Lưu Kiện tuy có lòng tiếc rẻ nhân tài, nhưng lần này Dương Lăng gây chuyện thật quá lớn. Thiên tử có chiếu mà không phụng, đó là tội giết cả cửu tộc. Ngay cả giết một mình y cũng xem như là nhẹ nhàng cho y rồi, họ còn làm sao mở miệng xin bệ hạ khai ân chứ?
Lý Đông Dương thấy bước chân hoàng đế Hoằng Trị càng lúc càng chậm lại, hai hàng lông mày từ từ nhíu chặt hệt như muốn hạ chỉ. Trong lòng lão vô cùng căng thẳng, chợt nhanh trí nghĩ ra một cách, lúc này lão cũng chẳng còn tâm trí xem xét liệu cách đó có hữu hiệu hay không, lập tức quì sụp xuống, vô cùng phẫn nộ bẩm:
- Hoàng Thượng! Đừng do dự nữa, thần cũng nghĩ rằng Dương Lăng đáng chết. Bệ hạ triệu hắn tiến cung, thánh chiếu đã ban, đó là thứ trọng yếu nhất trên đời này. Đừng nói thê tử hắn đang mắc bệnh nặng, cho dù nhà y có cháy cũng phải lập tức tiến cung, sao dám trái lẽ cương thường, không phân nặng nhẹ như thế?
Lý Đông Dương lại chầm chậm thốt từng từ:
- Hơn nữa, nếu người bị bệnh là cha mẹ y thì còn châm chước được, ít nhất còn được xem là có hiếu. Nhưng thê tử là cái quái gì? Thê tử mà mất đi, cưới một người khác là được, đại trượng phu kiến công lập nghiệp, lo gì không có vợ đẹp thiếp xinh. Tên Dương Lăng này có vợ thì quên cha, có cha lại quên vua, người ta nói: thê tử như y phục...
Lưu Kiện, Tạ Thiên nhất thời nghe mà ngơ ngác chẳng hiểu gì. Lý Đông Dương chính là một đại gia nổi tiếng của văn học đương thời, sao hôm nay nói
chuyện lại thô lỗ, ngang ngược như thế? Lại nữa, rõ ràng bệ hạ có ý yêu tài, là vì chuộng tài nên mới chần chừ, khó ra quyết định xử trảm; ngươi không thương tiếc kẻ hậu bối thì thôi, sao lại hùa theo bỏ đá xuống giếng?
Hai người bọn họ còn chưa hiểu được thâm ý của lão thì Lý Đông Dương đã đứng thẳng người lên, mồm miệng leo lẻo, nước bọt bắn bay tung tóe, chê bai thê tử đến mức đừng nói là y phục, ngay cả quần lót cũng không bằng. Lão đang mắng chửi hăng say thì Trương hoàng hậu ˜ bậc mẫu nghi thiên hạ, người đứng đầu lục cung ˜ đã mặt ngọc đỏ bừng, đùng đùng nổi giận. Bà vỗ bộp lên bàn, mày liễu dựng ngược, mày phượng tròn xoe, cất giọng trong trẻo mắng:
- Lý Đông Dương! Ngươi câm mồm cho ta!
Ngày xưa khi mình chưa sinh hoàng tử, đám người này bèn cả ngày lên triều yêu cầu hoàng đế nạp phi. Hôm qua Lý Đông Dương còn dâng sớ hạch tội anh mình khiến anh ấy phải vào ngục. Hôm nay lão lại dám nhân chuyện của Dương Lăng mà ở trước mặt mình chỉ gà mắng chó, như thế còn thể thống gì nữa?
Trương hoàng hậu cất giọng lạnh như băng:
- Hoàng Thượng tuyển hiền tài cần chú trọng người có đức hạnh. Vợ kết tóc của Dương Lăng đang lâm trọng bệnh, tính mệnh nguy trong sáng tối, nếu lúc này Dương Lăng tiếp thánh chỉ, vứt bỏ thê tử mà vào triều gặp vua thì hắn là người như thế nào?
Đó là kẻ táng tận lương tâm, thiên địa không dung! "Thiên địa quân thân sư" hử? Hừ, các ngươi mà cũng hiểu được "thiên địa quân thân sư" sao! Một kẻ không rèn luyện đạo đức, bất kính với thiên địa, không xem nặng tình ý lại có thể là người quân tử trung hiếu nhân nghĩa được ư? Lúc đó mà hắn thượng triều gặp vua, là hắn kính sợ quân vương hay tham vinh hoa phú quý?
Trương hoàng hậu vừa nói vừa không khỏi quắc mắt nhìn tên đệ đệ bảo bối. Tên tiểu đệ thật sự hồ đồ, đám đại học sĩ quen trò ném đá giấu tay, thế mà hắn lại không nhìn ra, còn nhắm mắt hùa theo.
Trương hoàng hậu đổi giọng, quay sang Hoằng Trị đế dịu dàng nói:
- Bệ hạ! Thần thiếp biết bệ hạ tức giận Dương Lăng dám không tuân thánh chỉ. Nhưng điều này cũng nói rằng bệ hạ có tuệ nhãn tinh tường đã nhận biết được nhân tài. Từ xưa tới nay, có mấy hiền thần mà không xúc phạm tới long nhan chứ?
Dương Lăng không tham quyền, không màng lợi, trọng tình trọng nghĩa, rất có
phong phạm của bậc hiền giả ngày xưa.
Thưở xưa, Tống Hoằng thời Hán Quang Vũ Đế không phải cũng lấy lý do là "Tào khang chi thê bất hạ đường" (1) mà trái thánh ý sao? Thời Đường Thái tông có vợ của Phòng Huyền Linh (2) dám kháng chỉ ngay giữa triều đình, hai vị minh quân này cũng không hề bắt tội. Có thể thấy được chỉ có vua thánh ra đời, mới có bực hiền thần như vậy xuất hiện thôi.
Lý Đông Dương khẽ nhúc nhích cái chân đang quì ê ẩm, miệng chép chép như đang nếm một món ngon: "Ừm! Ta rất thích nghe những lời này của Hoàng hậu nương nương. Xem ra phụ nữ vẫn có người đọc sách, bằng không làm sao nói được những lời như thế này."
Trương Duyên Linh bị tỷ tỷ trợn mắt một hồi, nhất thời mù tịt mãi lúc này mới hiểu được: "Ôi, hóa ra mấy lão gia hỏa đang mắng chửi bóng gió, ngầm khuyên Hoàng Thượng đừng có sủng ái chánh cung. Hừm, đám đọc sách này thật đúng là lòng dạ ngoằn ngoèo quá mà!"
Thông suốt vấn đề, Trương Duyên Linh lập tức hắng giọng bẩm:
- Hoàng Thượng! Hoàng hậu nương nương nói rất đúng, không nên giết Dương Lăng!
Hoằng Trị bị lời nói hoàng hậu lay động, ngẫm lại hoàng hậu nói cũng có lý.
Nếu Dương Lăng thật sự bỏ cả người vợ kết tóc, bất chấp sinh tử của nàng mà vào triều yết kiến mình thì sau này mình còn dám dùng người như vậy không?
Đang suy nghĩ bỗng nghe quốc cữu hô lớn như vậy, ông không khỏi lấy làm lạ
hỏi:
- Chẳng phải Kiến Xương hầu mới rồi đề nghị xử phạt hắn ở mức cao nhất, thông báo cho cả thiên hạ biết ư? Sao giờ lại nói là không giết nữa?
Kiến Xương hầu đỏ mặt, đáp:
- Việc này... việc này..., vi thần cũng vừa mới hiểu ra việc có nặng có nhẹ.
Đương nhiên việc vua quan trọng, việc nhà không bằng; nhưng gặp vua cũng không phải là việc gấp, cứu người mới là việc không thể trì hoãn được, việc này...
Lưu Kiện nghe hắn vất vả nói mãi mà không ra lời, không kìm được vội xen vào:
- Hoàng hậu nương nương nói đúng! Hoàng Thượng là vua nhân ái mới có hiền thần tài đức xuất hiện. Dương Lăng làm được như vậy chính là nhờ công bệ hạ giáo hoá, thật là may mắn!
Lời ngọt bùi tai, tuy Hoằng Trị biết tâm tư của đám cựu thần nhưng vẫn không kìm được phải cười khẽ. Ông về ngồi lại trên án suy tư một lát, rồi cười ha ha phán:
- Đứng lên đi, đứng lên đi! Bị tên Dương Lăng náo loạn làm mất cả hứng thú của trẫm và các ái khanh. Tới đây, tiếp tục uống rượu! Việc của Dương Lăng... tạm thời gác lại, ngày mai bàn sau đi.
Hoàng đế muốn gác lại bàn sau, bằng vào tài nghiêng theo chiều gió của đám thần tử, nếu không phải kẻ mù, có ai mà không hiểu rõ ý hoàng đế chứ? Không lập tức bắt ngay mà lại bảo là ngày khác bàn sau, bàn cái gì bây giờ? Là bàn xem nên đem xe gấm đi bắt hắn hay là vác gông xiềng đi bắt hắn ư? Bọn Lưu Kiện yên tâm, vui mừng vô kể. Lúc này Trương hoàng hậu thấy mình đánh hòa được với Lý Đông Dương một ván nên cũng dương dương tự đắc. Mọi người ăn uống vui vẻ, nhất thời xuất hiện một cục diện tốt đẹp.
*********************************
Dương Lăng ôm chặt thân thể mềm oặt gần như không chút sức sống của Ấu Nương. Đang lúc y lo âu vạn phần lại chợt nghe tiếng Ấu Nương rên rỉ, lập tức cảm thấy như nghe được nhạc tiên. Y phấn khởi tới mức tiếng gọi cũng run run:
- Ấu Nương, nương tử?
Qua hồi lâu, Ấu Nương mới cố lên tiếng đáp lời. Dương Lăng mừng rỡ, xiết thật chặt bàn tay đầy mồ hôi của nàng. Thấy Ấu Nương mỏi mệt không chịu nổi,
vẫn chưa mở mắt được, y sợ nàng lại mê đi như cũ, vội ghé vào sát tai Ấu Nương gọi nhỏ:
- Ấu Nương, nàng mau tỉnh lại nhanh lên! Nàng thích tướng công ôm nàng nói chuyện, chờ khi nàng khỏe hơn, mỗi tối tướng công đều ôm nàng, đều nói chuyện với nàng, được không?
Nương tử yêu dấu của ta, tướng công không nỡ xa nàng đâu. Không phải hai ngày trước nàng từng nói là muốn mua táo để trồng trong viện hay sao? Hôm nào hai ta cùng đi mua, cùng trồng táo trong viện. Nàng nói muốn nuôi gà, vậy chúng ta nuôi gà. Đúng rồi, còn nuôi thêm con chó giữ cửa nữa, có gà bay chó nhảy mới đủ náo nhiệt chứ!
Ấu Nương, kinh thành không so được với nông thôn. Nàng chỉ một mình ở nhà, lại không có gì tiêu khiển. Đợi khi nàng khỏe mạnh, ta sẽ cùng nàng sớm sinh một... à không, sinh ra một đám tiểu bảo bối, để nàng chẳng thể rảnh rỗi nữa, nàng thích không? Nàng phải sống mới có thể giúp tướng công làm những việc này, bằng không tướng công sẽ cưới một cô vợ tuyệt đẹp khác, cùng cô ta nói chuyện phiếm, cùng cô ta trồng cây, cùng cô ta nuôi...
- Không... Không được...
Thân thể Hàn Ấu Nương bỗng nhúc nhích, rồi đột nhiên nàng rên rỉ thốt.
Dương Lăng khựng lại, y đờ đẫn hồi lâu mới nhấc đầu lên khỏi mái tóc ẩm ướt của Ấu Nương, dán mắt hớn hở nhìn nàng.
Dưới ngọn đèn, hai má Ấu Nương vẫn đỏ ửng màu bệnh tật, chóp mũi lấm tấm những giọt mồ hôi nhỏ, nhưng những đốm đỏ nơi cổ đã hoàn toàn biến mất. Loại thần sắc nhợt nhạt cũng không còn thấy nữa. Đôi mi thật dài của nàng rung rung hồi lâu, khẽ mở mắt ra rồi lại mệt mỏi nhắm chặt, rên rỉ nói:
- Tướng công, người ta... mệt quá, không muốn mở mắt. Dương Lăng luôn miệng an ủi:
- Được được, không mở mắt thì không mở mắt! Nàng được như vậy là tốt rồi, như vậy là tốt rồi.
Trong phòng vô cùng yên tĩnh, chỉ nghe tiếng tim đập thình thịch của hai người.
Dương Lăng cảm thấy bàn tay nhỏ bé của Ấu Nương dần dần ấm lên, áp mặt vào trán nàng đã cảm thấy hơi nóng. Y không khỏi thở phào một hơi.
Qua hồi lâu, Ấu Nương mới thở mạnh một chút, nàng nhúc nhích thân thể mềm mại, yết ớt nói:
- Tướng công, nóng quá... Dương Lăng vội đáp:
- Đừng nhúc nhích, cẩn thận không lại trúng gió. Mớ thuốc còn chưa tan hết
mà.
Ấu Nương ôn thuận ừm một tiếng, thở hào hển nói:
- Tướng công... Có thể nhẹ một chút không, Ấu Nương thở... thở không nổi.
Dương Lăng nhìn lại, mới biết Ấu Nương bị mình đè tới mức thở không nổi, vốn y còn tưởng Ấu Nương vẫn chưa đủ khí lực để nói chuyện. Dương Lăng vội vàng chống cùi chỏ xuống, khẽ khàng nhướn người lên, Hàn Ấu Nương thở gấp một lát, từ từ mở mắt. Nàng ngắm nhìn gương mặt đầy mồ hôi của Dương Lăng một lúc rồi âu yếm bảo:
- Tướng công, Ấu Nương cảm thấy khỏe nhiều rồi, chàng... chàng nghỉ ngơi đi. Dương Lăng ừm một tiếng, nghiêng người qua một bên nằm dựa vào nàng. Ấu
Nương nhắm mắt lại, một chút sau lại nói khẽ:
- Tướng công, Ấu Nương muốn nghe chàng nói chuyện nữa.
- Ừm!... Nói... Nói gì nhỉ? Thường khi đều là lúc ta ngủ, nàng ghé tai ta nói chuyện mà.
Dương Lăng ngơ ngẩn đáp.
Ấu Nương hơi thẹn thùng giục:
- Nói như... vừa rồi ấy. Ấu Nương chưa từng nghe... Tướng công nói như thế đi, thiếp thích nghe lắm...
***************************
Câu chuyện Dương Lăng kháng chỉ cứu vợ vừa lan truyền khắp thành Bắc Kinh, trong toàn kinh thành vô luận cao thấp giàu nghèo, tất cả đám "Y phục" (ý nói phụ nữ như y phục) đều đứng về phía Dương Lăng, nhao nhao ủng hộ.
Những quan chức trong kinh cũng chia thành hai phái, tranh luận mặt đỏ tía tai mãi vẫn không phân thắng bại. Kết quả là sau buổi thiết triều cùng ngày, gã đại thần nào ở nhà có con gái thì lập tức bị oanh tạc đến mệt lả, tối đến lại bị thê thiếp ném gối vào mặt tới tấp, kẻ nào lập trường không kiên định thì lập tức phất cờ trắng, quyết định giả câm giả điếc về việc này. Phe chống đối họ Dương lập tức trở nên người đơn thế cô.
Tin tức Hoàng Thượng không lập tức hạ chỉ truy bắt Dương Lăng lại được lan truyền. Một vài vị ngôn quan có giác quan thứ sáu bắt đầu đứng về phía Dương Lăng, tra cứu lệ cũ, tham khảo hồ sơ, bắt đầu luyện võ mài thương, tìm những lý lẽ để biện minh cho hành vi của Dương Lăng.
Đám sĩ tử trong kinh cũng thảo luận ồn ào. Có tên sĩ tử Giang Tây là Nghiêm Tung còn viết một bài phú dài lan truyền khắp nơi. Trước hết gã tô vẽ hoàng đế Hoằng Trị rực rỡ như Nghiêu Thuấn tái thế, lại trích dẫn kinh điển, trắng trợn tán dương Dương Lăng đã được bệ hạ giáo hoá, vua sáng tôi hiền. Đám người khác hùa theo, như thể vua mà không thế thì không phải là minh quân, thần mà chẳng vậy thì chẳng phải trung thần.
Bản thân Dương Lăng cũng bận tới mức không thể dứt ra được. Y chỉ có thể viết một phong thư, bảo Ngô Kiệt mang về Kê Minh mời phụ tử họ Hàn lập tức tiến kinh. Y nghĩ lần kháng chỉ này không chết cũng phải ngồi tù. Bệnh Ấu Nương nặng
như thế, làm sao chịu được đả kích này nên y hoàn toàn không dám kể với nàng, chỉ mong sao cha con họ Hàn có thể sớm tới kinh thành, Ấu Nương sẽ được chăm sóc chu đáo.
Thấy Ấu Nương vừa bệnh xong, thân thể còn suy yếu, Dương Lăng bèn đi mua một nha hoàn trẻ tuổi về chăm sóc nàng. Khi y tới chỗ quan phủ đăng ký giấy tờ chủ tớ thì đám người nha môn từ chủ bộ tới nha dịch đều chạy ra cửa vây tròn nhìn ngắm y. Nhiều ánh mắt kiểu "Phong tiêu tiêu hề Dịch thủy hàn" (3) nhìn y đầy vẻ luyến tiếc.
Sáng sớm hôm sau, lần đầu không cần Ấu Nương đánh thức, Dương Lăng đầy bụng tâm sự đã dậy rất sớm. Y thu dọn xong xuôi, lưu luyến nhìn thoáng qua Ấu Nương còn đang ngủ say, lặng lẽ gọi tiểu nha đầu Vân Nhi đến dặn dò một hồi, rồi chạy tới Tử Cấm thành.
Vết thương trên mông Dương Lăng vẫn chưa lành, sợ tới muộn nên y phải đi xe. Như thường lệ khi đi tới cửa hông, thị vệ Cấm Cung xét yêu bài của y, rồi cười lạnh nhạt bảo:
- Dương đại nhân! Nội cung truyền ý chỉ, nếu Dương đại nhân tới thì không cần phải đi Đông cung thị độc mà quì ngoài ngọ môn chờ thánh dụ là được.
Dương Lăng tim đập thình thịch, chắp tay đáp:
- Dạ, đa tạ tướng quân!
Y tập tễnh đến trước cửa cung. Một đám văn võ đại thần người mặc triều phục, tay cầm hốt ngà đang đứng chờ cửa cung mở để vào. Thấy một tên quan hàm lục phẩm đi tới, cả bọn không khỏi lộ vẻ kinh ngạc, đều đưa mắt tò mò nhìn y.
Dương Lăng nhìn thẳng phía trước, đi đến cửa cung nghiêm chỉnh quỳ xuống, cúi đầu không nói gì.
Đá phiến bằng phẳng, khi vừa quỳ thì không sao, nhưng quì lâu thì đầu gối lại ê ẩm. Ở cửa cung có quan chức phụ trách việc theo dõi dung nhan của văn võ bá
quan. Bây giờ Dương Lăng là tội thần, không dám hành động thiếu suy nghĩ khiến cho người khác có cớ luận tội nên y đành phải cố mà nhẫn nại.
Không lâu sau, tiếng chuông du dương từ xa xa vọng đến. Ánh nắng đầu tiên trên không trung rọi lên cửa cung màu son. Cửa cung vừa mở, đủ loại quan lại bắt đầu thượng triều. Dương Lăng cúi gục đầu, chỉ nhìn thấy những đôi ủng quan lại đi qua trước người mình, phát ra âm thanh sàn sạt.
Buổi triều sớm bắt đầu rồi. Thời gian trôi qua từng giây. Hai tay Dương Lăng chống đất, đầu gối ê ẩm không còn tri giác; vì phải giữ mãi một tư thế nên cổ cũng trở nên mỏi nhừ không chịu nổi, mồ hôi từ trên trán nhỏ xuống từng giọt.
Tiếng chuông lại vang lên, một đám quan lại bãi triều nối đuôi nhau trở ra, đi qua trước mặt y. Tinh thần Dương Lăng rung lên: buổi triều sớm tan rồi, hoàng đế cũng nên gặp mình chứ. Nhưng y đợi hồi lâu mà trong cung vẫn im ắng.
Dương Lăng không khỏi tuyệt vọng. Chẳng lẽ hoàng đế muốn mình quì đến chết tại nơi này sao? Y đã chịu không nổi sự giày vò phải giữ mãi một tư thế lâu như thế này rồi. Hai tay Dương Lăng cố gắng chỏi đất, trước mắt sao bay loạn xạ, bắp thịt cổ giật giật.
Dương Lăng cũng chẳng biết làm sao mà mình có thể chống đỡ được tới khi buổi ngọ triều chấm dứt, mãi đến khi một tên tiểu thái giám đi đến trước người y cao giọng hô: "Dương đại nhân! Bệ hạ gọi ngài tiến cung!" thì y mới tỉnh người...
Dương Lăng cố gắng một hồi mới loạng choạng đứng lên được, lom khom theo sau tên tiểu thái giám đi vào cung. Qua cầu Kim Thủy, vượt cổng Thái Hòa, qua điện Thái Hòa, điện Trung Hòa, điện Bảo Hòa, xuyên qua cổng Kiền Thanh, cuối cùng Dương Lăng được tên tiểu thái giám dẫn thẳng vào nội đình. Lúc này y đã dần dần bình tĩnh lại: "Hoàng đế gặp mình trong nội điện, ít ra mình cũng không bị họa mất đầu."
Dương Lăng được dẫn tới trước điện, tên tiểu hoàng môn khom người xướng
to:
- Bẩm Hoàng Thượng, Dương Lăng cầu kiến. Từ trong, có một lão thái giám cất cao giọng nói:
- Bệ hạ có chỉ, tuyên hắn yết kiến!
Dương Lăng vừa bước vào cửa đã thấy hoàng đế Hoằng Trị mặc thường phục màu vàng sáng ngồi sau án đang múa bút vẽ tranh, bên cạnh là tên Đại thái giám có tên Miêu Quỳ mài mực hầu hạ. Trong ngự thư phòng ngoại trừ bọn họ ra thì không còn bất kỳ người nào khác.
Dương Lăng vội vàng tiến lên vài bước, quỳ xuống đất bẩm:
- Tội thần Dương Lăng khấu kiến Hoàng Thượng, tội thần vạn lần đáng chết!
Hoằng Trị làm như không nghe y bẩm. Ông vẫn chú tâm vào giấy vẽ, múa bút phác họa rất nhanh một hồi, sau đó hạ bút cười hỏi:
- Thế nào?
Miêu Quỳ tán thưởng:
- Nét vẽ của bệ hạ rất có lực, thần thái sống động, thực là tác phẩm của đại gia. Hoằng Trị cười ha ha, nói:
- Ngươi thì biết gì! Ha ha! Dương thị độc! Ngươi đến xem trẫm vẽ bức này như thế nào?
Dương Lăng thấy ông cười nói an nhàn, xem ra cũng không đề cập gì tới chuyện mình kháng chỉ, không khỏi cảm thấy kỳ lạ. Y thấp thỏm không yên, đứng dậy tới trước mặt Hoằng Trị, nhìn lên ngự thư án, thấy trên giấy có vẽ một ngọn núi, trên núi cây cối rậm rạp, đỉnh núi có một cây tùng xanh thẳng tắp như muốn chọc thẳng vào mây, xa xa mờ ảo có những dãy núi chập chùng. Cả bức họa mặc dù đơn giản, nhưng tài vẽ quả nhiên bất tục.
Dương Lăng không hiểu hội họa, nhưng kiếp trước hắn giỏi thư pháp, thơ cổ
nhớ rất nhiều. Mắt thấy những dòng vẽ non nước đậm nhạt thích hợp, nhưng lại không có cách nào đánh giá được, y liền khéo léo tâu:
- Bệ hạ công lực hùng hậu, càng khó hơn chính là bức tranh này ngụ ý thâm sâu, chí trùm thiên hạ. Nhìn cây tùng um tùm ở nơi cao ngàn trượng này, tuy sần sùi không vuông vức, nhưng vẫn có thể dùng để dựng nhà lớn, tất phải là trụ cột đây (4).
Trong mắt Hoằng Trị hiện lên chút dị sắc, ông cười khẽ:
- Chẳng lẽ Dương khanh chỉ nhìn một gốc tùng đơn độc này thôi sao! Ngươi phải nhìn cây cối trên cả quả núi này, có những cây mọc thẳng tắp có thể làm đòn xà, lại có những cây tráng kiện có thể làm rường cột, nhưng cũng có rất nhiều cây cong queo hình thù kỳ dị, đành phải chặt xuống làm củi đun thôi.
Ông ung dung cười, khóe môi lại mang chút lãnh ý:
- Dương khanh! Ngươi nguyện làm rường cột, làm đòn xà hay làm củi đun đây? Dương Lăng không chút nghĩ ngợi liền quỳ xuống, lớn tiếng tâu:
- Thần nguyện làm gỗ xà ạ!
Miêu Quỳ hơi lạng người, chút nữa thì lật úp cả nghiên mực Đoan Khê trong tay. Còn Hoằng Trị tưởng rằng y sẽ phơi gan trải mật, hùng hồn trần tình một hồi, không nghĩ tới y vừa mở miệng lại phun một câu như vậy. Hoằng Trị ngẩn người hồi lâu mới kinh ngạc hỏi:
- Cái gì? Ngươi nguyện làm gỗ xà à? Dương Lăng cúi đầu đáp:
- Dạ, thần văn không thể được như tam công Lưu, Tạ, Lý để có thể trợ giúp bệ hạ trị quốc an thiên hạ, võ không thể chỉ huy thiên quân vạn mã, chinh chiến chốn thảo nguyên hoang mạc, dương oai tứ hải. Thế nên thần xin nguyện làm gỗ xà, có thể vì bệ hạ mà giữ một làng một huyện, tạo phúc cho dân chúng một phương là
thần thoả mãn rồi.
Hoằng Trị nghe xong phì cười, cảm thấy tên bầy tôi này tuy mưu lược, nhưng tính tình lại ngay thẳng đáng yêu, căn bản là một tên nông nổi. Ông thoáng nhìn thấy Dương Lăng thưa chuyện mà cặp đầu gối còn khẽ run run, cũng không biết là vì sợ quá hay vì quì lâu ngoài ngọ môn. Trong lòng ông không khỏi thông cảm: "Thôi, hôm nay cho y quì ở ngọ môn một lần trước mặt văn võ bá quan coi như là khiển trách rồi. Ta vẫn cần người này, nếu dọa y sợ hãi quá thì từ nay y làm việc sẽ ngại đầu ngán đuôi, e rằng lợi bất cập hại."
Ông cười ha ha, bảo:
- Đứng lên đi! Ngươi cố tình so mình với các ái khanh Lưu Tạ Lý, như vậy lòng dạ cũng đã cực cao rồi. Khi họ cùng tuổi ngươi, cũng cùng thân phận như ngươi mà lên thôi. Lúc còn bình thường như ngươi, họ còn chưa có được hùng tâm như ngươi bây giờ đâu, do đó ngươi cũng không cần phải tự ti.
Ông nói rồi đi vòng qua thư án, đề bút vẽ trên bức họa một hàng chữ to như rồng bay phượng múa: "Sâm sâm thiên trượng tùng, tuy lỗi kha đa tiết mục, dụng chi đại hạ, chung thị đống lương chi tài" (xem chú thích (4)), đưa cho Dương Lăng, bảo:
- Bức họa này trẫm ban cho ngươi, hi vọng ngươi nhớ những gì nói ngày hôm nay, luôn luôn nhắc nhở bản thân. Ha ha, ngươi lui ra đi!
Dương Lăng ngơ ngác tiếp nhận bức họa báu của Hoằng Trị, vẻ mặt hoang mang. Hoàng Thượng để mình quì ở ngoài cửa cung tới tận giờ ngọ, khi mình vào lại ban cho một bức họa, sau đó đuổi về nhà? Việc này chứng tỏ thiên uy quả thật không lường được.
Y bẩm như trút được gánh nặng:
- Dạ, thần cáo lui!
Nói rồi hai tay nâng bức họa lên khỏi đầu, y khép nép lui xuống. Hoằng Trị đế
nhìn y rời khỏi ngự thư phòng, ánh mắt lộ nét cười. Ông khẽ gục gặt đầu:
- Không tự thị, tất rạng danh; không tự phụ, tất có công; không khoe khoang, tất sống lâu. Ừm, tuổi nhỏ mà có thể có được kiến giải như vậy, không uổng công trẫm một phen bồi dưỡng. Miêu Quỳ! Truyền chỉ bãi chức Dương Lăng không làm thị độc Đông cung nữa, chuyển sang làm quan trung quân ở Thần Cơ doanh.
Miêu Quỳ kinh hãi biến sắc, vội hỏi:
- Bệ hạ! Dương Lăng vừa mới bị phạt đã thăng lên chức quan trung quân, e rằng đám triều thần sẽ lại dị nghị. Hoàng Thượng, có khi nào nên cho y nhậm chức phó đô tư trước, sau này mới từ từ lên chức?
Hoằng Trị cười khổ một tiếng, lòng thầm nghĩ: "Chẳng phải trẫm không nghĩ tới việc từ từ huấn luyện, chỉ là trẫm sợ thiên mạng đã tận, không có thời gian nữa rồi. Bây giờ lục bộ trong triều, tam công nội các đều là cựu thần, chủ yếu là lão thần, già cả hết rồi. Tuy nói họ cũng rất trung thành, nhưng dù sao nếu không xây dựng bầy tôi thành một lực lượng riêng cho con ta, cân đối công thần trong ngoài, làm sao con ta cai quản vạn dặm giang sơn, văn võ cả triều cho được?"
Hoằng Trị nghĩ ngợi một lát rồi khoát tay bảo:
- Thôi, ý chỉ của ta chỉ nói bố trí y nhậm chức ở Thần Cơ doanh, còn về phần chức vụ cụ thể... Vương Việt quản lý mười hai đoàn doanh, luôn luôn làm việc rất ổn thoả, cứ để lão thu xếp đi.
Đúng rồi, ban thêm cho y hai bình thuốc trị thương. Ngày hôm qua Dương Lăng kháng chỉ, ôm vợ cầu thầy, hôm nay trẫm cho vợ Dương Lăng phụng chỉ rịt thuốc cho chồng, ha ha ha!
Chú thích:
(1) Câu nói trích từ điển cố Tống Hoằng thời Đông Hán. Năm ấy hoàng đế Lưu Tú muốn gả tỷ tỷ của mình cho Tống Hoằng, nên dọ ý Tống Hoằng về chuyện "Quý dịch giao, phú dịch thê" (giàu đổi bạn, sang đổi vợ) nhưng Tống Hoằng đáp:
"Bần tiện chi giao bất khả vong, tào khang chi thê bất hạ đường.", nghĩa là: "Không thể quên những người bạn từ thuở còn hèn mọn, không thể bỏ người vợ từ thuở còn nghèo khổ". Lưu Tú nghe xong, cảm hắn tình thâm nghĩa trọng, chẳng những không trách phạt mà còn quý trọng Tống Hoằng hơn. Điển cố "Tào khang chi thê bất hạ đường" từ đó được lưu truyền đến ngày nay.
Cũng từ đó, "Tào khang" (cám bã, người nghèo khó dùng làm thức ăn) có nghĩa bóng là "vợ cả".
(2) Vợ của tể tướng Phòng Huyền Linh đời Đường nổi tiếng ghen tuông, ngang ngạnh, thẳng tay đuổi cổ hai vị mỹ nhân mà hoàng thượng đích thân ban tặng Phòng Huyền Linh trong một buổi tiệc rượu. Hoàng thượng biết chuyện, triệu hai vợ chồng Phòng Huyền Linh vào cung hỏi tội, bảo rằng: một là dẫn hai vị mỹ nhân về nhà, hai là ban cho rượu độc. Vợ của Phòng Huyền Linh ngạo khí ngất trời, thà chọn rượu độc chứ quyết không để chồng nạp thiếp, một hơi uống cạn chung rượu vua ban. Thế nhưng, đó thật ra là giấm chứ chẳng phải rượu độc, vua xét lại thấy người phụ nữ này kháng lệnh cũng vì quá yêu chồng nên quyết định xá tội. Từ đó, cụm từ "uống giấm" có nghĩa bóng là các bà vợ hay ghen tuông.
(3) Trích từ bài hát của Kinh Kha khi qua sông Dịch đến đất Tần để hành thích Tần Thủy Hoàng: " 兮易水寒, 壮士一去兮不复 " "Phong tiêu tiêu hề dịch thủy hàn, tráng sĩ nhất khứ hề bất phục hoàn".
Dịch nghĩa: Gió hiu hắt hề, nước sông lạnh; Tráng sĩ một đi hề, chẳng trở về.
(4) Nguyên văn "Sâm sâm thiên trượng tùng, tuy lỗi kha đa tiết mục, dụng chi đại hạ, chung thị đống lương chi tài"
Nghĩa bóng: người có tài trác việt tuy có vài khiếm khuyết, nhưng tựu chung vẫn có thể gánh vác trách nhiệm trọng đại, làm bầy tôi trụ cột.
- Tướng công! Chàng đã về, ... Ấu Nương lo muốn chết.
Nàng vẫn chưa chải đầu, mặt không son phấn, tóc xõa ngang vai giống hệt kiểu tóc lúc ở nhà của phụ nữ thời Hán Đường và những cô gái xõa tóc thời hiện đại, phối hợp với chiếc váy màu xanh nhạt mộc mạc càng tôn dáng người mềm mại yếu đuối. Dương Lăng thấy gương mặt vợ yêu vừa khỏi bệnh vẫn đầy vẻ nhợt nhạt nên không khỏi lo lắng:
- Nàng vừa khỏi bệnh, không phải Điền thần y đã bảo nàng phải nằm nghỉ sao! Sao lại ra đây, mau vào nằm đi! Phải rồi, nàng đã uống thuốc điều hoà thân thể mà Điền thần y cho chưa?
Tiểu nha hoàn Vân nhi bên cạnh sợ hãi thốt:
- Lão gia, nô tỳ sắc rồi, nhưng phu nhân ngại đắng không chịu uống. Người nói ngồi trên giường hít thở là được, đã hít thở hết một lúc rồi.
Dương Lăng đã thấy Ấu Nương luyện khí công, nay nghe tiểu nha đầu nói rất thú vị không khỏi phì cười. Ấu Nương lo lắng hỏi:
- Tướng công, hoàng đế không trách tội chàng chứ? Ấu Nương nghe nói chàng bị đánh ba mươi côn, vết thương có nặng không?
Hoàng Thượng đã không phạt tội nên bây giờ Dương Lăng cũng không lo Ấu Nương biết chuyện. Y cười khà khà đáp:
- Không việc gì, nàng không thấy ta khỏe lắm à? Nàng hãy chóng khỏe lại, đừng làm cho tướng công lo lắng là tốt rồi.
Nói xong, y ghé lại gần Ấu Nương thấp giọng:
- Đừng lo! Đánh không đau, chỉ như tướng công phát vào mông nàng thôi. Vừa nghe xong Hàn Ấu Nương mặt đỏ bừng, sẵng giọng:
- Coi kìa! Còn ăn nói hàm hồ như thế nữa, có người nghe đó.
Dương Lăng chợt tỉnh ngộ trong nhà đã có thêm người mới, đâu thể so với lúc chỉ có hai người. Y ho khan một tiếng, lấy trong lòng ra một đồng tiền đưa cho Vân nhi, bảo:
- Vân nhi! Ra chợ mua vài miếng đường trắng về pha vào thuốc cho phu nhân, mau đi đi.
Vân Nhi dạ lớn một tiếng giòn tan, nhận lấy tiền rồi vội vàng đi ngay. Dương Lăng cùng Ấu Nương dìu nhau vào trong phòng. Dương Lăng thấy Ấu Nương mặc váy xanh nhạt, tay áo bó chặt, đáy quần thùng thình lộ ra thân thể gầy ốm, không khỏi lo lắng:
- Dù nàng tập luyện thân thể tốt đến mấy nhưng hôm qua mới ra mồ hôi đầm đìa, không chịu được lạnh đâu.
Ấu Nương dìu y tới giường lò, đáp:
- Bây giờ đã tháng tư rồi, mặc nhiều đồ khó chịu lắm. Tướng công! Chàng mau nằm xuống để thiếp xem thương thế cho chàng.
Hai người sớm đã gió mưa vài lần, Dương Lăng cũng không ngại phơi thân thể trước mặt nàng. Y nằm dài trên giường lò cho Ấu Nương cởi áo ra. Cũng may lúc đó còn chưa phát minh ra quần xịp, mảnh quần lót này vừa thoáng vừa rộng, cởi bỏ cũng dễ dàng.
Ấu Nương dịu dàng cởi quần lót hắn ra, nhìn thấy có một phần quần bị dính vào mông, nàng lại không dám động mạnh. Dương Lăng đành phải nhịn đau tự kéo mạnh ra. Tuy mông Dương Lăng bị đánh cho rách da thịt nhưng kỳ thật không
phạm vào gân cốt, chỉ cần điều dưỡng tốt là phỏng chừng đến cả sẹo cũng chẳng có. Nhưng hai ngày nay y bôn ba nơi nơi, vết thương đã rách lại càng thêm rách, bây giờ có vài chỗ còn rỉ chút máu loãng. Vốn mông y bóng bẩy trơn mịn, mềm mại vô cùng, bây giờ đã trở nên vằn vện mất rồi.
Hàn Ấu Nương bịt miệng, nước mắt tuôn chảy. Dương Lăng cảm thấy mông hơi mát, quay đầu nhìn thấy bộ dạng của Ấu Nương rất thương tâm, y không khỏi ngạc nhiên hỏi:
- Sao vậyẤu Nương ? Tuy ta đi đường thấy cũng hơi đau, nhưng không phải là bị thương tới gân cốt đâu.
Hàn Ấu Nương sụt sịt, đau lòng nói:
- Vết thương của tướng công đã lâu chưa lành, dù chữa khỏi cũng sẽ có sẹo. Dương Lăng buồn cười, trêu:
- Thì sao? Đâu phải là mông của nương tử ta bị thương đâu. Ha ha! Trong nhà có thuốc chứ? Trát thuốc mau lên cho chồng nào, chỉ cần không đau là được.
Hàn Ấu Nương vừa thẹn vừa tức, nàng lườm Dương Lăng, sẵng giọng:
- Tướng công miệng như bôi mỡ cả ngày, không nói lời nào dễ nghe cả. Dương Lăng thay đổi tư thế nằm cho thoải mái, cười hềnh hệch đáp:
- Tướng công nói không dễ nghe à? Hôm qua chẳng biết là ai nằm trong lòng ta nghe đến mặt đỏ tim rộn, thần hồn điên đảo nữa.
Hàn Ấu Nương "í" một tiếng, mắc cỡ đỏ bừng mặt. Nàng vừa dứt bệnh, tim đập mạnh quá lại loạn nhịp khiến nàng khẽ thở hổn hển. Ấu Nương không chịu nổi phải nhảy xuống đất, nói:
- Tướng công, chàng nghỉ trước đi, Ấu Nương đi ra phố mua thuốc.
Vừa mới kéo cửa phòng ra, Hàn Ấu Nương chợt thấy hai tên nô bộc lực lưỡng
khiêng một chiếc cáng mềm tiến vào sân, trên cáng là một người hơn ba mươi tuổi đang nằm. Phía sau còn có hai gia nhân đi theo, mang vác đồ vật lỉnh kỉnh. Hàn Ấu Nương hỏi vẻ nghi hoặc:
- Xin hỏi ngài tìm ai?
Tiền Ninh nằm trên cáng mềm, nhìn thấy một tiểu mỹ nhân thuần khiết đáng yêu như sương mai, mái tóc xõa tung, mặt đẹp như vẽ, nhưng lại không có vẻ chững chạc của người đàn bà đã lập gia đình, y cho là nha hoàn Dương Lăng vừa mua, không khỏi ngứa ngáy cả người: "Tiểu tử này thật là may mắn. Tìm được nha hoàn quá đẹp làm cho người ta phải tim đập thình thịch. Nếu mà là ta á, ta đã sớm kéo lên giường lò rồi, sao lại để nàng mời trà dâng nước chứ. Không biết hắn có chịu nhượng lại không, sau này ta phải nói chuyện với hắn, ta sẽ đem bốn nha đầu đổi lấy một người của hắn."
Tiền Ninh ngẫm nghĩ, lộ một nụ cười hơi đê tiện, quan sát hình dáng yểu điệu động lòng người của nàng rồi cười nói:
- Lão gia Dương Lăng Dương đại nhân của nhà ngươi có ở nhà không? Ta đến thăm y đây.
Nghe thế, Hàn Ấu Nương hơi tự ti: "Ta... Ta trông giống tiểu nha hoàn như vậy sao?" Nàng cúi đầu nhìn lại trang phục, hơi có vẻ không vui, hậm hực:
- Thì ra là bạn tướng công ta, kính mời ngài vào!
Tiền Ninh kinh hãi biến sắc. Hắn lập tức thu hồi nụ cười dâm, vội hỏi:
- Thì ra là Dương phu nhân! Thất lễ thất lễ, tại hạ Tiền Ninh, là bằng hữu của Dương đại nhân.
Trong phòng, Dương Lăng nghe thế bèn cao giọng gọi:
- Ấu Nương, là Tiền đại nhân tới à? Mau mời ngài vào đi.
Tiền Ninh giữ chức chưởng hình thiên hộ của Cẩm Y vệ, dù thi hành đủ loại thủ
đoạn tàn khốc hành hạ phạm nhân đến chết nhưng mắt hắn vẫn không nháy, đã từng gặp không biết bao nhiêu cảnh tượng máu me đầm đìa rồi. Thế nhưng, loại người như vậy luôn yêu quí thân thể mình tới cực điểm, ta có thể thấy được sự thật này qua sự thu xếp của hắn trước khi chịu trượng hình.
Hắn vừa về nhà liền lập tức nằm trên giường điều dưỡng. Để mông không lưu lại vết sẹo, hắn còn hoàn toàn không dám cử động. Hôm sau nghe tin Dương Lăng kháng chỉ, Tiền Ninh cho rằng lần này Dương Lăng chắc chắn sẽ chết, âm thầm tiếc hận mình vất vả mới cài được một đường dây vào Đông cung thì bây giờ lại đứt mất.
Hôm nay sau buổi triều sớm, Tiền Ninh nghe nói Dương Lăng phụng chỉ quỳ đợi ở ngọ môn. Vốn hiểu sâu sắc chuện quan trường, hắn lập tức ngửi ngay được một việc bất bình thường, tức khắc phái người tìm vị bằng hữu đảm nhiệm chức thống lĩnh cấm quân trong cung hỏi tin tức. Hắn không ngờ lại nghe được tin hoàng đế ban tặng cho Dương Lăng một bức họa.
Đã rõ Hoàng đế muốn bảo vệ cho Dương Lăng, Tiền Ninh quyết đoán ngay: dệt hoa trên gấm không bằng giúp người khi gặp nạn. Không còn thời gian chú tâm lựa chọn lễ vật, hắn vội cho người mua rất nhiều đồ vật, cũng chẳng kịp gói ghém gì, ngựa không dừng vó lập tức chạy đến nhà Dương Lăng.
Tiền Ninh được đám lính khiêng vào phòng ngủ Dương Lăng, ngồi vào ghế mềm cạnh giường lò, thấy Dương Lăng nằm trên giường lò, trên thân đắp một tấm chăn, bèn cười nói:
- Dương đại nhân! Hôm qua tại hạ sai người đến thăm hỏi, nhưng đại nhân không ở nhà. Hôm nay cũng đỡ một chút, nên ta tự mình tới đây.
Dương Lăng cười nói:
- Đa tạ Tiền đại nhân! Kể ra vẫn là ta làm liên lụy đại nhân, thế mà còn làm phiền đại nhân đến thăm ta, thật là áy náy.
Tiền Ninh cười ha ha đáp:
- Đại nhân và ta đều là đồng liêu Cẩm Y, lại cùng bị đòn trước cung, duyên phận có phải ít đâu, đừng nói loại khách khí này nữa.
Hắn nói mà ánh mắt gian tà liếc dọc liếc ngang. Thấy Dương Lăng vứt cuộn giấy Hoàng thượng ban cho trên đầu giường, hắn không khỏi thầm giật mình: "Tên Dương Lăng này có quan hệ gì với bệ hạ nhỉ? Hắn đưa Thái tử xuất cung, không tuân thánh chỉ trước mặt mọi người, chẳng những Hoàng Thượng không giận mà còn ban cho hắn một bức họa do ngài vẽ. Vô luận là Hoàng Thượng ban cho thứ gì, bất k
Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Com