THÀNH HÓA THẬP TỨ NIÊN- CHƯƠNG 60
Đại Minh có hai Kinh mười ba Tỉnh, hai Kinh tức là Bắc Kinh và Nam Kinh, còn mười ba Tỉnh chính là mười ba nha môn được gọi mỹ miều là “Thừa tuyên bố chánh sứ ti”.
Mới nghe đã thấy dài dòng, cho nên dù triều đình có ra rả rằng không gọi là “hành tỉnh” như nhà Nguyên nữa, dân gian nghe một hồi vẫn chỉ nhớ đúng một chữ: “Tỉnh”.
Trong mười ba tỉnh ấy, Hà Nam phủ chỉ là một nha môn con con, mà trong Hà Nam phủ lại có một châu mười ba huyện, huyện Củng chính là một trong số đó.
Ấy vậy mà nơi nhỏ bé này lại cực kỳ đặc biệt, vì đây là nơi an nghỉ của bảy đời hoàng đế nhà Bắc Tống, tám ngôi lăng tẩm uy nghi chôn mình dưới lòng đất.
Dân quê quanh vùng, vì ở gần lăng đế vương nên được “tiện thể” giao cho cái chức “giữ mồ giữ mả”, nghe oai chứ thực ra là thay nhau làm cuốc cỏ, dọn rác, xua chim.
Nhưng họ lại rất lấy làm tự hào, xưa nay vua chọn đất chôn cũng phải coi phong thủy, đế vương tiền triều mà chọn chôn ở đây, tất là long mạch linh địa! Thế nên người làng người xóm đều mồm năm miệng mười khoe khoang: “Chúng ta đây, là dân địa linh nhân kiệt!”
Có điều buồn cười là, dù phần lớn người trong vùng chữ nghĩa chẳng ra gì, nhưng không hiểu sao ai nấy đều mang theo dáng vẻ "học giả" lão ông tám mươi tuổi, lưng còng chống gậy, vẫn có thể trịnh trọng chỉ vào bãi đất trống nói với cháu con:
“Các ngươi thấy đó, chỗ này hồi xưa là lăng của Thái Tổ hoàng đế. Chớ coi thường cái nơi không có bia không có miếu này, ngày trước oai lắm! Chẳng qua bị quân Nguyên quật mồ đào mả, thành ra mới tiêu điều thế này thôi.”
Trẻ con nghe xong lại truyền cho đời sau, đời đời kể chuyện hoàng lăng như kể chuyện thần thoại.
Chỉ tiếc, cảnh cũ không còn. Một biến cố lớn xảy ra, từ đó dân địa phương nhắc đến lăng đế chẳng còn vẻ tự hào, mà chỉ thấy rùng mình, lạnh gáy...
Lúc này, đoàn người do Đường Phạm dẫn đầu đang rời kinh thành, thẳng đường bộ hướng về Hà Nam phủ.
Tùy tùng có Tùy Châu, để lại Xương Lăng trấn giữ Bắc Trấn phủ tư – tự mình dẫn theo hai mươi cận vệ, có cả Bàng Tề đi cùng, hộ tống đoàn đi với danh nghĩa khâm sai.
Vụ án này tuy không đến mức “một khắc cũng không thể chậm trễ”, nhưng liên quan đến nhân mạng, lại thêm chuyện đế lăng bị đào mộ, thì có thể nói là… không điều tra không được!
Ban đầu mọi người đều cưỡi ngựa, đi ròng rã hai ngày. Lúc này chênh lệch thể lực mới bắt đầu hiện rõ.
Đám Cẩm y vệ vốn là võ tướng da dày thịt chắc, lại từng trải qua huấn luyện như địa ngục của Tùy Châu, đúng chuẩn “thép tôi trong lửa đỏ”, cưỡi ngựa vài ngày chỉ như cưỡi xe đi dạo.
Nhưng đám văn quan từ Hình bộ thì... chậc. Cả ngày quen ngồi bàn giấy, việc nặng nhất cũng chỉ là... bê ấm trà. Bảo họ cưỡi ngựa suốt hai ngày, chẳng khác nào đòi mạng. Đùi trong người nào người nấy phồng rộp, có kẻ rách cả da, máu chảy đầm đìa, vừa đau vừa nhức đi đứng thì xiêu vẹo như con rối bị đứt dây.
Đường Phạm tuy là khâm sai chánh sứ, làm quan làm người đều phải gương mẫu, cố gắng chịu đựng.
Nhưng Tùy Châu vừa liếc một cái đã biết đám văn quan này không trụ được nữa – lập tức ra lệnh cho Cẩm y vệ đi chậm lại, còn cẩn thận móc ra cao dán đưa cho Đường Phạm đắp vết thương.
Lãnh đạo đã chịu đựng, hai viên lại bộ phía dưới cũng chẳng dám than. Chỉ có mỗi Doãn Nguyên Hóa – ưỡn ngực xòe quạt, sống chết đòi… ngồi xe ngựa!
Cẩm y vệ vốn đã nhìn đám văn quan không thuận mắt, nhất là Doãn Nguyên Hóa này, nghe nói từ đầu đường đã cứ nhằm vào Đường Phạm mà soi mói, lời nào cũng châm chọc. Mà Đường Phạm lại là khách của Tùy Châu, nghe đâu còn ngủ lại trong phủ Tùy đại nhân mấy đêm.
Thế là đám Cẩm y vệ không dám chọc Đường Phạm, liền quay hết mũi giáo sang…châm chọc Doãn Nguyên Hóa.
Một tên nhướng mày: “Ối chà, có người tưởng đi chơi xuân đây mà! Lại còn ngồi xe ngựa nữa kìa~ Có cần ta mắc thêm rèm châu, che mặt e thẹn cho giống mấy cô nương không?”
Tên bên cạnh hùa theo: “Biết đâu người ta thật là cô nương thì sao? Huynh làm như đã thấy người ta… không mặc đồ rồi ấy!”
Lúc này đoàn người đang dừng lại ở dịch quán, ai nấy tranh thủ nghỉ chân. Đường Phạm với Tùy Châu thân là khâm sai chánh phó sứ, tất nhiên ngồi riêng một bàn.
Doãn Nguyên Hóa với hai tiểu lại Hình bộ ngồi một bàn, Cẩm y vệ thì mỗi người mỗi nơi, quây thành mấy bàn ăn cho tự tại.
Mà cái đám “cà khịa” kia thì ngồi ngay bàn sát vách. Doãn Nguyên Hóa vừa nghe là hiểu ngay người ta đang nói mình – lập tức đập mạnh đũa xuống bàn, bật dậy mắng:
“Các ngươi nói ai đấy hả!”
Không đứng còn đỡ, vừa đứng lên thì... đùi co rút, chân giật giật, đau tới mức mặt méo xệch, lại khiến đám Cẩm y vệ được trận cười nghiêng ngả.
Đường Phạm tuy cũng chẳng ưa gì Doãn Nguyên Hóa, nhưng dù sao y cũng là cấp trên, không thể để một vị đồng liêu bị sỉ nhục giữa chốn đông người.
Chẳng nói chẳng rằng, Đường Phạm cầm đũa gõ nhẹ vào tay áo Tùy Châu.
Tùy Châu hắng giọng một tiếng, ánh mắt sắc như đao lướt qua đám thuộc hạ.
Đám Cẩm y vệ lập tức ngậm miệng, cúi đầu ăn cơm.
Cơm nước xong xuôi, Doãn Nguyên Hóa liền hạ quyết tâm sống chết không chịu cưỡi ngựa nữa, nhất định phải ngồi xe ngựa đến Hà Nam mới bằng lòng.
Hai viên tiểu lại cùng cảnh ngộ, cũng khổ không tả xiết, dùng ánh mắt u oán như hũ nút, tha thiết nhìn Đường Phạm cứ như đang chờ ân chuẩn từ thiên tử.
Đường Phạm liếc nhìn, mặt lộ ra biểu cảm hơi... khó nói: “Các vị thật muốn ngồi xe?”
Hai viên tiểu lại còn chưa kịp mở miệng, Doãn Nguyên Hóa đã giành nói trước:
“Tất nhiên là ngồi xe! Hạ quan đâu có như đại nhân, được danh khâm sai áp lưng, có thể cắn răng làm bộ kiên cường. Hạ quan thì cứ thoải mái quan trọng, chẳng sợ ai cười chê!”
Câu này ngoài miệng thì khách sáo, nhưng trong bụng thì chọc ngoáy không nhẹ, rõ ràng đang mỉa mai Đường Phạm là sĩ diện hão, chết cũng phải ngồi ngựa cho oai.
Đường Phạm nhàn nhạt đáp: “Quan trạm phía trước chưa chắc có đủ ngựa. Nếu các vị đã đổi sang xe, lỡ sau này muốn cưỡi lại thì e là... không còn ngựa để đổi nữa đâu.”
Càng nghe càng thấy có vẻ như bị dọa dẫm, Doãn Nguyên Hóa bèn càng kiên định, không đổi không được, cứ xe ngựa mà đi!
Lời đã nói, lễ đã nhắc, Đường Phạm thấy bọn họ đã quyết, cũng không cản làm gì nữa, liền sai trạm dịch chuẩn bị xe ngựa cho họ.
Xe không đến nỗi tệ, khoang rộng rãi, có lót đệm êm, đủ cho ba người ngồi thoải mái. Dịch thừa lại tìm thêm một phu xe bản địa, đến nơi thì đánh xe quay về.
Doãn Nguyên Hóa, Trình Văn và Điền Tuyên vừa thấy bên trong có đệm bông mềm mại, mắt sáng như sao, vui vẻ nhảy tót lên xe, trong bụng thầm nghĩ: “Sớm biết thế này, đã chẳng cưỡi ngựa khổ sở làm chi!”
Ai ngờ vừa ra khỏi mấy chục dặm, ba người đã hiểu vì sao khi nãy Đường Phạm nghe tin bọn họ đòi đi xe lại cười như tiên đoán thiên cơ.
Vì cái xe này, nó lắc gấp đôi cưỡi ngựa!
Vừa ra khỏi địa phận kinh kỳ, đường sá bắt đầu xuống cấp, lồi lõm không đều.
Xe ngựa mà không có giảm xóc thì đúng là cơn ác mộng, xóc tới mức mồm muốn lệch, ngũ tạng muốn dời chỗ, xương cốt kêu lục cục như sắp rụng.
Doãn Nguyên Hóa ngồi mà lòng đầy hối hận, bụng thầm gào: “Sao mình lại tự chui đầu vào rọ thế này! Sớm biết vậy cứ tiếp tục cắn răng cưỡi ngựa còn hơn!”
Nhưng khổ nỗi, ngựa đã hết, dù có quay đầu xin lại cũng chẳng có con nào mà cưỡi. Đã tự tay đập nồi nấu cơm, giờ có hối cũng muộn!
Không chỉ hắn, mà cả Trình Văn và Điền Tuyên cũng đều xanh mặt, ruột gan xoắn lại như bún bò, chỉ thiếu nước nằm dài kêu “mẫu thân con sai rồi!”.
Cứ thế xóc cho đến khi hồn phách muốn bốc hơi, cuối cùng xe cũng tới được huyện Củng.
Hà huyện lệnh bước cùng Huyện thừa đến gần mé đường, một quan nhỏ vội vã tiến lên báo: “Bẩm đại nhân, phía trước chính là khâm sai cùng đoàn tùy tùng!”
“Nhanh mau, theo ta đón khách!” Hà huyện lệnh chỉnh tề áo mũ, khẩn trương hô to.
Xe ngựa và đoàn kỵ sĩ tiến chậm lại, dường như có chủ đích đợi đằng sau, khoảng mười mấy phút sau, đoàn người đã đến nơi.
Được Cẩm y vệ hai bên hộ tống, một nam quan trẻ tuổi mặc áo văn quan ngũ phẩm, kề bên là một võ tướng mặc phi ngư phục.
Hà huyện lệnh bước lên, hai tay chắp trước ngực:
“Cung kính chào bẩm khâm sai đại nhân, huyện lệnh Củng- Hà Hạo Sĩ trình diện!”
Không phân biệt được ai là chính sứ, ai là phó sứ, cứ theo phép lễ vậy cho chắc.
Dưới bản công văn do Hình bộ ban hành có ghi: chính sứ là lang trung Thanh li lệ sa Ty Hà Nam – Đường Phạm, phó sứ là phó trấn phủ sứ – Tùy Châu. Nhưng người ngồi trong xe phía sau là ai?
“Chẳng lẽ là vị quan trọng hơn ư?” Huyện lệnh không khỏi tò mò liếc mắt nhìn vào xe.
Một Cẩm y vệ khẽ lùi ra, xác nhận:
“Đây là Đường đại nhân, lang trung Thanh li lệ sa Ty Hà Nam, chính sứ của chuyến này.”
Đường Phạm bụi đất còn vương nhẹ, xuống ngựa, quay lại lễ phép đáp lại:
“Hà huyện lệnh, quý hóa quá đáng. Chúng tôi đường xa đi bộ, xin mời vào trước, sau này sẽ bàn tiếp.”
“Dạ, dạ!” Hà huyện lệnh hồi thần, vội vã đáp:
“Hạ quan đã chuẩn bị sẵn trạm dịch, có cơm nước, nước nóng, xin khâm sai di chuyển vào thành, cách đây không xa!”
Đường Phạm gật đầu: “Xin mời Hà huyện lệnh dẫn đường.”
Xe tới trạm dịch trong thành, mọi thứ đều đã sẵn sàng, thậm chí có đồ mặc để thay, rất chu đáo. Nhưng đoàn khâm sai chỉ nhanh chóng tắm rửa, thay áo gọn gàng rồi vào gặp Hà huyện lệnh.
Lúc đó, chiếc xe ngựa cuối cùng chầm chậm tiến vào, dừng trước cửa trạm dịch.
Hà huyện lệnh tò mò như trộm, quay sang nhìn xe: “Có người bí ẩn, chở theo đồ chăng?”
Xe ngựa khe khẽ mở rèm. Một bàn tay nhợt nhạt thò ra, da tay trắng nhưng gân guốc, chẳng có chút duyên dáng.
Tiếp theo, một gương mặt tái nhợt hiện ra, khiến Huyện lệnh giật mình: hai mắt thâm quầng, thần sắc hốc hác như người bệnh lâu ngày.
Vóc dáng này chẳng hề giống đại kỳ nhân hay cung tần mỹ nữ nào!
Lão tiến lên: “Cúi hỏi ngài cũng là khâm sai ư? Hạ thần là huyện lệnh Hà Hạo Sĩ..."
Người nọ chưa kịp đáp, đau đớn chồm người xuống xe, mặt biến sắc, tức thì nôn thốc nôn tháo... tay vô thức bấu lấy tà áo của Hà huyện lệnh.
Lão tỉnh ngộ, ngay cả huyện quan cũng bị dính đầy văng vết ô uế. Mọi người lập tức ra hiệu để lau rửa cho lão trước khi vào tiếp tục gặp khâm sai. Huyện quan xấu hổ không dám la lên, âm thầm chịu đựng sợ mất lễ nghĩa trước bậc chính Phẩm.
Sau khi về huyện thay đồ, lão hớt ha hớt hải chạy ngược trở ra, được tin khâm sai đang tìm mình, lại gấp gáp quay về trạm dịch.
Trong hội trường trạm dịch, Đường Phạm, Tùy Châu, Bàng Tề, Doãn Nguyên Hóa, Huyện lệnh Hà, cùng hai viên tiểu lại Thanh li và một số thuộc hạ của huyện Củng, đang ngồi chờ cơm.
Thức ăn thơm phức bày lên: bát bồ tam bảo, thịt dê kho, bên cá phi mỏng... mùi vị thơm lừng khiến người ta kích thích vị giác ngay khi ngửi.
Tuy nhiên, vừa nghe mùi, Doãn Nguyên Hóa, Trình Văn, Điền Tuyên đều xanh sao tái mét, lăn vào góc, vừa nhìn thấy thịt đã bị ói sạch, có cảm giác ruột gan rũ xuống sàn.
Hà huyện lệnh mới nhớ mình “tội nghiệp” không biết người ngồi trong xe lại say xe, vội vàng quay sang:“Xin cho họ một chén cháo loãng, vài món thanh đạm, đừng để họ chịu cảnh ngửi mà không ăn nổi thịt nữa.”
Đường Phạm gật đầu đĩnh đạc:
“Không cần tách bàn... họ cứ ngồi chung, ta vẫn thảo luận chỗ này.”
Doãn Nguyên Hóa yếu ớt bò lên, ngồi bên cạnh Đường Phạm: “Đại nhân, nơi đây dù không phải kinh thành, nhưng món này ngon thật! Nghe nói địa phương khác còn nói ‘mỗi vùng một vị’, nếu ngày nào cũng có món này, y phục lạc dạ này chịu ở lại lâu cũng đáng lắm!”
Huyện lệnh Hà hiểu Đường Phạm đang mềm mồm khen mình liền mời khách:“Mời đại nhân dùng món...”.
Trước đến nay, mọi người chỉ nói chuyện xã giao, nay đã vào phần “trọng điểm”: “chính sự”.
Đường Phạm từ tốn nói: “Kính xin được nghe huyện lệnh trình bày toàn bộ vụ việc.”
Hà huyện lệnh đứng dậy, bắt đầu tường thuật chi tiết toàn bộ sự tình, hơn hẳn văn bản khô khan – có giọng kể, có nhân chứng, có âm thanh giữa đêm...
Phó trấn phủ sứ Bàng Tề trợ lời: kể thêm vụ tố cáo “giữa đêm nghe tiếng quỷ gào ở gần mả...”
Đường Phạm hỏi thẳng: “Bọn trộm mộ đã bị bắt chưa?”
Hà huyện lệnh ngậm miệng: “Chưa, mới chỉ thấy dấu vết hang đào... Mấy người đi kiểm tra bị bắt nạt, một kẻ mất tâm thần tay gãy, cụ lão sợ biến thần... đồn đại quỷ thần vung tay chộp người... dân làng nói...”
Bàng Tề chêm nói: “Đây là việc hoang đường. Huyện lệnh này, đừng móc mỉa giữa ‘thần sông thần suối’ và ‘đế mộ’, rõ ràng là gì?”
Hà huyện lệnh buông tiếng thở dài:
“Không thể giấu... sau khi hai lần mất tích, dân đồn... là vì thần sông nổi giận, phải hiến tế người thật... nên họ mang cừu lợn để tế...”
Đường Phạm gật gù: “Không hiến người?”
Huyện lệnh nói: “Không. Bọn họ cho dâng đồ tế là đủ. Sau đó, còn mời mấy bà già ở làng canh đêm giữ đàn hương... sáng ra thì mấy bà mất tích. Dân chúng nói thần sông giận dỗi, mang họ đi. Hiện họ đồn rằng nếu không điều tra triệt để, những tay lớn trong làng định tự ý hiến tế người thật!”
Đường Phạm chau mày: “Thực là ác độc!”
Cuối cùng, Bàng Tề cất giọng như phán quyết: “Dân tâm hoang mang, ta phải dẹp bỏ mê tín dị đoan! Người cần phải hiến tế không phải người dân vô tội!”
Đường Phạm nghiêm giọng: “Huyện lệnh, ta buộc các ngươi chấp hành lệnh trên: phải ngăn chặn mọi âm mưu hiến tế!”
Huyện lệnh gật đầu vâng vâng: “Hạ quan nghe theo.”
Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Com