THÀNH HÓA THẬP TỨ NIÊN- CHƯƠNG 68
Từ lúc gà gáy canh năm đến tận lúc trời sắp sập tối, Triệu huyện thừa đã cùng hai vị bộ khoái ngồi canh ngoài cửa động, mắt chẳng dám rời lấy một khắc, sợ bên dưới xảy ra điều gì bất trắc. Đến cơm trưa cũng là người dân làng Lạc Hà mang tới tận nơi.
Nơi này nhìn một vòng quanh quất, chỉ thấy cỏ dại um tùm, gạch vụn tường sập, tuyệt không có lấy một bóng cây hay mái che. Dù nắng chẳng gắt, nhưng ngồi lâu cũng choáng đầu hoa mắt.
Triệu huyện thừa xưa nay quen cảnh đi đâu có tùy tùng theo hầu, ăn ở có người hầu hạ, giờ phải lăn lộn cả ngày ngoài đồng hoang bãi vắng, quả thực là chịu hết nổi.
Nhưng dù hết nổi thì cũng phải ráng chịu thôi. Không giống như lão Huyện lệnh họ Hà, Triệu huyện thừa lần này may mắn được tiếp xúc với quan Khâm sai từ kinh thành, đang háo hức mong làm nên chuyện lớn, để lại ấn tượng tốt, biết đâu sau này đường quan lộ lại thênh thang sáng sủa.
Nói gì thì nói, người này tuy lòng ham công danh hơi nặng, nhưng năng lực làm việc thì ăn đứt lão Hà mấy phần. Nếu không, Đường Phạm cũng chẳng để hắn theo cùng, thậm chí còn giao cho trông coi ở đây.
Song, một ngày dài dằng dặc trôi qua, ba người ngồi chờ ngoài động bắt đầu thấp thỏm không yên.
“Đại nhân, ngài xem trời cũng sắp tối rồi, lúc họ xuống động đâu có mang theo bao nhiêu lương khô… có khi nào…” Bộ khoái họ Thang nhịn không được lẩm bẩm.
Triệu huyện thừa lườm hắn một cái: “Nói tiếp xem nào? Sao không nói nữa? Lát nữa để quan Khâm sai nghe thấy, xem ngươi gánh nổi không!”
Bộ khoái Thang lập tức bịt miệng, im thin thít.
Bộ khoái Địch len lén ghé lại thì thầm: “Đại nhân, cứ chờ thế này cũng chẳng phải cách… hay là cho người xuống xem sao. Lỡ có chuyện gì thật thì còn kịp ứng cứu.”
Triệu huyện thừa gật gù: “Lão Thang, nghe chưa? Người ta lão Địch biết lựa lời nói chuyện, ngươi học lấy một chút đi!”
Chưa kịp để Địch bộ khoái nở nụ cười đắc ý, Triệu huyện thừa đã quay ngoắt sang bảo: “Giờ còn ai dám xuống? Hay là chính lão Địch ngươi đi thử xem?”
Bộ khoái Địch mặt mũi xụ xuống như bánh bao ngâm nước: “Đại nhân, ngài sao lại chơi ép người ta vậy!”
Cái nơi bên dưới kia giờ đã hóa thành tu la địa ngục, ngay cả quan Khâm sai dẫn bao nhiêu người xuống mà còn chưa thấy trở ra, ai còn dám chui vào? Có cho cả rổ vàng cũng còn phải cân nhắc mấy lượt!
Triệu huyện thừa “phì” một tiếng: “Không dám thì ngậm miệng lại! Đừng có đứng đây mà lảm nhảm! Lão Thang, ngươi quay về huyện thành, bẩm với huyện tôn một tiếng, nói rằng cứ thế này chờ mãi cũng chẳng ổn. Nếu bên dưới có chuyện thật, thì chúng ta phải gánh cả cái nồi lớn đấy…”
Chưa dứt lời, mặt đất bỗng khẽ rung lên. Tuy chưa đến mức đứng không vững, nhưng ba người rõ ràng cảm nhận được dưới mông như ong ong chấn động, kèm theo tiếng ầm ầm không dứt từ miệng động vọng ra.
Triệu huyện thừa cùng hai bộ khoái biến sắc, nhìn nhau không thốt nên lời.
Đúng là sợ gì trời cho nấy! Nghĩ đến chuyện Đường Phạm và những người khác còn ở dưới kia, cả ba người đều nhấp nhổm không yên.
Địch bộ khoái lắp bắp: “Chẳng... chẳng lẽ bên dưới sập rồi?”
Thang bộ khoái thì mặt như sắp khóc: “Làm sao giờ, đại nhân ơi!”
Giọng Triệu huyện thừa cũng run rẩy: “Đừng hoảng!...”
Chưa kịp trấn an xong, Thang bộ khoái bỗng hét toáng lên: “Tay! Có... có một bàn tay!”
Địch bộ khoái lập tức lao đến, nắm chặt lấy bàn tay bất ngờ thò ra từ trong miệng động.
Thang bộ khoái và Triệu huyện thừa cũng lập tức hoàn hồn lại, ba người hợp lực, cố hết sức mới lôi được người kia lên khỏi miệng động.
Một khuôn mặt phủ đầy bụi đất lộ ra trước mắt bọn họ. Triệu huyện thừa nhìn một hồi mới nhận ra: chẳng phải là Nghiêm Lễ – người của Cẩm y vệ hay sao?
Chưa kịp hỏi gì, Nghiêm Lễ đã gấp gáp gào lên: “Gọi người! Nhanh gọi người tới cứu! Bên dưới sập rồi!”
Triệu huyện thừa cuống lên: “Vậy... vậy Đường đại nhân bọn họ thì sao?!”
Nghiêm Lễ đáp như hét: “Còn ở dưới đó! Tất cả đều còn dưới đó! Ty chức vốn được lệnh canh giữ cửa động nên mới thoát ra được!”
Nghe đến đây, Triệu huyện thừa suýt ngã ngửa, hồn phách bay mất một nửa. Nếu quan Khâm sai mà chết ở đây, đừng nói là mơ mộng thăng quan phát tài hay lấy lòng, chỉ sợ cái mũ ô sa trên đầu cũng khó giữ nổi!
Mấy người vội vã chia nhau chạy về huyện thành và làng Lạc Hà cầu viện. Dân làng thì chạy đến nhanh, nhưng vừa có mấy người gan to xuống được một đoạn thì đã nghe ầm một tiếng từ trong động vọng ra, sợ đến mức hồn vía lên mây, lập tức bỏ chạy ngược lên trên.
Lúc Hà huyện lệnh và Trình Văn chạy đến nơi, liền thấy dân làng đang lóp ngóp bò ra khỏi động, ai nấy mặt trắng bệch báo tin:
“E rằng... bên dưới không ai còn sống...”
Nghiêm Lễ nghe xong thì như hóa đá tại chỗ, không tin vào tai mình. Hắn giật lấy cái xẻng từ tay một dân làng, nhất quyết đòi xuống tìm lại.
Triệu huyện thừa nghiến răng đi theo, dẫn người cùng xuống. Kết quả là một canh giờ sau, mấy người mặt mũi đen kịt, lạnh như tiền mà lên lại.
Hà huyện lệnh cuống lên, vội vàng hỏi:
“Sao rồi! Sao rồi!”
Triệu huyện thừa lắc đầu, vẻ mặt như vừa bị trời sập: “Phần trên của địa cung đã sập gần hết, lối xuống phía dưới hoàn toàn bị chặn, không thể vào tiếp được nữa!”
Hà huyện lệnh nghe mà mặt không còn giọt máu: “Thế… thế chẳng lẽ phải tấu lên triều đình, bẩm là quan Khâm sai mất mạng ở đây sao?”
Mọi người đều hoảng hốt, chân tay luống cuống, không biết phải làm gì cho phải.
Thang bộ khoái lên tiếng: “Đường đại nhân từng nói… dưới lòng sông còn có một cửa ngách, nối thẳng đến lăng mộ đế vương… Hay là ta thử đi từ phía đó?”
Địch bộ khoái thì lắc đầu, hạ giọng:
“Ngươi biết cái lối đó ở đâu không? Nước sông Lạc lại chảy xiết như vậy, xuống rồi có lên được hay không còn chưa chắc!”
Nghiêm Lễ thì “phịch” một tiếng quỳ sụp xuống trước cửa động, ôm mặt gào khóc: “Đại nhân ơi! Thuộc hạ... ta lỗi mọi người!”
Hà huyện lệnh nhìn mà cũng muốn khóc theo. Ông ta đưa tay sờ cái mũ trên đầu, lòng than thầm: “Mũ ô sa ơi, ta còn được đội ngươi mấy ngày nữa đây…”
Còn Triệu huyện thừa thì chỉ muốn đập đầu vào đất: “Ta ở đây phơi nắng cả ngày rốt cuộc là vì cái gì? Giờ Khâm sai xảy ra chuyện, chẳng phải ta cũng xong đời theo à!”
Ngay lúc mọi người đang sầu như đưa tang thì…
“Mấy người làm gì đấy? Cúng tế luôn rồi à?”
Một giọng nói yếu ớt vang lên, Hà huyện lệnh còn chưa kịp phản ứng, nhưng với Nghiêm Lễ, tiếng đó chẳng khác nào... thiên âm!
Tiếng khóc nghẹn ngang họng, hắn lập tức quay đầu lại – chỉ thấy Bàng Tề một thân một mình, tay kéo thanh Tú Xuân đao, quần áo bẩn đến chẳng nhìn ra nổi màu gốc, cả người bê bết máu, trông chẳng khác gì chó chết đuối vừa được vớt lên.
“Lão Bàng!!” Nghiêm Lễ hét lên, bay người ôm chầm lấy hắn, véo trái nắn phải, như sợ đang nằm mơ.
“Ngươi chưa chết?!”
Bàng Tề liếc hắn một cái, lười chẳng buồn đáp, quay sang đám quan viên nói thẳng: “Lập tức mang người tới cái làng hoang ở chỗ sông Vụ La giáp sông Lạc Hà, Đường đại nhân, Trấn phủ sứ và mọi người đều ở đó!”
Mọi người nghe xong mà như được đại xá, vui mừng như cha mẹ sống lại!
Hà huyện lệnh vội vàng hỏi: “Đường đại nhân... không sao chứ?”
Bàng Tề quát thẳng vào mặt: “Còn ở đó mà nói nhảm, không mau đi?!”
Hà huyện lệnh bị mắng cho te tua, không dám hé răng, dẫn người vội vã chạy như chó trúng pháo.
Rốt cuộc cũng xong rồi!
Bàng Tề vừa dứt lời thì gục ngay tại chỗ, người nghiêng một bên ngả vào vai Nghiêm Lễ – hôn mê bất tỉnh.
Mộ của Quận hầu Củng đã bị nổ tan tành, hai con thần thú trấn mộ cũng bị đè chết không còn mảnh giáp. Vốn dĩ đám người Lý Mạn định dụ Đường Phạm và đồng bọn vào trong, để họ giao chiến với thần thú đến mức lưỡng bại câu thương, còn mình thì lén lút dắt theo bảo vật chuồn mất. Nào ngờ tính kế quá đà, tự mình rước họa, lúc ở kinh thành còn có thể chạy khỏi tay Đường Phạm, cuối cùng lại chết một cách gián tiếp dưới tay y, cách đó nghìn dặm, tận Hà Nam. Đúng là trời có mắt!
Sau trận huyết chiến ở thôn Tiểu Hoang, đám người Đường Phạm bắt được không ít giáo đồ Bạch Liên giáo, nhưng “mẻ lưới” lớn nhất lại chính là họ Trần- thiếp thân của Lý Mạn. Lúc được huyện lệnh Hà dắt ra khỏi thôn, ả ta còn chưa kịp chỉnh đốn y phục, nguyên cả một thân phận “mới lăn khỏi giường”, dáng vẻ run rẩy, đáng thương, làm bao ánh mắt nam nhân nóng rực như lửa đảo qua đảo lại trên người. Ngay cả huyện lệnh Hà cũng nhịn không nổi mà liếc tới mấy lượt.
Bất quá, chưa có lệnh của Đường Phạm, chẳng ai dám mở miệng hỏi han. Dù sao đây cũng là trọng phạm được đích thân triều đình điểm danh, chính là chiến lợi phẩm lớn nhất của chuyến đi này. Trần thị trong Bạch Liên giáo có địa vị không thấp, moi từ ả ra được thông tin thì thể nào cũng còn nhiều trò hay.
Bảo vật lấy từ mộ Củng hầu bị Trần thị giấu trong chum gạo trong nhà, trên phủ lớp gạo tẻ dày cui, nhưng cuối cùng vẫn bị Đường Phạm lôi ra được.
Trước khi kê khai nộp kho, Đường Phạm âm thầm trích ra một phần mười, thưởng riêng cho đám Cẩm y vệ.
Y lăn lộn quan trường lâu rồi, thấu hiểu một đạo lý: mình có thể giữ nguyên tắc, nhưng không thể ép người khác cũng làm như vậy. Nước trong quá thì không có cá, người xét nét quá thì chẳng có bạn. Nếu cứ lấy tiêu chuẩn của mình mà đòi hỏi kẻ khác, cùng lắm chỉ làm được trung thần cô đơn, chứ đừng mơ có thuộc hạ tận tâm.
Lần này hành động cực kỳ hung hiểm, đám Cẩm y vệ gần như liều mạng mà làm. Không nói những người bị thương như Bàng Tề, riêng chuyện có bốn mạng nằm lại trong mộ đã đủ đau. Trong giang hồ, đâm chém là chuyện thường, làm chức như họ thì lúc nào cũng xác định một chân trong quan tài. Nhưng người là quý, mà triều đình thì bồi thường không bao nhiêu, có chút thưởng nóng này, cũng coi như an ủi phần nào.
Là người dẫn đầu, Đường Phạm đương nhiên phải lo chu toàn cho người dưới. Nhưng y cũng dặn tới dặn lui: “Cầm thì cứ cầm, nhưng ngậm mồm lại, hé miệng thì chẳng còn phần thưởng mà còn mang họa vào thân.”
Ai nấy đều hiểu đạo lý “tiền bạc chớ khoe”, đám người Bàng Tề càng gật đầu như bổ củi, trong lòng cảm kích thêm mấy phần. Thời buổi này, quan trên biết lo cho kẻ dưới vốn hiếm lắm, huống hồ lại là quan văn. Quan văn bình thường thấy Cẩm y vệ là tránh xa ba dặm, sợ lây “hơi hắc ám”, đâu có ai như Đường Phạm, không chê không ghét, còn thương yêu như người nhà!
Còn về phần Tiền Tam Nhi thì Đường Phạm cũng tính đường cho hắn rồi. Tên nhóc này trong mộ biểu hiện không tồi, tính nết cũng được, quan trọng là đầu óc lanh lẹ. Thế là Đường Phạm nói với Tùy Châu một tiếng, được gật đầu cho phép mang Tiền Tam Nhi về kinh. Nếu qua kỳ khảo hạch, sẽ cho gia nhập Bắc trấn phủ tư; nếu không qua, cũng có thể đẩy qua Thuận Thiên phủ làm việc, dù sao Đường Phạm từng làm ở đó, chút thể diện ấy vẫn còn.
Tiền Tam Nhi nghe xong thì như bị lộc trời rơi trúng đầu, quỳ lạy cảm ơn Đường đại nhân không ngớt, sau đó như chiếc đuôi nhỏ, bám sau Đường Phạm không rời nửa bước, hận không thể mọc keo mà dính luôn vào.
Địa cung sụp đổ, lăng mộ nhà Tống cũng tiêu đời, với dân làng thì đây là chuyện tiếc nuối lắm. Nhưng dù sao họ cũng mừng muốn khóc, bởi hai con thần thú kia cũng bị đè chết bên trong rồi, từ đó về sau không còn nghe thấy tiếng khóc quỷ dị ban đêm, cũng không còn ai bị kéo xuống sông lúc đi qua bờ nước nữa. Thế là cả làng mừng rơn, tay bắt mặt mừng, tôn Đường Phạm và đồng bọn lên thành “ân nhân cứu mạng”, còn định lập bài vị trường sinh để thờ!
Thế nhưng, với nhà họ Lưu thì đây lại là một cú sét ngang tai nữa. Lão trưởng thôn đã chết, trưởng tử Lưu Đại Ngưu thì sớm đã bỏ mạng, đến xác còn chẳng thấy đâu. Người mà dân làng vẫn nghĩ là Lưu thôn trưởng hóa ra lại là yêu nhân Bạch Liên giáo – Lý Mạn giả mạo.
Khi tin tức ấy truyền tới tai nhà họ Lưu, cả nhà lập tức phủ mây u ám, buồn thảm đến mức gió thổi qua cũng nghe thấy tiếng thở dài.
Dù sao thì cái chết của lão trưởng thôn cũng là vì chuyện mộ Củng hầu. Nếu ông không vì sự bình yên của cả thôn mà liều mình xuống mộ xem xét, thì cũng không đến nỗi chết thảm như thế. Vậy nên Đường Phạm đặc biệt dặn huyện lệnh Hà phải khéo léo trấn an nhà họ Lưu và những hộ dân khác cũng bị liên lụy, có người thân thương vong.
Chuyến đi này, nói là phá tan ổ tai họa cũng không sai: trừ khử yêu thú hại dân, nhổ tận gốc phân đàn Bạch Liên giáo ở Hà Nam, ngay cả nhân vật tầm cỡ như Lý Mạn cũng đi đời, chưa kể còn diệt luôn một đám đường chủ, bắt được Trần thị – người giữ vai trò then chốt trong giáo, thu hồi kho báu mà chúng giáo đồ cực khổ dời từ mộ Củng hầu ra ngoài. Nhìn sao cũng là đại công thần!
Nhưng… đó là với người khác.
Còn với Đường Phạm, lại có một đám mây đen vẫn treo lơ lửng trên đầu.
Chính là cái chết của Doãn Nguyên Hóa.
Lúc ở trong mộ, Đường Phạm vừa mới cứu hắn một mạng thì tên này liền lật mặt, xô y ra chắn đường cho thú giữ mộ. Nếu không nhờ Tùy Châu ra tay kịp thời, người nằm lại giờ này hẳn là Đường Phạm chứ chẳng phải ai khác.
Sau đó, Doãn Nguyên Hóa thấy thú giữ mộ rời khỏi cửa đại điện thì tưởng mình có đường sống, liền vắt giò lên cổ mà chạy. Ai ngờ bên ngoài còn một con nữa đang chờ, hắn lao ra như thiêu thân, tự chui đầu vào miệng cọp, chết không oan chút nào!
Phải nói là chết đáng lắm!
Nhưng đời nào người ngoài chịu tin chuyện ấy? Tin báo về kinh, đầu tiên nhảy dựng lên chính là lão sư của Doãn Nguyên Hóa – Lương thị lang. Vị này lập tức đòi truy hỏi Đường Phạm cho ra ngô ra khoai.
“Ngươi bảo hắn bị thú giữ mộ giết hả? Ai tin? Bằng chứng đâu? Sao ta biết ngươi không cố tình giam hắn trong mộ để mượn tay quỷ giết người? Lại còn Cẩm y vệ đi cùng, đều là tay chân thân tín của ngươi, nghe ngươi sai khiến, che giấu sự thật chẳng phải dễ như trở bàn tay?”
Còn chưa đợi Lương thị lang mở miệng buộc tội, Đường Phạm đã sớm nghĩ ra hàng loạt tội danh sắp đổ lên đầu mình rồi.
Y thậm chí đoán được, phen này hồi kinh, người khác có thể được thưởng công ban chức, còn mình thì… đừng nói thưởng, không bị khép tội đã là trời phù hộ rồi.
Vì lẽ đó, Đường Phạm đặc biệt gọi Trình Văn và Điền Tuyên đến bên, nghiêm giọng dặn dò:
“Lần này về kinh, triều đình thể nào cũng tra xét cái chết của Doãn Nguyên Hóa. Dù sao hai người các ngươi không xuống mộ, đến lúc đó cứ nói thẳng như sự thật là được. Mọi trách nhiệm, ta sẽ gánh hết. Các ngươi không cần lo bị vạ lây.”
Trình Văn và Điền Tuyên nghe tin Doãn Nguyên Hóa chết, trong lòng đã như kiến bò chảo nóng, bất an không yên.
Dù sao Đường Phạm cũng là chính sứ do triều đình phái đi, nếu y muốn đổ tội cho họ để gánh bớt trách nhiệm thì chẳng phải chuyện khó.
Chỉ cần trong tấu chương viết vài câu kiểu như “Trình Văn và Điền Tuyên xúi giục Doãn Nguyên Hóa xuống mộ”, thì cả hai chẳng những thoát không nổi, mà còn phải chịu tội thay. Đằng nào họ cũng chỉ là mấy viên chức tép riu ở hình bộ, đến phẩm hàm còn chưa có, chính là loại tốt nhất để mang ra làm… vật tế thần!
Trình Văn thấy thế rơi nước mắt, thành kính nói: “Hạ quan tuy nhỏ bé, nhưng đã cùng xuất thân, nếu cần thì xin được cùng ký tên trên biểu tấu, chứng minh Doãn Nguyên Hóa là do hạ quan sai, trách ngài là không thể.”
Điền Tuyên cũng nói: “Hạ quan nguyện cùng tấu, phải biết Lương thị lang đã thấy ngài bất phục, đây e là có chuyện không hay sau này. Doãn Nguyên Hóa thường bất kính, phải chịu hậu quả – chẳng liên gì người khác. Ta xin cùng ký.”
Đường Phạm vừa nghe mà khẽ rưng rưng, y đâu ngờ hai người vốn vị kỷ lại có tấm lòng đẹp như vậy. Nhưng y vẫn lắc đầu, từ chối mọi bàn giao…
Thế là đoàn người bắt đầu lên đường hồi kinh.
Không giống lúc đi, khi ấy là cấp bách truy bắt tặc đồ, gấp gáp không ngừng. Lần này thì khác, vì phải chăm sóc cho những người bị thương nên hành trình không thể vội vàng, cứ đi một đoạn lại phải ghé dịch quán nghỉ ngơi.
Huyện lệnh Hà chuẩn bị mấy cỗ xe ngựa, bên trong trải từng lớp nệm dày, dành riêng cho người bị thương nằm nghỉ. Lại còn mời thêm một đại phu theo đoàn, để tiện kê đơn bốc thuốc, băng bó trị thương dọc đường.
Tùy Châu vì bị thương vào nội tạng, cần nghỉ ngơi thường xuyên, mà trong thuốc còn có vị an thần trợ ngủ, thành ra mười ngày đường thì có tới tám ngày là ngủ li bì, ngáy khò khò như mèo con.
Bị thương thì cần người chăm sóc, mà trong đoàn chỉ có một nữ nhân – lại là Trần thị. Cơ mà thân phận ả là trọng phạm triều đình đích danh truy bắt, tuy được cho ngồi riêng một xe nhưng tay chân đều bị xích nặng, bốn phía còn có người trông chừng. Đường Phạm dù có ba đầu sáu tay cũng không thể để ả chăm sóc Tùy Châu được.
Thế là, Đường đại nhân nhà ta... không ngại vất vả, không sợ cực nhọc, tự mình xung phong, nhận luôn chức “chăm sóc” đặc cách bên giường Tùy Châu.
Bàng Tề và đám Cẩm y vệ cảm động rơi nước mắt, suýt nữa giơ tay định đề biểu tấu lên triều đình, phong cho Đường đại nhân cái danh hiệu "Quan phụ mẫu nhân dân kiểu mẫu".
Chỉ có điều... đương sự – Tùy Châu – lúc ấy vẫn đang say giấc nồng, nếu mà hắn tỉnh, có lẽ phản ứng đầu tiên chính là… bật dậy phản đối kịch liệt!
Nhưng sự đã rồi, có muốn phản đối cũng muộn rồi.
Tới khi Tùy Châu chậm rãi tỉnh lại, vừa mở mắt đã thấy người bưng thuốc tới không phải đại phu đi theo đoàn, mà lại là… Đường Phạm.
Tùy Châu: “…”
Đường Phạm: “Sao thế? Nhìn ta như gặp ma à?”
Tùy Châu: “…Đại phu đâu?”
Đường Phạm: “À, hắn đang lo cho mấy người khác, hôm nay ta chăm ngươi thay, đến, uống thuốc đi.”
Tùy Châu cố gắng nặn ra một nụ cười: “Không cần đâu, ta tự làm được.”
Đường Phạm tưởng hắn khách sáo, liền mặt dày ấn hắn nằm xuống: “Đại phu dặn rồi, thương thế của huynh vốn không nhẹ, mà còn phải đi đường, vốn đã là làm khó thân thể. Giờ nằm được thì cứ nằm, đừng gắng sức. Giữa ta với huynh còn gì mà phải khách khí? Nào, há miệng, uống thuốc!”
Tùy Châu lặng lẽ không nói, chỉ âm thầm nghĩ bụng: Ta thật chẳng phải khách sáo với ngươi đâu.
Chỉ thấy Đường đại nhân múc một muỗng thang dược, đang định đưa tới bên miệng Tùy Châu, chợt nhớ lại khi xưa bản thân nhiễm bệnh, được Tùy Châu tận tình chăm sóc, bèn bắt chước hắn, đưa thìa tới bên môi mình nếm thử độ nóng, sau đó mới cung kính dâng đến.
Nào ngờ khi sắp đến nơi, tay lại run lên một cái.
Tùy Châu: “…”
Đường Phạm: “…”
Tùy Châu: “… Thôi để ta tự uống thì hơn.”
Đường Phạm vội ha hả cười chữa thẹn: “Tay ta chưa quen việc, thật có lỗi, thật có lỗi! Hay là… đổi tư thế thử xem?”
Y dùng tay áo lau lau y bào của Tùy Châu, rồi đặt bát thuốc sang một bên, đỡ Tùy Châu dậy, để hắn nửa nằm nửa tựa vào người mình, sau đó mới cẩn thận nâng bát lên, nghiêng nhẹ đưa tới miệng, thầm nghĩ lần này quyết chẳng thể run tay nữa.
Chẳng dè bên ngoài bỗng vang lên một tiếng thét thất thanh của phụ nhân.
Tiếp liền sau là một trận nhốn nháo binh hoang mã loạn.
Mãi lâu sau, ngoài phòng mới vang lên tiếng của Tiền Tam: “Tùy đại nhân, thật có lỗi, làm phiền ngài nghỉ ngơi rồi. Vừa nãy là ả Trần thị kia la ầm lên, bảo có kẻ trộm nhìn lén lúc ả thay y phục. Ngài không bị giật mình đấy chứ? Tùy đại nhân?”
Đường Phạm: “…”
Tùy Châu: “…”
Lần này thì hay rồi, cả bát lẫn thuốc đều úp thẳng xuống mặt Tùy Châu.
May mà thuốc đã nguội bớt, nếu không thương thế chưa lành lại thêm một tầng mới.
Tùy Châu chẳng còn cách nào khác, đành đưa tay gỡ bát ra khỏi mặt, chậm rãi nói: “Ta tự uống được.”
Đường đại nhân nghẹn lời, ánh mắt rưng rưng: “Quảng Xuyên à, ta thề là không cố ý mà…”
Tùy Châu rõ ràng là người bị hại, mà lại buồn cười không thôi: “Ta biết, ngươi vốn chẳng phải hạng người giỏi hầu hạ, thôi thì bảo người sắc bát khác, còn ngươi ngồi lại chuyện trò với ta một lát đi.”
Bệnh nhân có yêu cầu thì ắt phải chiều theo, Đường đại nhân tức khắc phấn chấn tinh thần: “Được, huynh muốn nói gì nào?”
Tùy Châu: “… Trước tiên lấy cho ta bộ y phục đã.”
Đường Phạm: “Ồ ồ ồ, được ngay được ngay!”
Nhìn theo bóng Đường Phạm cắp áo lui ra, Tùy Châu chỉ cảm thấy trong lòng vừa bất đắc dĩ lại vừa… ngọt ngào.
Bất đắc dĩ là ở chỗ: Đường Phạm đến bản thân còn lo chưa xong, còn đòi chăm sóc người khác, bị y chiếu cố tới, người khác thể nào cũng khổ không nói nổi.
Ngọt ngào là… cảm giác này, chỉ cần bản thân hắn biết là được rồi, không cần nói ra.
Chẳng mấy chốc, Đường đại nhân ôm nguyên một đống y phục trở lại.
Tùy Châu thương là thương bên trong, thương ở ngũ tạng, không phải gãy tay gãy chân, đại phu chỉ dặn tĩnh dưỡng, cũng chẳng bảo nằm im bất động. Việc thay xiêm y hắn vẫn có thể tự lo, thế mà Đường Phạm mặt mũi đầy áy náy, sống chết đòi bồi tội vì "bát thuốc oan nghiệt" ban nãy, ánh mắt tha thiết khiến Tùy Châu cũng đành mềm lòng, để y giúp đỡ thay y phục.
Áo vừa cởi ra, lộ ra thân thể đồng cổ sắc đồng, vai rộng lưng dày, cơ bắp nổi khối, nhìn là biết thường ngày rèn luyện không ít. Lại thêm Tùy Châu thân làm hộ vệ, hành tẩu nơi hiểm địa là chuyện cơm bữa, trên thân mình không ít vết thương cũ mới đan xen, vết đã nhạt màu, vết còn rướm đỏ, nào phải vật trang sức, nhưng lại vô hình làm tăng thêm khí khái nam tử của hắn.
Không có y phục che đậy, khí thế ngược lại càng thêm bức người. Dẫu hiện đang bị thương, chỉ ngồi nơi mép giường, nhưng ai thấy cảnh ấy, chỉ sợ đều nghĩ tới mãnh hổ ngủ trong núi, chẳng ai dám đem ra so với con mèo bệnh uể oải.
Đổi áo vốn là chính, nhưng Đường đại nhân lại nói đã thay thì thay cho trót, nhất định kéo quần xuống luôn mới vừa lòng. Tùy Châu cắn răng nén chịu, mặc cho y thao túng.
Kết quả, vừa cởi quần ra đã bắt gặp Đường Phạm đang nheo mắt nhìn chằm chằm vào chỗ không nên nhìn, miệng còn cười gian xảo:
“Chậc, hình dáng cũng thường thường thôi mà.”
Tùy Châu: “……”
Quả nhiên là tiểu nhân nhớ dai! Chuyện mấy hôm trước hắn vô tình trêu ghẹo một câu, Đường Phạm cư nhiên ghi nhớ tới tận giờ, còn đợi cơ hội trả đũa.
Sau khi giúp mặc vào y phục, Đường Phạm vừa thu dọn vừa lơ đãng nói:
“Lần này đến Củng huyện, ta lại nghĩ ra đề tài mới cho truyện rồi. Viết rằng có một nam tử phong lưu, được tổ tiên truyền lại dị bảo. Một yêu quái thèm khát dị bảo ấy mà không thể tới gần, bèn ngày ngày hút máu nữ tử, tu luyện hóa thân thành mỹ nữ, quyến rũ nam tử. Cuối cùng nam tử mê muội, hai tay dâng bảo vật. Yêu quái được bảo bèn hiện nguyên hình, máu chảy đầm đìa, vảy rồng chi chít, làm nam tử kinh hãi đến chết. Thế nào, hay chăng?”
Tùy Châu trầm mặc chốc lát: “Cũng… được.”
Nhưng trong lòng hắn bỗng dâng lên một điềm xấu mơ hồ…
Quả nhiên, lời tiếp theo liền giáng xuống:
“Hay là… đặt tên nam tử ấy là Tùy Châu luôn đi!”
Tùy Châu: “Đổi tên khác.”
Đường đại nhân tỏ vẻ hết sức dễ thương lượng: “Được thôi, vậy thì yêu quái tên Tùy Châu.”
Tùy Châu: “……”
Cổ nhân hữu ngôn: Thà đắc tội quân tử, chớ dây vào Đường đại nhân!
Chớ nhìn Tùy đại nhân ngoài mặt lạnh tanh, xa cách người đời, trong mắt người ngoài là kẻ khó gần đến độ chẳng có bạn bè chi giao. Dẫu với hảo hữu như Đường đại nhân, nhìn qua cũng như thể Đường Phạm luôn là người nhún nhường.
Nào ngờ thiên hạ hữu nhãn vô tròng, với riêng Đường Phạm, Tùy Châu sớm đã sinh lòng nhượng bộ: " Y vui là được, việc khác không quan trọng."
Lui một bước, hai bước, ba bước…
Lùi mãi, cuối cùng… thành trì thất thủ.
Vì vậy, tên yêu quái trong truyện mới của Đường đại nhân liền danh chính ngôn thuận được định là "Tùy Châu".
Đến khi sau này, người của Bắc Trấn Phủ Tư lướt qua tiệm sách, bắt gặp chuyện quái dị trong thoại bản kia, thấy tên “Tùy Châu” liền đồng loạt “Ơ?” một tiếng: “Tên này… chẳng phải là đại nhân nhà ta sao?”
“Chẳng lẽ tác giả là oan hồn từng bị bắt vào ngục, chịu cực hình quá nặng…?”
Chuyện đó thì để sau. Hiện tại, Đường đại nhân nhân lúc Tùy Châu mềm lòng, thừa cơ lúc thay y phục, hết xoa lại véo, hết trêu lại chọc, mặt mày hớn hở, miệng còn ngân nga tiểu khúc, dáng vẻ thật sự đắc ý.
Tùy Châu không rõ y làm vậy là vô tâm hay cố ý để mình trông thấy. Nhịn không nổi nỗi quan tâm trong lòng, liền hỏi thẳng:
“Ngươi từng nghĩ… sau khi hồi kinh sẽ ra sao chưa?”
Tác giả có lời muốn nói:
Tùy đại nhân nay là khổ trên thân, ngọt trong tâm, khổ mà chẳng nói, ngọt cũng chẳng kể, chính là cảnh giới cao nhất của người chịu ngược lại còn thấy sướng vậy!
Ai nói người luyện võ da dày thịt cứng là vô tri vô cảm? Người ta đây gọi là “tâm như ngọc, mặt như băng” bề ngoài lãnh đạm, bên trong mềm tựa bánh đậu.
Chư vị chớ trách Đường đại nhân làm càn, ngài ấy cũng chỉ là bắt được cơ hội hiếm có, trộm hớn hở vài phân thôi. Dù sao yêu quái có tên Tùy Châu cũng chẳng phải chuyện lớn gì... (ngẩng đầu nhìn trời, huýt sáo lảng tránh ánh mắt lạnh lẽo nào đó).
Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Com